Mấy năm nay, nhiều nguồn tin không
thể kiểm chứng tải về từ nhiều nước, trong đó chủ yếu từ Trung Quốc do người
có học đi du lịch đem về. Trong đó họ nói,Trần Ích Tắc trá hàng để làm tình
báo, Trần Quốc Toản không phải hy sinh khi truy đuổi giặc bên bờ sông Như
Nguyệt, mà ông chỉ bị thương, giặc bắt đưa ông về Tàu. Ông qui thuận, nên được
trọng đãi. Hiện con cháu ông rất thành đạt. Họ đã được xem cả gia phả, tộc phả
của cả gia quyến Trần Ích Tắc và Trần Quốc Toản. Nhưng khi hỏi bằng chứng thì
chẳng ai có bằng chứng gì. Có kẻ còn khẳng định: Chỉ riêng tôi có tài liệu
gốc, tôi sử dụng cho riêng tôi, tại sao tôi phải chứng minh cho mọi người. Lý
sự thế, thì đúng là giả mạo rồi, nhà nghiên cứu, nhà khoa học, không ai làm
như vậy. Thế mà nhiều người vẫn nhắm mắt tin theo, rồi phao tin đồn nhảm.
Liệu ta có thể tin, giặc đủ bình
tĩnh bắt sống Trần Quốc Toản đưa về Tàu, trong khi chúng hết sức hoảng loạn
tháo chạy bởi quân ta truy kích. Đến nỗi tổng chỉ huy Thoát Hoan còn phải
chui vào rọ, chịu cho lính kéo đi như kéo một con chó.
Luận điệu này là đòn tâm lý chiến,
nó khuyến khích những kẻ khờ khạo tin theo, rằng theo giặc sẽ đời đời phú
quí, dòng dõi dài lâu.Thật là hiểm độc.
Nhân nói đến truyện ngắn Bắt đầu và
kết thúc của nhà văn Trần Quỳnh Nga, tôi không phải người đầu tiên phát hiện
ra truyện này. Bởi hạ tuần tháng chạp năm ngoái (2017), tôi vào Sài Gòn, khi
chúng tôi đang thắp hương ban thờ cố nhà văn Hồng Duệ tại Thủ Đức, thì có
chuông điện thoại. Nhà nhiếp ảnh Đỗ Kha từ Quảng Ninh hỏi tôi với giọng gay gắt:
Anh đã đọc truyện ngắn “Bắt đầu và kết thúc” trên Văn Nghệ số 50 chưa? Rồi
anh xổ ra một tràng đầy bức xúc và giận dữ, không cho tôi nói xen vào. Kết
thúc anh hỏi: “Ý kiến anh thế nào?”. Tôi nói chưa đọc số báo đó và tôi đang ở
Sài Gòn. Về Hà Nội, tôi tìm đọc. Đọc xong tôi thấy băn khoăn quá, liền gọi điện
cho thư ký tòa soạn Lương Ngọc An, vài hôm sau lại gọi cho Tổng biên tập Khuất
Quang Thụy. Cả hai nhà văn đều hỏi tôi có chuyện gì. Tôi nói, tôi không yên
tâm về nội dung truyện “Bắt đầu và kết thúc”, và rằng tôi sẽ viết ý kiến của
mình gửi đến Tòa soạn. Các bạn rất vui vẻ khuyến khích - Vậy anh viết đi. Tôi
chưa kịp viết thì trên các mạng xã hội đã có phản ứng. Các ý kiến khen chê
trao đi đổi lại thật là sôi động, nhưng vẫn giữ được bình tĩnh.
Như đã hứa với hai vị chịu trách
nhiệm tờ báo, nên tôi viết bài này.
Trước hết, tôi xin cung cấp một vài
chi tiết đã được lịch sử của ta và cả lịch sử của Trung Hoa khẳng định một
cách ổn định từ hơn 700 năm qua. Đó là:
Trần Ích Tắc, Trần Tú Viên, Trần
Văn Lộng, Trần Kiện… đã được lịch sử Việt Nam coi chúng là lũ bán nước, đầu
hàng giặc. Đương thời nhà Trần đã đưa chúng ra khỏi hoàng tộc, tịch thu điền
sản và gọi chúng là Ả Trần.
Trong khi đó triều đình nhà Nguyên
lại coi chúng là những hàng thần có công.
Ví dụ Trần Ích Tắc được chép
trong An Nam chí lược của Lê Tắc như sau:
“Năm Ất dậu (1285), Ích Tắc đem gia
quyến đầu hàng Trung Quốc. Tháng 5 theo Vương sư (tức là theo quân của Thoát
Hoan) về Tàu. Mùa thu vào bệ kiến. Mùa xuân tháng hai năm Bính tuất (1286) hiệu
Chí Nguyên, vua Thế tổ thương Tắc có lòng trung hiếu, đặc ân phong cho tước
An Nam vương, Quang lộc đại phu, ban cấp phù ấn, cho tiền 5.000 quan. Con trưởng
tên Bá Y, được phong chức Gia nghị đại phu lĩnh An vũ sứ lộ Đà Giang (hư chức)
ban cho áo mũ cung tên, yên cương và ngựa” (An Nam chí lược của Lê Tắc,
tr.253, NXB. Lao Động, 2009).
Như vậy cha con người này được vua
nước giặc ban tước lộc ưu trọng đã rõ ràng.
Nên nhớ cuộc kháng chiến chống quân
xâm lược nhà Nguyên năm 1285, sinh mệnh nước ta vô cùng nguy hiểm như chuông
treo chỉ mảnh. Thế mà trong lúc Toa Đô phá vỡ cửa quan Nghệ An, vây quân ta từ
hai mặt bắc, nam, khiến tình thế cực kỳ gian nan, điêu đứng. Giữa lúc ấy đầu
têu theo giặc là Trần Ích Tắc, Trần Kiện rồi kéo theo cả một lũ thân vương,
quốc thích ra hàng giặc. Riêng phủ binh của Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc và
Chương Hiến hầu Trần Kiện mỗi nơi có tới 20.000 quân theo chủ ra hàng giặc.
Trần Kiện còn dẫn Toa Đô đi vây bắt chú mình là Chiêu Minh vương Thượng tướng
Thái sư Trần Quang Khải, đẩy mệnh nước vào chỗ nguy hiểm tột cùng.
Một người tiếp tay cho giặc, làm
nguy thế nước như vậy, sao lại gọi là có công được.
Trên thực tế vấn đề nhân vật lịch sử
Trần Ích Tắc đã được lịch sử liệt hạng phản quốc một cách ổn định, không còn
gì ẩn khuất mà phải giải mã. Cũng không có ai tôn vinh nhân vật này hoặc đưa
y vào điện thần mà phải giải thiêng, giải ảo. Vậy tại sao truyện lại viết Trần
Ích Tắc như một người có công với nước vậy?
Đã gọi là tiểu thuyết, kể cả tiểu
thuyết lịch sử thì yếu tố hư cấu là phương pháp giúp tác giả hoàn thiện nhân
vật, hoàn thiện kết cấu của tiểu thuyết. Nhưng hư cấu như thế nào cho nhân vật
và cả tiểu thuyết đạt tới chân thực lịch sử, chứ không phải hư cấu đến phản lịch
sử.
Về công chúa An Tư thì từ tháng 2
năm 1285, Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Sai đưa công chúa An Tư
(em gái út của Thánh tôn) đến cho Thoát Hoan, là có ý muốn làm thư bớt tai nạn
của nước vậy”. Đây là lần cuối cùng An Tư xuất hiện trong chính sử rồi bặt
tăm tích.
Về nhân vật An Tư, vì có sự nhầm lẫn
về việc nàng có hai con với Thoát Hoan, nên đã có người viết tiểu thuyết, coi
như An Tư an phận sống với tên tướng giặc trong một cuộc đời buồn tẻ với hai
người con mà lòng luôn hướng về cố quốc.
Sự thật không phải Thoát Hoan lấy
em Trần Ích Tắc, mà y kết hôn với em gái Trần Tú Viên. Việc này đã được Lê Tắc
là lại viên thuộc phủ Trần Kiện, chủ tớ cùng ra hàng giặc. Sau Lê Tắc viết An
Nam chí lược, giúp ta có nhiều tư liệu khả tín về nhà Trần mà y là chứng
nhân.
Việc này trong An Nam chí lược,
quyển 13, phần “Nội phụ hầu vương”, tức các vương hầu nội phụ. Lê Tắc đã cẩn
thận chép riêng phần của mỗi người.
Phần về Trần Tú Viên, có đoạn chép
liên quan đến Thoát Hoan như sau: “… Minh niên hoàn cư Bộc Dương. Trấn Nam
vương sơ nạp kỷ muội Trần Thị vi thứ phi sinh tông tử nhị. Chí Nguyên Ất sửu
hạ ngũ nguyệt tốt ư Túy Sơn…”/ (Năm Bính tý 1336), trở về Hán Dương. Trấn Nam
vuơng cưới người em gái làm thứ phi, sinh được hai con. Tháng năm Ất sửu (1337)
hiệu Chí Nguyên, Tú Viên mất ở Túy Sơn…)
Vậy “kỷ muội” ở đây là em gái của
Trần Tú Viên chứ không phải em gái của Trần Ích Tắc. Vả lại nếu An Tư còn sống
tới lúc này, tuổi cũng đã tới sáu, bảy mươi, sao còn lọt mắt Thoát Hoan để y
cưới làm thứ phi.
Cuốn An Nam chí lược của
Lê Tắc những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ 20, có người đưa từ Nhật Bản về.
Nhưng giới học giả thời ấy khinh ghét nhân cách Lê Tắc, chê y là kẻ bán nước
nên không thèm chuyển ngữ. Học giả Trần Thanh Mại năm 1939 đã viết bài đăng
trên tạp chí Tao Đàn số 3.Trong đó ông phê phán: “Một nhà viết sử bán nước, một
quyển sử nhục nhã, Lê Tắc và quyển An Nam chí lược của y”.
Mãi tới năm 1960, Viện Đại học Huế
mới khởi dịch với sự tài trợ của quỹ Văn hóa Á Châu. Bản hiện đang lưu hành,
in lại từ bản dịch này.
Về An Tư, đoạn kết tác giả viết:
“…Quân triều đình đã vây kín mọi lối thoát. Cánh cửa phòng nàng bật mở. Trong
tíc tắc, An Tư như bừng tỉnh. Nàng vùng dậy kéo tấm chăn bằng lụa điều rồi đẩy
Thoát Hoan vào đó… Trong đêm tối tịch mịch có hai người vội vã rời khỏi kinh
thành. Ngựa phi nhanh như gió. Sau lưng họ, hoa đào rụng trắng như tuyết dưới
ánh trăng suông ướt át…”. Đây là một lớp cải lương đầy kịch tính, cực tả một
tình yêu mù quáng. Nhưng lại đẩy An Tư trở thành tên đồng lõa với kẻ thù dân
tộc, che chở và cùng y chạy trốn. Hành vi ấy là phản bội Tổ quốc, chống lại
cuộc chống xâm lược của toàn dân.
Thực tế lịch sử không phải vậy. Thực
tế, trên khắp các mặt trận giặc bị dồn vào thế có nguy cơ bị tiêu diệt, buộc
Thoát Hoan phải cho đại quân tháo chạy. Trên đường chúng rút lui, bị quân ta
truy kích rất ác liệt. Trần Kiện đã bị dân binh của Nguyễn Địa Lô bắn chết
khi y núp bóng quân thù chạy trốn. Gia đình Trần Tú Viên từ cha mẹ đến con
cháu y chết tới tám người. Y phải đau đớn thốt lên:
Tam thế, bát tang thiên cổ thống
Nhất thân vạn lý bách thiên cơ
(Ba đời chịu tám tang đau thương
nghìn thuở
Một mình ngoài muôn dặm cô quạnh
trăm năm)
Cuộc truy đuổi giặc hết sức hào
hùng, giặc sợ hãi tới mức phải đưa Thoát Hoan chui trong rọ tre, ngoài bọc đồng
lá để tránh tên đạn, cho quân khiêng hoặc kéo lê trên mặt đất như kéo một chiếc
rọ chó. Các tướng hùm sói như Lý Hằng, Lý Quán trực tiếp cầm quân che chở cho
Thoát Hoan đều bị trúng tên mà chết.
Sự thật chiến trận là vậy. Sự thật
lịch sử là vậy. Cả sử ta và sử giặc đều chép như vậy. Sao tác giả truyện lại
mô tả An Tư như một thứ tội đồ. Điều này không chỉ trái với sự thật lịch sử,
mà nó còn xúc phạm cả phẩm giá của An Tư, và phủ định chiến công có một không
hai của quân dân Đại Việt thế kỷ 13.
Đành rằng nhà văn viết truyện lịch
sử chứ không phải nhà chép sử. Nhưng tất cả đều không thể vượt qua cái ngưỡng
là sự thật. Giới hạn của hư cấu chính là đạt tới chân thực chứ không phải
xuyên tạc sự thật hiển nhiên.
Thật ra truyện này viết với bút
pháp nghệ thuật rất bình thường, kết cấu lủng củng, kiến thức non kém. Nhưng
nếu không có việc nó gây ra tác hại khôn lường thì cũng chẳng ai quan tâm làm
gì. Tác hại này có thể nằm ngoài ý muốn của tác giả.
Gần đây người Trung Hoa, đang dấy
lên khuynh hướng lật đổ chính sử. Bởi sử Trung Hoa xưa có những chương đen tối.
Dân tộc Trung Hoa bị ách đô hộ ngoại bang bởi người Mông Cổ và người Mãn
Thanh. Vì vậy sử họ viết người Mông Cổ và người Mãn Thanh đều là giặc của
Trung Hoa.
Nhà Minh diệt nhà Nguyên, là người
Trung Hoa đánh đuổi quân xâm lược và ách đô hộ của Mông Cổ.
Cách mạng Tân hợi (1911), là người
Trung Hoa nổi dậy, đánh đuổi ách đô hộ của Mãn Thanh. Nay nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa, công nhận hai kẻ thù dân tộc ấy là tổ tiên của họ, và coi hai
triều đại đó là chính thống. Vì vậy mới có chuyện đạp đổ chính sử để viết lại
lịch sử. Đó là chuyện của nước người ta.
Liệu có phải đang có chuyện chấp chới
bắt chước người ta, biến kẻ thù dân tộc thành ân nhân lịch sử, biến kẻ phản
quốc thành anh hùng dân tộc, còn anh hùng dân tộc trở thành tội đồ lịch sử? Rất
mong được giải thích.
Năm 1279, đế quốc Nguyên đánh trận
cuối cùng, tiêu diệt nhà Nam Tống, chúng dìm chết hơn mười vạn quân Tống trên
biển Nhai Sơn (Quảng Đông Trung Quốc). Để tránh nỗi đau quốc nhục, Tả thừa tướng
nhà Tống là Lục Tú Phu, cõng vua Tống là Tống Cung đế mới sáu tuổi nhảy xuống
biển tự tử, không cho giặc bắt làm tù binh. Lúc này đế quốc Mông Cổ đã làm chủ
một dải đất liền từ bờ Hắc Hải tới Thái Bình Dương, bao gồm nhiều quốc gia với
diện tích tới 24 triệu km2, chiếm 16% diện tích Địa cầu. Lúc này hai đại quốc
như Trung Hoa và Nga đều nằm dưới ách thống trị của người Mông Cổ.
Hốt tất liệt nắm một đội cường binh
với các tướng lĩnh hùm sói, khắp bốn phương không hề gặp đối thủ xứng tầm. Tổng
lực ấy quay sang xâm chiếm Đại Việt. Chúng uy hiếp và đòi ta phải thực hiện 6
điều, nếu chấp nhận chỉ một trong 6 điều đó, là nước mất chủ quyền, là thuộc
quốc của nhà Nguyên. Một trong 6 điều đó là nước ta phải cung cấp lương thảo,
quân lính và cho mượn đường sang đánh Chiêm Thành.
So sánh lực lượng giữa ta và địch
vào thời điểm đó, chẳng khác gì so trứng với đá.
Không khuất phục kẻ thù, và muốn thắng
được chún
g, Nhà Trần đã dùng kế của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, là vườn
không nhà trống, khiến giặc vào không kiếm được thứ gì nuôi sống quân nó, đến
ngọn cỏ cho ngựa nó ăn cũng không có. Và chiến thuật thì lấy đoản chế trường,
lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh mạnh. Nên phải chọn chỗ địch không ngờ mà
đánh: đánh phục kích, đánh tập kích, đánh nhanh rút nhanh, thoắt ẩn thoắt hiện.
Ngay cả khí hậu thời tiết, Trần Hưng Đạo cũng biến thành vũ khí giết giặc. Sự
thông minh tài trí ấy, xuất phát từ lòng yêu nước và trí tuệ của muôn dân.
Vậy mà mô tả về cuộc chiến tranh
nhân dân này, khi quân Trần đã thực hiện cuộc rút lui chiến lược. Trần Nhân
tông nói trước ba quân: “Ta tạm cho giặc ngủ trọ ít đêm”. Thế mà nhà văn này
lại viết: “Kinh thành thất thủ nhanh như một hơi rượu”. Thực tế ta có giao
tranh với giặc ở Thăng Long đâu mà thất thủ.
Hoặc nhà văn mỉa mai: “Thăng Long
kiêu sa lẫy lừng phút chốc bỗng buồn như một phế nhân”. Văn khác sử, đương
nhiên là thế, nhưng về cuộc kháng chiến thần thánh này đến kẻ thù cũng không
dám nhìn nhận Thăng Long như vậy. Chúng đã làm mọi cách từ tàn sát sinh linh
đến đào mồ cuốc mả, nhưng cuối cùng vẫn thua nhục nhã. Các danh tướng giặc
như Ô mã nhi, Toa đô, Lưu Thế Anh, A lí hải nha, Lý Hằng, Lý Quán… kẻ thì mất
đầu, kẻ thì vùi xác dưới biển khơi, kẻ bị bắt, kẻ đầu hàng. Khí phách Thăng
Long là thế đó!
Ở một đoạn khác nhà văn nhét vào miệng
Trần Nhân tông những câu nói thối chí, đầy bi quan và có phần sợ giặc: “Bẩm
phụ hoàng, Thoát Hoan là một người trẻ tuổi và rất dũng võ. Dưới trướng lại
có những tướng tài nên trong cuộc chiến lần này ta đã vì chủ quan mà thua thế
quân địch”.
Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên-
Mông năm 1285 và thắng chúng, nhà Trần chuẩn bị hết sức chu đáo chứ không hề
“chủ quan mà thua quân giặc” như nhà văn này phê phán. Rõ là tác giả vừa
không hiểu hoàn cảnh lịch sử, vừa hỗn láo xấc xược đối với một vị cứu tinh
dân tộc như Trần Nhân tông.
Xét lịch trình nhà Trần chuẩn bị giữ
nước như thế nào.
Năm 1279, Mông Cổ diệt xong nhà Tống.
Năm 1280, ta cử đoàn cống sứ, sang Yên Kinh triều cống và thăm dò. Cầm đầu là
quốc thúc Trần Di Ái. Giặc giữ phái bộ ngoại giao đó, lập luôn triều đình bù
nhìn, phong Di Ái làm An Nam quốc vương. Năm sau Hốt tất liệt sai Sài Thung dẫn
Di Ái về nước cùng một ngàn quân hộ tống. Ta bắt Trần Di Ái về trị tội, đón sứ
Sài Thung về tiếp tại Thăng Long, ngăn không cho quân giặc xâm phạm bờ cõi.
Đường lối ngoại giao hết sức tài
tình và khôn khéo. Vẫn giữ được tính độc lập tự chủ, và không rơi vào bẫy giặc
khiêu khích. Năm 1282, triều đình họp tại bến Bình Than bàn kế phá giặc. Và từ
ấy cho tới khi chiến tranh nổ ra, tinh thần chuẩn bị kháng chiến của toàn dân
sôi sùng sục.
Các sự kiện lịch sử này, các em học
sinh phổ thông đều thuộc lầu lầu, sao nhà văn này lại không biết.
Biết nói thế nào về một nhà văn trẻ
dám xúc phạm tới một vị vua tài năng, nhiệt huyết và gan góc mưu trí đến phi
thường, đã cứu cho cả dân tộc không rơi vào họa diệt vong. Trong ba năm đánh
bại liên tiếp hai cuộc xâm lăng của một đế quốc khổng lồ, khiến cả thế giới tới
nay chưa hết kinh ngạc.
Tác giả lấy lời giặc để khuyên nhủ
cha ông ta: “Giá Đại Việt cứ khuất phục đi, khuất phục làm chư hầu như bao đời
nay vẫn thế thì có phải chốn thiên thai này sẽ còn lại mãi mãi”. Nếu quả thực
đây là lời của Thoát Hoan, thì viên tướng giặc này là một thằng đại ngu, chẳng
hiểu biết gì về lịch sử Đại Việt. Y chẳng thấy từ thời Hùng Vương, trong các
đền thờ từng treo đại tự có dòng chữ: UY TRẤN HOA DI. Và từ Hán-Đường-Tống-Nguyên
có thời nào quân xâm lược phương Bắc không bị thua nhục nhã mỗi khi chạm tới
mảnh đất này.
Và kẻ thù đem tới 50 vạn quân vào xâm
lược nước ta là điều rất rõ ràng, nhưng tác giả viết lập lờ như ta mới là
nguyên nhân gây ra cuộc chiến: “...Lại thêm việc khước từ cung cấp binh lương
cho nhà Nguyên đánh Chiêm Thành, như đổ thêm dầu vào lửa làm nên cuộc chiến
tranh Đại Việt lần hai. Những tưởng Đại Việt là đấng anh hào, ấy thế mà mới
chỉ vài ba trận đánh nhỏ thôi đã như ong vỡ tổ…”
Từ muôn thuở, cứ mỗi khi giặc Bắc
xâm lược nước ta, rồi chúng lại đổ lỗi cho ta gây chiến. Ngay cả cuộc xâm lược
năm 1979 cũng không có ngoại lệ. Sau đổ lỗi là mỉa mai. Đây đích thị là luận
điệu của kẻ thù, nhưng sao nó lại được viết ra từ nhà văn của chúng ta?
Không thể hiểu nổi, một nhà văn Việt
Nam viết về cuộc kháng chiến thần thánh của tổ tiên mình, lại viết như vậy. Cứ
xem cách nhà văn này dẫn giải chi tiết, không thể nói là chị không đọc và
không hiểu lịch sử.
Đọc đến đây, tôi thấy buồn hơn là
trách tác giả. Tôi loại bỏ tác giả có ý đồ xấu. Nhưng khách quan của hình tượng
văn học và ngôn ngữ nghệ thuật lại nói lên điều cô không mong muốn. Sự vấp
ngã này là bởi cô chưa chuẩn bị cho mình hành trang chu đáo đã vội cất bước
lên đường.
Thảm họa này ở lớp trẻ không phải
ngày một ngày hai mà có. Nó tích lũy từ việc coi nhẹ đến coi thường giáo dục
môn lịch sử trong nhà trường. Cách đây đúng 25 năm, trường Đại học xã hội và
nhân văn quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã làm một cuộc thử nghiệm, về kiến
thức lịch sử với sinh viên. Kết quả trong số hơn 600 sinh viên được khảo sát,
chỉ vài chục phần trăm biết vua Hùng là tổ nước ta. Trần Quốc Toản thì sinh
viên trả lời hình như là nhân vật thời chống Mỹ. Còn anh hùng dân tộc nổi tiếng
nhất lại là Quan Vân Trường. Thi tốt nghiệp, cả một trường trung học chỉ có một
em đăng kí thi môn lịch sử. Những cảnh báo trên, dường như chẳng có ai để ý.
Vậy mà Bộ giáo dục còn định tích hợp
môn lịch sử vào với các môn khác. Có kẻ còn đòi bỏ cả môn lịch sử để học sinh
tự đọc sách, tự tìm hiểu lịch sử. Đương nhiên còn nhiều nguyên nhân xã hội
khác, chứ không riêng việc giáo dục lịch sử.
Thật đau xót, trong lúc đất nước
đang gặp vô vàn khó khăn. Ngoài kia, biển đảo của ta một phần bị cưỡng chiếm,
phần còn lại luôn luôn trong tình trạng bị uy hiếp. Ngư dân đánh cá trên ngư
trường của ta cũng bị chúng khủng bố, cướp giết. Các giàn khoan làm việc trên
thềm lục địa thuộc chủ quyền của ta, cũng bị chúng uy hiếp. Bên trong thì
tham nhũng lúc nhúc như một bầy sâu, như giặc nội xâm. Tuy lẻ tẻ có phát hiện
ra và trị tội. Nhưng xử cả ngàn năm cũng không hết án. Nợ công chồng chất lên
đầu lên cổ toàn dân, biết đến bao giờ trả cho hết. Hàng chục công trình ngàn
ngàn tỉ nằm đắp chiếu. Nhiều nhà máy cứ khởi động là lỗ, sản phẩm không có đầu
ra. Bão lụt chồng lên bão lụt, nông dân điêu đứng. Nạn ô nhiễm môi trường
tràn ngập từ đầu nước đến cuối nước, đe dọa cuộc sống không chỉ hiện tại mà cả
tương lai.
Bỗng nhiên xuất hiện nhiều hiện tượng
lạ hoắc khiến người dân lo lắng hoang mang. Nào tích hợp môn lịch sử trong
trường phổ thông. Nào cải tiến chữ quốc ngữ. Nào Quang Trung thật giả…
Nay lại đến Trần Ích Tắc là người
yêu nước, phải hy sinh cả tiền tài và danh vọng… Rồi An Tư hợp tác với kẻ
thù, che chở cho Thoát Hoan khỏi bị quân ta bắt sống, và cùng y trong cuộc chạy
trốn đẹp như mơ.
Xin nói thẳng, thời đại nhà Trần,
là thời đại hiển hách nhất trong lịch sử mấy ngàn năm của nước ta. Đó không
chỉ là niềm kiêu hãnh mà còn là điểm tựa vững chắc cho cả quốc gia này mỗi
khi đất nước gặp khó khăn. Nó không chỉ là tinh thần mà còn là tài sản vĩnh hằng
trong hành trang của dân tộc. Lịch sử, chính là hồn cốt của cả dân tộc. Nó phải
được tôn kính và bảo vệ như một ngôi đền thiêng của toàn dân tộc, chứ không
được phép đem nó ra mà đùa giỡn hay chọc ngoáy. Viết đến đây, sực nhớ Nhật ký
của cố nhà văn đáng kính Nguyễn Huy Tưởng ghi từ năm 1941: “Người không biết
lịch sử nước mình tựa như một con trâu đi cày, nó cày trên thửa ruộng nào với
bất cứ ông chủ nào cũng vậy thôi”.
Hà Nội, ngày 14 tháng 1 năm 2018
Hoàng Quốc Hải
Nguồn: Báo Văn nghệ, số 4,
ngày 25-1-2018
Theo http://trieuxuan.info/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét