Là nhà thơ được yêu mến bậc nhất
trong đời sống thơ đương đại, gần một năm sau khi lìa trần, Hoàng Cầm vẫn là
một hồ sơ chưa được bạch hóa. Cả về đời lẫn về thơ.
Về đời, tuy ông đã kể khá nhiều với
người hâm mộ, với giới truyền thông, nhưng tiếc thay phần lớn chỉ là những
câu chuyện tình đã được thi vị hóa và huyền thoại hóa trước tiên bởi chính
người kể và khuyếch đại sau đó bởi người nghe, trong khi phần quan trọng nhất
trong văn nghiệp cùng những hệ lụy của nó lại chưa có cơ hội trình ra ánh
sáng. Về thơ, có thể nói ngoài những tác phẩm tình ý rõ ràng như Đêm liên
hoan, Bên kia sông Đuống…, thành tựu lớn nhất của ông là Về Kinh Bắc chưa được
hiểu và phân tích đến nơi, một phần do tính chất mơ hồ, đa diện, đa nghĩa của
một số bài quan trọng, mà chính tác giả cũng nói rằng mình không minh định được,
ông còn sẵn sàng khoác thêm một màn sương khói hư hư thực thực bằng những câu
chuyện kiểu như bài thơ ra đời từ tiếng ai văng vẳng trong đêm…
Lại nữa, truyền thông nước ta góp
phần lớn vào việc làm cho công chúng cảm nhận Hoàng Cầm một cách phiến diện.
Trong suốt hai thập niên trở thành gương mặt văn học “ăn khách” bậc nhất, ông
luôn xuất hiện như một khách thơ tài hoa đa tình quanh quẩn với hai lọai
tình: tình quê hương quan họ và tình “chị - em” độc đáo, ông như bị chế biến
thành món giải trí dễ dãi cho một số đông tò mò hơn là thực sự thưởng thức
văn chương.
Có lẽ đây là dịp để, sau những
tràng vỗ tay ồn ào cũng như những vòng hoa thương tiếc, cả sau khi những ân
oán thời cuộc thường chi phối sự nhìn nhận tác giả và tác phẩm đã lùi xa vừa
đủ, ta có điều kiện lắng xuống, tịnh tâm để nhận diện con người và thơ Hòang
Cầm một cách thuần túy hơn.
Hoàng Cầm đa dạng hơn những gì công
chúng quen nhìn thấy
Tôi chưa dám nói về kịch thơ, truyện
thơ Hoàng Cầm, ở đó ngay từ Kiều Loan, và sau đến Người con gái nước Tần,
Trương Chi, tài năng của một nhà soạn kịch sóng với tài năng của người nhuần
nhụy ngôn ngữ thơ đảm bảo giá trị cho những tác phẩm thuộc một thể loại sân
khấu tiếc rằng vì hoàn cảnh lịch sử đã không được nuôi dưỡng. Tôi tự hạn chế
trong lĩnh vực THƠ viết hoa.
Điều đầu tiên tôi muốn nói, Hoàng Cầm
đa dạng hơn những gì công chúng quen nhìn thấy.
Ở nửa cuối cuộc đời, người ta dễ thấy
ông, mà ông cũng thường tự nhận, là con người dễ dãi, ủy mị, thậm chí nhu nhược,
có gì đó nữ tính,“theo dòng mẫu hệ”. Có thể trong sâu xa con người ông phần
“âm” có sẵn đã nổi lên do hoàn cảnh khốn cùng ông bị đẩy vào, trong hoàn cảnh
ấy cái “âm”, cái “ẩn” có tác dụng bảo toàn, che chở. Cũng nên lưu ý đến tính
nữ ở những vai nam trong quan họ hay chèo, một đặc trưng văn hóa dân gian
đông bằng Bắc Bộ mà Hoàng Cầm thấm đẫm. Vì thế người ta dễ quên đi gương mặt
hùng của anh bộ đội Hoàng Cầm trong tấm ảnh mũ nan áo trấn thủ chụp ngày mới
giải phóng thủ đô, quên đi giọng ngâm thơ sang sảng trên đài phát thanh của một
Hoàng Cầm trong Đêm liên hoan “Đầu nhấp nhô như sóng bể ngang tàng/ Ta muốn
hét cho vỡ toang lồng ngực/ Vì say sưa tình thân thiết vệ quốc đoàn”. Mê mải
những “em mặc yếm thắm em thắt lụa hồng” bên kia sông Đuống, ta bỏ qua những
anh “bộ đội bên sông đã trở về/ Con bắt đầu xuất kích/ Đồn giặc bắt đầu run
trong sương/ Dao lóe giữa chợ/ Gậy lùa cuối thôn.” Cũng như khi cùng tác giả
trở về Kinh Bắc, bị ám ảnh quá nhiều vì cái lá Diêu Bông, cỗ bài tam cúc chị
chị-em em, người ta không mấy quan tâm đến tâm trạng bi phẫn Trăng lên chém đầu
ngọn gió, Cành si bưng chậu máu chát chao… Người ta cũng tránh nhắc đến ông -
người quyết định công bố Nhất định thắng và sau đó khẳng khái bênh vực tác giả
của nó (Con người Trần Dần).
Tất nhiên thơ Hoàng Cầm cũng
đa dạng như con người ông. Và thay đổi khá nhiều theo theo thời gian, hoàn cảnh.
Không thể nhận ra tác giả những lời thơ lãng mạn tuổi 20 “Những khoảng chiều
buồn phơ phất lại/ Anh đàn em hát níu xuân xanh” trong những giai đoạn kháng
chiến, đầu hòa bình. Nhưng đến những năm tháng của tuổi 70, 80 thì ta nhiều
lúc bắt gặp ông trở lại nhạc điệu, thi ảnh, và cả ngôn từ của thời “vớt mắt
em về bến hóa sinh”. Vâng, ở cái tuổi xưa nay hiếm, Hoàng Cầm vẫn chạy theo
những mối tình đơn phương, ảo vọng, vẫn “níu xuân xanh” với hết sinh lực
(không còn bao nhiêu) và thi lực (vẫn tràn đầy).
Giữa hai đầu lãng mạn đầu đời và
“níu lãng mạn” cuối đời, ta có Hoàng Cầm thơ kháng chiến lượng không nhiều mà
nổi đình đám chỉ cần với một Bên kia sông Đuống. Một Hoàng Cầm thơ trữ tình
phê phán sắc sảo và cay độc thói quan liêu đạo đức giả: “Rúc đầu vào nách vợ/
Hút hít như chó con…Mắt thầy nhắm nghiền lại/ Thầy đọc kinh giáo điều… Dao ngọc
với gươm vàng/ Chém nát nhừ trận gió…”, “Diễn văn cót két chân giường mới/ Gặm
hết tình yêu hết ước mơ. Ta có cả một Hoàng Cầm biết tụng ca anh hùng với những
hình tượng sáng tạo “Anh đứng là lưỡi cày/ Anh nằm là dòng mương/ Anh ngồi là
cót thóc/ Anh đi là con đường”. Rất ít người để ý đến một Hoàng Cầm mới lạ của
tổ khúc thơ rock siêu thực – xuất biểu có một không hai trong thơ Việt Nam (U
gì, tặng khối u của Đặng Đình Hưng) đầy bi phẫn kinh hoàng ác mộng: “Lỗ chỗ
chín chậu nắng tóe mắt võng rách tụt cân đai yên ngựa què kéo đen ngòm cỗ xe
bánh vuông (không thấy mui) sa lầy bãi sông thu bùn lũ ngược vẫy sen tàn (đi
hoang ư) ngậm miệng nghỉm gió thốc lốc cung rê-ma-giơ quắt nhức ba cạnh nhung
gai lì ái ân gì dài thon mười búp lóa kim cương trắng sữa đầu vú núi cao ngất
lùm cỏ ngọt ước ao”… “lố nhố nhiều u gì sau xe hình mắt lé mã tấu trùng trùng
răng chuột mặt nạ người đẹp ngọt xớt thanh xà nép lá bồ đề”.
Về Kinh Bắc
Nhưng có thể nói, tác phẩm gắn chặt
nhất với tên Hoàng Cầm truyền lại cho hậu thế phải là Về Kinh Bắc. Hoàn cảnh
ra đời tối ưu cho một kiệt tác: tác giả bị dồn đẩy vào tâm thế chìm đắm hoàn
toàn trong thế giới hoài niệm với thơ là nơi bấu víu, là nguồn sống, là năng
lượng giải thoát độc nhất (“cô đơn là cứ phải toàn phần mới sinh năng lượng”
– Đặng Đình Hưng); tác giả đang ở độ chín tới của tuổi tác và tài năng.
Về Kinh Bắc là tổ khúc
tám nhịp hồi quang một vùng văn hóa lịch sử, trên nền ấy nổi lên nhịp Năm gửi
gắm tâm sự của một đứa “Em” (không) gửi tới “Chị”, người mà “Em” thầm yêu, cả
tin, rồi vỡ mộng, nhưng chẳng dám thốt ra lời gì hơn là nỗi lòng bơ vơ, ngậm
ngùi, có chút hờn trách.
Hồi quang Kinh Bắc đầy màu sắc. Với
những chớp lóe ấn tượng thật gợi cảm trong nhịp Một, cũng là khúc dạo
(prelude) của một đại tổ khúc, gồm năm đêm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ - lướt
nhanh một Kinh Bắc huyền tích (Néo Đông Triều khép mở gió kỳ lân/ Chớp rạch
dáng tiên vén xiêm xõa ngủ…), Kinh Bắc huê tình non tơ (Chũm cau căng nứt mạch
tằm/ Yếm may ba ngày mẹ vá lại… Gió ra hồng da trinh nữ… ong bay vai áo tiểu
thon mình), Kinh Bắc bi tráng (Chợt mê thét giữa sân/ Nét mác chữ thiên toạc
lưng trâu mộng), Kinh Bắc ma mị (Châu chấu ma vờn cổ yếm xây…Trò chuyện gì ai
đâu/, mồ tháng giêng mưa ướt sũng…), Kinh Bắc của những sinh hoạt văn hóa dân
gian giàu bản sắc (Hình nhân má điệp tóc mực tàu/ Mắt nghiêng dựa liếp/ Mai
nhảy vào đám lửa giỗ đầu… Kèn già lam ai tập thổi/ Gió mất chồi xuân đay nghiến
lũy tre dày… Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu…). Với lịch sử bi
hùng được kể trong ba nhịp Hai, Ba, Bốn. Với chân dung những người con gái đa
tình, đa truân trong nhịp Năm. Với phác họa những hội hè trong nhịp Sáu. Có
thể nói Về Kinh Bắc cùng với truyện thơ Tiếng hát quan họ và nhiều bài thơ lẻ
cuối đời cho thấy Hoàng Cầm là kết tinh vùng văn hóa nghìn năm Kinh Bắc, là
thi sĩ của đất quan họ, chẳng khác thi sĩ Tây Ban Nha Federico Garcia Lorca với
quê hương Andalusia qua những khúc cante hondo (trầm ca) và romance.
Nhưng cũng phải nhận rằng, Về Kinh
Bắc in đậm vào dư luận và sống trong lòng công chúng phần nhiều ở chùm thơ đặc
biệt trong nhịp Năm: bộ ba Cây, Lá, Quả (Cây Tam cúc, lá Diêu bông, Quả vườn ổi),
mở rộng là bộ bốn (Cây, Lá, Quả, Cỏ – Cỏ Bồng thi). Không nói tới việc số phận
đoạn trường của chùm thơ này kéo theo số phận đoạn trường của tác giả đã góp
phần không nhỏ làm cho chúng nổi tiếng và được yêu mến, “đến hôm nay, thoát
khỏi mọi vướng víu thời cuộc, bộ ba cây-lá-quả vẫn cứ ngây ngây men erotic của
những ẩn ức ấu thơ sực mùi ổ rơm tóc ấm trộn với một liều lượng đắng cay của
tuổi trẻ thất vọng đượm một nỗi u ẩn thế sự, vẫn nguyên sức cám dỗ của thứ rượu
lâu năm nhấp môi thì ngọt, nuốt vào thì đắng, uống rồi thì chuếnh choáng ngậm
ngùi.” (HH- Bài giới thiệu tập thơ Mưa Thuận Thành, báo Lao Động 1991).
Ngoài chùm thơ trên, có Về với ta,
một bài làm thanh cả nhịp cuối, nhịp kết của tập thơ. Không nổi tiếng với
công chúng rộng, nhưng bài thơ được đánh giá cao trong giới bạn thơ của tác
giả và cũng là một trong những bài tâm đắc nhất của ông. Tôi nghĩ bài này chứa
đựng những gì là Hoàng Cầm nhất.
Về mặt thi pháp, thực ra Về Kinh Bắc
chưa tạo dựng một thi pháp nhất quán rõ rệt như ở Trần Dần, Lê Đạt, nhưng nó
rất riêng một lối thơ Hoàng Cầm của thời kỳ này, cũng là lối thơ Hoàng Cầm nhất.
Trước tiên là một nhạc điệu Hoàng Cầm:
dặt dìu, đón đưa, dan díu, buông bắt. Có thể nhận ra tất cả hồn quan họ ngân
nga trong ấy. Thứ nhạc này khiến cho thơ tự do không vần của tác giả, trong
khi theo sát diễn biến của từng tâm trạng cụ thể, thậm chí còn du dương hơn lối
thơ vần điệu (cuối đời tác giả hay tự hát thơ của mình trong những cuộc gặp gỡ
bỏ túi). Ta có thể gọi nó là “điệu tâm hồn Hoàng Cầm”.
Rất rõ một lối tạo hình Hoàng Cầm:
xen tả với gợi, xen ấn tượng, biểu tượng với khắc hằn xuất biểu. Ở những bài
thành công nhất, việc sử dụng biểu tượng gửi gắm những tâm ý không nói ra được
(có thể là “tàn dư” của thủ pháp “biểu tượng hai mặt” thời Nhân Văn – Giai Phẩm
nhưng đã từ tầng lý trí chìm xuống tầng sâu tiềm thức, bộc phát, nên sức ám ảnh
rất cao), kết với sức gợi và ám của nhạc thơ, cho ta một Hoàng Cầm của thi
pháp tượng trưng thời mới – tôi tạm gọi là “tân tượng trưng”.
Hoàng Cầm cũng có một kiểu dắt dẫn
tuyến thơ: Một cách mở đầu hầu như bao giờ cũng tự phát từ sự mách bảo của tiềm
thức, bản năng, không từ sự lập ý (cho nên ông hay nói về tiếng người trong
đêm đọc câu thơ mở đầu cho bài thơ của mình), rồi phát triển bài thơ xen kể với
tả, và cấu trúc bài thơ không bao giờ thiếu kịch tính.
Ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm tài hoa óng
chuốt bay bướm nhưng vẫn tự nhiên, tuy cũng có những lúc hơi lạm phát vàng son
song ít khi rơi xuống sáo mòn.
Có một nét rất riêng Hoàng Cầm nữa:
sự tạo dáng ký thác tâm trạng trong các bài thơ. Ngay từ Bên kia sông Đuống,
cái dáng nghiêng nghiêng của con sông đã ám ảnh bao nhiêu người yêu thơ ông
(có nhà nghiên cứu còn ngây thơ thử đi đo độ nghiêng của sông Đuống thực!).
Trong một lần chở xe đạp nhà thơ trên phố dịp ông vào Sài Gòn lần đầu, tôi bỗng
“phát hiện” cái thế nghiêng nghiêng của con sông có lẽ là từ cái dáng nằm
nghiêng nghiêng của chính tác giả trong cai đêm trằn trọc nhớ về con sông quê
sa vào tay giặc. Cái dáng này cũng như tiên cảm sự chông chênh của đời ông!
(Đứng không yên ổn, ngồi không vững vàng – Kiều). Trong Về Kinh Bắc, ta gặp
cái dáng bơ vơ Em đứng nhìn theo em gọi đôi, lạc lõng Từ đấy em đi khắp sông
khắp núi/ Gió quê vi vút gọi/ Diêu bông hời… ới diêu bông, lủi thủi Lẽo đẽo
em đi vườn mai sau/ Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng, bị du đưa như trong cơn
mộng du Chị đưa em đến chốn này/ Cheo leo mỏm đá, chết đứng không trói mà
không đi… em vọng ai đâu mà hóa đá… kìa rau muống dại kín em rồi…
Bao trùm tất cả, Về Kinh Bắc
dựng lên một không khí, một thế giới Hoàng Cầm. “Thế giới thơ Hoàng Cầm như một
cõi mơ giữ nguyên những cái không hề có thật, cái “lá diêu bông” là cái lá
gì, “cầu bà Sấm bến cô Mưa” là ở đâu, nhưng cứ ngỡ như là thật; có những chất
liệu bình dị của vùng quê Kinh Bắc một thời vừa đủ xa để nhớ tiếc, cỗ bài tam
cúc đôi cá đòng đong… nhưng lại kết thành hư ảo hàm chứa một cái gì bí ẩn.
Hoàng Cầm thuộc nòi thi sĩ giao tiếp được với người âm, biết cách gọi về những
gì đã mất, đẩy cái trước mắt ra xa vời, nên thơ anh ám ảnh như mộng triệu đòi
được giải mã.” (HH- Bài giới thiệu tập thơ Mưa Thuận Thành, báo Lao Động
1991). (Tác giả rất tâm đắc ý cuối này, ông lấy nó khi viết Chân dung tự thú
năm 1994: “Gọi chiều xưa trở lại/ Đẩy chiều nay về xa/ Thường trò chuyện với
ma/ Như với người đang sống”).
Về Kinh Bắc là tập thơ được
Hoàng Cầm sáng tác trong mùa Đông-Xuân 1959-1960 tại nhà riêng (43 Lý Quốc Sư
Hà Nội), sau khi ông bị kỷ luật vì vụ Nhân Văn - Giai Phẩm. Bản thảo sau đó
được ông chép tặng một số rất ít người quý mến mà số lượng ngày càng tăng dần,
nhất là sau khi đất nước thống nhất năm 1975. Tuy có tiếng xì xầm về những “ẩn
ý” oán trách xã hội của một số bài trong đó, nhất là bài Lá Diêu bông, nhưng
chưa hề có nhận định hay kết luận chính thức nào của các cơ quan hữu trách về
tập thơ, cũng chưa hề có một quyết định nào không cho phép lưu truyền nó.
Nhưng đến khoảng cuối thập niên 1970 đầu thập niên 1980, khi một số bài thơ
do Hoàng Cầm chép tặng được truyền ra hải ngoại, thì Về Kinh Bắc đã “thành vấn
đề” đối với “các cơ quan chức năng”.
Năm 1982, một nhà văn người Việt từ
Canada về xin nhà thơ chép tặng toàn bộ tập thơ để mang đi. Cùng lúc đó, tình
cờ tôi từ Sài Gòn ra, cũng xin ông chép tặng để mang vào. Trong bối cảnh ấy vụ
án Về Kinh Bắc ra đời.
[...] Ông được “tạm tha” sau 16
tháng “giam cứu” (giam giữ để điểu tra) – từ cuối tháng 8 năm 1982 đến cuối
tháng 12 năm 1983.
Sau Đổi Mới, một số bài trong Về
Kinh Bắc được công bố trong vài tập thơ của Hoàng Cầm (Mưa Thuận Thành, Lá
Diêu bông, Bên kia sông Đuống), trong đó có những bài quan trọng nhất mà dăm
năm trước đây còn bị coi là “phản động”. Đến năm 1994 thì Về Kinh Bắc được xuất
bản. Trong giải thưởng Nhà nước về VHNT trao cho Hoàng Cầm năm 2007, tuy Về
Kinh Bắc không được nêu danh, nhưng có những tập thơ kể trên.
Hoàng Cầm hậu Về Kinh Bắc
Sau Về Kinh Bắc, thơ Hoàng Cầm
không còn tập trung được sức mạnh vào một tác phẩm lớn, không còn giữ được nhạc
điệu rất riêng, nhưng thế giới thơ Hoàng Cầm vẫn hiện diện một phần ở tâm trạng
tải trên hàng trăm bài thơ lẻ. Một tâm trạng tha thiết đòi yêu, níu yêu,
không cam chịu, nhưng không giấu được tiếng thở hắt phẫn chí, ngậm đắng, nuốt
cay: Gió cấp ba thổi méo thân hình… Vào tim dao khía bịa ra cười… Thứ thuốc
mà ông mang tên càng già càng đắng.
Cuộc đời và thi nghiệp của Hoàng Cầm
là một trường hợp điển hình cho điều mà tôi coi là một trong những “bí quyết”
thành công trong văn giới Việt Nam đương đại. Đó là sự “nằm giữa”. Nằm giữa
con người thi nhân và con người chiến sĩ (dân tộc và dân chủ), con người
Hoàng Cầm là một mẫu lý tưởng ngấm ngầm cho một bộ phận trí thức văn nghệ
sĩ.[...]. Nằm giữa lối sáng tác truyền thống coi cảm hứng từ chính cuộc đời
mình là động lực tự nhiên với ý thức về sự làm mới bút pháp do ảnh hưởng của
những người bạn mang tinh thần cách tân quyết liệt. Nằm giữa một cái nôi văn
hóa dân gian đậm đà tâm thức tập thể và một chân trời tự do cá nhân hấp thụ từ
văn minh phương Tây. Nằm giữa kể chuyện và giãi lòng. Nằm giữa thực và mộng,
lộ và ẩn, hình ảnh và biểu tượng, huyền thoại và chuyện thật, văn chương và
thế sự. Thơ Hoàng Cầm dễ lan truyền mà không bình dân, đáp ứng tâm lý thưởng
thức của công chúng trung lưu Việt Nam trong một hoàn cảnh xã hội khá đặc biệt,
khi văn nghệ đang chuyển mình từ công cụ chính trị trở lại là chính nó; trong
cảnh tranh tối tranh sáng, tiếng xì xào lắm khi còn mạnh hơn lời bình chính
thức.
Ngẫm lại một đời thơ ông, tôi thấy
ngay từ thuở 20 đến khi về cõi, ông như không thôi bị ám ảnh bởi cái nhu cầu
nội tâm sâu xa đọng trong một chữ NÍU.
Những khoảng chiều buồn phơ phất lại
Anh đàn em hát níu xuân xanh
Bao nhiêu tha thiết hàm chứa cái gì
bất lực, tội nghiệp trong câu thơ từ 70 năm cũ dự cảm một điều quý báu nhất sắp
vuột khỏi tay.
Đời ông là cả một đời nhớ tiếc những
cái đã mất ấy (“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc/ sao xót xa như rụng bàn tay”),
mà ông chỉ hòng mong níu lại bằng thơ. Níu xuân xanh. Níu một mối tình ảo,níu
một thời trầu cay mà đỏ, níu màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp… Và có lẽ,
thơ Hoàng Cầm níu lòng ta cũng vì thế.
Bán đảo Tân Phong,
mùa trăng
tháng 3/2011
Hoàng Hưng
Theo http://trieuxuan.info/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét