Trở lại câu chuyện gieo vần trong
Truyện Kiều
|
1. Cơ chế hiệp vần trong Truyện Kiều
2. Hiện tượng “vần ép” trong Truyện
Kiều
Dưới đây chúng tôi sẽ lần lượt
đi vào từng vấn đề.
1. Hiệp vần theo “thế bộ ba”
Dựa vào vị trí của tiếng gieo vần ở
dòng thơ, truyền thống nghiên cứu ở ta thường chia vần trong thơ nói chung và
trong thơ lục bát nói riêng làm hai loại: vần chân và vần lưng. Cụ thể là:
- Vần chân (cước vận) là khi âm tiết
hiệp vần đứng cuối dòng thơ;
- Vần lưng (yêu vận) là khi âm tiết
hiệp vần nằm ở trong dòng thơ.
Lục bát thường thể (như trong Truyện
Kiều) vừa có vần chân được gieo vào cuối dòng thơ, vừa có vần lưng được gieo ở
giữa dòng thơ cụ thể là vào tiếng thứ sáu dòng bát. Thí dụ, trong Truyện Kiều:
Thuyền quyên ví biết anh hùng,
Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi!
ở đây, hùng là vần chân, lồng là vần
lưng.
Tuy nhiên, có một điểm tưởng chừng
rất đơn giản nhưng lại vô cùng quan trọng ở đây là: Truyện Kiều là một truyện
thơ lục bát dài hơi gồm 1627 cặp lục bát - cái đơn vị tối thiểu của thể thơ
dân tộc cổ truyền này.
Điều này rất khác với ở ca dao, có
thể chỉ là một cặp lục bát riêng lẻ gồm 2 dòng thơ, hay gồm một số cặp như vậy.
Hệ quả là nếu câu ca dao chỉ gồm 2
dòng lục bát, thì chỉ có 2 âm tiết được hiệp vần: 1 vần chân dòng lục và 1 vần
lưng ở dòng bát. Thí dụ:
Hỡi
cô tát nước bên đàng
Sao
cô múc ánh trăng vàng đổ đi
Đáng chú ý là ở đây vần chân đàng của
dòng lục không có khả năng bắt vần với âm tiết thứ 8 của một dòng bát nào đó
đi trước nó (đơn giản là dòng bát này không tồn tại trong hiện thực); âm tiết
đi ở dòng bát còn “kém cỏi” hơn: nó mới chỉ ở dạng một “khả năng” có thể là
“vần”, chứ chưa được gọi là “vần” thật bởi vì cũng không có dòng lục
nào đó đi sau nó, để có âm tiết hiệp vần với nó.
Truyện Kiều, ngược lại, là một truyện
thơ lục bát dài hơi với 3254 dòng lục bát liên tiếp nhau; vì thế, trong Truyện
Kiều chỉ trừ ra có 1 dòng lục đầu tiên là giống với câu ca dao mà ta vừa phân
tích ở trên:
Trăm
năm trong cõi người ta
vần chân “ta” ở đây không có từ nào
đi trước để hiệp vần. Cũng tương tự, chỉ ở dòng bát cuối cùng của Truyện Kiều,
từ “canh” cũng không có từ nào đi sau, nối tiếp để hiệp vần với nó:
Trừ ra dòng lục thứ nhất và dòng
bát cuối cùng, tất cả 3252 dòng lục bát còn lại của Truyện Kiều đều là hiệp vần
theo cái thế “bộ ba” của các tiếng/âm tiết thứ “8/6/6” trong hai dòng
thơ: khởi đầu là âm tiết thứ 8 của dòng bát mở ra một vần chân,
gieo vần mới; sau đó âm tiết thứ 6 của dòng lục tiếp theo có tác dụng bắt vần,
nối vần đó cũng theo lối vần chân; và rồi cuối cùng, âm tiết thứ 6 của dòng
bát tiếp theo (vốn đi thành cặp với dòng lục trước nó) có tác dụng đóng vần
đó lại bằng một vần lưng, đồng thời mở ra một vần chân mới ở âm tiết thứ 8.
Cho nên khác với cặp lục bát lẻ
trong ca dao chỉ có 2 vần, trong Kiều cứ hai dòng lục bát là có 3 vần. Thí dụ
với 6 dòng lục bát mở đầu:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ
tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải
qua một cuộc bể dâu
Những
đìều trông thấy mà đau đớn lòng
Lạ
gì bỉ sắc tư phong
Trời
xanh quen thói má hồng đánh ghen
ta có tới 8 vị trí có vần (chỗ in đậm,
gạch dưới), và 1 vị trí “chuẩn bị” được hiệp vần, một thứ vần “tiềm năng” (âm
tiết thứ 8 dòng bát “ghen” được in nghiêng, đậm) đang “chờ đợi” hiệp vần với
dòng lục thứ bảy tiếp theo. Nghĩa là ta có một tỷ lệ như sau: 3 cặp
lục bát = 6 dòng : 9 vần, mỗi cặp lục bát: 3 vần; theo kiểu: Chân-
Lưng/Chân- Chân- Lưng/Chân- Chân- Lưng/Chân…
Trong qui trình này, vai trò vần
lưng ở dòng bát khá ‘đặc biệt’: nó chỉ là kẻ “ăn theo” vần chân ở dòng lục -
điều này cũng có nghĩa là nhà thơ không tự do ở đây, không sáng tạo hay cách
tân được gì nhiều ở đây. Khi Nguyễn Du hạ bút viết dòng lục mở đầu Truyện Kiều,
rằng:
Trăm năm trong cõi người ta
thì tiếp theo ông không thể ra khỏi
cái vòng khuôn thước của vần “a” ở đây (tuy rằng ông có thể biến hóa đôi
chút ở âm đầu hay ở thanh điệu như ông đã chọn):
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Không có con đường nào khác, nhà
thơ chỉ có thể dụng công chọn kiểu vần hay chọn từ ngữ ở cái vị trí thứ 8 vần
chân của dòng bát (nhau), để từ đó nối sang một dòng lục mới, và cứ thể tiếp
tục mãi. Nghĩa là, hóa ra, trong một bài thơ hay truyện thơ gồm nhiều cặp lục
bát như Truyện Kiều, kẻ “cầm cân nảy mực” chính là vần chân dòng bát.
Giá sử là một nhà thơ nào đó (không
phải thiên tài Nguyễn Du) rất có thể người đó đã nghĩ đến việc chọn một vần
khác, một từ khác ở cái vị trí vần chân thứ 8 này, lệ như:
Chữ tài chữ mệnh khéo là ganh đua
hay:
Chữ tài chữ mệnh khéo là thắng thua
Cái cách hiệp vần theo “thế bộ ba”
trong Truyện Kiều có một hệ quả rất thú vị (mà ta thường ít chú ý đến khi phẩm
bình Truyện Kiều) - đó là vai trò của nó trong sự phân loại các kiểu loại vần
“chính” và vần “thông”. Ta hãy xem ba dòng lục bát sau:
Chén
mừng xin đợi ngày này năm sau
Người
lên ngựa kẻ chia bào
Rừng
phong thu đã nhuốm màu quan san
ở đây ta có tới ba cặp vần và hai
kiểu loại vần “chính” và vần “thông” khác nhau:
+ cặp sau - bào: hai âm tiết này được
gieo vần liền; nguyên âm ‘ă’ (a ngắn) trong sau được gieo với nguyên âm ‘a’
(a dài) trong bào (tuy chúng viết giống nhau là a); hai âm tiết này có chung
âm giống nhau: bán âm ‘w’ - tuy viết khác nhau là u/o. Như vậy đây là kiểu vần
thông. (Chú ý: Xin chớ lầm lẫn “âm” và “chữ” viết vốn là một chuyện đáng buồn
hay gặp ở các nhà phê bình thơ ít quan tâm đến ngôn ngữ học!).
+ cặp bào - màu: hai âm tiết này được
gieo vần liền; nguyên âm ‘a’ (a dài) trong bào được gieo với nguyên âm ‘ă’ (a
ngắn) trong màu (tuy chúng viết giống nhau là a); hai âm tiết này có chung âm
giống nhau: bán âm ‘w’ - tuy viết khác nhau là u/o. Như vậy đây là kiểu vần
thông.
+ cặp sau - màu: hai âm tiết này được
gieo vần cách, có âm chính giống nhau: nguyên âm ‘ă’ a ngắn) tuy viết là a,
và có chung âm giống nhau: bán âm ‘w’ - viết là u. Như vậy đây là kiểu vần
chính.
Có một điều cũng nên nhắc lại ở
đây: đó là thanh điệu của âm tiết vần chân ở vị trí thứ 8 của dòng bát phải đối
lập về cao- thấp (bổng- trầm) với thanh điệu của âm tiết ở vị trí thứ 6 cùng
dòng, nghĩa là chữ thứ sáu nếu không có dấu thì chữ thứ tám phải là dấu huyền,
hoặc ngược lại. Điều này cũng góp phần làm cho âm hưởng của dòng bát cũng như
cả cặp lục bát trở nên phong phú, đa dạng hơn, góp phần khắc phục một hạn chế
về âm hưởng của thơ lục bát là tính chất đều đều, phẳng lặng của nó (do sự xuất
hiện của khá nhiều thanh bằng). Thí dụ:
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng
vàng
Từ tất cả những sự trình bày trên,
chúng ta cần thấy một điều rất quan trọng là: nếu các cặp lục bát trong ca
dao cơ chế hiệp vần chủ yếu là một cơ chế “nhị nguyên”: “vần chân + vần
lưng”, thì trong lục bát Truyện Kiều cùng với cơ chế đó còn có một cơ chế nữa,
quan yếu hơn – đó là cơ chế “tam nguyên”: “vần chân + vần chân + vần lưng” ở
các vị trí 8 – 6- 8 của hai dòng bát gián cách và một dòng lục chen vào giữa
(hay nói một cách khác: một dòng bát lẻ đi trước cộng với một cặp lục bát tiếp
sau).
Khi nói đến hiện tượng “vần sai” (lạc
vận) thì giới nghiên cứu phê bình dễ thống nhất rằng đó là những trường hợp
gieo vần sai hẳn, hai âm tiết không hề “hiệp” gì với nhau, tuyệt nhiên không
có sự đồng nhất nào về các đặc trưng ngữ âm giữa hai bộ phận quan trọng nhất
của vần là âm chính và âm cuối, lệ như giữa hai âm tiết “áo” và “bông” chẳng
hạn.
Khác với “vần sai”, hiện
tượng “vần ép” (cưỡng vận, áp vận) là một câu chuyện khác hẳn, trước hết là
vì nó vẫn có tư cách của “vần” - duy có điều “nghe” loại vần này ít nhiều thấy
“gượng gạo” mà thôi. Tuy nhiên, thế nào là “vần ép” - quả là một khái niệm có
phần mơ hồ, không thật xác định; ở đây chúng tôi đi theo cách xử lý của Mai
Ngọc Chừ (1), để khảo sát khả năng có hay không “vần ép” trong thơ lục bát của
Truyện Kiều.
Trong Kiều ta có thể bắt gặp một
trường hợp duy nhất có khả năng rơi vào loại “vần ép”. Theo bản Truyện Kiều của
Nguyễn Thạch Giang thì đó là trường hợp của ba dòng số 2962, 2963, 2964, với
sơ đồ bắt vần như sau:
Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù.
Nàng đà gieo ngọc trầm châu,
Sông Tiền đường đó ấy mồ hồng nhan!
Phân tích về mặt ngữ âm của vần thơ
ở ba dòng lục bát này, ta thấy như sau:
+ Giữa hai âm tiết “tù” và “mồ” có
ba đặc trưng âm thanh chung là: thanh điệu giống nhau, âm chính cùng loại âm
sắc “cực trầm” (dòng sau, tròn môi), và đều vắng mặt âm cuối; nghĩa là ở đây
ta bắt gặp một loại “vần thông” rất bình thường.
+ Giữa ba âm tiết: “châu”, “tù”, “mồ”, có sự khác nhau rõ rệt giữa một bên là “châu” và bên kia là “tù” và “mồ”.
Âm tiết “châu” có các đặc trưng ngữ âm sau: có âm cuối ‘-w’, âm chính là
nguyên âm ‘-â-’ có âm luợng trầm vừa hay ‘trung hòa’, thanh điệu là thanh Bằng
cao (trên chữ viết không có ‘dấu’) – tức là những điều mà hai âm tiết “tù” và
“mồ” không có.
Vì thế, nếu ta có cảm nhận được
chút gì đó là có sự “liên hệ”, có sự “hòa âm” nhất định giữa ba âm tiết
“châu”, “tù” và “mồ” ở các vị trí hiệp vần trong ba dòng lục bát trên của
Truyện Kiều, thì có lẽ là do có sự tương quan ngữ âm (tuy mờ nhạt) giữa bán
nguyên âm cuối ‘-u’ của “châu” với nguyên âm chính ‘-u-’ của “tù” và nguyên
âm chính ‘-ô-’ của “mồ”: cả ba nguyên âm này đều có cùng lọai âm sắc “cực trầm”
(dòng sau, tròn môi).
Đây là lý do chủ yếu và duy nhất
khiến ta vẫn coi trường hợp đang xét là “vần” (tuy là “vần ép”) chứ không phải
là vần sai/ “lạc vận”.
Tuy nhiên ở đây có một vấn đề tế nhị
và thú vị - là tư liệu mà chúng ta sử dụng để khảo sát là thuộc “bản Kiều”
nào, tác giả hiệu khảo, chú giải là ai?
Như có thể thấy, tư liệu mà chúng
tôi đang sử dụng là dựa theo Bản Kiều của Nguyễn Thạch Giang. Để khách quan,
chúng tôi đã tham khảo thêm một số Bản Kiều khác; cụ thể là:
a) Nếu dựa theo “Bản Truyện Thúy Kiều”
của Bùi Kỷ-Trần Trọng Kim (2) ta sẽ có một kết quả bất ngờ: Ở những dòng lục
bát Kiều mà ta đang xem xét, thay vì “trầm châu”, hai ông phiên là “trầm
chu”; nghĩa là ta sẽ có những dòng lục bát hiệp vần rất chuẩn mực, và như vậy
cũng có nghĩa là trong toàn bộ Truyện Kiều không hề có bất kỳ một sự “cưỡng vận/
áp vận” nào:
(Nàng Kiều công cả, chẳng đền,)
Lệnh quân lại bắt ép duyên thổ tù.
2963 Nàng
đà gieo ngọc, trầm chu,
Sông Tiền đường đó, ấy mồ hồng
nhan!
Tuy nhiên, cũng nên thấy rằng: ở chỗ
khác, cũng trong Bản Kiều trên, hai ông Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim có lúc vẫn
phiên là “trầm châu”, như ở dòng 2987 dưới đây, có lẽ là do áp lực của sự hiệp
vần (với từ “nhau” trong dòng bát tiếp theo) bởi vì về ý tứ mà xét thì dòng lục
2987 này cũng giống như dòng lục 2963 vừa dẫn trên (được phiên là “trầm
chu”):
(Sư rằng: “Nhân quả với nàng,)
Lâm Truy buổi trước, Tiền Đường buổi
sau.
2987 Khi
nàng gieo ngọc, trầm châu,
Đón nhau, tôi đã gặp nhau rước về.
Vì chưa thật yên tâm, chúng tôi tìm
xem thêm một Bản Kiều khác, cũng của Trần Trọng Kim - Bùi Kỷ (do Nhà xuất bản
Văn học ấn hành năm 2010) thì thấy Bản Kiều này y như Bản Kiều của Nguyễn Thạch
Giang, vẫn dùng chữ “trầm châu” (chứ không phiên là “trầm chu”) ở tất cả các
vị trí hữu quan – tức là có hiện tượng “vần ép” ở đây!
b) Trước tình hình đó, chúng tôi thấy
cần phải mở rộng sự tham khảo sang một số Bản Kiều có uy tín khác, kết quả
cho thấy như sau:
+ Bản Truyện Kiều của Đào Duy
Anh (3): phiên là “trầm châu”. Một Bản Kiều khác cũng của ông (4), cũng thấy
phiên là “trầm châu”; nghĩa là ở đây có chuyện “vần ép”.
+ Bản Kiều của Nguyễn Tài Cẩn (5): ở
bản này, thay vì “trầm châu”, tác giả đề nghị phiên là “dìm châu” ở dòng
2963:
Lệnh quân lại bắt ép duyên thổ tù
Nàng đà gieo ngọc dìm châu,
nghĩa là cũng có chuyện ‘vần ép’ ở
đây: - u/- âu/ - ô. Còn ở dòng 2987, ông không phiên là “trầm châu”, mà đề
nghị một phương án phiên khác hẳn (so với những học giả khác):
Khi nàng gieo ngọc đáy sâu
Đón
theo tôi đã gặp nhau rước về
+ Bản Kiều của Đào Thái Tôn (6):
thay vì “trầm châu”, tác giả đề nghị phiên là “chìm châu” ở dòng 2963:
Lệnh quân lại bắt ép duyên thổ tù
Nàng đà gieo ngọc chìm châu,
Sông Tiền đường đó ấy mồ hồng nhan!
nghĩa là cũng có chuyện “vần ép” ở
đây. Còn ở dòng 2987, ông cũng đề nghị phiên là “chìm châu”:
Khi nàng gieo ngọc chìm châu
Đón
theo tôi đã gặp nhau rước về
Bình luận Bản Kiều nào hiệu khảo,
chú giải đúng hơn, hay hơn, tuy nhiên không thuộc chuyên môn của chúng tôi,
vì thế chỉ xin đưa ra những tư liệu và nhận xét so sánh, đối chiếu như trên để
sự nghiên cứu về vần điệu trong thơ lục bát Truyện Kiều được khách quan, khoa
học hơn.
Có điều, chúng tôi nghĩ, nếu như ở
ba dòng Kiều đã dẫn trên có hiện tượng “vần ép” thì cũng là chuyện bình thường.
Một thiên tài thơ Nga như A. Puskin cũng có những câu thơ bị phê bình là hiệp
vần không hay.
Vả chăng, so với tổng số 3254 dòng
thơ của cả Truyện Kiều mà chỉ có một trường hợp gieo vần bị ép – thì quả đã là
một ngòi bút hiếm có của thiên tài!.
(1) Mai Ngọc Chừ: Vần thơ Việt Nam
dưới ánh sáng ngôn ngữ học. Nxb. Văn hóa Thông tin, 2005.
(2) Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim: Bản
Truyện Thúy Kiều. Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2007.
(3) Đào Duy Anh: Bản Truyện Kiều.
Nxb. Văn học, 2012.
(4) Đào Duy Anh: Từ điển Truyện Kiều.
Nxb. VHTT, 2000.
(5), (6) Tư liệu Truyện Kiều: Thử
tìm hiểu Bản sơ thảo Đoạn trường Tân thanh. Nxb. Giáo dục, 2008.
Lý Toàn Thắng
Nguồn: Viện Văn học
|
Thứ Ba, 27 tháng 2, 2018
Trở lại câu chuyện gieo vần trong Truyện Kiều
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Khúc hát Marseilles
Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét