Ấy hồn Thục Ðế hay mình Ðỗ Quyên
"Ấy hồn Thục Ðế hay mình Ðỗ Quyên". "Ðỗ
Quyên" là một loại chim cũng còn gọi là Tử Quy,
tiếng nôm na là chim Cuốc. Ðầu mỏ chim hơi cong, miệng to, đuôi dài, lông lưng
màu tro, bụng trắng có một đường đen thẳng ngang. Nó thường lủi trong bụi rậm,
dưới ao sâu hoặc hồ rộng. Cuối Xuân sang Hè thì bắt đầu kêu vào đêm trăng mờ
tịch mịch ở nông thôn. Giọng kêu buồn thảm, gợi lòng lữ khách nhớ nhà, nhớ quê
hương.
"Thục Ðế" là vua nước Thục tên Ðỗ Vũ thấy vợ của một bề tôi là Biết
Linh, người rất đẹp nên tìm cách thông dâm. Tức giận, Biết Linh dấy loạn, đem
quân đánh phá kinh thành. Thục Ðế thất bại, mất ngôi, chạy trốn vào rừng, khổ
sở quá rồi chết. Ðoạn này, sách "Thành
đô ký" chép có khác là vua Thục thông dâm với vợ Biết
Linh. Biết chuyện, Biết Linh bắt buộc vợ nói khích vua Thục nhường ngôi cho
Biết Linh, rồi cùng vợ Biết Linh bỏ nước ra đi để sống cho trọn tình chung
thuỷ. Thục Ðế say mê vợ Biết Linh quá, thà mất ngôi vàng hơn mất người đẹp nên
nghe theo. Nhưng thảm cho Thục Ðế đã mất ngai vàng cuốn theo mất người đẹp, vì
vợ của Biết Linh quay trở lại sống với chồng.
Nhục nhã, buồn tủi, vào rừng ở, nhớ ngai vàng, nhớ nước, Thục Ðế chết hoá thành
chim Ðỗ quyên ngày đêm kêu "cuốc, cuốc" hay "quốc, quốc"
(nước, nước). "Quốc, quốc" do tá âm "cuốc, cuốc".
Trong bài "Qua
đèo Ngang" của Bà huyện Thanh Quan, có câu:
Nhớ nước đau lòng con quốc
quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Thi ca cổ điển Việt Nam dùng rất nhiều điển tích về hai chim này.
TRẦN DANH ÁN, MỘT DI THẦN NHÀ HẬU LÊ (1423- 1788), NGHE TIẾNG CUỐC KÊU
CŨNG cảm xúc, nhớ lại một triều đại hưng thịnh... mà cuối cùng vua Lê Chiêu
Thống lại hèn nhát đầu hàng ngoại quốc, khiến lòng ái quốc tha thiết sống động
trong tâm hồn thi sĩ, nhưng cảm thấy mình bất lực trước thời cuộc, nên đành gói
ghém tâm sự di thần của mình trong mấy vần thơ:
Giá cô tại giang Nam
Ðỗ Quyên tại giang Bắc
Giá cô minh gia gia
Ðỗ Quyên minh quốc quốc
Vi cầm do hữu quốc gia thanh
Cô thần đối thử tình vô cực
Ðỗ Quyên tại giang Bắc
Giá cô minh gia gia
Ðỗ Quyên minh quốc quốc
Vi cầm do hữu quốc gia thanh
Cô thần đối thử tình vô cực
Nghĩa:
Chim Giá cô ở bờ sông Nam
Chim Ðỗ Quyên ở bờ sông Bắc
Giá cô kêu gia gia
Ðỗ Quyên kêu quốc quốc
Chim nhỏ còn kêu tiếng nước nhà
Cô thần đối cảnh tình man mác!
Chim Ðỗ Quyên ở bờ sông Bắc
Giá cô kêu gia gia
Ðỗ Quyên kêu quốc quốc
Chim nhỏ còn kêu tiếng nước nhà
Cô thần đối cảnh tình man mác!
Ðứng trước thành Cổ Loa, xưa nơi đây là cung miếu của vua Thục An Dương Vương,
nhà thơ Chu Mạnh Trinh bất giác sinh lòng hoài cổ. Cung miếu đó, xưa tráng lệ
huy hoàng bao nhiêu thì nay điêu tàn quạnh quẽ bấy nhiêu. Trong cảnh vắng vẻ
lạnh lùng này, dưới ánh trăng mờ nhạt, tiếng Cuốc khắc khoải năm canh vọng lên
buồn bã:
Tịch mịch tiền triều cung
ngoại miếu
Ðỗ Quyên đề đoạn nguyệt âm âm
Ðỗ Quyên đề đoạn nguyệt âm âm
Nghĩa:
Cung miếu triều xưa đây vắng
ngắt
Trăng mở khắc khoải Cuốc kêu thâu
Trăng mở khắc khoải Cuốc kêu thâu
Tiếng Cuốc của Chu Mạnh Trinh tuy có não ruột, nhưng chưa sâu xa thấm thía và
bi ai bằng tiếng Cuốc của nhà thơ Yên Ðổ Nguyễn Khuyến. Tiếng Cuốc của Nguyễn
là tất cả tiếng nói của lòng, của một người dân yêu nước bị mất nước. Tiếng
Cuốc đó còn nói lên một nỗi đau buồn, uất hận của tác giả vì bất lực trước cảnh
đen tối của đất nước bị nạn ngoại xâm. Và, đó cũng là tiếng nói của lương tâm
đương thôi thúc của tác giả xông vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc:
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng
lơ
Ấy hồn Thục Ðế thác bao giờ
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Ban đêm ròng rã kêu ai đó
Giục khách gian hồ dạ ngẩn ngơ!
Ấy hồn Thục Ðế thác bao giờ
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Ban đêm ròng rã kêu ai đó
Giục khách gian hồ dạ ngẩn ngơ!
Mượn tiếng Cuốc kêu hay Ðỗ Quyên, hay Thục Ðế... để diễn tả tâm sự của một
người dân vong quốc vẫn là một thông lệ trong văn chương.
Khúc
đâu êm ái xuân tình
ẤY hồn Thục Ðế hay mình Ðỗ Quyên
ẤY hồn Thục Ðế hay mình Ðỗ Quyên
Lẽ tất nhiên khúc đàn của Kiều ở đây không phải để tỏ lòng nhớ nước, mà là lòng
thương tiếc thời tuổi trẻ với mối tình xuân nồng nàn thâm thuý ở buổi đầu "có phải tiếc xuân mà đứng
gọi..."
Khúc đàn "đầm ấm dương
hoà" lâng lâng mơ màng đến nỗi tưởng "mình hoá làm bướm hay bướm hoá làm
mình" qua một cơn mộng đẹp. Ðoạn kế tiếp, khúc đàn êm ái xuân
tình cũng lâng lâng mơ màng, không biết phải Thục Ðế hoá thành Ðỗ Quyên hay Ðỗ
Quyên hoá làm Thục Ðế. Tác giả mượn hư nói thực, mượn thực nói hư.
Trên là tính chất của bản đàn.
Tiếp đến, tác giả tả tính chất của tiếng đàn.
Tiếng đàn rất trong và rất ấm.
Trong sao châu rỏ duềnh quyên
ẤM sao hạt ngọc Lam Ðiền mới đông
ẤM sao hạt ngọc Lam Ðiền mới đông
Tiếng đàn sao mà trong trẻo thế. Trong như hạt châu rỏ xuống vung nước (duềnh)
đẹp (quyên) của đêm trăng. Hạt châu đã trong rỏ nước xuống dưới ánh trăng trong
càng trong thêm. Cũng như hạt châu, tiếng đàn như hạt châu rỏ xuống duềnh quyên
với một âm điệu trong sáng, êm ái, nhẹ nhàng.
Tiếng đàn ấm là tiếng đàn còn dư sức ngân mà chỉ ngân vừa chừng để dư âm lại
sau. Tác giả cụ thể hoá sức ấm của tiếng đàn, ví như hạt ngọc Lam Ðiền mới
đông.
Phê bình tiếng đàn, người ta thường cho rằng: tiếng đàn trong là tiếng đàn của
người nhàn nhã, thanh tao; tiếng đàn ấm là tiếng đàn của người có hậu tức là có
tướng tốt đẹp. Tác giả muốn tiếng đàn của Kiều, tỏ ra lúc này là tiếng đàn của
người được hưởng thụ hạnh phúc sau 15 năm chịu cảnh đoạ đày, thuyết minh một
định luật "bĩ cực thái lai", khác những khúc đàn trước!
Một điều cần tìm hiểu thêm- cũng như một số nhà nghiên cứu "Truyện
Kiều"- là tác giả đã dịch thoát ý một số câu trong bài thơ "Cẩm SẮT" CỦA
LÝ THƯƠNG ẨN ĐỜI NHÀ §ƯỜNG.
Nguyên bài thơ "Cẩm
sắt" có 8 câu:
Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp
Thục Ðế xuân tâm thác Ðỗ Quyên
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ
Lam Ðiền nhựt noãn ngọc sinh yên
Thử tình khả đãi thành truy ức
Chỉ thị đương thời dĩ vãng nhiên
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp
Thục Ðế xuân tâm thác Ðỗ Quyên
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ
Lam Ðiền nhựt noãn ngọc sinh yên
Thử tình khả đãi thành truy ức
Chỉ thị đương thời dĩ vãng nhiên
Nghĩa:
Cẩm sắt năm mươi chẵn sợi mành
Mỗi dây một trụ nhớ ngày xanh
Mơ màng bướm lẫn Trang sinh mộng
áo não quyên kêu Thục Ðế tình
Thương hải lệ châu trăng chiếu suốt
Lam Ðiền hơi ngọc nắng hun thành
Tình này đợi nhớ trong mai hậu
Chán nản giờ đây khổ nỗi mình
(Bản dịch của Bửu Cầm và Tạ Quang Phát)
Mỗi dây một trụ nhớ ngày xanh
Mơ màng bướm lẫn Trang sinh mộng
áo não quyên kêu Thục Ðế tình
Thương hải lệ châu trăng chiếu suốt
Lam Ðiền hơi ngọc nắng hun thành
Tình này đợi nhớ trong mai hậu
Chán nản giờ đây khổ nỗi mình
(Bản dịch của Bửu Cầm và Tạ Quang Phát)
Như vậy, ta thấy tác giả Truyện Kiều không mượn ý của toàn bài mà chỉ mượn có 4
câu (thứ ba, tư, năm, sáu). Tại sao chỉ lấy 4 câu?
Ðây là một dụng ý sâu xa của tác giả.
Trong bài "Cẩm
sắt": câu 3 tả tiếng đàn mơ màng; câu 4 tả tiếng đàn
áo não; câu 5 tả tiếng đàn trong trẻo; câu 6 tả tiếng đàn ấm áp. Phải chăng
tính chất của những tiếng đàn ấy thể hiện được cuộc đời của Kiều theo từng giai
đoạn. Hay nói một cách khác, ngược lại, cuộc đời của Kiều đã trải qua những
giai đoạn được thể hiện qua tiếng đàn.
"Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp" (câu 3): tiếng đàn có một âm điệu mơ màng, lâng lâng như một giấc mộng mà Trang Tử đến nỗi không biết mình hoá làm bướm hay bướm hoá làm mình. Cũng như Kiều sống mơ màng huyền ảo với hương vị của mối tình đầu lúc Kiều và Kim Trọng mới yêu nhau. Ðôi trai tài gái sắc này lúc trao kỷ vật, cắt tóc thề nguyền, lúc đề thơ hội hoạ, lúc đánh đàn- tuy thời gian ngắn ngủi- nhưng đã xây nhiều mộng đẹp. Thực và ảo ảnh dường như trùng hợp có một liên hệ chặt chẽ.
"Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp" (câu 3): tiếng đàn có một âm điệu mơ màng, lâng lâng như một giấc mộng mà Trang Tử đến nỗi không biết mình hoá làm bướm hay bướm hoá làm mình. Cũng như Kiều sống mơ màng huyền ảo với hương vị của mối tình đầu lúc Kiều và Kim Trọng mới yêu nhau. Ðôi trai tài gái sắc này lúc trao kỷ vật, cắt tóc thề nguyền, lúc đề thơ hội hoạ, lúc đánh đàn- tuy thời gian ngắn ngủi- nhưng đã xây nhiều mộng đẹp. Thực và ảo ảnh dường như trùng hợp có một liên hệ chặt chẽ.
"Thục Ðế xuân tâm thác đỗ
quyên" (câu 4): tiếng đàn có một âm điệu não
nuột, ai cảm như nỗi uất hận của vua Thục nhớ nước nhớ nhà gởi vào tiếng nấc
nghẹn ngào, thảm não của Kiều khi lưu lạc, nhớ quê, nhớ cảnh, nhớ cha mẹ, người
yêu, sống đoạ đày trong kiếp phong trần vùi hoa dập liễu.
"Thương hải nguyệt minh châu hữu
lệ" (câu 5): tiếng đàn đến đây thì trong trẻo như
ánh trăng vằng vặc chiếu xuống biển xanh qua suốt lớp nước sâu đến những hạt
châu long lanh như đẫm lệ. Cái trong trẻo thanh tao ấy chẳng khác gì tấm thân
tài sắc và lòng trinh trắng của Kiều được chìm sâu dưới nước sông Tiền Ðường để
rửa sạch hết bụi trần nhơ, và để rồi sống một cuộc đời thanh u, nhàn nhã dưới
của thiền bên cạnh vãi Giác Duyên.
"Lam điền nhật noãn ngọc sinh
yêu" (câu 6): tiếng đàn cuối cùng với một âm điệu
nồng nàn, ấm áp như ánh nắng nhẹ, êm ả chiếu xuống núi Lam điền khiến cho ngọc
quý nơi đây bốc lên hơi. Cái ấm áp ấy thực nồng nàn, thắm thiết, thi vị như
Kiều đoàn tụ với gia đình, gặp lại người yêu, nối lại khúc tình xưa. Ngọc lên
hơi thoang thoảng như ái tình lên hương thấm thía đậm đà.
Qua 4 câu trong bài thơ "Cẩm
sắt" của Lý THƯƠNG ẨN VÀ NGẪM LẠI CUỘC ĐỜI CỦA
KIỀU, CHÚNG TA THẤY SỰ NGẪU HỢP thích thú và cũng lạ kỳ giữa tiếng đàn của một
nhà thơ đời Ðường với cuộc đời của một giai nhân đời Minh, và sử dụng ý khéo
léo của tác giả Truyện Kiều, một thi hài cận đại của Việt Nam chúng ta.
Vì cuộc đời của Kiều- nhân vật chính của truyện- phải trải qua bốn giai ĐOẠN CÓ
TÍNH CÁCH KHÁC NHAU, MƠ MÀNG, ÁO NÃO, TRONG TRẺO VÀ ẤM ÁP. Ý TỨ TRONG
4 câu (3, 4, 5, 6) của bài "Cẩm
sắt" của Lý THƯƠNG ẨN PHẢI ĐƯỢC ĐẶT ĐÚNG CHỖ Ở
PHẦN KẾT CUỘC CỦA TRUYỆN, ĐỂ người đọc thoả lòng, mừng cho một khách má hồng
tài sắc được sống một cuộc đời đáng sống trong hương vị ngây ngất ấm êm. Và,
cũng để tạo cho người đọc một tư tưởng lạc quan, yêu đời, không vì thuyết "tài mạng tương đố, tạo vật đố
hồng nhan" quá máy móc mà đâm ra bi quan, yếm
thế, tiêu cực. Và, cái số kiếp đoạn trường của con người đâu phải là một định
luật bất di bất dịch.
Mượn ý của 4 câu thơ "Cẩm
sắt", cũng như tác giả Truyện Kiều tuy phóng tác của
một truyện của Trung Hoa nhưng tác giả đã chuyển hoá, sáng tạo chẳng những để
cho tác phẩm của mình được rực rỡ, phong phú mà còn làm cho điển tích được sáng
thêm với tính phổ cập và đề cao.
------------------
------------------
Ðoạn trường tân thanh - Kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du là một truyện thơ nôm viết bằng thể lục bát, dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc, gồm 3.254 câu thơ. Hàng trăm năm qua, Truyện Kiều đã sống chan hòa trong đời sống của toàn dân tộc. Không riêng gì Văn học Việt Nam, mà trong Văn học thế giới cũng hiếm có tác phẩm nào chinh phục được rộng rãi tình cảm của đông đảo người đọc, từ già đến trẻ, từ người có học đến quần chúng bình dân trước đây phần lớn bị thất học, như Truyện Kiều. Sở dĩ như thế là vì ngoài nội dung phong phú và sâu sắc của nó, Truyện Kiều còn là một tác phẩm chứa đựng tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc. Ở TRUYỆN KIỀU, NGÔN NGỮ BÁC HỌC VÀ NGÔN NGỮ BÌNH DÂN đã kết hợp với nhau, bổ sung cho nhau và phát huy cao độ những mặt tích cực của nó. Một trong những thành công khác về mặt nghệ thuật của Truyện Kiều là sự tài tình của nhà thơ trong cách sử dụng điển cố, điển tích. Hơn 100 điển tích được cập nhật trong chuyên mục này sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về tác phẩm Truyện Kiều cũng như ngòi bút tài hoa của nhà thơ Nguyễn Du.
(Theo Ðiển tích Truyện Kiều, NXB Ðồng Tháp)
Ban Biên Tập
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét