Kim Trọng về hộ tang chú ở Liêu Dương thì nửa năm sau, chàng trở về đến chốn cũ
tìm Kiều, nhìn thấy cảnh đã khác xưa:
Ðầy
vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rả rời
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Xập xè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày
(câu 2745 đến 2750)
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rả rời
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Xập xè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày
(câu 2745 đến 2750)
Thôi Hộ, một danh sĩ đời nhà Ðường trẻ tuổi đẹp trai, nhân dự hội Ðạp Thanh đến
một xóm trồng toàn hoa đào (Ðào hoa trang), gõ cửa một nhà xin giải khát. Bên
cửa cổng, một thiếu nữ thập thò đưa nước cho chàng. Nàng đẹp, duyên dáng, e lệ.
Chàng đưa tay tiếp lấy bát nước. Hai bàn tay trai gái chạm nhau. Nàng ngượng
ngùng, cúi mặt xuống. Ðôi má hây hây đỏ như đoá hoa đào. Chàng rụt rè, ngượng
nghịu đoạn từ giã ra đi.
Nhưng rồi đèn sách và mộng công hầu không xoá mờ hình bóng giai nhân. Xóm hoa
đào và con người đẹp vẫn gợi lên một hình ảnh đầm ấm trong trí não, khiến nhà
thơ lãng mạn chan chứa biết bao tình cảm lưu luyến mặn nồng. Rồi năm sau, ngày
hội du xuân đến, Thôi Hộ tìm đến xóm hoa đào. Cảnh cũ còn đó nhưng người xưa
lại vắng bóng. Cửa đóng then cài. Chỉ có ngàn hoa đào rực rỡ, phe phẩy theo gió
xuân như mỉm cười chào đón khách du xuân.
Ngẩn ngơ, thờ thẩn trước cảnh cũ quạnh hiu, Thôi Hộ ngậm ngùi:
- Hay là nàng đã về nhà chồng?
Từng bước một, chàng quay gót trở ra. Lòng cảm xúc vô hạn, rồi muốn ghi lại mấy dòng tâm tư của mình, Thôi Hộ lấy bút mực trong bị ra, đề mấy câu thơ trên cửa cổng.
- Hay là nàng đã về nhà chồng?
Từng bước một, chàng quay gót trở ra. Lòng cảm xúc vô hạn, rồi muốn ghi lại mấy dòng tâm tư của mình, Thôi Hộ lấy bút mực trong bị ra, đề mấy câu thơ trên cửa cổng.
Chiều đến, nàng thiếu nữ họ Ðào cùng thân phụ viếng người thân trở về. Nàng
theo sau cha, chợt nhìn trên cổng thấy bốn câu thơ:
Khứ niên kim nhựt thử môn
trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Ðào hoa y cựu tiếu đông phong
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Ðào hoa y cựu tiếu đông phong
Nghĩa:
Năm ngoái ngày này vẫn cửa trong
Hoa đào mặt ngọc gợn ánh hồng
Mặt người nay biết đi đâu vắng
Chỉ thấy hoa đào cợt gió đông
Hoa đào mặt ngọc gợn ánh hồng
Mặt người nay biết đi đâu vắng
Chỉ thấy hoa đào cợt gió đông
Nét chữ tinh xảo, ý tứ dồi dào chan chứa một tình cảm đậm đà khiến nàng thiếu
nữ họ Ðào cảm thấy lòng xao xuyến và quả tim tình bắt đầu vỗ đập theo một nhịp
yêu đương. Nàng ngậm ngùi thở dài, luyến tiếc duyên vừa gặp gỡ lại khéo bẽ
bàng.
Rồi ngày này sang ngày khác, nàng vẫn tựa mình bên cửa cổng mong đợi và hy vọng
gặp lại người khách tài hoa xin nước năm xưa. Nhưng ngày lại ngày qua, mấy lần
bóng chiều tắt lịm sau dãy đồi xa mà bóng người xưa chẳng thấy, chỉ thấy vài
cánh chim chiều lẻ bạn, bạt gió từ ngàn phương kêu bạn đổ về với một giọng não
nùng.
Rồi từ đó, nàng bỏ ăn bỏ ngủ, thân hình tiều tuỵ, dung nhan võ vàng. Thân phụ
nàng ngày đêm lo lắng, tìm thầy thuốc thang nhưng vô hiệu.
Biết không sống được, nàng đành thuật lại tâm sự của mình cho cha già và xin
tha tội bất hiếu. Nhìn đứa con thiêm thiếp trên giường bệnh như chờ đợi tử
thần, ông lão thương con, nóng lòng chạy tìm người đề thơ trên cổng.
Nhưng hạc nội mây ngàn, tìm đâu cho thấy.
Người cha đau khổ ấy bối rối, cứ chạy ra chạy vào, lòng mang một mong mỏi yếu
đuối. Trong giờ phút cuối cùng, mong gặp chàng thi sĩ trẻ tuổi xa lạ đã gây
sóng gió, bão tố trong gia đình ông, thì giờ phút này, ông cho là một vị cứu
tinh của gia đình, nên ông lại chạy tìm nữa. Ông chạy tìm một cách cầu may!
Vừa ra khỏi cổng nhà một quãng, bỗng chạm phải một người, ông ngẩng mặt nhìn.
Ðó là một thư sinh tuấn tú. Thấy ông mặt mày ràn rụa nước mắt, cử chỉ hốt
hoảng, chàng thư sinh lấy làm lạ hỏi. Ông vừa bươn bả đi vừa kể lể thành thực
sự tình. Nghe kể chưa hết câu chuyện, chàng thư sinh bỗng bưng mặt khóc. Ông
lão bấy giờ lấy làm ngạc nhiên, chưa kịp hỏi rõ thì chàng thư sinh nói:
- Tôi là Thôi Hộ, người đã đề thơ trên cổng...
- Tôi là Thôi Hộ, người đã đề thơ trên cổng...
Ông lão mừng rú lên, rồi lôi xềnh xệch chàng vào nhà, đưa thẳng đến phòng.
Nhìn người mang nặng tình yêu đã vì chàng mà phải vóc liễu tiều tuỵ, chết một
cách đau đớn, chàng quá cảm động, quỳ bên giường, cầm lấy tay nàng. Chàng áp
mặt chàng vào mặt nàng, khóc nức nở... không ngờ nước mắt và hơi ấm của chàng
thi sĩ rỏ trên mặt và ủ ấp người nàng có mãnh lực kỳ diệu thế nào, khiến nàng
từ từ mở mắt ra, đăm đăm tha thiết nhìn chàng. Nàng thiếu nữ Ðào Hoa trang sống
lại, và kết duyên với chàng thi sĩ tài danh Thôi Hộ.
"Hoa đào năm ngoái còn
cười gió đông"
Năm năm trước có người có hoa đào
Năm nay vắng người chỉ còn có hoa đào
Năm nay vắng người chỉ còn có hoa đào
Hoa đào còn đó phe phẩy trước gió như cười với gió. Cảnh cũ nhưng lại vắng
người xưa, nhà thơ Thôi Hộ đã ghi lại xúc cảm của mình bằng bốn câu thơ. Liêu
Dương cách trở nửa năm, Kim Trọng quay lại tìm người yêu thì người yêu vắng
bóng, trước cảnh đìu hiu, quạnh quẽ, hoa đào vẫn mơn mởn tươi cười
Sao lại có hoa đào cười?
Sao lại có nụ cười ở đây?
Sao lại có nụ cười ở đây?
Nhìn người đương buồn bã đau khổ mà lại cười, phải chăng là nụ cười vô duyên
đến quái dị!
Trước cảnh bất công của xã hội, giữa lúc nơi lầu son gác tía lại rượu thịt ê
hề, thừa thải đến hôi thối thì ngoài đường xương kẻ chết vì đói lạnh chất chồng
phơi trắng ra, Ðỗ Phủ, một thi hào đời nhà Ðường cực tả bằng hai câu:
Chu môn tửu nhục xú
Lộ hữu đống tử cốt
Lộ hữu đống tử cốt
Hai cảnh tượng tương phản.
Tình cảm thương nhớ, hy vọng của Kim Trọng mong gặp lại Kiều ở một nơi mà ngày
xưa được gọi là "thiên
thai", "động Ðào"... thực hạnh phúc biết mấy; thế mà
nay "vách mưa rã
rời", "rêu
phong mặt đất"... thì cái tình cảm hy vọng đột nhiên trở thành
tuyệt vọng. Cực tả trạng thái tình cảm tuyệt vọng này, tác giả dùng lối nhân
hình hoá với thế tương phản "hoa
đào cười" thì không còn gì tuyệt diệu hơn là làm tăng nỗi
đau đớn, tuyệt vọng thêm lên.
Tác giả Truyện Kiều dùng điển tích bằng hai câu thơ cuối của Thôi Hộ, nhưng
không phải làm một việc "nhai
lại"mà vốn chuyển hoá điển tích này một cách có khác hơn để
phù hợp với hoàn cảnh, tâm tình của Kim Trọng có một ý tình khá sâu sắc.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Ðào hoa y cựu tiếu đông phong
(Mặt người nay biết đi đâu vắng
Chỉ thấy hoa đào cợt gió đông)
Ðào hoa y cựu tiếu đông phong
(Mặt người nay biết đi đâu vắng
Chỉ thấy hoa đào cợt gió đông)
Với Thôi Hộ, thì "người
không biết đi đâu" tức tác giả nhận định tình trạng dĩ
nhiên như thế một cách khách quan. Và, "hoa
đào như cũ, cười với gió đông" tức tả cái cảnh thấy đó, chớ
thiếu hẳn một ý tình chứa chan sâu sắc.
Trước
sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Ðối với Nguyễn Du, qua những từ "trước,
sau, nào" đã cho ta thấy một hình ảnh của một con người
đương chăm chú, để ý nhìn trước nhìn sau tìm kiếm, cuối cùng hoàn toàn tuyệt
vọng... nào thấy bóng người xưa. Và, những từ "năm ngoái", "còn" khiến
cho người đọc có thể nhận thức được chàng Kim nhìn hoa đào cười mà chỉ thấy hoa
đào năm ngoái là cái hoa đào có Kiều đứng ở bên còn đó, và nụ cười của người
yêu xưa cùng với hoa đào xưa, sao nay chỉ còn có hoa phe phẩy nụ cười với
gió... Trong một thời gian ngắn ngủi xa cách mà hoa vẫn còn đó nhưng người xưa
lại đâu rồi!
Có khác hơn nhà thơ Thôi Hộ, tác giả Truyện Kiều tả cảnh phối hợp tình, nhưng
đi sâu vào tâm tình của đối tượng với tính chủ quan hơn. Tuy cùng mong nhớ một
giai nhân, nhưng mối tình của nhà thơ Thôi Hộ đối với cô gái vườn đào không
giống mối tình giữa chàng Kim và nàng Kiều. Tình cảm mong nhớ một giai nhân
không giống được tình cảm mong nhớ một tình nhân. Mối tình đầu giữa chàng Kim
và nàng Kiều đã gắn bó, đương gắn bó.... mà điều này Thôi Hộ chưa có- nên đã
tạo được một tình cảm sâu sắc biến động trong tâm tư trước cảnh vật, tất nhiên
chất liệu của thơ đã được phát huy- hay tiếng lòng của đương sự đã được rung
động với một nhịp độ dồn dập lên cao. Tác giả cực tả cái trạng thái tình cảm và
tâm lý chủ quan này.
Bài thơ của Thôi Hộ cũng như của bao nhiêu bài thơ trữ tình khác. Nhưng sở dĩ
còn được người đời nhắc nhở, truyền tụng phải chăng một phần lớn quyết định là
do bút pháp điêu luyện, sáng tạo của tác giả Truyện Kiều tạo nên. Cũng như
không có tác phẩm Ðoạn
trường tân thanh hay Truyện Kiều của
Nguyễn Du thì quyển Kim
Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ở Trung Hoa,
hẳn không ai tìm biết làm gì?
Mượn của người xưa mà không làm nô lệ của người xưa, trái lại làm sáng danh cho
người xưa mới thực là tuyệt diệu.
Tuy nhiên, ở đoạn miêu tả này có điểm đem lại nhiều thắc mắc. Tác giả Truyện
Kiều đã xác định:
Từ
ngày muôn dặm phù tang
Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà
Vội sang vường Thuý dò la
Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa
(câu 2741 đến 2744)
Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà
Vội sang vường Thuý dò la
Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa
(câu 2741 đến 2744)
Như vậy, chỉ thời gian trong vòng nửa năm mà gia đình của Vương ông (đã vắng Kiều)
lại tàn lụi đến thế sao? Phải chăng đây là một kẽ hở còn có thể phê bình được.
"Ðiển tích Truyện Kiều" chỉ
chú trọng về điển tích và chỉ phát triển hay giải thích ý nghĩa sự việc có liên
hệ đến phần điển tích, chớ không phê phán đi sâu vào những sự kiện do tác giả
Truyện Kiều sắp xếp trong truyện. Những điểm trên được trích lại, xin làm tư
liệu cho phần tham khảo được phong phú, ngoài phạm vi của quyển biên khảo này.
Hay nhà thơ giàu cảm nhìn cảnh vật bằng tâm hồn, và đây mới là cái thực chất đặc
biệt của nhà thơ?.
Hạc lội mây ngàn chứ không phải hạc nội mây ngàn
Trả lờiXóa