Bà - năm - Bình - Định không phải bà là người con thứ năm,
quê ở Bình Định, mà bà tên là Nguyễn Thị Nồng, con thứ tư trong một gia đình
trung nông ở xã Hòa Xuân, tỉnh Phú Yên. Cha bà lúc sinh thời là người dạy võ
cho thanh thiếu niên trong làng nên bà cũng biết được đôi chút. Bà là cô gái
xinh đẹp, hiền lành, nết na được nhiều chàng trai trong làng yêu mến; trong số
đó có ông Năm Trúng là cháu nội ông Hương Hai có tiếng giàu có, danh giá lại hiền
lành, đẹp trai, cha mẹ bà rất ưng ý. Bà Nồng vâng lời cha mẹ về làm vợ ông Năm
Trúng khi gia đình ông sang xin cưới bà cho ông. Cuộc sống vợ chồng của ông bà
thật hạnh phúc. Một thời gian, ông chuyển vào Sài Gòn làm việc; ông là thông dịch
viên cho khách sạn Q T. Bà Nồng theo chồng vào Sài Gòn khi đứa con gái đầu lòng
của ông bà ba tuổi, bà chỉ ở nhà chăm con và lo việc nội trợ. Thuở ấy ông Năm
Trúng rất giỏi giang, vừa làm việc ở khách sạn tối về còn chạy thồ cho khách
Tây. Bà Nồng chuẩn bị có đứa con thứ hai nên ông thuê người giúp việc cho bà đỡ
vất vả. Hằng ngày con Hương – người giúp việc của ông bà, mang đôi thùng ra chỗ
vòi nước công cộng lấy nước gánh về để dùng sinh hoạt trong gia đình. Con Hương
mang đôi thùng đi từ sáng đến gần trưa chưa thấy về, bà Nồng gởi con gái cho
người hàng xóm ra tìm Hương. Bà thấy Hương xách thùng hứng vô vòi nước thì bị bọn
con gái chuyên lấy nước gánh bỏ cho những gia đình giàu có để lấy tiền, xách
thùng liệng ra ngoài rồi lấy thùng của nó hứng vào. Bà bước lại hỏi:
- Hồi sáng giờ em làm sao mà không
gánh được nước về thế hả em?
Hương mếu máo:
- Em hứng thùng vô, tụi nó xách liệng
ra rồi hứng của nó vào. Tụi nó đông, nó lấy mãi em có hứng được đâu mà gánh về
chị ơi.
Bà Nồng đã nhìn thấy nãy giờ rồi, chỉ
hỏi vậy thôi. Bà bước lại xách cái thùng của tụi nhỏ chuyên gánh nước mướn liệng
ra ngoài, rồi bỏ thùng mình vào. Con nhỏ đang đứng hứng nước la lên và xô thùng
của bà:
- Bà chỉ được lấy khi nào chúng tôi
nghỉ, còn bây giờ bà không được hứng nước ở đây.
Bà Nồng hất cái thùng đang hứng nước
ra ngoài rồi đẩy thùng mình vào, hét toáng lên:
- Tụi mày là chủ công - tơ nước ở đây
hả? Tao lấy một đôi rồi tụi mày lấy tiếp.
Hai bên giằng co hồi lâu, bà Nồng giận
đỏ mặt; lấy đòn gánh quất qua trái, rồi sang qua phải. Tụi nhỏ gánh nước mướn tập
trung về đủ cả, gồm khoàng bảy, tám đứa la hét om sòm vây đánh bà Nồng. Bà Nồng
dựa lưng vô hàng rào, lấy đòn gánh quất ngang làm tụi nhỏ ngã hết xuống đất. Bà
Nồng la lớn:
- Đứa nào còn muốn đấu với bà không?
Cứ vô đây, tao tiếp hết. Lũ chúng mày không biết điều, tao chỉ lấy một đôi nước
về sinh hoạt mà tụi mày hiếp đáp không cho. Tao cho tụi mày biết, hôm nay tao
ngồi đây đố đứa nào lấy được nước.
Tụi nhỏ gánh nước mướn bỏ chạy hết,
bà Nồng đập méo mấy đôi thùng tụi nhỏ bỏ lại rồi ngồi chờ tụi nhỏ đó quay lại.
Con Hương lấy đầy đôi nước gánh chạy về nhà nấu cơm xong rồi mà bà cũng chưa về.
Bà Nồng ngồi chờ tụi nhỏ quay trở lại để cho tụi nhỏ một bài học cho chừa thói
hiếp đáp người cô thế. Tụi nhỏ gánh nước mướn không ai dám trở lại chỗ vòi nước
công cộng. Trưa ông năm Trúng đi làm về không thấy bà Nồng đâu liền hỏi Hương:
- Chị mày đâu sao không thấy?
- Chĩ ngồi ngoài Công tơ nước chớ
đâu. Một bãi chiến trường ở ngoãi đó.
Ông năm Trúng ngạc nhiên:
- Mày nói gì anh không hiểu?
Hương thuật lại đầu đuôi câu chuyện,
ông năm Trúng lật đật chạy ra ngoài công tơ nước. Ông thấy vợ mình đang ngồi cầm
cái đòn gánh giữa trưa nắng chang chang, ông bước lại vừa cười vừa nói:
- Bà ơi về đi, tụi nhỏ nó chạy hết rồi.
Bà đã cho tụi nó bài học, sợ rồi. Bỏ qua cho tụi nhỏ và về đi, con đang khóc ở
nhà kìa.
- Ông về đi, tui phải gặp được lũ nhỏ
đó đã, phải nghe tụi nó nói một tiếng đã. Tức quá!
Ông năm Trúng cười:
- Tụi nó sợ bỏ chạy hết rồi. Thôi mà,
bà về đi. Tụi nó không dám nữa đâu.
Ông năm Trúng năn nỉ mãi bà Nồng mới
chịu về. Hôm sau, mỗi khi Hương hoặc bà Nồng mang thùng đến là tụi nhỏ cười
chào vui vẻ lấy thùng hứng nước cho bà, rồi mới lấy nước cho mình. Tụi nhỏ gánh
nước xầm xì nhau “Cái bà này thiệt giỏi, bà có võ, mà là võ Bình Định nữa đấy”.
Có câu ca dao “Ai về BìnhĐịnh mà coi, con gái Bình Định cầm roi đi quyền”. Thế
là ai cũng gọi bà là “bà năm Bình Định” kể từ đó.
Sau năm 1975, ông năm Trúng bị đưa học
tập cải tạo ở Đồng Nai; bà Nồng dắt con về quê. Lúc bấy giờ ông bà đã có ba đứa
con, chúng còn nhỏ dại. Bà Nồng về quê làm ruộng và chờ chồng học tập cải tạo
trở về. Bà Nồng vất vả ngoài đồng và buôn bán thêm mới đủ tiền sách vở cho con.
Nhà bà Nồng ở gần ga xe lửa, nên bà bắt chướt người ta mua gạo những người từ
các xã trên mang xuống, rồi bán cho dân buôn từ Nha Trang ra. Ngày ấy, mua bán
rất khó khăn; phải giấu đút sợ quản lý thị trường bắt lấy. Bà Nồng chỉ buôn bán
những khi rổi việc đồng áng chứ không chuyện mua bán như những hộ dân chung
quanh ga xe lửa. Một hôm, ông Cường đang kéo một bao phế liệu trên cộ cải tiến
bị quản lý thị trường rượt bắt; ông Cường bí quá kéo chạy ào vào nhà bà Nồng.
Quản lý thị trường kéo theo vào nhà bà Nồng, họ la lớn:
- Ai là chủ nhà, ra đây cho chúng tôi
gặp.
Bà Nồng đang cho heo ăn phía sau,
nghe tiếng la liền chạy tới; thấy quản lý thị trường đầy nhà không hiểu chuyện
gì, bà hỏi:
- Tui là chủ nhà này, các anh hỏi có
việc gì?
Trân - tên anh trưởng nhóm quản lý
thị trường, nhìn bà Nồng, nói gay gắt:
- Chúng tôi là đội quản lý thị trường,
bà là người chứa chấp đồ quốc cấm. Chúng tôi lập biên bản mời bà ký tên vào và
lên ủy ban để giải quyết.
Bà Nồng vừa ngạc nhiên vừa lo sợ
nhưng cũng mạnh dạn hỏi lại:
- Bà còn chối nữa hả? Mới thấy có người
kéo bao hàng phế liệu vào đây, giờ đâu rồi?
Bà Nồng nghe họ nói liền mời:
- Mấy anh cứ tự nhiên vào tìm kiếm,
các anh bắt, họ sợ quá kéo chạy ào vào nhà, chứ tui không chứa chấp gì cả. Các
anh cứ việc bắt và lấy, tui không có trách nhiệm gì.
Các anh quản lý thị trường vào nhà
bà lục lọi, họ tìm thấy bao hàng giấu ở nhà sau liền kéo ra. Anh Trân nói giọng
hăng sằng:
- Chứng cớ đã đầy đủ, chúng tôi lập
biên bản yêu cầu bà ký tên vào và theo chúng tôi về ủy ban để xử lý.
Bà Nồng đáp lại, giọng cứng cỏi:
- Trời ơi! Các anh rượt bắt, họ sợ
quá kéo chạy ào vô nhà tui; các anh muốn làm gì là tùy các anh, sao lại quy
trách nhiệm tui chứa họ. Con tui còn nhỏ, tui không đi đâu và không ký vào giấy
tờ nào hết.
Anh Trân lớn tiếng:
- Tôi nói cho bà biết, không có chúng
tôi sẽ làm cho có, bà đừng có miệng mồm. Giờ tôi hỏi bà, bà có chịu ký không?
- Không! Dứt khoát không - bà Nồng khẳng
khái.
Anh Trân vung tay hét, giận dữ:
- Giờ bà không đi thì sáng mai tám giờ
sáng phải có mặt ở ủy ban để giải quyết.
- Tui nói rồi, tui không đi đâu cả và
không ký bất cứ giấy tờ gì; tui không có chứa chấp, tại các anh bắt họ, họ sợ
mang chạy ào vào nhà tui giấu, thế thôi.
Trong lúc cãi qua, cãi lại, trẻ em
trong xóm bu lại xem rất đông; chúng mở bao hàng ra và mang hàng chạy giấu khắp
nơi. Các anh quản lý thị trường giằn xé một hồi bao hàng xẹp lép chỉ còn cái
bao không, hàng hóa không còn nữa. Bà Nồng nói xong đi xuống dưới chuồng heo; mấy
anh quản lý thị trường đi vòng theo ra nhà sau tìm kiếm hàng hóa, vô tình mang
đổ thùng bột bà Nồng xay cho con heo nái uống. Bà Nồng la lớn:
- Mấy ông không tin tui cứ cho là tui
chứa hàng quốc cấm; giờ mang đổ thùng nước bột cho heo uống, mấy ông tính sao với
tui đây?
Mấy anh quản lý thị trường xớ rớ không
biết trả lời sao, bà Nồng nói:
- Bữa nay mấy ông phải chạy mua cho
tui thùng bột trả lại, nếu không đừng có mơ bước ra khỏi cửa nhà này.
Anh Trân lúng túng khi nghe bà Nồng
giọng cứng cỏi, thấy mình đuối lý liền giả lơ đi ra, những người còn lại kéo
nhau theo anh ra ngoài. Bà Nồng thấy vậy cũng hả dạ không tính toán nữa. Cuối
cùng bao hàng của ông Cường không bị mất nhờ lũ trẻ trong xóm “giải cứu”.
Năm 1980 Ông năm Trúng được lệnh tha
và trở về quê sống cùng gia đình. Không biết những năm học tập cải tạo ông đã sống
như thế nào mà khi trở về ông thay đổi hẳn tính tình. Ông ít nỏi, không quan
tâm đến vợ, con như xưa; ông thường cau có, dè sẻn, hẹp hòi - không muốn
chia sẻ cho ai cái g.
Bà Nồng đau khổ lắm nhưng thương chồng, và muốn gia đình yên vui; nên ông nói gì, làm gì bà Nồng đều nhịn hết, đâm ra thành thói quen. Ngày ngày bà Nồng phải chịu đựng sự khó chịu của ông để êm ấm gia đình, bà lo chu tất từ trong ra ngoài; chuyện nhà cửa, chuyện con cái, đến việc đồng áng; ông chỉ phụ giúp bà chút ít thôi nhưng quyết định mọi việc (dù nhỏ dù lớn) là quyền của ông. Mặc dù ông đổi thay tính nết - đôi khi rất ngang ngược “độc tài” như thế, nhưng trước mặt các con bà không bao giờ xem thường ông mà luôn quý trọng, cho nên các con bà luôn yêu kính cha không ai dám hỗn hào. Các con ông bà lớn lên, học hành thành đạt, có công việc làm ổn định. Hai cô con gái lớn có chồng xa, lâu lâu về thăm ông bà nhưng luôn gởi về cho ông bà tiền, sữa, áo quần v v... Anh con trai có vợ làm việc bên thị xã nên mua nhà sống bên đó, chủ nhật mới về thăm ông bà. Ông năm Trúng đã vậy mà còn tham công tiếc việc, ruộng nhà làm bốn sào rồi mà ông còn đi nhận làm thêm ba sào nữa. đến mùa đong lúa cho người ta; khiến bà Năm quần quật cả ngày, hết ra đồng về nhà là heo, gà, dọn dẹp nhà cửa. Bà thương ông lỡ thầy, lỡ thợ nên thay đổi tính nết; bà nhẫn nhịn, cố chịu đựng, nhưng nhiều khi tức quá, lầm bầm nói lại vài ba câu cho đỡ tức rồi thôi.
Bà Nồng đau khổ lắm nhưng thương chồng, và muốn gia đình yên vui; nên ông nói gì, làm gì bà Nồng đều nhịn hết, đâm ra thành thói quen. Ngày ngày bà Nồng phải chịu đựng sự khó chịu của ông để êm ấm gia đình, bà lo chu tất từ trong ra ngoài; chuyện nhà cửa, chuyện con cái, đến việc đồng áng; ông chỉ phụ giúp bà chút ít thôi nhưng quyết định mọi việc (dù nhỏ dù lớn) là quyền của ông. Mặc dù ông đổi thay tính nết - đôi khi rất ngang ngược “độc tài” như thế, nhưng trước mặt các con bà không bao giờ xem thường ông mà luôn quý trọng, cho nên các con bà luôn yêu kính cha không ai dám hỗn hào. Các con ông bà lớn lên, học hành thành đạt, có công việc làm ổn định. Hai cô con gái lớn có chồng xa, lâu lâu về thăm ông bà nhưng luôn gởi về cho ông bà tiền, sữa, áo quần v v... Anh con trai có vợ làm việc bên thị xã nên mua nhà sống bên đó, chủ nhật mới về thăm ông bà. Ông năm Trúng đã vậy mà còn tham công tiếc việc, ruộng nhà làm bốn sào rồi mà ông còn đi nhận làm thêm ba sào nữa. đến mùa đong lúa cho người ta; khiến bà Năm quần quật cả ngày, hết ra đồng về nhà là heo, gà, dọn dẹp nhà cửa. Bà thương ông lỡ thầy, lỡ thợ nên thay đổi tính nết; bà nhẫn nhịn, cố chịu đựng, nhưng nhiều khi tức quá, lầm bầm nói lại vài ba câu cho đỡ tức rồi thôi.
Ông năm Trúng dựng chiếc xe đạp trước
sân, mang cái thúng vừa bón phân dưới ruộng về, ra sau giếng giặt rửa. Ông nhìn
bộ quần áo mặc đi ăn cưới ngày hôm qua của ông còn ngâm trong thau. Ông xót ruột:
- Bà ra giặt giùm bộ đồ cho tui, sáng
giờ tui xuống ruộng về rồi mà chưa giặt. Ngâm hoài hư đồ tui hết.
Bà Năm bưng thau rau heo vừa xắt xong ra bếp,
giọng mệt mỏi:
- Làm như mình ông làm vậy, sáng giờ
bao nhiêu là việc tối mắt tối mũi.
- Bà vừa nói gì? ba cái chuyện vặt đó
làm một thoáng là xong, ngồi mò cả buổi nói còn cãi nữa.
Bà Năm chợt cao giọng:
- Trời ơi! để tui bỏ rau vô nồi cháo
cho heo rồi giặt liền đây.
Ông năm Trúng giặt cái thúng xong úp
trên kệ giếng, rửa tay chân rồi bước vào nhà. Ông lại nằm đu đưa trên võng, thở
dài:
- Đạp xe một chút mà mệt quá! Già rồi
- ông thở “xì” một tiếng như trút bỏ cái mệt - Nhanh lên rồi đi chợ bà
ơi!
- Biết rồi! Tui nhanh lắm rồi đây,
ông đừng giục nữa, mệt quá.
Bà Năm bỏ rau vô nồi cháo cho heo rồi
ra giếng giặt đồ, hai tay bà thoăn thoắt vò bộ áo quần của ông trong thau xà
phòng đầy bọt. Nước mắt bà tự nhiên rưng rưng, từ ngày về quê đến giờ đã hơn bốn
mươi năm rồi, bà chưa ngày nào thơi thả. Cuộc sống bà chỉ biết quanh quẩn trong
nhà, hết heo gà rồi ruộng vườn, rồi con cái. Bà quần quật thế mà lúc nào ông
cũng chê bà chậm chạp, nhăn nhó. Đến mùa làm ruộng bà dậy sớm nấu cơm, nấu nước,
nấu cháo cho heo rồi tất tả ra đồng; trưa về ăn ít hột, cho heo, cho gà ăn rồi
chạy xuống ruộng tiếp không nghỉ chút nào. Mấy sào ruộng làm cỏ, dặm lúa gì
cũng chỉ mình bà; ông có xuống ruộng cũng đứng trên bờ, đôi khi phụ chút ít
thôi, vậy mà cứ đi nhận thêm ruộng về. Đôi bàn tay bà chai sần, khô ráp, nhăn
nheo mà ông không hề thấy!
Bà Năm giặt đồ xong, mang quần áo
phơi rồi vào bếp nhấc nồi cháo heo xuống. Bà xách giỏ lấy nón đi chợ. Bà bước lại
chỗ ông nằm - giơ tay:
- Tiền chợ!
Ông Năm Trúng bước lên nhà trên một
hồi rồi cầm tiền đưa cho bà dặn dò:
- Bà mua cá về nấu canh chua, mua ít
rau luộc, mua ít trái cây về ăn, vậy thôi.
Bà Năm tần ngần cầm tiền từ tay ông,
miệng lẩm nhẩm, tính toán. Bà vừa dợm bước ông nói vói theo:
- Bà thông cảm cho tui! Phải giữ ngày
giữ bữa bà ạ! Thiếu ăn không biết vay mượn ai, khổ lắm. Không phải tui tính
toán gì đâu, bà đừng buồn nhé!
Nói xong ông thở dài thườn thượt
như nhớ về thời kỳ vàng son trước kia. Bà biết vậy nhưng nhiều lúc bà buồn vì
không được muốn mua gì thì mua như người ta, ông dặn gì bà làm theo nấy. Cái
danh bà - năm - Bình - Định từ ngày về quê đã mai một, không còn nghe thấy nữa.
“Bà năm Bình Định” đã chết hơn bốn mươi năm rồi.
Ông Năm Trúng buồn bã:
- Liệu cơm mà gắp mắm, bà ạ!
Bà Năm không nói gì, chỉ thở dài buồn
bã, rồi vội quay ra cửa. Ngày nào cũng vậy, ông đưa tiền bữa, sợ bệnh đau không
tiền thang thuốc. Cái gì thật cần bà mới mua, ngoài ra bà không dám mua món gì
cho bản thân - dù nhỏ nhặt.
Ông năm Trúng diện áo quần tươm tất,
áo bỏ trong quần, chân mang dép da trông lịch lãm lắm. Ông đứng ngắm nghía trước
gương, thoa dầu thơm chải tóc láng bóng. Ông nghiêng qua, nghiêng lại, mỉm cười
hài lòng. Ông lấy cái mền trùm chiếc xe máy đem xuống nhà dưới rồi lấy chiếc áo
rách lau lại chiếc xe cho sạch bụi. Ông dắt xe ra ngoài nói lớn cho bà Năm
nghe:
-Tui đi Thạch Chẩm ăn giỗ, chiều mới
về. Trưa bà khỏi nấu cơm phần tui đó nhen.
- Tui biết rồi.
Bà Năm không ở không chút nào, hết
mùa với ruộng lúa lại nhận hột đào về nhà bóc vỏ lụa. Bà cố gắng làm việc kiếm
thêm ít tiền chợ để có thức ăn thêm cho các con. Bà luôn nghĩ “Ở không sẽ
sinh bệnh” nên khổ mãi. Bà Năm dùng dao bóc vỏ hột đào, hai tay bà thật nhanh
nhẹn. Bà mải miết làm không biết đến thời gian, làm cho hết mấy ký hột đào kiếm
đâu được vài chục bạc mà cái lưng đau cứng đứng dậy không nổi. Một mình bà ở
nhà khỏi cần nấu cơm, lấy cái bánh tráng nhúng chấm nước mắm lót dạ là yên rồi.
Bà dọn dẹp chỗ vỏ hột đào cho sạch sẽ, thu xếp gọn gàng, lại võng nằm nghỉ
lưng. Vợ chồng thằng con trai về thăm, mua cho mẹ hộp sữa. Trâm - con dâu bà
Năm, lấy bì bóng bọc cái ti vi xuống, phủi bụi rồi mở xem. Bà Năm dặn con dâu:
- Con xem xong tủ lại y cũ chớ ba về
thấy mắc dấu là sẽ la đó nhen.
Trâm cười, lắc đầu:
- Ti vi mua cả chục năm rồi mà còn mới
kẻng hà; mẹ đừng lo, có gì cứ bảo con mở đó.
- Có cho mở đâu biểu sao không mới kẻng,
bộ mày ba không la được à? Coi chừng ổng rượt chạy không kịp đấy con.
Tấn - con trai bà Năm cười với mẹ:
- Ba rượt thì tụi con chạy về luôn. Kệ
ổng đi, muốn xem thì để ổng đi đâu mình mở, ai biểu mở có ổng chi cho ổng la.
Chỉ có tội hà tiện, khổ quá. Con thấy tội ba quá đi.
Ba mẹ con xem phim cười giỡn vui vẻ.
Nghe tiếng xe máy ngoài ngõ, Tấn lật
đật chạy lại tắt ti vi, lấy bì bóng bọc ti vi lại như cũ. Ông năm Trúng bước
vào nhà, Tấn cười chào ông:
- Ba đi ăn giỗ nhà bác Ba Hân trong
Thạch Chẩm hả? Đông vui không ba?
- Đông chớ sao không mày, hai đứa về
khi nào đó?
Trâm cười chào ông, trả lời:
- Dạ về nãy giờ, tụi con mua về cho
ba mẹ hộp sữa uống cho chắc xương.
- Úi trời ơi! Mua chi cho tốn kém, cứ
lao động cho chắc khỏe không cần sữa chi. Phung phí! - ông quay qua hỏi Tân,
Nãy tao nghe đứa nào mở ti vi phải không?
Tân lè lưỡi:
- Đâu có, ba nghe nhầm của nhà ai đó,
mở đâu mà mở.
- Thiệt không? Chỉ tốn điện - ông lại
chỗ ti vi sờ lên - Còn nóng đây này.
Trâm cười giả lả:
- Thôi mà ba, là con đó. Mở xem
chương trình văn nghệ chủ nhật một lát thôi mà. Ba đừng giận nhé!
- Nói thì nói vậy thôi, chứ tụi con
lâu lâu về mở chút không sao. Ăn bánh ít không? Đây này, mấy mẹ con ăn đi. Tao
ăn giỗ bác ba Hân gởi về đó. - nói xong ông lấy bọc bánh ít treo trên xe đưa
cho Trâm.
Trâm lấy đĩa sắp ra, mang lại mời mẹ:
- Ăn đi mẹ, bánh ít lá gai chắc ngon.
Ba mẹ con nhìn nhau cười. Bà Năm vui
lắm, có con trai và con dâu về thăm bà được nói cười thoải mái, cả ngày có ai
đâu mà cười mà nói. Tân nhìn mẹ xót xa, nó thấy mẹ cười hạnh phúc, lòng vui lắm.
Tân khen thầm mẹ mình giỏi chịu đựng, nhẫn nhịn; lam lũ cả đời, vì chồng, vì
con. Tân nhìn mẹ chăm chăm, nó thấy mẹ nó đẹp quá; chắc hồi xưa mẹ nó là hoa
khôi của làng mình. Tân thương mẹ lắm, mẹ mà sung sướng, hạnh phúc thì cả làng
này đố ai sánh bằng mẹ. Tân nhớ hôm đi uống cà phê với mấy đứa bạn, nó ngồi bàn
bên ngoài nghe mấy cô chú bàn bên trong bàn tán. Một cô nói:
- Đêm hôm tui xem tuồng cải lương thiệt
hay, có nhân vật hà tiện; ăn không dám ăn, mặc không dám mặc; rớt xuống sông nhờ
người ta cứu còn trả giá ha ha ha.
Một cô khác nói:
- Chuyện đó thiếu gì người. Có ông ở
xóm tui, mua cái quạt máy mấy năm chưa mở ra xài, còn mới kẻng; không biết ổng
mua để làm gì? Đồ đạt trong nhà ổng không thiếu cái gì, ai có gì ổng có nấy mà
không xài, thiệt tội.
Một chú hưởng ứng:
- Mua cho có để người ta nói mình
cũng có như ai, xài thì tiếc. Nhưng sao chuyện bà nói giống ông năm Trúng xóm
trên dữ vậy?
Cả mấy cô chú cùng cười:
- Nói mà nói ông Năm Trúng, ai mà
không biết; ổng nổi tiếng cả làng lâu nay mà. Nói thì nói vậy, kể ra cũng tội ổng,
hồi trước ổng chịu chơi lắm; sau này khổ quá thay đổi tính khí lúc nào không biết.
Tân nghe họ nói lòng xốn xang, cảm
thấy mắc cỡ. Ba Tân chắt chiu cả đời nhưng cũng giàu có gì cho cam. Ông chỉ làm
ruộng đủ ăn, đủ mặc là giỏi, làm gì dư giả; có thể ông sợ cái đói, cái nghèo,
nên hà tiện để dành cho ngày sau. Thấy người ta sắm sửa đủ thứ, sợ người ta chê
mình dở không có gì nên cố gắng nhịn ăn sắm sửa cho có với người ta. Mua thì được,
xài thì phải tốn tiền điện, sợ hư hỏng phải sửa, nên cứ thế mà cất kỹ. Tân nghe
người ta cười mà thương ba mẹ vô cùng, nhưng biết làm sao được; ở sao cho vừa
lòng người, ở rộng người cười ở hẹp người chê mà.
Bà Năm vừa ăn bánh ít vừa ngắm Tân - đứa con trai duy nhất của bà. Bà yêu thương hết mực. Nhìn Tân, bà nhớ lại lần
con trai nóng sốt mấy ngày không có một viên thuốc, nếu có tiền thì thuốc tốt
cũng tìm không ra; may mà nó còn sống sót giờ ngồi trước mặt bà đây. Cả đêm bà
nhúng khăn ướt đắp lên trán con, và lau mình cho mát để hạ nhiệt thôi. Ông Năm
Trúng tỉnh bơ:
- Trẻ con nóng sốt là chuyện thường,
bệnh đau gì mà thuốc với thang.
Bà Năm lo lắng cả đêm không chợp mắt,
con trai bà nằm thiêm thiếp sốt mê man. Chú Tư nhà bên cạnh thấy vậy biểu bà
cho cháu nhập viện để lâu nguy hiểm, ông Năm Trúng có phần lo lắng, nhưng nghĩ
không sao, liền nói:
- Không sao đâu, trẻ con sốt vài hôm
là hết; nó “tước” đó mà.
Bà Năm không quyết định được, cái gì
ông không đồng ý là bà không dám làm. Hai hôm sau, con trai bà mắt trợn trắng
thở hổn hển. Bà Năm khóc thét lên rồi ôm con chạy ra nhà cô Thẩm - y tá trong
làng. Cô Thẩm lật đật nhỏ vào miệng con trai bà Năm mấy giọt thuốc rồi đưa ống
cặp nhiệt vào nách thằng bé. Cô Thẩm hốt hoảng:
- Trời ơi! Ba mươi chín độ hơn. Sao
bà không cho nó nhập viện, nguy hiểm quá rồi.
- Cô ơi! Mấy ngày rồi, ai cũng biểu
đi viện nhưng ổng cứ nói không sao, thành ra như thế này. Cô giúp tui cứu cháu
với!
Cô Thẩm nhìn bà Năm, lòng rất thương
cảm,. Cô Thẩm khám và chữa bệnh cho Tân hơn mười ngày mới khỏi bệnh. Từ đó ông
năm Trúng như thức tỉnh, mỗi lần trong nhà có ai nóng sốt là ông lật đật chở ra
nhà cô Thẩm khám và chích thuốc liền.
Ông Năm Trúng đang sửa xe đạp ở nhà
dưới, Thúy - con của chị Hai bà Nồng, chạy từ ngoài sân vào thở hổn hển:
- Con chào dượng Tư, Dì Tư đâu rồi?
Con lên báo cho dì dượng biết Dì Ba chết hồi hôm, năm giờ chiều nay liệm, tám
giờ sáng mai chôn. Dì dượng xuống đi với má con, trưa nay tàu vô khoảng một giờ
đó.
- Vậy hả? Để tao hỏi thử Dì Tư mày có
đi không, chứ tao không đi được; tao còn phải sửa cho xong chiếc xe đạp của ông
Hai xóm trước, hẹn ổng rồi không xong ổng la.
- Dì Tư có đi thì xuống trước giờ tàu
vô đừng để trễ đó nhen dượng.
- Ừ! Tao biết rồi.
Thúy ra sân đi về, ông lầm bầm:
- Bao nhiêu là việc còn chết với chóc
nữa.
Một lát bà Năm đi chợ về, ông nói với
bà:
- Chị Ba trong Vạn Giã chết hồi hôm,
năm giờ chiều nay liệm, tám giờ sáng mai chôn. Con Thúy mới lên báo tin, bà có
đi thì xuống đi với má nó, tàu một giờ vô.
Bà Năm hốt hoảng:
- Trời ơi! Chị Ba bệnh gì mà chết vậy
ông? Sao tui không nghe bệnh đau gì hết trơn mà giờ chết. Thương chĩ quá! Bà
Năm tức tưởi khóc rồi quay lai - hỏi: Ông có đi không?
- Rảnh đâu mà đi, tui còn phải sửa
cho xong chiếc xe của ông Hai, hứa với ổng rồi. Bà có đi thì xuống đi với chị
Hai.
Bà Năm khóc to hơn:
- Trời ơi! Nghĩa tử nghĩa tận, ông nỡ
nào mà không đi; chị em trong nhà chớ có phải người ngoài đâu.
Ông Năm Trúng nói khe khẽ:
- Bà đi một mình cũng được mà, còn
nhà cửa ai trông?
Bà Năm vừa khóc vừa kể:
- Chị Ba thương tui nhất, mỗi lần ghé
thăm là dúi tiền cho em út. Làm gì cũng gạt hết, đi vài hôm rồi về. Nhà cửa
không ai khiêng đâu mà ông lo.
- Thôi bà cứ xuống đi với chị Hai vô
trước đi, mai tui vô sau cũng được.
Bà Năm năn nỉ:
- Ông à! Mình sống tuổi này rồi, ông
nghe tui đừng tham công tiếc việc nữa. Ông đi cùng tui, có vợ có chồng; mấy
mươi năm rồi, gần hết đời người rồi; mình cũng có con cái có công việc
làm đàng hoàng, không đói đâu mà lo. Ông nghe tui nhé! Hai vợ chồng cùng đi
nhé!
Ông Năm Trúng nhìn vợ, ánh mắt bà
thân thiết quá, đã làm mềm lòng ông. Ông như vừa bước ra một thế giới khác, như
bừng tỉnh cơn mê ngủ từ lâu. Ông thấy vợ mình xinh đẹp, dịu dàng như ngày nào;
lòng ông xúc động nghẹn ngào. Bấy lâu nay ông đã sống trong nỗi lo sợ đói
nghèo, không có cái ăn khổ biết ngần nào; vì ông đã từng thiếu ăn, đói khổ
trong những ngày lao động ở trong trại cải tạo. Nước mắt ông rưng rưng nhìn bà,
ông thều thào:
- Bà ơi! Tha lỗi cho tui nhé! Tui sẽ
đi cùng bà.
Bà Năm vui mừng kéo tay ông:
- Ông đi tắm rửa rồi thay đồ, chúng
ta cùng đi, nhanh lên kẻo trễ tàu.
Ông Năm Trúng lật đật dọn dẹp lại mọi
vật dụng đang bày ra sân, rồi đi ra sau giếng, bà Năm nhìn đồng hồ, bà giật
mình gần mười hai giờ rồi. Bà lật đật đi sửa soạn thu xếp áo quần. Hai ông bà vội
mang xách lên vai, nắm tay nhau chạy ra ngõ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét