Tham luận Hội thảo Quốc tế: "Đại thi hào dân tộc,
Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du: Di sản và các giá trị xuyên thời đại" do
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 8/8/2015:
TRUYỆN
KIỀU: TỪ VĂN HỌC TỚI ĐIỆN ẢNH - MỘT PHƯƠNG THỨC DIỄN DỊCH NGHỆ THUẬT ĐẦY THỬ
THÁCH
1.Đối với một tác phẩm kinh điển lớn của văn học dân tộc
như Truyện Kiều, các phương thức diễn dịch nghệ thuật tất yếu sẽ phải nảy
sinh (Âm nhạc, Hội họa, Điêu khắc, Sân khấu, Điện ảnh, v.v). Đó cũng là điều đã
xảy ra đối với nhiều tác phẩm văn học lớn của thế giới (Các vở kịch của
Shakespeare, các tiểu thuyết của Stendhal, Dostoievski, Liev Tolstoi, v.v...).
Riêng việc "diễn dịch" bằng điện ảnh là gây nhiều tranh cãi và thu
hút sự quan tâm lớn nhất, bởi quy mô thực hiện và sức ảnh hưởng sâu rộng trực
tiếp đến xã hội, như nhà điện ảnh học nổi tiếng người Pháp G. Sadoul đã khẳng định:
"Điện ảnh là quan trọng nhất trong các nghệ thuật, đồng thời cũng là phổ cập
nhất."1 Điện ảnh ngay từ thời thơ ấu đã mau chóng tìm đến văn học và
kịch mục sân khấu, các nhà sản xuất phim đã đặt hàng các nhà văn lớn nhất của
Pháp viết kịch bản phim hoặc mua bản quyền tác phẩm của họ. Điện ảnh kể từ khi
xuất hiện phim nói tới nay đã để lại biết bao kinh nghiệm xương máu trong việc
chuyển thể tác phẩm văn học; và một Giải thưởng danh giá đối với những người
làm phim nhiều quốc gia như của Viện Hàn lâm Khoa học Điện ảnh Hoa Kỳ đã dành
riêng một giải Oscar cho phim chuyển thể từ tác phẩm văn học gốc! (Ví dụ gần nhất:
các phim The Social network - 2011, The Descendants - 2012, Argo - 2013, 12
Years a slave - 2014, The Imitation game - 2015).
Trở lại Truyện Kiều, ta
thấy, những trăn trở về ý nghĩa đời người, các nhân vật, các tình huống số phận,
các chi tiết đời sống, với thiên tài của Nguyễn Du đã hiện lên thực sinh động,
rõ nét. Nhưng đặc trưng của thể loại truyện thơ Nôm, cùng thủ pháp ước lệ của mỹ
học phương Đông cổ, đã là những thử thách không nhỏ và đồng thời cũng là khoảng
trống lý tưởng cho các thế hệ đời sau sáng tạo, bù đắp, thông qua những sự
"diễn dịch"nghệ thuật quanh Truyện Kiều.
Xin điểm qua các sự "diễn dịch"
này - cả nghệ thuật bác học lẫn nghệ thuật dân gian. Chúng rất có ý nghĩa đối với
điện ảnh với tư cách là một công nghệ & nghệ thuật tổng hợp.
Trong âm nhạc, từ lâu nay, hát ả đào
đã mượn những câu thơ Kiều để diễn tả nhân tình thế thái. Thời hiện đại, Phạm
Duy đã dành nhiều sức lực làm Kiều Ca, minh họa Truyện Kiều bằng âm
nhạc. (Nhà sử học Dương Trung Quốc đã tổ chức một diễn đàn cho trí thức Hà Nội
nghe Phạm Duy nói, hát Kiều Ca). Nhạc sĩ Vũ Ân Khoa cũng viết về Kiều
Ca. Cách đây không lâu, nhạc sĩ Vũ Đình Ân ở Tp. HCM đã xây dựng bản giao hưởng
hợp xướng lớn về Truyện Kiều... Chị Nguyễn Hồng Oanh, người Hà Tĩnh, hội
viên Hội Kiều học Việt Nam tại Tp. HCM có thể ngâm một câu Kiều ở hàng chục kiểu
khác nhau: hát dặm, hát quan họ, hát chèo, hát cải lương, hát trống quân... Nhạc
sĩ An Thuyên đang gấp rút dàn dựng vở nhạc kịch 4 hồi dựa theo Truyện Kiều để
kịp trình diễn vào Lễ Kỷ niệm 250 năm ngày sinh Nguyễn Du, chẳng may ông qua đời,
công trình dang dở sẽ do con cháu và học trò ông tiếp tục hoàn thiện...
Truyện Kiều xuất hiện với
mức độ đậm đặc trong hội họa, điêu khắc (Tranh tượng nghệ thuật, tranh tượng mỹ
nghệ, truyện tranh, tranh dân gian...) - đáng kể nhất là trong tranh của những
danh họa hàng đầu Việt Nam như Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi
Xuân Phái, Lê Phổ, Mai Văn Hiến, Nguyễn Đỗ Cung, v.v, cũng như trong
tranh dân gian Hàng Trống, Đông Hồ... Cô giáo Vũ Như Quân dạy văn ở Đông Mỹ -
Đông Hưng - Thái Bình đã vẽ hàng trăm bức tranh minh họa Truyện Kiều cho
các bài giảng của mình.
Truyện Kiều được tồn tại
nhiều trên sân khấu, như "Trò Kiều" (dân gian), "Kim Vân Kiều",
"Kiều-Hoạn Thư", "Thúy Kiều" (cải lương), "Tú Bà đánh
Kiều" (chèo), "Kiệu Hoa" (kịch thơ), "Ngàn Thu Vọng
Mãi" (dân ca bài chòi khu 5), v.v. Đoàn kịch thể nghiệm của nghệ sĩ Lan Hương
(Nhà hát Tuổi trẻ) đã dựng tiết mục dựa theo Truyện Kiều, từng đem diễn
nhiều nơi. Gần đây nhất, Hội Kiều học Việt Nam đang tiến hành dàn dựng một vở kịch
mang tên "Hoạn Thư ghen"... Không ít nghệ sĩ quen thuộc
trong lòng công chúng thường đóng vai Kiều trên sân khấu: Kim Xuân, Bạch Tuyết,
Lệ Thi, Như Quỳnh...
2. Trở lại việc chuyển thể điện ảnh tác phẩm văn học Truyện
Kiều. Truyện Kiều có nhiều chất điện ảnh không? Và cần phải nói tới một
điều dường như khá hóc búa trong việc chuyển thể, khiến nhiều người lo lắng hộ
người làm phim: cái hay nhất của Truyện Kiều chính là những câu thơ,
gửi gắm trong một cốt truyện đi mượn được xử dụng một cách đầy sáng tạo phù hợp
với thể loại truyện thơ Nôm dân tộc. Nhưng để "hiện thực hóa" Truyện
Kiều bằng phim ảnh thì phải miêu tả cụ thể các tình tiết & chi tiết đời
sống, mà nếu không cẩn thận sẽ rơi vào cái bẫy minh họa cho cốt truyện tiểu
thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân! Nhưng cái bẫy này
thực chất là gì, và làm sao thoát khỏi nó?
Trước hết, người làm phim có một cơ
sở vững chắc xuất phát từ chính nội dung - tư tưởng Truyện Kiều, như nhận
định của một nhà nghiên cứu: "Do cảm quan nhân đạo và hiện thực của Nguyễn
Du khác với Thanh Tâm Tài Nhân nên các nhân vật trong Truyện Kiều đã
được xây dựng trong những quan hệ thẩm mỹ mới như xung đột văn hóa với tha hóa,
giữa kết tinh phẩm chất giống người cùng khát vọng tự do nhân phẩm của nó với
các thế lực xã hội tàn bạo, sức tha hóa của đồng tiền...".2 Sau nữa,
theo không ít nhà nghiên cứu, triết lý Truyện Kiều chủ yếu nằm ở hai
chữ Tài - Sắc và Tài - Tình, và họ đều thống nhất cho rằng, câu chuyện Kiều -
Kim thực ra nằm ở chữ Tình: "Lại mang lấy một chữ tình/ Khư khư mình buộc
lấy mình vào trong". Sự phong phú uyển chuyển của tâm lý nhân vật Kiều - có
gốc gác từ chữ Tình, bị ảnh hưởng sâu nặng bởi chữ Tình, theo cách nói của Trần
Đình Sử là "sự vận động của tấm lòng"3 qua các sự kiện, tình huống
bi kịch trong Truyện Kiều: "Tấm lòng Kiều được thể hiện trong một giới
hạn rộng rãi nhất, từ những ý nghĩ cao cả nhất tới những suy tư trần tục nhất,
chỉ có ý nghĩa riêng đối với tình cảm của nàng"4, chính nó đã quy định, đã
dẫn dắt số phận của nàng- mà điều này lại rất gần gũi với điện ảnh tâm lý hiện
đại. Điều đó chúng ta hầu như không thể tìm thấy ở nhân vật Thúy Kiều của Thanh
Tâm Tài Nhân, một cô gái nhiều lời nhưng ít suy tư (tính toán thì có), đời sống
tâm hồn chủ yếu bộc lộ qua việc giãi bày đạo lý và kể lể những suy tính, quan
sát của mình! Ở Truyện Kiều, hầu hết các nhân vật khác cũng đều có cá tính
rõ rệt, có đời sống nội tâm khá phức tạp, thậm chí "đa nhân cách".
Cũng Trần Đình Sử, trong một chuyên luận ứng dụng thi pháp học còn nhấn mạnh:
"Mức độ cá thể hóa, cá tính hóa cao nhất được thể hiện ở Truyện Kiều...
nhân vật Truyện Kiều đã thoát khỏi nhân vật mang nghĩa lý để biểu hiện
con người tâm lý. Tâm lý đây là những tình cảm đối nghịch, lưỡng tính, vừa ứng
xử theo hoàn cảnh, vừa bộc lộ con người không đồng nhất với nó, không đồng nhất
với chính mình..., là dục vọng, ham muốn, cảm giác".5 Và đó
cũng chính là một đặc trưng tiêu biểu của nhân vật điện ảnh thế kỷ XX, XXI!
Theo nhà ký hiệu học lớn người Nga
Iu. Lotman, "cấu trúc đa giọng điệu phức tạp của những cái nhìn",
"sự thay thế các điểm nhìn... thủ pháp tổ chức những cái nhìn mà bản chất
của nó có thể được minh chứng rõ hơn cả bởi nghệ thuật điện ảnh" sẽ khiến
tác phẩm văn học gần với "cấu trúc điện ảnh rõ rệt... trong đó các phương
tiện ngôn ngữ thể hiện cái nhìn của nhân vật liên kết với những cái nhìn của
tác giả và các nhân vật khác".6 Chúng ta hoàn toàn có thể dùng những
nhận định trên của Lotman khi phân tích văn xuôi giai đoạn sau của Pushkin để
nói về Truyện Kiều, đặc biệt để phân tích nhân vật Kiều! ("Cái
nhìn" ở đây cần hiểu rộng là sự đánh giá, sự bày tỏ thái độ, tình cảm... của
nhân vật này với nhân vật khác, của bản thân nhân vật tự bộc lộ, của chính tác
giả với nhân vật và thậm chí hóa thân vào nhân vật- với tư cách là "tâm lý
hành động", một khái niệm của nghệ thuật trình diễn- khiến nhân vật vừa có
chiều dày nội tâm, vừa có tác dụng tạo ra những tình tiết xung đột có tính
"tạo hình" giúp thúc đẩy một cách tự nhiên, hấp dẫn sự phát triển câu
chuyện phim khi chuyển thể điện ảnh. Có rất nhiều đoạn trong Truyện Kiều có
thể làm sáng tỏ điều này, tiêu biểu là đoạn: sau khi Kiều đã hoàn thành việc
bán mình, than khóc một mình bên ngọn đèn khuya, rồi sau đó nàng trao duyên cho
em). Chính đặc điểm mang yếu tố của "cấu trúc điện ảnh" gắn chặt với
khả năng thể hiện tâm lý độc đáo này - như một phẩm chất nghệ thuật ưu việt khiến Truyện
Kiều khác xa với Kim Vân Kiều truyện của tiểu thuyết truyền thống
Trung Quốc thường tả nhân vật theo lối "bạch miêu" (nghĩa là sự tả thực
rất cụ thể, chi tiết, thậm chí tự nhiên chủ nghĩa, lại hoàn toàn do tác giả
nhìn từ bên ngoài sự kiện và nhân vật).
Từ những điểm nhìn phong phú
(và luôn có sự chuyển dịch điểm nhìn), cộng với những xót xa trăn trở của người
"trải qua một cuộc bể dâu", Nguyễn Du đã phần nào bước qua khỏi quy
phạm mỹ học của văn chương trung đại, đã tránh được sự miêu tả nhân vật theo
khuôn mẫu để dựng lên được nhiều nhân vật góc cạnh, có bề dày tâm lý, mang sức
nặng của hiện thực (hiện thực nông thôn và thành thị Việt Nam thời trung đại).
Nhiều nhà nghiên cứu Truyện Kiều đã dày công viết về điều này! Như Lê
Đình Kỵ, trong một công trình lớn về chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du7 đã
khảo cứu, phân tích khá kỹ lưỡng các nhân vật trong Truyện Kiều. Như Trần
Nho Thìn đã dẫn chứng một tình tiết giàu tâm lý và đậm chất điện ảnh ở Truyện
Kiều: Mã Giám Sinh luôn tính đến lời lãi khi mua được nàng Kiều xinh đẹp, muốn
giữ trinh tiết nàng để bán lấy hòa vốn, song trước sắc đẹp của nàng, hắn không
thể không rung động, và muốn chiếm đoạt, hưởng thụ sắc đẹp ấy! Đó là chỗ khác
biệt so với Kim Vân Kiều truyện: "Mã Giám Sinh quyết định ăn nằm với
Kiều chỉ vì tính toán rất tỉnh táo, sợ bị lộ âm mưu mua Kiều để buôn bán, chứ
không vì cảm hứng trước sắc đẹp của nàng". 8 v.v...
Nhà nghiên cứu Phan Ngọc khi khảo
sát Truyện Kiều theo lý thuyết phong cách học tác giả đã nói về “con
người cô độc”, với “phương pháp phân tích tâm lý táo bạo và tàn nhẫn” (một đặc
điểm quan trọng của tiểu thuyết và điện ảnh hiện đại): “mỗi người như thế vừa
là họ vừa không phải là họ… Cuộc phiêu lưu của hành động chấm dứt để nhường chỗ
cho cái thế giới biến ảo, vô thường của muôn vàn tâm trạng… khi con người cô độc
xuất hiện, lập tức có sự đối lập giữa cái thời gian khách quan của sự diễn biến
các sự vật, với cái thời gian nội tâm chủ quan trong lòng từng người”, và, “Cái
thời gian nội tâm ấy không được đo bằng kim đồng hồ, mà bằng những xúc cảm của
con tim. Nó dài hay ngắn là tuỳ theo những xúc cảm này”.9 Phát hiện trên của
Phan Ngọc khiến ta không thể không liên hệ đến một luận điểm, cũng của Iu.
Lotman khi bàn về thời gian nghệ thuật của bộ phim kinh điển "Khi đàn sếu
bay qua" dưới con mắt ký hiệu học và mỹ học điện ảnh: "Cái khả năng
thích nghi với sự không phù hợp, với sự ép lại hay phình nở thời gian một cách
tùy tiện, vốn là điều kiện xuất hiện của thời gian nghệ thuật và vốn không thể
có được trong kịch thì lại đặc biệt có ý nghĩa trong điện ảnh... Mâu thuẫn giữa
cảm giác hiện thực mà chúng ta cảm thấy trước màn ảnh và việc chúng ta biết
hành động đó không thực, đã đem lại một định hướng mới cho sự căng thẳng nghệ
thuật... Hai cấp độ thời gian của bộ phim, sự pha trộn cái thực tại với cái phi
thực tại gây ra những hiệu quả bổ sung trên mặt ngữ nghĩa"10. Xin lấy một
đoạn Truyện Kiềuđể làm sáng tỏ luận điểm trên: Từ câu 1219: "Những
nghe nói đã thẹn thùng", tới câu 1274: "Sao cho sỉ nhục một lần mới
thôi". Trong "trường đoạn điện ảnh" (séquant) này, sau khi Tú Bà
lựa lời khuyên bảo và dạy cho Kiều "Vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp
hay", Kiều đã bị ném phũ phàng vào những "Cuộc say đầy tháng trận cười
suốt đêm". Bên cạnh những phản ứng tâm lý tuyệt vọng ("thẹn
thùng", "xót mình", "thương mình xót xa", "bướm
chán ong chường", "vui gượng", "mặt dạn mày dày",
"ngẩn ngơ trăm mối"...) khi trôi qua các khoảng thời gian mặc định và
"tùy tiện" ("Khi tỉnh rượu lúc tàn canh", "Giấc hương
quan luống lần mơ canh dài", "Nay hoàng hôn đã lại mai hôn
hoàng"...), Kiều còn thường sống trong "sự pha trộn cái thực tại với
cái phi thực tại" ở "hai cấp độ thời gian": "Khi sao phong
gấm rủ là/ Giờ sao tan tác như hoa giữa đường"... Và giữa khi "Thờ ơ
gió trúc mưa mai" đương dày vò thân xác mình, Kiều đã chìm trong một thế
giới riêng thắm thiết- tuy "phi thực tại" song lại là "tri
âm" thực sự, là lẽ tồn tại của nàng: đó là hình bóng cha mẹ tuổi xế chiều
nơi xa xôi ngàn dặm, là hai em tình sâu ruột thịt, là người yêu dấu đã cùng
nàng nguyện lời thề ước trăm năm; để rồi, như giao cảm với người nào đó đương
"Xót người trong hội đoạn trường đòi cơn", Kiều đã thốt lên đay nghiến
cho số kiếp mình: "Đã đày vào kiếp phong trần/ Sao cho sỉ nhục một lần mới
thôi!"
Trước đó, Kiều đã tưởng tượng ra cảnh chàng Kim trở về nơi cũ thì "Cành xuân đã bẻ cho người trao tay"... Những cảnh huống của hiện tại pha trộn với cảnh trí ở "cấp độ thời gian" khác, trong trạng thái tâm lý đặc biệt của "thời gian nội tâm", rất dễ dẫn đến khả năng "sự ép lại hay phình nở thời gian một cách tùy tiện" mà Lotman nói tới. Và ta hãy hình dung cảnh phim: trong khi Kiều bị dày vò thân xác một cách đau đớn tủi nhục, nàng cứ "Mặc người mưa Sở mây Tần" để nhớ về người yêu trong mộng, thậm chí ở đó còn diễn ra cả hành động là kết quả của sự hối hận muộn mằn: "Biết thân đến bước lạc loài/ Nhị đào thà bẻ cho người tình chung" (câu 791-792). Nếu được thể hiện một cách công phu, đó sẽ là trường đoạn phim gây ấn tượng mạnh cùng bao cảm nghĩ sâu xa về tình yêu trong sạch và thân phận con người lương thiện bị chà đạp! Truyện Kiều còn có biết bao "trường đoạn" như vậy có thể góp phần chứng thực thêm cho luận điểm trên của Lotman. Và như thế, "nhờ máy quay và phim nhựa, bộ phim sẽ cố định thời hiện tại và hành động thực, trở nên câu chuyện kể điện ảnh về cái mà ta không thể thấy, về cái ẩn nấp ở đáy ký ức và lương tâm".11
Trước đó, Kiều đã tưởng tượng ra cảnh chàng Kim trở về nơi cũ thì "Cành xuân đã bẻ cho người trao tay"... Những cảnh huống của hiện tại pha trộn với cảnh trí ở "cấp độ thời gian" khác, trong trạng thái tâm lý đặc biệt của "thời gian nội tâm", rất dễ dẫn đến khả năng "sự ép lại hay phình nở thời gian một cách tùy tiện" mà Lotman nói tới. Và ta hãy hình dung cảnh phim: trong khi Kiều bị dày vò thân xác một cách đau đớn tủi nhục, nàng cứ "Mặc người mưa Sở mây Tần" để nhớ về người yêu trong mộng, thậm chí ở đó còn diễn ra cả hành động là kết quả của sự hối hận muộn mằn: "Biết thân đến bước lạc loài/ Nhị đào thà bẻ cho người tình chung" (câu 791-792). Nếu được thể hiện một cách công phu, đó sẽ là trường đoạn phim gây ấn tượng mạnh cùng bao cảm nghĩ sâu xa về tình yêu trong sạch và thân phận con người lương thiện bị chà đạp! Truyện Kiều còn có biết bao "trường đoạn" như vậy có thể góp phần chứng thực thêm cho luận điểm trên của Lotman. Và như thế, "nhờ máy quay và phim nhựa, bộ phim sẽ cố định thời hiện tại và hành động thực, trở nên câu chuyện kể điện ảnh về cái mà ta không thể thấy, về cái ẩn nấp ở đáy ký ức và lương tâm".11
Chỉ vài điểm sơ lược nêu
trên cũng đủ khiến "cái bẫy cốt truyện" đã nói không còn là một thử
thách đáng kể trong việc chuyển thể điện ảnh. (Dĩ nhiên là với điều kiện phim
không đi theo vết mòn lâu nay là cảnh nuốt mất người, nhân vật biến thành loa
phát ngôn cho tác giả - thực ra là cái bệnh "Không có nhân vật: Vấn nạn của
điện ảnh Việt Nam" mà một nhà phê bình điện ảnh chuyên nghiệp từng cảnh
báo!12). Thử thách lớn nhất, chung quy lại chính là vấn đề "giải
mã" Truyện Kiều khi "điện ảnh hóa" tác phẩm văn học,
và đặc biệt dưới con mắt của người xem hiện đại!
3. Tới đây, mới có thể đi vào chuyện "bếp
núc" của việc chuyển thể. Nếu như Phim KIỀU được thực hiện, việc cần làm đầu
tiên là nhất thiết phải tạo ra môi trường sống chân thực cho nhân vật, xoay
quanh sinh hoạt văn hóa vật chất và tinh thần của người Việt xưa; hay nói cách
khác là hiện thực hóa, điện ảnh hóa cái "không gian nghệ thuật" và
"thời gian nghệ thuật" của Truyện Kiều (những khái niệm của
thi pháp học hiện đại) bằng hình ảnh chuyển động và âm thanh chân thực của đời
sống. Điều này dẫn tới việc đi tìm bối cảnh và thiết kế bối cảnh cho phim để
làm sao tái hiện được cuộc sống người Việt trong quá khứ - dĩ nhiên là quá khứ
thời trung đại, có liên quan đến thời Lê - Trịnh mà Nguyễn Du sống.
Nếu vậy, các sinh hoạt dân dã như chùa quê, hát xẩm, hát ả đào, hoạt động lầu xanh, v.v. cần được thể hiện một cách phù hợp; cùng các đạo cụ của phim được thiết kế để tạo ra đời sống thuần Việt của nhân vật và làm nổi bật bản sắc của tính cách, số phận nhân vật. Các nhân vật nam nữ trong Phim KIỀU sẽ ăn vận theo kiểu nào? Kiều có phải khăn áo thướt tha kiểu đài các phong kiến như trong các vở ca kịch dân tộc, trong phim "Kim Vân Kiều" ra đời năm 1924, hay trong hầu hết các tranh vẽ xưa nay minh họa cho Truyện Kiều? Một dạo, trong đời sống thời trang từng diễn ra cuộc tranh luận chưa ngã ngũ về cách ăn mặc của nhân vật Kiều ra sao khi lên sân khấu, màn ảnh. Các nhà thiết kế đã từng thiết kế trang phục cho Thúy Kiều, Thúy Vân cùng những nhân vật khác của Truyện Kiều trên sân khấu (tiêu biểu là nhà thiết kế Sĩ Hoàng) cũng đang háo hức được thiết kế cho nhân vật Truyện Kiều của màn ảnh lớn, nhỏ...
Nếu vậy, các sinh hoạt dân dã như chùa quê, hát xẩm, hát ả đào, hoạt động lầu xanh, v.v. cần được thể hiện một cách phù hợp; cùng các đạo cụ của phim được thiết kế để tạo ra đời sống thuần Việt của nhân vật và làm nổi bật bản sắc của tính cách, số phận nhân vật. Các nhân vật nam nữ trong Phim KIỀU sẽ ăn vận theo kiểu nào? Kiều có phải khăn áo thướt tha kiểu đài các phong kiến như trong các vở ca kịch dân tộc, trong phim "Kim Vân Kiều" ra đời năm 1924, hay trong hầu hết các tranh vẽ xưa nay minh họa cho Truyện Kiều? Một dạo, trong đời sống thời trang từng diễn ra cuộc tranh luận chưa ngã ngũ về cách ăn mặc của nhân vật Kiều ra sao khi lên sân khấu, màn ảnh. Các nhà thiết kế đã từng thiết kế trang phục cho Thúy Kiều, Thúy Vân cùng những nhân vật khác của Truyện Kiều trên sân khấu (tiêu biểu là nhà thiết kế Sĩ Hoàng) cũng đang háo hức được thiết kế cho nhân vật Truyện Kiều của màn ảnh lớn, nhỏ...
Nhưng, điều quan trọng nhất là việc
tái hiện/ thể hiện các nhân vật bằng hình tượng điện ảnh, thông qua ngôn ngữ điện
ảnh, đồng thời nắm bắt được cái chất thơ đặc biệt của Truyện Kiều trong
từng tâm trạng, từng cảnh ngộ để thổi vào cảnh phim- chứ không phải là sự minh
họa bằng hình ảnh & âm thanh tác phẩm Truyện Kiều! Phim KIỀU bắt buộc
phải bồi đắp da thịt, làm đầy đặn cuộc sống cho các nhân vật mà Nguyễn Du tả bằng
thơ - khi thì sâu sắc tỉ mỷ như một bậc thầy tâm lý của văn học hiện thực
phương Tây, lúc thì bằng biểu tượng, tượng trưng, điển cố đặc thù của văn học
phương Đông- và đôi khi chỉ lướt qua. Bên cạnh việc làm "phổng phao"
những tình tiết và nhân vật lướt qua đó, cần tạo nên một số nhân vật mới để làm
sáng tỏ thêm tính cách cùng những mối quan hệ của các nhân vật sẵn có trong hệ
thống sự kiện của tác phẩm truyện thơ. Dĩ nhiên, mọi sáng tạo đều phải tôn trọng
tư tưởng nhân văn của Nguyễn Du, và tập trung khắc họa nhân vật Kiều với vẻ đẹp
thuần Việt, với tính cách dám yêu, dám sống, dám hy sinh cho tình yêu.
Tuy nhiên, để làm thấu đáo được
điều này, Phim KIỀU cần trả lời được các câu hỏi và giải quyết thỏa đáng những
vấn đề về các mối quan hệ nhân vật chủ chốt:
Trong "bộ ba" này, Kim Trọng
là nhân vật có nhiều nét ước lệ hơn cả, lại bị "bỏ rơi" rất dài mà
người xem phim không thể chờ đợi lâu đến thế, buộc người làm phim phải dày công
bồi đắp! Thúy Vân của Nguyễn Du trong cảm nhận của nhiều người hôm nay có những
điểm khác lạ, thú vị. (Như trong thơ Trương Nam Hương, v.v.). Và những người
làm phim cần đặc biệt chú ý đến cách nhận định, đánh giá "Nàng Kiều qua
con mắt một người phương Tây" (Hữu Ngọc): "Chính cái yếu đuối của Kiều,
cái nhập nhằng đức hạnh - tình cảm khiến cho nhân vật Kiều thật hơn, hiện đại
hơn, có bề sâu tâm lý hơn các nhân vật thiện - ác, trung - nịnh rõ ràng trong
văn học dân gian."13 Nhà văn hóa Hữu Ngọc đã vô tình đưa ra một
"tiêu chí nghệ thuật" (tạm gọi như vậy) cho điện ảnh (và không chỉ điện
ảnh) trong việc khai thác nhân vật nàng Kiều cùng các nhân vật khác của Truyện
Kiều cho khán giả hôm nay!
Trong đoạn kết, nhà thơ Xuân
Diệu đã coi cuộc tái hợp Kiều - Kim là "Bản cáo trạng cuối cùng
trong Truyện Kiều", là "tiếng thét tố cáo xã hội".14 Có
thực như vậy không? Đã có không ít cuộc tranh luận về cái kết cục gọi là đoàn
viên vui vẻ này. Có người phê phán nặng nề, coi là gượng gạo, giả tạo, không cần
thiết, nhưng có người lại coi là một mẫu mực của nghệ thuật! Phim KIỀU cần miêu
tả, xử lý cái kết nan giải này như thế nào? Đó cũng là điều người xem phim chờ
đợi.
Kiều - Tú Bà - Sở Khanh
Tú Bà là một nhân vật trong Kim
Vân Kiều truyện, song cũng là nguyên mẫu (prototif) mà Nguyễn Du đã gặp đâu đó ở
Việt Nam (và ở cả Trung Quốc nữa) để đưa vào Truyện Kiều. Kiều sa vào cạm
bẫy của Tú Bà (và Mã Giám Sinh), với tài năng, phẩm hạnh của mình, Kiều có dễ
dàng chấp nhận buông xuôi như trong văn học?
Sở khanh được Nguyễn Du khắc họa
chỉ vài nét sinh động, và đã trở thành danh từ chỉ sự "lừa tình" trong
dân gian. Còn Sở Khanh trong mắt người xem hôm nay? (Xin nhớ lại Sở Khanh trong
hình dung của một số nhân vật nổi tiếng: họa sĩ Trịnh Cung, nhà thơ Trần Đăng
Khoa, một hoa hậu…).
Kiều - Thúc sinh - Hoạn thư
Nguyễn Du đã dành cho Thúc Sinh những
tình cảm thắm thiết nhất từ Thúy Kiều. Nhưng có phải Thúc Sinh là người được Kiều
yêu thương hơn cả Kim Trọng, và có đáng được như thế? Thực chất nhân cách của
Thúc Sinh? Đâu là động cơ tâm lý thôi thúc hành động của Hoạn Thư?
Mối quan hệ Kiều -Thúc - Hoạn tạo nên những diễn biến tâm lý rất sâu sắc và vô cùng kịch tính, làm phim sẽ có sức hấp dẫn mạnh. Và Hoạn Thư, trong thời nay, cũng cần được nhìn nhận bằng con mắt Phật học: "Trong cô cũng có lòng từ bi...Từ Hoạn Thư, chúng ta cũng học được bài học nhân ái chứ cô không phải là người bỏ đi...Tất cả chúng ta, người nào cũng có những hạt giống tốt và xấu", cũng như "Chúng ta có một Thúc Sinh ở trong lòng... đều có chất liệu đam mê và nhu nhược".15 "Phương pháp thiền quán" này thực ra cũng chứa đựng cả quan niệm và thủ pháp xây dựng nhân vật của điện ảnh hiện đại!
Mối quan hệ Kiều -Thúc - Hoạn tạo nên những diễn biến tâm lý rất sâu sắc và vô cùng kịch tính, làm phim sẽ có sức hấp dẫn mạnh. Và Hoạn Thư, trong thời nay, cũng cần được nhìn nhận bằng con mắt Phật học: "Trong cô cũng có lòng từ bi...Từ Hoạn Thư, chúng ta cũng học được bài học nhân ái chứ cô không phải là người bỏ đi...Tất cả chúng ta, người nào cũng có những hạt giống tốt và xấu", cũng như "Chúng ta có một Thúc Sinh ở trong lòng... đều có chất liệu đam mê và nhu nhược".15 "Phương pháp thiền quán" này thực ra cũng chứa đựng cả quan niệm và thủ pháp xây dựng nhân vật của điện ảnh hiện đại!
Kiều - Từ Hải
Trước hết, cần nhắc tới một nhận xét
của nhà nghiên cứu văn học người Nga N.I. Niculin: "Trong cuốn truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân, Từ Hải chỉ là một nhân vật phụ, xuất hiện thoáng qua trong
một đoạn truyện, một gã anh chị phóng đãng sau khi đã thử nếm qua đủ các nghề
nghiệp, cuối cùng xoay ra nghề lục lâm; trong thiên trường ca của Nguyễn Du thì
Từ Hải lại hiện ra trước mắt người đọc như một dũng tướng ngang tàng, một vị
anh hùng bảo vệ chính nghĩa." (Nguyễn Du, nhà thơ nhân đạo lỗi lạc)16
Motif Anh hùng + Thuyền quyên vốn
quen thuộc trong điện ảnh thế giới, khi vào Phim KIỀU sẽ vừa trung thành với tư
tưởng tiến bộ của Nguyễn Du, vừa thỏa mãn được tâm lý mong chờ của người xem
đông đảo sau bao nỗi lo lắng và đau đớn cùng Kiều, tạo ra sức cuốn hút lớn của
phim. Vấn đề lớn nhất trong việc xử lý mối quan hệ này, là lý giải tâm lý của
Kiều khi thuyết phục Từ Hải ra hàng triều đình, để người xem không coi thường hạ
thấp Kiều, và thể tất nhân tình được cho Kiều.
4. Giải quyết một cách thấu đáo một số vấn đề đã gợi ra
ở trên, kết hợp với việc xử dụng nhuần nhị những câu thơ Kiều "như có máu
chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy"17 vào ngôn ngữ đối
thoại - độc thoại "luôn có sự chuyển dịch điểm nhìn" của điện ảnh, chỉ
khi đó, người làm phim mới có thể yên tâm rằng: bộ Phim KIỀU - nếu hội tụ đủ
nhiều yếu tố khác nữa mới có thể ra đời - tệ nhất cũng sẽ không trở thành một
phiên bản Nghe-Nhìn nhợt nhạt cho Kim Vân Kiều truyện, thậm chí quảng bá
cho văn hóa & lịch sử Trung Quốc - mà khởi thủy vốn chỉ là cái cớ ban đầu,
là cái vỏ, là nguyên liệu thô cho đại thi hào Nguyễn Du sáng tạo nên "Đoạn
trường tân thanh" bất hủ.
Những suy ngẫm và kiến giải trên đây
là của một trong những người làm phim Việt Nam từng khao khát, ấp ủ
đưa Truyện Kiều lên màn ảnh từ nhiều năm nay. Nếu như thế hệ đạo diễn
của chúng tôi chưa thực hiện được mơ ước của mình, thì đây cũng là chút gợi ý
giúp cho những thế hệ đạo diễn sau bớt lúng túng khi có điều kiện thực hiện bộ
Phim KIỀU, đáp ứng được niềm mong mỏi của bao tầng lớp khán giả Việt Nam trong
nước và nước ngoài. Ít nhất, trong hiện tại, hy vọng là một đóng góp nhỏ bé của
chúng tôi dưới góc độ Điện ảnh học (và lĩnh vực sản xuất phim) trong sự nghiệp
chung tìm hiểu, nghiên cứu, khai thác, quảng bá Truyện Kiều.
1. Georges Sadoul: Lịch sử điện ảnh thế giới (Nhiều
người dịch). Nxb Ngoại văn & Trường đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội, HN
1987, tr. 7
2. Hoàng Trọng Quyền: Nguyễn Du và Đỗ Phủ- những tương đồng
và khác biệt về tư tưởng nghệ thuật. Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, HN
2012, tr.73
3,4. Trần Đình Sử: Thi pháp Truyện Kiều. Nxb Giáo dục,
HN 2012, tr.131
5. Trần Đình Sử: Thi pháp văn học trung đại Việt
Nam. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, HN 2005, tr. 360, 362
6. I. M. Lotman: Cấu trúc văn bản nghệ thuật (Trần
Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch). Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
HN 2004, tr.470, 472
7. Lê Đình Kỵ: Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của
Nguyễn Du. Nxb KHXH, HN 1971
8. Trần Nho Thìn: Văn học trung đại Việt Nam dưới góc
nhìn văn hóa. Nxb Giáo dục, HN 2008, tr. 431
9. Phan Ngọc: Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện
Kiều. Nxb Thanh niên, HN 2001, tr. 122-123, 172
10, 11. I. M. Lotman: Ký hiệu học và mỹ học Điện ảnh.(Bạch
Bích dịch). Viện Nghệ thuật & Lưu trữ Điện ảnh Việt Nam XB, HN 1997, trg.
640 – 644
12. Tô Hoàng: Đường xa gánh nặng. Nxb Văn hóa-Văn
nghệ, Tp. HCM 2014, tr.16
13. Nguyễn Xuân Lam (Sưu tầm, tuyển chọn): Nghiên cứu Truyện
Kiều những năm đầu thế kỷ XXI. Nxb Giáo dục, HN 2009, tr. 714
14, 16, 17. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (Tuyển
chọn và giới thiệu): Nguyễn Du - về tác gia và tác phẩm. Nxb Giáo dục,
HN 1999, tr.1011, 607, 168.
15. Thích Nhất Hạnh: Thả một bè lau. Nxb Thời đại,
HN 2011, tr.209 -211.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét