Thơ Nguyễn Ngọc Tư thắp ngọn lửa xanh
(Đọc tập thơ “chấm” của Nguyễn Ngọc Tư,
… Những con sóng chạy rượt nhau mê mải tới bạc mái đầu.
Có con sóng nào trẻ không mà lượn nào cũng trắng.
Bạn yêu thơ, nhất là các nhà thơ có thể đồng cảm với tôi
đó là câu thơ hay, có độ mở liên tưởng và cảm xúc mạnh. Câu thơ ấy không trích
từ một bài thơ, mà được rút từ đoạn văn trần thuật trong “Ngọn đèn không tắt”,
một trong những truyện ngắn đầu tay của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. “Ngọn đèn không
tắt” cũng là tên cuốn sách trình làng của nhà văn, từng đoạt giải nhất cuộc vận
động sáng tác “Văn học tuổi 20” lần thứ II, do Nxb Trẻ, báo Tuổi Trẻ và Hội Nhà
văn TP. Hồ Chí Minh tổ chức năm 2000.
Dõi theo những tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Ngọc Tư, tôi ghi
được đến kín một cuốn sổ tay dày với nhiều câu thơ hay. Đặc biệt, những câu thơ
này lại được rút từ những truyện ngắn, tản văn, ký, tùy bút… Và gần đây nhất là
từ tiểu thuyết “Sông” (Nxb Trẻ, 2012) của chị. Những câu thơ ấy của Nguyễn Ngọc
Tư khiến tôi ngạc nhiên và nể trọng. Phải thú thật rằng, tôi khao khát và thèm
muốn chúng là của tôi. Có lúc, tôi cũng thấy tiếc. Bởi những câu thơ tuyệt đẹp
như vậy lại được nhà văn xếp chen vào những đoạn văn mô tả tâm trạng thông thường.
Hoặc lẫn trong lời thoại của những nhân vật chẳng đâu vào đâu. Đọc nhiều tác phẩm
của Nguyễn Ngọc Tư, quen với những thủ pháp chị thường vận dụng, rồi đến với những
câu thơ hay trong văn xuôi của chị, tôi tưởng tượng hình ảnh những câu thơ đó
như ngọn lửa xanh được nhà văn thắp lên từ rượu mạnh do chính tay chị
chưng cất. Thơm dịu, êm say và đầy quyến rũ.
Chớm thu năm 2013, tôi nhận được tập thơ của Nguyễn Ngọc Tư
có cái tên khá lạ và độc đáo, “chấm”. Đây không phải “cuốn sổ tay” do tôi “tự
xuất bản” nữa, mà trọn vẹn một thế giới những “ngọn lửa xanh” của nhà thơ Nguyễn
Ngọc Tư.
“chấm” xuất hiện đúng như tôi đã nghĩ. Tức đến lúc, tự thân tập
thơ của nhà thơ - nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã cần/ phải xuất hiện. Diễn tiến này
hoàn toàn tự nhiên như lẽ thường tình, hợp quy luật với một chủ thể sáng tạo mạnh
mẽ như Nguyễn Ngọc Tư. “chấm” tồn tại đơn giản, tự nhiên và hồn nhiên. Như việc
đánh dấu, “giữ phần” một tín vật, một chỗ ngồi, một khoảng không trong đời sống
hiện tồn. Và, cũng tựa một nhân dạng chuyển động gần đến chân trời, để lại một
dấu chấm nhỏ trong mắt những người quan sát. Với nhà thơ Nguyễn Ngọc Tư, chị
quan niệm về những bước đi của “chấm” nhẹ nhàng hơn tôi tưởng nhiều. Trong lần
trả lời phỏng vấn báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh (phát hành ngày 18/8/2013), chị
nói: Vào những thời khắc đặc biệt với những tâm trạng đặc biệt, những cảm
giác không thể tách bạch, tôi thấy mấy cái khó đỡ này thơ chơi được. Nên độc giả
đã từng rất ưng văn xuôi của tôi cũng đừng lo lắng, chơi đâu thì tôi cũng quay
về.
“mình có ngôi nhà khép cửa”. Đó là câu thơ đầu tiên trong “chốn
về”, bài thơ mở đầu tập thơ “chấm”. mình không bóng/ ngủ sâu không ai gọi/
say nắng không người lay… / máu chảy tự khô,/ vết đau tự liếm láp,/ cúc tự
cài,/ hát mình nghe (chốn về). Những câu thơ ấy của Nguyễn Ngọc Tư đã thay
lời tự bạch. Lặng sâu một nỗi buồn nhưng tuyệt đẹp. Cô đơn và hoang hoải. Những
câu thơ ấy gợi tôi nhớ đến hình ảnh cậu bé Điền thường quẩn quanh với những con
vịt “đạp mái nhau đầy yêu thương” mà không thô bạo như người cha Út Vũ của cậu
với một cô gái điếm trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” của chị. Đó cũng là một
trong những truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Ngọc Tư được đạo diễn điện ảnh Nguyễn
Phan Quang Bình dựng thành phim. Bộ phim từng đoạt năm giải thưởng Cánh diều
vàng năm 2010.
Tập thơ “chấm” là hội tụ những điểm đến, cũng chính là “chốn
về” của nhà thơ Nguyễn Ngọc Tư. Xin xướng danh một số tựa đề bài thơ để dõi
theo bước chân của chị: “sổ tay đi đường”; “núi Hiệu Oanh”; “ở trọ”; “ở biên giới”;
“rượu bên đường Mười Bốn”; “viết ở Côn Đảo”; “bản đồ”; “hỏi đường”; “ca tụng bạn
đường”; “phong cảnh Đại Lải”; “chuyến bay ban sáng”… Những bài thơ ấy cho tôi
hình dung nhà thơ Nguyễn Ngọc Tư với chiếc ba lô một mình “đi bụi”, tha thẩn khắp
các nẻo đường từ Nam chí Bắc. Trong những chuyến đi ấy, chị được trải nghiệm mọi
cung bậc của đời sống xã hội, gom nhặt được nhiều nguồn tư liệu phong phú để
nuôi dưỡng cảm xúc sáng tạo. Chị được mệnh danh là nhà văn của những xóm ao
bèo, của những thân phận người... Nhà thơ từng nói về những cuộc du ngoạn ấy tựa
như “mạng nhện” dính chặt chị vào “chân trời”. Ở đó chị được mê mải, ngụp sâu
trong cõi ta bà giả tạm, thảng hoặc và vô thường: lục bình vừa trôi vừa
tàn/ lá đa vừa rã vừa rơi/ vừa đến họ vừa rời cõi tạm (ở trọ). Dù đi đâu về
đâu, Nguyễn Ngọc Tư luôn nhìn đời sống bằng con mắt của kẻ cô độc ngơ ngác đi
tìm “chốn về” của mình: có con thác bị chẻ làm đôi ngọn/ sông lò cò một bờ/
núi vói nhìn bóng mình vượt/ đường biên (ở biên giới); vì say, quên,
vì những công việc vội/ hay trên con đường rong ruổi tôi cắn môi hát khúc nhớ
nhà (sáng chủ nhật). Những cuộc rong ruổi “chơi được” ấy luôn vẫy gọi,
thôi thúc nhà thơ trên hành trình dấn thân ngày một quyết liệt. Hành động “xoay
ổ khóa không biết đi hay đến” trong bài thơ “một bài lạc” là biểu hiện tột cùng
của sự chống chếnh và bất an trong những cuộc lữ hành: có lần lời lạc trên
môi,/ ta kịp thả trôi câu tử tế,/ chốn trọ này không có gì chơi/ về đi em,
mưa ướt hết rồi (một bài lạc). Bạn đọc có thể đặt ngược lại: Vậy câu không
“tử tế” là câu thế nào? Mới thấy đây thực là một mệnh đề nghi vấn mang tính diễu
nhại đầy chua xót về cõi nhân tình. Những kiểu người, nẻo đời trong thơ, nhất
là trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư thường tối tăm, quanh co, nhiều ngã rẽ. Có lúc
như dẫn người đọc như đi cả vào ngõ cụt, nơi tù mù. Tuy vậy, chính Nguyễn Ngọc
Tư lại là người ý thức rõ và tỉnh táo về nỗi cô đơn và những hoài nghi ấy.
Trong tác phẩm của chị, những nẻo đường mà chị tái hiện luôn biết cất giữ từng
dấu chân, niềm khát vọng, tình yêu thương mà chị dành cho mọi người: tôi
là con kiến vàng/ bơi trong tơ lam tìm đường ra biển/ vịn theo tơ đỏ lên dãy
Hoàng Liên (bản đồ).
Khắc họa một cách chân thực và sinh động hiện thực đời sống
chính là đặc điểm nổi bật trong các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư. Những thân phận/
số phận trong bức tranh hiện thực ấy luôn hiện lên lam lũ, nhọ nhem nhưng đáng
yêu và gần gũi lạ thường: chuyến xe đi như mũi kim cùn/ vá víu những đường
may gió bụi/ mùi thuốc lá, mồ hôi, mùi phân trâu giữa những kẽ chân đen trũi/ bỗng
mê sâu bởi giọt cốt trầu/ khách ngoái tìm/ quê nhà ở mãi đâu? (sổ tay đi
đường). “Quê nhà ở mãi đâu?” Câu hỏi của một người khách không quen biết khi
“ngoái tìm” đã sưởi ấm cả chiếc xe đò chở đầy ắp mồ hôi và nước mắt những con
người lo toan kiếm sống thường nhật. Hẳn là, bạn đọc đã gặp cách viết này rất
nhiều trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Một lối tường thuật, kể, độc thoại
bình tĩnh, hồn hậu nhưng thấu đáo lạ thường. Phong cách ấy thể hiện đúng tính
cách của con người Nam Bộ, bộc trực, thẳng thắn và chân thành của chị. Tôi chợt
nhớ đến câu “Đã mang lấy nghiệp vào thân” của đại thi hào Nguyễn Du.
Và từ ấy, cho tôi linh cảm, trời đã cho/ bắt Nguyễn Ngọc Tư sống để viết, và
ngược lại. Chị như người có sao Thái dương đóng ở cung Ngọ. “Nhật lệ trung
thiên chí giải”. Càng khóc thì giọt nước mắt càng lớn và long lanh dưới mặt trời. mua
chữ Yên ướt sũng ở quán ông đồ/ ướt như vừa vớt ở đáy sông/ giắt lên vách nào
cũng thấy chữ long đong (một ba mươi Tết nào). Thơ Nguyễn Ngọc Tư tựa ánh
sáng luôn soi rọi tới những nơi khuất lấp u uẩn, góc tăm tối cuối cùng của chốn
nhân gian: lượn quanh đây giọng họ thầm thì/ - Mi đang sống sao phả
mùi ẩm mốc? (mưa tháng Bảy). Một bài thơ trong “chấm” có tựa đề đặc biệt ấn
tượng: “bóng người thì tối”. Theo cá nhân tôi, chỉ riêng tựa đề này đã hoàn chỉnh
một bài thơ cực ngắn rất độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư. Bài thơ “bóng người thì tối”
có hai câu kết ở dạng nghi vấn, sáng rỡ rất dữ dội, truy vấn sự chân thực và
tình yêu con người: gáy người thì lạnh/ ngực người ấm không? Nhân đây
xin nói thêm, trong tập thơ “chấm” có rất ít bài về tình yêu đôi lứa. Tôi chỉ gặp
khổ thơ sau đây có nhân vật “anh” được “cài” trong bài thơ “linh cảm”: em
thấy anh châm thuốc bên đường/ lửa và anh rất lạnh/ lửa và anh rồi tạnh. Thêm một
lần nữa, tôi thấy Nguyễn Ngọc Tư xưng “em”: mai dậy sớm không còn em nằm cạnh/
váng vất gối tóc cùng với tóc/ thằn lằn để lại đuôi có khóc/ như mình? (hát
tặng chia lìa). Và, chỉ duy nhất một bài thơ, có tựa đề “nhân tình”, với
tâm trạng trống rỗng, bã bời và xa lạ: khép cửa phòng gặm nhấm móng tay/
không đốt nến sợ mùi người tan mất/ ngoài thềm mưa xóa dấu chân. Điều này cho
thấy, nhà thơ Nguyễn Ngọc Tư chủ ý cấu trúc tập thơ mang tâm trạng nhất quán
trên hành trình cô lẻ “nhẹ tênh nỗi buồn” tìm “chốn về”.
40 bài thơ trong tập thơ “chấm” là bốn mươi dáng vẻ của “ngôi
nhà khép cửa”. Nói ngôi nhà ấy “khép cửa” bởi dù ở đâu, lúc nào, Nguyễn Ngọc Tư
luôn giữ “trọn vẹn” nỗi buồn, niềm khát vọng, lòng nhân ái đã trở thành căn cốt
trong tác phẩm của chị. Cũng chính sự “khép cửa” ấy đã tạo nên vẻ đẹp mộc mạc,
thuần khiết của tâm hồn chị. Và cũng từ ấy làm nên một thế giới thơ trong suốt
và mong manh, giống như “những cái lá” mướt xanh, vừa kiêu hãnh vừa bấy bớt. Bạn
đọc có thể hình dung thế giới ấy trong câu thơ: những cái lá nuột nà trên
những triền đồi xa xôi/ cũng làm tổn thương tôi (say trà).
Thơ Nguyễn Ngọc Tư luôn chờ sẵn trong đó những câu hỏi truy vấn,
những nỗi hoài nghi về sự chân thực, nhân hậu của con người. ới ơi người
thương đâu?/ nhanh chân theo kẻo bụi lấm đục ngầu (nuối tóc). Nhà thơ hay
dùng những khái niệm, cụm từ sắc lạnh như mũi kim, lưỡi dao để phanh phui cái xấu
xa, phụ bạc, tàn độc của đời sống thế nhân như: ráo hoảnh bạn bè xóm cũ; lời
ngọt nhạt lạ xa; nọc độc làm rơi rã tủy xương; đắng chát mụ mị mềm đầu lưỡi; kịch
tính nằm trong mỗi tờ lịch; non thế kỷ đạn bom tấp tểnh nổi trôi; tay nào mọc
gai, cái nhìn móng vuốt; được mất như chơi… Nhưng ngay tại những bài thơ đó, những
hàm nghĩa ám chỉ tiêu cực, ác độc kia luôn được nhà thơ hóa giải, hoán
chuyển thành những điều cao cả, tốt lành. Những ngày rong ruổi trên đất
lạ, tôi một lần đứng lại hỏi con đường, lối nào sẽ dẫn đến người. Đường im lặng
đi lên đồi mải miết, nông nổi ơi chỉ cần dừng chân lại, sẽ thấy người (hỏi
đường).
Tập thơ "chấm" có hai bài “nhật ký mang thai” mang
đến cho tôi sự ngạc nhiên và xúc động mạnh. Hình ảnh người mẹ trong bài thơ hiện
lên thật vĩ đại và phi thường, là biểu tượng cho những phụ nữ chu
toàn thiên chức làm mẹ. Một thiên chức cao cả, xuất phát từ tình mẫu
tử thiêng liêng và thánh ý nhiệm màu: Yêu và xa,/ thương và đợi,/ hy
vọng và thất vọng/ học mỉm cười, mẹ có cười một mình đâu, như khi khóc/ trò trốn
tìm nước mắt, mẹ chẳng muốn con chơi (nhật ký mang thai - tháng thứ
ba); hãy cựa quẫy/ hãy trở mình/ nhắc nhớ mẹ thở cho hai người/ mẹ nuôi
men ủ nụ cười/ và đứng thẳng (nhật ký mang thai - tháng thứ năm).
“chấm” là tập thơ dung dị, gần với ngôn ngữ đời sống sinh hoạt
hàng ngày, có thể đến được với mọi đối tượng bạn đọc. Một số câu thơ được tác
giả áp dụng thủ pháp hiện đại khá nhuần nhuyễn và độc đáo: xe đi vào ngọn
bóng tối khêu cao(nhật ký mang thai - tháng thứ ba), nước mắt con mình xước
chín tấc hồn (hình dung dưới cỏ), một người câu một bóng người sũng
nước (phong cảnh Đại Lải)… Những câu thơ viết kiểu này không khó với một
“phù thủy chữ” như Nguyễn Ngọc Tư. Tôi ước đoán, nhà thơ như cố ý làm vương vài
ba hạt xoàn trong vườn hoa cải ngồng để bạn đọc luyến tiếc mà đi tìm…
Trong tập thơ “chấm”, Nguyễn Ngọc Tư đã tiết chế tối đa những
từ lạ, những thổ ngữ và phương ngữ Nam Bộ. Chúng ít được sử dụng hơn như chị
thường dùng trong các tác phẩm văn xuôi. Hầu hết các bài trong tập thơ “chấm” đều
là thơ tự do có chung nhịp điệu tự nhiên, tưng tửng, chảy trôi… Câu mở đầu bài
thơ thường được Nguyễn Ngọc Tư chọn cách nói phản đề, hoặc áp đặt ngẫu
nhiên: tưởng mặt trời ấm hơn (hát tặng chia lìa), không chớp
nhói lên nghĩa là đã ngủ rồi (chờ điện thoại). Cách viết này của nhà thơ
đem đến cho bạn đọc cảm giác hoài nghi, phản tỉnh ngay từ câu thơ mở đầu, với
giọng điệu vừa khiêu khích vừa ỡm ờ…
Thơ Nguyễn Ngọc Tư gợi tôi liên tưởng tới các nhạc sĩ, ca sĩ du ca đồng nội. Họ thường du ngoạn sáng tác và biểu diễn khắp nơi từ thành thị
tới miền thôn dã. Tiếng hát của họ kết nối trái tim với mọi trái tim, ánh sáng
với ánh sáng…, đem đến nhân gian ngọn lửa ấm áp, chân thành.
Nhìn chung văn chương Nam Bộ thể hiện tính cách bộc trực và
nhân hậu của con người vùng đất này, nhưng ở Nguyễn Ngọc Tư, cả thơ và truyện của
chị hoang hoải những nỗi buồn, cả nỗi đau nhân thế. Những vần thơ của Nguyễn Ngọc
Tư chất chứa những suy tư đằm sâu mà vẫn ấm lên ngọn lửa xanh của thương yêu và
hy vọng.
Đọc tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, nhất là khi đã quen với những hiện thực đời sống được chị tạo dựng, tôi bỗng liên tưởng đến việc chưng cất rượu ở những miền quê xứ Bắc. Để có được loại rượu thơm ngon vị đậm, bí quyết của người dân những vùng đất này là cách chọn gạo nếp cái hoa vàng, men thuốc bắc, chọn nguồn nước… Đặc biệt, biết tiết chế ngọn lửa vừa đủ khi đun. Chọn rượu ngon là loại rượu có bọt tăm to. Bọt rượu càng to thì ngọn lửa càng xanh. Nhà văn - Nhà thơ Nguyễn Ngọc Tư đang tiếp tục “chưng cất” và thắp thêm những “ngọn lửa xanh” trong hành trình sáng tạo của mình. Đi dọc cánh đồng văn chương của Nguyễn Ngọc Tư, tôi đã tìm thấy ngọn lửa lạ kỳ và ấm áp ấy.
Đọc tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, nhất là khi đã quen với những hiện thực đời sống được chị tạo dựng, tôi bỗng liên tưởng đến việc chưng cất rượu ở những miền quê xứ Bắc. Để có được loại rượu thơm ngon vị đậm, bí quyết của người dân những vùng đất này là cách chọn gạo nếp cái hoa vàng, men thuốc bắc, chọn nguồn nước… Đặc biệt, biết tiết chế ngọn lửa vừa đủ khi đun. Chọn rượu ngon là loại rượu có bọt tăm to. Bọt rượu càng to thì ngọn lửa càng xanh. Nhà văn - Nhà thơ Nguyễn Ngọc Tư đang tiếp tục “chưng cất” và thắp thêm những “ngọn lửa xanh” trong hành trình sáng tạo của mình. Đi dọc cánh đồng văn chương của Nguyễn Ngọc Tư, tôi đã tìm thấy ngọn lửa lạ kỳ và ấm áp ấy.
(*) Tên tập thơ và tên các bài thơ, tác giả Nguyễn Ngọc Tư
không viết hoa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét