Trước 1975, Phạm Thiên Thư đã rất nổi tiếng với những thi tác
được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc trong Đạo ca, và giải Nhất văn chương toàn
quốc với tác phẩm Đoạn trường vô thanh. Đọc những bài thơ tình của ông,
không ai nghĩ ông đã từng trên 10 năm xuất gia tu hành nơi cửa Phật.
Con chim chết dưới cội hoa
Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao
Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao
Tiếng kêu của loài dị điểu trong thơ ông thật bi thảm, vừa cất
lên thì đã rụng xuống dòng sông rộng. Cái chết sinh ra để phụng hiến tình yêu.
Yêu đến buồn chết, thật là khó để người đời hình dung một tu sĩ có đời sống
phong kín nơi cảnh chùa lại có ý nghĩ như vậy. Nhưng Phạm thi sĩ đã viết ra vậy.
Nhà thơ Phạm Thiên Thư bên hàng rào quán Hoa vàng
Tôi hay đến ngồi chơi với ông ở bên ngoài quán cà phê Hoa
vàng ở Cư xá Bắc Hải. Một đôi dép nhựa, một túi xách lỉnh kỉnh thơ, tài liệu,
thuốc,… dưới chiếc ghế xếp. Ông như một lão nông hiền hậu luôn tươi cười đón
khách. Sau những vòng khói thuốc, đôi mắt như nhìn vào một cõi hư không nào đó.
Hàng chục lần đến thăm ông, tôi vẫn thấy ông ngồi như vậy. Không biết ông viết
khi nào nhưng số lượng những câu thơ, những tác phẩm ra đời đều đều. Đến nay
ông đã viết được 126 nghìn câu thơ… Ông là người viết rất nhanh, lại viết theo
kiểu “rót” thơ ra từ vô thức. Ông nói ông thi hóa Kinh Kim Cang trong 4 ngày,
10 bài Đạo ca ông chỉ viết trong 2 ngày, tập trường thi Động hoa vàng cũng chỉ
7 ngày liền động bút là xong…
Phạm Thiên Thư là người Việt Nam độc nhất đã thi hóa 7 bộ
kinh Phật bằng một ngôn ngữ thuần Việt, sáng tác Từ điển cười (Tiếu liệu pháp)
bằng thơ, làm Từ điển châm ngôn, viết 3.320 câu lục bát kể chuyện lịch sử
trong Hát ru Việt sử thi.
Ông có rất nhiều kỷ lục, nhiều điều để tự hào, để kiêu hãnh, nhưng dường như ông không để ý đến những thứ ấy. Ông khoái nhất là chuyện ông rất giống với cụ Nguyễn Du. Ông kể một tràng:
Ông có rất nhiều kỷ lục, nhiều điều để tự hào, để kiêu hãnh, nhưng dường như ông không để ý đến những thứ ấy. Ông khoái nhất là chuyện ông rất giống với cụ Nguyễn Du. Ông kể một tràng:
10 tuổi bố Nguyễn Du mất, tớ
cũng vậy. Mẹ Nguyễn Du là một người phụ nữ đất quan họ Bắc Ninh, vợ lẽ dòng thứ
hai. Gia đình cụ Nguyễn có bốn anh em, cụ lại sinh hạ được bốn người con (?). Tớ
cũng y chang như vậy. Ông còn tâm đắc chuyện ông có ba bà vợ cả thảy, cụ
Nguyễn Tiên Điền cũng chỉ có vậy, không hơn tớ… Cụ Nguyễn và tớ đều là tú tài.
Cụ Nguyễn sống qua hai “chế độ” Lê mạt, Nguyễn sơ. Tớ cũng vậy. Cụ Nguyễn lưu lạc
10 năm ở Thái Bình, còn bố tớ quê chính cũng là Thái Bình. Cụ Nguyễn mất năm
1840 (?), đúng 100 năm sau, 1940 thì tớ ra đời…
Nói chung, thi sĩ họ Phạm “vận” hết mọi dữ kiện có thể có để
thấy mình “giống y sì” cụ Nguyễn Du. Thế nhưng, thực sự mẹ Nguyễn Du là vợ lẽ
thứ ba của cụ Nguyễn Nghiễm, một đại quan có đến 8 bà vợ và 21 người con trai
(chưa kế nữ nhi thường tình?). Mẹ Nguyễn Du lại có đến 5 đứa con. Còn cụ Nguyễn
mất năm 1820 chứ không phải 1840 như Phạm thi sĩ kể…
Song cũng có điều xác đáng gần gũi đại thi hào Nguyễn Du, ấy
là Phạm Thiên Thư đã “dũng cảm” dám qua mặt cụ Nguyễn để viết lại Truyện Kiều.
Ông đĩnh đạc “phá bỏ” thành tích đỉnh núi thơ ca dân tộc để viết Đoạn trường
vô thanh, một tác phẩm xem như hậu Truyện Kiều. Và điều mà ông làm được hơn cụ
Tố Như là đã cố gắng Việt hóa câu chuyện Kim Kiều để “sáng tác phải có cái
riêng của Việt Nam” như ông nói. Ở thi phẩm này, ông còn hơn cụ Nguyễn Du những…
20 câu lục bát. Lục bát là một thể tính đặc thù của văn hóa Việt, trên hành
trình sinh hóa của nó, Phạm thi sĩ chính là một trong những số ít nhà thơ
đã chạy tiếp sức cho cụ Nguyễn Du một cách rất xứng đáng bằng những vần thơ
sang trọng, tuyệt bích…
Tôi không rõ nét mặt của cụ Nguyễn Du, nhưng theo chính sử
nhà Nguyễn đã ghi thì khuôn mặt cụ Nguyễn dường như nhàu nhĩ, in hằn nếp nhăn
ưu tư về phận người trên mặt đất và sự chán nản cảnh quan trường gượng ép.
Trong khi khuôn mặt Phạm tiên sinh ngời lên vẻ thanh thoát, cười cợt, vô ưu.
Duy nhất là chiếc mũi lân, nhưng chẳng hề tỏ rõ chút quyền lực nào?!.
Không biết ông có phải “hậu thân” của Hồng Sơn lạp hộ (biệt
hiệu của cụ Nguyễn Du) hay không nhưng chỗ ông trú ngụ hiện nay lại là đường Hồng
Lĩnh, cũng là tên một ngọn núi ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh, quê cụ Nguyễn. Chuyện “hậu
thân” Nguyễn Du là Phạm Thiên Thư có lẽ nên hỏi con vạc đậu bờ kinh vậy:
Hỏi con vạc đậu bờ kinh
Cớ sao lận đận cái hình không hư
Vạc rằng: Thưa bác Thiên Thư
Mặc chi cái áo Thiền Sư ỡm ờ…
Cớ sao lận đận cái hình không hư
Vạc rằng: Thưa bác Thiên Thư
Mặc chi cái áo Thiền Sư ỡm ờ…
(Ký tên Tuệ Lãng, đăng trên báo Thanh niên Thể thao
& Giải trí, số 111 (416), ra ngày 30/04/2010 (17 tháng 3 Canh Dần)
Saigon, cuối tháng 4/ 2010
Lê Quang Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét