Kể từ một buổi chiều buồn 30 tết, cuối năm Ất Tỵ (20/1/1966)
Nguyễn Bính ra đi đột ngột tại nhà một người quen cũ - nay đã 44 năm qua; lòng
người yêu thơ thắp nén tâm hương tưởng nhớ một vì sao sáng trong làng thơ Việt
Nam.
Khóc Nguyễn Bính, nhà thơ tài hoa mà mệnh bạc, ta càng nhớ những
vần thơ đẹp, mộc mạc tựa ca dao, dân ca. Có thể mệnh danh Nguyễn Bính là ”nhà
thơ chân quê”. Thật vậy, thơ Nguyễn Bính gần gũi với ngôn từ và tâm tưởng
của người dân Việt vùng đồng bằng Bắc bộ. Những cách ví von, ẩn dụ, nhân
hóa... trong thơ Nguyễn Bính rất giống với câu hò điệu hát của quê hương, hết sức
mộc mạc và ý vị.
HÌNH TƯỢNG “BƯỚM” (HỒ ĐIỆP) TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH
Sống giữa vùng quê Vụ Bản, thơ Nguyễn Bính đầy ắp kỉ niệm;
kỉ niệm quyện đầy chất quê hương với những giậu mùng tơi, với những bến đò
ngang dọc, với hoa bưởi, hoa xoan, cành dâu xanh, lá sen tơ… Và một điều
thật lạ là trong thơ đầy hoa, đầy hương đồng gió nội, đậm chất quê
hương ấy lại thường xuất hiện hình tượng Bướm. Hình tượng này lãng
mạn và mộng mơ… lửng lơ giữa thực và mộng.
Lá sen vương phấn hương sen ngát
Ấp ủ hai ta chút nhụy hờ
Lũ bướm tuởng hoa cài mái tóc
Theo về tận cửa mới tan mơ....
Ấp ủ hai ta chút nhụy hờ
Lũ bướm tuởng hoa cài mái tóc
Theo về tận cửa mới tan mơ....
Chiều nay bướm trắng ra nhiều quá!
Không biết là mưa hay nắng đây?
Không biết là mưa hay nắng đây?
Cánh bướm có khi lại hóa thân thành người, thành cô hàng
xóm trong giấc chiêm bao.
Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng...
Có con bướm trắng thường sang bên này
Có con bướm trắng thường sang bên này
Bướm ơi! Bướm hãy vào đây!
Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi...
…Mắt nàng đăm đắm trông lên...
Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi!
Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi...
…Mắt nàng đăm đắm trông lên...
Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi!
Cô láng giềng lại vừa mới mất đêm qua; con bướm trắng lại
xuất hiện trong thơ làm cái cớ cho nhà thơ than khóc;
Hỡi ơi! Bướm trắng, tơ vàng!
Mau về mà chịu tang nàng đi thôi!
Ðêm qua nàng đã chết rồi
Nghẹn ngào tôi khóc... quả tôi yêu nàng.
Mau về mà chịu tang nàng đi thôi!
Ðêm qua nàng đã chết rồi
Nghẹn ngào tôi khóc... quả tôi yêu nàng.
Cũng có khi bóng bướm chỉ là chiếc bóng man mác dư
âm cũ của một thời vang bóng:
“Cành dâu cao, lá dâu cao
Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt em
Anh đi đèn sách mười niên
Biết rằng bóng bướm có lên kinh thành…”
Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt em
Anh đi đèn sách mười niên
Biết rằng bóng bướm có lên kinh thành…”
Ý NGHĨA CỦA HÌNH TƯỢNG BƯỚM TRONG THƠ?
Nguyên nhân từ đâu thơ Nguyễn Bính đã có nhiều “bướm” đến
vậy? “Bướm” đã gợi cho người đọc ít nhiều suy nghĩ. Một số bài viết
cũng đã từng bàn đến nhưng cách lí giải ít thuyết phục, thậm chí có bài đã
trình bày cách hiểu khá thô thiển; ví dụ bài “Cánh bướm và đóa hướng
dương” của Vương Trí Nhàn:
“…Tại sao Nguyễn Bính, một kẻ có theo đòi bút nghiên từ lúc
nhỏ, từng có những bài dịch thơ Đường khá hay, người có thể nghĩ thơ bằng chữ
Hán nữa, tại sao Nguyễn Bính đó lại để cho hình ảnh con bướm đó lui tới quá nhiều
trong thơ mình? […] Với vốn văn hóa sẵn có, ông thừa biết nói nhiều đến
cánh bướm là không được đàng hoàng, là thiếu khí cốt là nhảm... (*).
Thật ấu trĩ khi nghĩ như trên - bởi vì việc “theo đòi
nghiên bút…dịch thơ Đường… nghĩ thơ bằng chữ Hán” chẳng có gì đối lập với
việc “để cho hình ảnh con bướm lui tới quá nhiều trong thơ”… Không
những không đối lập mà chính nhờ theo đòi nghiên bút từ nhỏ mà Nguyễn
Bính đã mang được hình tượng con bướm vào thơ tài hoa đến vậy!
Lý giải cặn kẽ hơn: “Bướm”- Hồ điệp trong văn học
Việt Nam cũng như ở Trung Hoa xưa, vẫn thường được dùng với ý nghĩa truyền thống
của dân gian hoặc với ý nghĩa của triết học Đông phương:
1- “Bướm” tượng trưng cho người con trai, khách đa
tình… “con bướm lượn vành mà chơi” trên những đóa hoa là hình ảnh mang
nét lãng mạn phá cách của văn học dân gian thời phong kiến. Kế thừa ý
nghĩa này, Nguyễn Công Hoan đã dựng nên nhân vật Lan và Điệp trong
tiểu thuyết Tắt lửa lòng.
Con bướm trong thơ Nguyễn Bính thuộc nhóm ý nghĩa thứ
hai: mang màu sắc của triết học Đông phương. Nam Hoa Kinh của Trang tử
có kể câu chuyện Hồ điệp mộng. Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm,
bay lượn nhởn nhơ vui thú lắm, tỉnh dậy cứ suy nghĩ mãi không biết có phải là mình
đã nằm mộng hóa bướm không hay là chính mình bây giờ đang là bướm và đang mộng
hóa Trang Chu? (Ở Tây phương, trong Sáu suy niệm Siêu hình học,
Descartes- nhà khoa học kiêm triết gia cũng đã từng nêu vấn đề mộng và thực tương
tự như thế). Riêng ở Việt Nam, từ ngàn xưa (cả trong văn học viết lẫn văn
học dân gian) các nhà thơ đã thâm nhập hình tượng trên từ văn học Trung Hoa. Nguyễn
Du đã viết trong Truỵện Kiều:
Khúc đâu đầm ấm dương hòa,
Ây là hồ điệp hay là Trang Sinh.
Đến Nguyễn Bính thì Hồ điệp đã được đưa thật nhiều
vào thơ và nhà thơ đã yêu hình tượng ấy đến mức là đã chọn luôn cho mình bút hiệu Điệp
lang (Chàng Bướm).
Cũng như Trang Sinh, Nguyễn Bính đã từng mơ giấc mơ hóa bướm:
... Ngày xưa vua nước Bướm
Kén nhân tài mở “ Điệp lang khoa ”.
Vua không lấy trạng, vua thề thế.
Con bướm vàng tuyền đậu Thám hoa….
Vợ chồng bướm là phò mã, là công chúa của nước Bướm trong
tưởng tượng của Nguyễn Bính bỗng lạc lối về… rồi tỉnh mộng trở lại trần thế.
Câu chuyện của Nguyễn Bính dựng nên trong thơ cũng gần với biết
bao truyện truyền kỳ khác trong kho tàng văn học Trung Quốc và Việt Nam: Giấc
Nam kha, giấc Hoàng lương, giấc Mai, giấc Lá hươu... và giấc bướm trong
thơ là một trong những giấc mơ huyền thoại ấy của văn học cổ điển.
Nguyễn Bính xuất thân trong một gia đình nho học ở vùng quê
Nam Định. Ông thân là một thầy đồ.
”...Thầy tôi dạy học chữ nho.
Dạy dăm ba đứa học trò loanh quanh.”
…và nhà thơ cũng đã học chữ Nho từ tấm bé, nhưng rồi thời thế
đổi thay - cũng như Trần Tế Xương - ông phải “đổi lông ra sắt“ để
thành nhà thơ quốc ngữ. Nhiều bài thơ ra đời với nhiều hương đồng gió nội,
nhiều hoa và nhiều bướm. Ngoài phần lớn thơ lục bát đậm hương vị
ca dao, Nguyễn Bính còn làm thơ Đường. Thơ Đường của Nguyễn Bính cũng phóng
khoáng như thơ Lý Bạch:
“Xử thế nhược đại mộng,
“Cuộc đời là giấc mộng lớn“; đây không phải là
tư tưởng truyền thống của nhà Nho mà chính là tư tưởng Lão Trang đã mặc nhiên
thâm nhập vào Nguyễn Bính từ thiếu thời, cũng như bao nông dân chân lấm tay bùn
khác cũng đã thâm nhập tư tưởng tam giáo từ lâu đời rồi tư tưởng ấy
được thể hiện qua ca dao, dân ca, qua những câu hát ru, những buổi hát ví, hát
đối đáp, qua những vở chèo, tuồng của những dịp hội hè đình đám, qua những truyện
cổ tích…
Chúng ta không bàn ở đây vấn đề của tri thức luận để
phê bình Trang Tử hay Nguyễn Bính đã hoài nghi, hư vô hóa hiện thực mà chỉ trân
trọng cảm xúc đầy chất thơ của một thi sĩ và chúng ta cũng đừng thắc mắc tại
sao Nguyễn Bính lại chọn hình ảnh bướm để đưa vào thơ, và cũng đừng
cho rằng hình ảnh này là thiếu khí cốt, là nhảm bởi vì bướm trong
thơ Nguyễn Bính là một hình tượng nghệ thuật thuần túy..., bởi vì thơ Nguyễn
Bính là “thơ chân quê”, là cách nói, cách nghĩ của nông dân Việt với
những lối ví von, ẩn dụ, nhân hóa... của ca dao, dân ca, hết sức mộc mạc và ý vị…
và cánh bướm đã được dùng trong cách ví von ấy, là hình tượng ẩn
dụ đọng vào kỷ niệm từ thưở ấu thơ của Nguyễn Bính, hết sức gần gũi thân mật và
đậm biết bao tình thương mến.
Nói cho rõ vấn đề hơn là con bướm trong thơ Nguyễn
Bính chính là sự thăng hoa tâm hồn của một người nhà quê Việt Nam xuất thân
trong một gia đình Nho học. Ở nông thôn và học chữ nho từ tấm bé…tự bao giờ hồn
thơ Nguyễn Bính đã thấm đẫm truyền thống tư tưởng Đông phương, thấm dẫm sự hài
hòa của tam giáo: Nho-Phật và Lão Trang. Con bướm trong thơ Nguyễn
Bính khi là hồ điệp trong giấc mơ hóa bướm của Trang tử khi lại na ná
giống như những nhân vật trong cổ tích Việt Nam mang màu sắc tư tưởng Phật
giáo…đầu thai qua nhiều kiếp.
Một hình ảnh trong thơ, trong văn, nếu xét cho cặn kẽ, thường
gắn kết với cả một hệ thống ý thức của cả một thời đại, một dân tộc. Nói như vậy
tuy có vẻ đao to búa lớn nhưng mà thật vậy: Dân tộc ta gắn liền suy nghĩ với cả
một hệ tư tưởng phương Đông từ lâu đời. Bướm trong văn chương, trong
điển tích văn học Việt Nam -Trung Quốc vốn dĩ rất đẹp, rất nên thơ vì vậy nó
vào thơ Nguyễn Bính một cách hết sức tự nhiên và có lẽ cũng rất được nhà thơ
trân trọng.
CHÚ THÍCH:
(*) Vương Trí Nhàn, “Cánh bướm và đóa hướng dương”; Báo
THỂ THAO VĂN HÓA - XUÂN 1996 (Ngô Viết Dinh; trích in lại trong ĐẾN VỚI THƠ
NGUYỄN BÍNH; NXB Thanh Niên -1998; trang 146).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét