Thế giới “con rối”
Tôi như người vô tình đi ngang qua nhà thơ Nguyễn Đức Tùng,
nghe được câu chuyện ông đang kể say sưa với ai đó, giọng lúc nghiêm trọng, lúc
bỡn cợt, có khi da diết, hồi hộp. Ông kể thật cô đọng vì người kia hình như
cũng phải vội đi.
Những bài thơ gần đây của Nguyễn Đức Tùng như những ngẫu hứng
hiện tiền và tôi, cũng bất chợt ngỡ mình biến thành đứa trẻ chạy theo đồng
tiền kẽm/ Xưa lăn ngoài ánh trăng (Xin lỗi, em yêu), hay ngồi đếm những
hòn bi ăn được/ Trước căn nhà vắng lạnh (Tuổi thơ).
Đọc liền mạch một loạt bài thơ theo suốt lộ trình của nhà thơ
Nguyễn Đức Tùng, tôi bị lạc vào thế giới “con rối” đang cử động, khuynh loát mọi
nhận biết và xúc cảm của mỗi người về đời sống đương thời. Từ những yếu tố
không đo đếm được của tự nhiên như ánh sáng, bầu trời, đại dương, hay những vật
nhỏ bé như con sâu, cái cày, cái bánh pizza, trái mìn claymore, cái mở nút
chai, lọ muối… chúng đều được điều khiển theo quy luật riêng dưới bàn tay phù
thủy của ông. Những “con rối” do nhà thơ “chế tác”, để lại từng nhịp thở gấp, cả
nước mắt, dấu vân tay “đóng dấu bản quyền”. Đó là những câu thơ tối giản, như rời
rạc, ngắt quãng, phục hoạt một thời tao loạn, chia ly, phơi bầy bao đau thương,
mất mát: như quả mìn chưa nổ/ nằm chờ ta dưới đám cỏ mùa thu(Mùa thu năm 1977);
là kẻ hối hận ăn năn/ Vì đã nằm suốt đêm trong bụi rậm/ Phục kích đứa em trai của
mình (Sau chuyến nghỉ hè xa). Những câu thơ của Nguyễn Đức Tùng ngỡ như ai
đó cầm con dao sắc chém mạnh, làm đứt ngang một thân cây mảnh: Trên các bức
tường vôi trắng/ Máu đã lau xong (Thăm Trung Hoa); Bên bờ rào tử đinh
hương/ Anh tìm được một vật/ Đã cắt đứt tình yêu chúng ta (Mặt trời lặn xuống
ở Cali). Sự thật lịch sử dân tộc, số phận những kiếp người trong thơ ông
luôn như Ngón tay trỏ mẹ anh vẫn giữ/ Trong tờ giấy tiền vàng gió thổi
rung phần phật (Ngọn lửa); như một đứa trẻ bị thương, được giấu dưới lớp
trái cây đầy lá/ Trong chiều mưa tầm tã/ Khóc thét lên khi qua trạm kiểm
soát (Mưa rơi trong tình yêu); nó mãi như cái đồng hồ dưới gối/
kêu tic tac tic tac tic tac/ Suốt đêm (Nhịp đập).
Có lúc ông tự mình thoát xác, bay nhẹ nhõm trong thế giới ám
thị, đuổi theo những chân trời mộng tưởng: Tôi mặc chiếc áo vào người/ Bước
đi trên mặt nước xanh trong (Chiếc áo). Hay sắc bén và tỉnh táo, ông
nhìn thấy dấu vết nỗi cô đơn đang biến thành con chim từ từ lượn/ Khép những
vòng tròn/ Càng lúc càng hẹp lại/ Trong bóng chiều chậm rãi trôi qua? (Nếu
có một ngày). Khi đầy tự tin trong chiêm nghiệm, tiên báo: Chỉ cần biết
cách im lặng/ Tất cả sẽ sụp đổ (Lặng im). Trong bài thơ “Vỉa hè Sài Gòn”,
ông nhìn thấy một vết nứt Từ từ loang ra/ Trên ly cà phê đá, xẩy ra ngẫu
nhiên với sấm sét và tia chớp ngoằn ngoèo trên trời.
Thái độ bỡn cợt, hài hước cũng thường gặp trong thơ Nguyễn Đức
Tùng. Ở bài “Lên chùa ngày tết”, ông nhìn thấy Một cô gái/ Khấn vái thì thầm/
Tới trước thùng xăm/ Xin quẻ. Hành vi Cô giấu cái thẻ đi/ Rồi rút một cái
khác tạo một hiệu ứng giễu cợt bất ngờ. Câu chuyện nhà thơ gặp một người
đàn ông ở Paris nghe cũng rất khôi hài, thú vị: Ghé tai anh, ông nói thầm/
Còn kiếp trước tôi là con chuột (Ở Paris). Và kết thúc, nhà thơ đã mua cho
người đàn ông kia cái bánh ngọt Croissant, như giấu một nụ cười vừa thân ái vừa
chua xót.
Những hình ảnh trong thơ Nguyễn Đức Tùng thường hiển thị
nhanh, rồi đi khỏi hoặc bất động trong bài thơ, nhường chỗ cho những hình ảnh
khác tiếp diễn. Cách triển khai này của nhà thơ làm người đọc dễ liên tưởng tới
nghệ thuật của sân khấu rối nước, có người biểu diễn đứng đằng sau tấm mành tre
điều khiển các con rối khiến người xem không nhìn thấy họ. Các nhân vật trong vở
diễn thường xuất hiện hay biến đi rất nhanh thông qua những chiếc sào, các dây
điều khiển. Với hình dung ấy, ta thấy những chuyển động của các nhân vật trong
thơ Nguyễn Đức Tùng thường thoắt ẩn thắt hiện, hoặc thấy cái bóng phản chiếu
không rõ mặt của ai đó với những động tác giật cục, đứt đoạn... Trong bài thơ
“Để giải thích một thói quen xấu”, người đọc nhận thấy cách ông “giật dây” các
nhân vật rất rõ nét: Anh dựng một túp lều tranh/ Túp lều tranh đổ sụp là
kết thúc một hành động. Tiếp đến một diễn tiến khác và cũng kết thúc nhanh
chóng: Anh xây một ngôi đền/ Ngôi đền đổ cái rụp. Sau những chuyển động
nhanh, dứt khoát ấy, Nguyễn Đức Tùng cho nhân vật “con sáo” bất ngờ xuất hiện gần
cuối bài thơ. Và, khi con sáo lâm vào hoàn cảnh “Nửa đêm bị mèo cắn đứt một
chân” đã dẫn đến một kết cục bất ngờ, khó đoán trước: Bắt chước anh/ Nó
cũng chửi thề. Với ngôn ngữ tinh lọc, chính xác và bi hài, nhà thơ bật một luồng
sáng chiếu rọi vào nhân vật “Anh” - xuất hiện từ đầu bài thơ, với hàng loạt
hành động đứt quãng, phân rã. Tâm trạng bức bối, phản kháng quyết liệt của nhân
vật “Anh” đã được nhà thơ bình tĩnh nén chặt và bất ngờ cho nổ tung qua miệng
“con sáo”. “Tiếng nổ” bất ngờ này vén lên cả tấm mành tre ở phía sau sân khấu
“rối nước”, cho khán giả chiêm ngưỡng hết dung nhan nghệ sĩ “điều khiển”.
Đôi khi nhà thơ Nguyễn Đức Tùng cũng tự biến mình thành một
“con rối” cho những đối tượng khác “giật dây” trong những “trò chơi” thú vị,
quái đản của ông. Cuộc trò chuyện giữa ông và con chuột vào dịp cuối năm thật
hài hước, khi cả hai đều chào: bạn sắp sửa đi xa (Giã từ). Bài thơ “Dậy
sớm uống trà một mình”, trong buổi sáng sương mờ/ Lấy tay xoa cửa kính/ Giấc
mơ đêm qua. Câu thơ Giấc mơ đêm qua bỗng không còn là hình ảnh bị động,
nó chính là bề mặt của hiện thực khác, làm cho “nhân vật” của câu chuyện trở
thành phần phụ đề của một câu chuyện khác, một giấc mộng trong phương chiều
khác.
Nhằm dẫn dụ bạn đọc vào thế giới “con rối” đa dạng và biến ảo,
nhà thơ Nguyễn Đức Tùng thường mở đầu bài thơ như người kể chuyện cổ tích, với
giọng trầm tĩnh, thủ thỉ, tạo độ căng nhất định bằng cách nêu sự việc hoặc bí ẩn,
hoặc bình thường theo cách đáng nghi, để tăng sức thu hút cho câu chuyện quen
thuộc như câu mào đầu ”ngày xửa ngày xưa…” trong truyện dân gian. Đôi khi
con biết mẹ nằm trong đất là câu đầu tiên của bài thơ “Đêm ngủ trong
chùa”. Thủ pháp này của Nguyễn Đức Tùng có vẻ trái ngược với cách viết của một
số nhà thơ có khuynh hướng cách tân cùng thế hệ. Nếu gặp hoàn cảnh tương tự bài
thơ trên của Nguyễn Đức Tùng, tôi sẽ bỏ đi hai chữ ”đôi khi”, và bắt đầu bằng ý
“con biết mẹ nằm trong đất…” hay “mẹ nằm trong đất…”. Cách ấy của tôi giản đơn
như người định vị mũi khoan hay châm lửa cho một ngòi nổ. Nhưng Nguyễn Đức Tùng
đã đi lối riêng, ở đây ông như chợt nhớ, không hoàn toàn chú tâm vào việc mình
đã biết, mà bị cuốn theo những hành vi đang tiếp biến. Trong bài thơ đôi lần
tác giả còn lặp lại cách kể như câu mở đầu “Đôi khi con biết”, gợi hình
dung ông đang trải nghiệm trong một hoàn cảnh khác, bị chi phối bởi những hệ lụy
khác mà bạn đọc chưa thể đoán biết ngay: Đôi khi con biết không phải thế…/
Đôi khi con biết mẹ về. Thủ pháp ấy cho hay người viết đang ngập chìm trong nặng
nề, bi phẫn. Tôi chợt tưởng tượng ông đang cầm cái que, hoặc vạch ngón tay xuống
đất, vừa vẽ vừa đuổi theo từng ý nghĩ của mình. Diễn biến ấy được nhà thơ giấu
kín, để tùy bạn đọc tưởng tượng về những gì mẹ ông đã phải hy sinh, chịu đựng
qua những cơn hoạn nạn, ly tán. Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng cũng cho bạn đọc biết
được giọt nước mắt của ông đang lặng lẽ “chảy vào trong”. Ấy là nước mắt của
người đã nếm trải nhiều cay đắng của phận người, phận dân tộc mình, khi ông viết Đôi
khi con biết mẹ về/ Trong chiếc chiếu hoa. Và, ông đã Thức suốt đêm đập muỗi/
Không con nào chết/ Chúng lọt hết qua kẽ tay. Hình ảnh những con muỗi “lọt
hết qua kẽ tay” là trạng thái vô hồn, mất khả năng điều khiển hành vi của
người trong cuộc. Trừ một con/ Bay về lúc nửa đêm chợt gây đột biến,
xoay bài thơ sang hướng khác. Đó là không gian thuở xưa ấm áp hơi thở mẹ, mát
lành bàn tay mẹ.
Ngôn ngữ trong câu thơ cuối được tối giản đến mức không thể tối giản hơn. Hình ảnh “kịp lặng lẽ” cho thấy hình dáng nhà thơ đang nép mình bất động, chăm chú nhìn con muỗi đẻ những hạt trứng vàng xuống “Bể nước đầy cơn mưa cũ”. Dù bị thôi miên sâu, nhưng khi tỉnh lại tôi thấy nhà thơ Nguyễn Đức Tùng vẫn ở vị thế người dẫn chuyện. Ông giữ thái độ tỉnh táo đưa tôi quay về với ký ức của tôi, bằng nội lực, tài nghệ và cảm xúc mãnh liệt của mình.
Ngôn ngữ trong câu thơ cuối được tối giản đến mức không thể tối giản hơn. Hình ảnh “kịp lặng lẽ” cho thấy hình dáng nhà thơ đang nép mình bất động, chăm chú nhìn con muỗi đẻ những hạt trứng vàng xuống “Bể nước đầy cơn mưa cũ”. Dù bị thôi miên sâu, nhưng khi tỉnh lại tôi thấy nhà thơ Nguyễn Đức Tùng vẫn ở vị thế người dẫn chuyện. Ông giữ thái độ tỉnh táo đưa tôi quay về với ký ức của tôi, bằng nội lực, tài nghệ và cảm xúc mãnh liệt của mình.
Giọng nói khách quan vang lên trong hầu hết những bài thơ ở
giai đoạn gần đây của Nguyễn Đức Tùng. Ba nhân vật (vầng trăng, anh trai nhà
thơ và nhà thơ) trong bài thơ “Hai vầng trăng”, mỗi người như nói với
nhau một câu chuyện súc tích, ngắn gọn nhưng đã mở ra ba cánh cửa của ba không
gian khác biệt: Năm tuổi, ta thức dậy sớm/ Theo mẹ lên nhà ga/ Mi cũng đi
theo ta/ Ra cửa/ Rồi chạy theo ta trên xe lửa/ Ôi vầng trăng lặng im. Câu
“phản biện” của người anh trai - “hôm đó mi vẫn còn ở trong sân” - đã
mở ra nhiều không gian và thời gian khác nhau, làm người đọc bất ngờ, phân vân
không biết nên dừng lại ở không gian nào. Điều thú vị nhất là, bằng cách khơi
ra nhiều hiện thực không giống nhau về cùng một sự vật tưởng chừng quá quen thuộc
(như vầng trăng), nhà thơ khiến bạn đọc phải giật mình, hụt hẫng, băn khoăn về
những hiện thực khác còn ẩn giấu, rình nấp chưa bao giờ phát lộ. Bài thơ “Làng
quê”, nhân vật “Anh” trở về khi người vợ đã chết, một vài hình ảnh được thắp
lên trong đó như những ngọn đèn hạt đỗ trong đêm tối kinh hoàng những tiếng cú
rúc, vết máu khô trên ngực… Anh đặt thang thuốc bắc lên thềm nhà/ Cúi
đầu, lùi lại. Đến câu kết Rồi nhổ sào/ Rời bến làm cả “Làng quê”
trôi như cỗ quan tài khổng lồ trên dòng sông đục ngầu máu và nước mắt.
Thế giới “con rối” trong thơ Nguyễn Đức Tùng thường được sắp
đặt ở trạng thái bất động và định vị sẵn, giống như đạo diễn chuẩn bị trước một
số bối cảnh cho sân khấu trước vở diễn. Và, sau khi Nguyễn Đức Tùng phất tay “mở
màn” để những “con rối” kia khóc cười theo số phận trôi nổi, diễn tiếp những
xung đột của riêng nó, đó là lúc câu kết bài thơ xuất hiện. Câu thơ kết treo
dây thòng lọng, thường mở ra những biến tấu kịch tính trong thơ ông. Trong bài
thơ “Lịch sử làng tôi”, người mang “đàn địch”, “thau giặt”, “nồi đồng”,
“bồng trẻ con”, “cầm cục đá”…, tất cả đã sẵn sàng, nhưng “máy bay không đến”.
Khổ kết của bài thơ “Buổi chiều” lại gây một kiểu bất ngờ khác của một bi kịch
mang nhiều phi lý. Chuyện một người sống sót qua một tai nạn khủng khiếp. Nhưng
sau đó anh đã mất trí nhớ. Người sống sót cầm trong tay/ Một sợi dây
dài…/ Một đầu vắt qua cửa sổ ra ngoài. Tôi nghĩ nếu Nguyễn Đức Tùng kết ở
câu Kéo dài vô tận đến chân trời cũng đã mang một hiệu ứng đặc biệt,
gợi mở đa chiều những liên tưởng cho bạn đọc. Nhưng ở bài thơ này, nhà thơ như
vận động viên ma-ra-tông đã dư sức về đích. Câu thơ kế tiếp mới là câu kết thúc Nơi
câu chuyện bắt đầu bằng ngôn ngữ khác, đã làm những chi tiết trong bài thơ
chỉ còn là cái cớ để bạn đọc chuyển nội dung sang hệ quy chiếu khác, trường ngữ
nghĩa khác.
Những cái kết bất ngờ đã tạo nên sự độc đáo trong thơ Nguyễn
Đức Tùng, nhưng đôi lúc cũng biểu lộ những hạn chế, nếu đặt những bài thơ viết
cùng một giai đoạn bên cạnh nhau, bởi chúng có dáng dấp quen thuộc trong cách về
đích. Những bài như vậy không nhiều, nên chắc nhà thơ Nguyễn Đức Tùng sẽ lưu
tâm chọn bài khi in tập sau này.
Bất ngờ nối bất ngờ, phải chăng tôi cũng đang cảm thấy mình
thành “con rối” trong thế giới thơ Nguyễn Đức Tùng, bởi như có ai đó đang điều
khiển, mê dụ mình. Tôi nhìn thấy trong thơ Nguyễn Đức Tùng khói hương chùa chiền
vẽ hình những mặt người, hình đồ vật, vẽ những con rệp sống qua hàng thế kỷ, những con
bướm tìm gì/ trong bụi rậm đầy gai (Trong bụi gai). Tất cả chúng đều
mang hơi thở Nguyễn Đức Tùng, phả hơi ấm vào tôi để cùng nhau tồn tại, chuyển động.
Trong heo may se lạnh của sương sớm cuối thu, tôi đứng lên khỏi bàn làm việc,
chân chập chững đặt lên mặt đất ngỡ đâu còn quen thuộc, tay cử động giật cục
theo văng vẳng bên tai mình giọng đọc của nhà thơ. Nguyễn Đức Tùng như một diễn
viên đang lồng tiếng, lúc nghiêm trọng, da diết, lúc bỡn cợt…
Tôi hoàn thành bài viết trên vào tháng mười một năm 2012 cho
Báo “Nghệ thuật mới” số 11, ra ngày 10/12/2012, chuyên đề về thơ Nguyễn
Đức Tùng. Do vậy khi đó, tôi chỉ đọc được những bài thơ của ông viết trước
11/2012. Từ đó đến nay (4/2016), nhà thơ tiếp tục hành trình, và đã mở thêm chặng
đường mới mẻ. Nay đọc lại thơ Nguyễn Đức Tùng, tôi vẫn giữ nguyên nhận xét gần
bốn năm trước. Thơ Nguyễn Đức Tùng luôn là thế giới của những “con rối” với bàn
tay “điều khiển” tài tình của ông phía sau những nhân vật, sự kiện, khung cảnh…
Điều mới mẻ hơn trong thơ Nguyễn Đức Tùng thời gian gần đây là, nhà thơ đã tạo
ra nhiều tầng bậc sự kiện trên nền tảng tự sự. Những sự kiện ấy thường được chồng
lấn, chuyển động phức rối quanh một tâm điểm. Tâm điểm ấy chính là cốt lõi, cái
tứ chủ đạo của bài thơ. Cấu trúc ấy giống một cây đại thụ, có nhiều cành nhánh
vươn rộng và sum suê quanh một thân cây trụ vững. Cách xoay chuyển không gian
trong thơ của ông cũng linh hoạt, bất ngờ hơn trước. Những khoảng không-thời
gian được ông cắt nhỏ rồi ghép lại bằng những “mối hàn” kín và chắc chắn. “Mối
hàn” ấy được Nguyễn Đức Tùng thực hiện rất linh hoạt bằng cách sắp đặt trật tự
những hình ảnh vừa hợp lý vừa phi lý. Chúng thường nằm chênh vênh giữa thực và ảo,
sáng và tối, thức tỉnh và mộng mị… Cũng do những “mối hàn” hợp lý, nên ta thấy
khoảng cách thời gian và hành động của các nhân vật, sự kiện, thậm chí cả thời
đại trong thơ ông chỉ cách nhau trong chớp mắt, gang tấc. Về hình thức, có khi
những khoảng cách không gian và thời gian ấy được nhà thơ sắp đặt ngay trong
cùng một câu thơ, và, được phân định bằng một dấy chấm hoặc dấu phảy. Tôi xin dẫn
bài thơ “Những người dũng cảm” để bạn đọc thấy được sự mới lạ trong thiết lập
không gian, cũng như ngôn ngữ biểu đạt trong thế giới “con rối” của nhà thơ
Nguyễn Đức Tùng. Đây là tác phẩm khai bút đầu năm 2016 của ông, đăng trên
Website trannhuong.net, ngày 7/1/2016. Nguyên văn bài thơ như sau:
Những người dũng cảm thật hiếm hoi
Những người thông minh
còn hiếm hoi hơn nữa
còn hiếm hoi hơn nữa
Và những người tử tế
còn hiếm hơn gấp bội
còn hiếm hơn gấp bội
Và tất cả những thứ ấy cộng lại
Bạn chỉ gặp một người một lần một đời
Như bạn đi dưới trời mưa tầm tã
Không mũ, không giầy, sấm chớp đì đùng, một chiếc xe hơi
Tấp vào lề, cửa mở
Bạn không có thì giờ lựa chọn
Nhìn trước nhìn sau, lắc đầu
Nó chạy vụt đi, bạn tiếp tục bước, mưa ngày một mau, bạn nghĩ
thầm
Thế rồi bạn đi mãi, một mình, suốt buổi chiều
Đôi khi
Bạn gặp một người thông minh nhưng không dũng cảm
Một người dũng cảm nhưng không tử tế
Một người tử tế nhưng không thông minh
Như những chiếc xe hơi chạy vù qua, có khi quá nhanh
Như kẻ bận rộn, có khi tà tà quá chậm
Như kẻ lạc đường, lớ ngớ chờ bạn giúp đỡ, chứ không phải
Ngược lại, và bạn cứ một mình dưới trời mưa đi mãi.
Bài thơ trên cho thấy, nhà thơ Nguyễn Đức Tùng đã dẫn dắt người
đối thoại mà ông gọi là “bạn” bằng giọng độc thoại-diễu nhại. Nhân vật “bạn”
trong bài thơ chính là người đọc, hoặc một ai đó không thể/ cần xác định. Ông
chọn những giả thiết ngẫu nhiên và lộn xộn có chủ ý dành cho người đó ngay từ
khổ thơ đầu. Giả thiết tiếp theo ở khổ thơ thứ hai với nhiều trạng thái, sự kiện
đan xen được đặt ra nếu: bạn đi dưới trời mưa tầm tã/ Không mũ, không giầy,
sấm chớp đì đùng, một chiếc xe hơi/ Tấp vào lề, cửa mở… Những chuyển động trong
bài thơ cho thấy, vẫn là những động tác đứt đoạn, giật cục của một “con rối” có
người điều khiển: Nhìn trước nhìn sau, lắc đầu/ Nó chạy vụt đi, bạn tiếp tục
bước, mưa ngày một mau, bạn nghĩ thầm. Đến khổ thơ thứ ba cũng là khổ cuối
cùng, bạn đọc dễ dàng hình dung một nhân vật đi lông bông, mải miết, đi mãi một
mình dưới một chiều mưa. Và, theo sát nhân vật này vẫn là “nghệ sỹ rối” Nguyễn
Đức Tùng. Ông giật dây cử động, lồng tiếng, phả hơi ấm vào con rối theo chủ ý
riêng của mình. Điều thú vị ở đây là, bạn đọc thấy được những suy nghĩ và cảm
xúc của nhà thơ đang nghĩ hộ cho nhân vật mà ông xây dựng từ đầu bài thơ. Những
giả thiết tiếp theo được nhà thơ bày đặt ra cho nhân vật này, nghe có vẻ ngớ ngẩn,
quẩn quanh, nhưng lại rất có lý và hấp dẫn: Bạn gặp một người thông minh
nhưng không dũng cảm/ Một người dũng cảm nhưng không tử tế/ Một người tử tế
nhưng không thông minh. Cách đảo nghĩa từng hình ảnh trên cho thấy tác giả đã
dùng thủ pháp diễu nhại rất tỉnh táo để tạo ra tiếng cười thầm rất khôi hài và
thú vị. Đến đây, bạn đọc bỗng giật mình bởi cách liên tưởng lạ, đột ngột của
nhà thơ: Như những chiếc xe hơi chạy vù qua, có khi quá nhanh/ Như kẻ bận
rộn, có khi tà tà quá chậm…/ … và bạn cứ một mình dưới trời mưa đi mãi.
Trong bài thơ không dài, nhưng ta thấy Nguyễn Đức Tùng đã chuyển đổi câu chuyện
qua nhiều tầng lớp không gian, qua nhiều cung bậc của cảm xúc và chồng chéo những
liên tưởng. Qua bài thơ này và những tác phẩm khác gần đây cho thấy, ngôn ngữ
biểu đạt trong thơ Nguyễn Đức Tùng đằm sâu và đa nghĩa hơn trước. Những câu thơ
được ông dồn nén nhiều sự kiện, gần với cách nói đời thường hơn. Thơ Nguyễn Đức
Tùng luôn vận động, tạo thêm nhiều giọng điệu trong phong cách đặc trưng của
ông.
Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng sinh 1955, tại Quảng Trị, lớn lên và
đi học tại Huế, hiện là bác sĩ định cư tại Vancouver, Canada. Ông là một trong
những tác giả có thành tựu trong nhiều lĩnh vực như, làm thơ, viết văn, viết
phê bình, dịch thuật… Ông sáng tác đều tay, chắn chắn, cách tân thơ trên nền tảng
văn hóa và kiến thức phong phú, vững vàng. Tôi cũng như nhiều bạn đọc xin bày tỏ
niềm mong đợi được đọc một tập thơ của Nguyễn Đức Tùng xuất bản tại Việt Nam
trong tương lai không xa.
Tranh của Họa sĩ El Lissitzky
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét