Bài
thơ Động hoa vàng của
Trong nền văn học Việt Nam, văn học Phật giáo chiếm một vị
trí khá lớn. Những thiền sư - thi sĩ như Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Khuông Việt, Mãn
Giác, Huyền Quang…đã tạo nên dòng thơ Thiền linh diệu suốt hai triều Lý - Trần.
Một dòng thơ mà cho đến bây giờ và chắc chắn mãi về sau chúng ta không khỏi ngỡ
ngàng trước vẻ đẹp minh triết và tinh thần nhân văn của nó. Đến thế kỷ XX, một
thế kỷ nhiều vinh quang nhưng cũng quá nhiều cay đắng của người Việt, văn học lại
chứng kiến sự xuất hiện của một nhà thơ Phật giáo: Phạm Thiên Thư - “người
hiền sĩ ngồi bên lề cuộc sống ta bà, lặng yên thi hóa kinh phật”. Đọc thơ ông,
ta tìm thấy những điều phong phú và mới lạ về tôn giáo, tình yêu và thiên
nhiên. Giữa một thời đạn lửa, ông bình thản lập cho mình một cõi thi ca riêng:
trong trẻo, trữ tình và đậm chất Thiền…
Bài thơ “Động Hoa Vàng” là một trong những thi phẩm
nổi tiếng nhất trong cõi thơ Phạm Thiên Thư. Xuất hiện khoảng đầu thập niên 70 ở
miền Nam, bài lục bát 400 câu này là một câu chuyện tình yêu trong sáng, cao
khiết không nhuốm màu tục lụy. Tựa một viên ngọc lung linh huyền ảo, nó dẫn người
đọc tìm về một thế giới tịch lặng, đơn sơ đẫm hương Thiền. Nơi ấy con người có
thể tìm được con đường nuôi dưỡng chân tâm hầu mong một cuộc sống bình an,
thanh thản. Hẳn không mấy khó khăn để nhận ra rằng văn hóa Thiền thấm đẫm trong
từng câu, từng chữ và làm nên nét đẹp thâm trầm, ý nhị cho bài thơ.
1. “Động Hoa Vàng” - Cõi thiền hay không gian thoát tục
Hương Thiền tỏa trong bài thơ “Động Hoa Vàng” của
Phạm Thiên Thư trước hết ở không gian nghệ thuật. Từ câu chuyện “gã từ
quan” coi thường danh lợi, chán ghét những thị phi, giành giật trong cõi đời
mà tìm về nơi thông xanh suối biếc, nương náu chốn núi rừng, nhà thơ đưa ta đến
không gian bát ngát của động hoa vàng. Động Hoa Vàng là đâu? Là một động Hoàng
Hoa heo hút giữa biên thùy trong thơ “Chinh phụ ngâm”:
“Xót người lần lữa ải xa
Xót người nương chốn hoàng hoa dặm dài”
Xót người nương chốn hoàng hoa dặm dài”
Hay là một thung lũng hoa vàng nào đó trong thực tại. Chỉ biết
đó là không gian mơ ước của những người quá mệt mỏi trước thời cuộc, muốn tìm về
thiên nhiên để thanh lọc tâm hồn mình. Từ Động Hoa Vàng, nhà thơ nói đến rất
nhiều những hình ảnh thuộc về không gian. Đó là: miền tuyết thơm, suối tơ huyền,
suối hoa rừng, cội thu xanh, đồi dạ lan, miền cỏ hoa, bến hoa tươi, đường lặng
im, non xanh, thềm trăng, lưng núi phượng… Tất cả những hình ảnh sang trọng,
thanh thoát mà đơn sơ ấy thuộc về một không gian thoát tục. Không ồn ào náo động,
không phù phiếm lòe loẹt, tất cả ở trong một trạng thái vắng lặng, thanh bình,
nhẹ nhàng, trong sáng, trầm mặc. Đó là không gian của Văn Hóa Thiền - không
gian tịch lặng, phảng phất nét sabi trong thơ Hai- cư Nhật Bản:
Đặc biệt, không gian thoát tục ấy là một không gian được phủ
đầy hoa, đầy trăng và tiếng chim. Có đến 38 lần Phạm Thiên Thư nhắc đến động
hoa, thảm hoa, giàn hoa… 15 lần nhắc đến trăng và 32 lần sử dụng hình ảnh cánh
chim, tiếng chim trong bài thơ “Động Hoa Vàng”. Đó là một đồi dạ lan trong miền
u tĩnh:
“Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan”
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan”
là hương hoa trong ấm trà mùa đông:
“Đất nam có lão trồng hoa
Mùa hoàng cúc nở ướp trà uống đông”
Mùa hoàng cúc nở ướp trà uống đông”
Hay cánh hoa dại ven đường:
“Bông hoa trắng rụng bên đường
Cánh thơm thông điệp vô thường tuyết băng”
Cánh thơm thông điệp vô thường tuyết băng”
Đó là ánh trăng in dấu giày:
“Người về sao nở trên tay
Với hài đẫm nguyệt thêm dài gót hoa”
Với hài đẫm nguyệt thêm dài gót hoa”
hay bóng trăng thanh bình nơi thôn dã:
“Bóng trăng tịch mặc hiên nhà
Thành đàn nảy hạt tỳ bà quyện hương”
Thành đàn nảy hạt tỳ bà quyện hương”
Cùng với trăng, hoa là tiếng chim, người đọc có cảm giác tiếng
chim như ngập tràn không gian:
“Tiếng chim trong cõi vô cùng
Nở ra bát ngát trên rừng quế hương”
Nở ra bát ngát trên rừng quế hương”
Đó là tiếng chim linh thiêng theo văn hóa Thiền và đời sống
tâm linh người Việt, là bầy nhạn trắng mùa xuân:
“Mười con nhạn trắng về tha
Như lai thượng trụ trên tà áo xuân”
Như lai thượng trụ trên tà áo xuân”
là con hạc nhuốm màu huyền thoại:
Trăng, hoa và tiếng chim, hương hoa thoang thoảng, ánh trăng
nhẹ nhàng, tiếng chim trong vắt làm cho không gian trở nên tịch lặng, linh
thiêng, thấm đẫm thiền vị. Đó là nơi con người có thể lắng lòng lại, thả hồn
vào cõi thinh không để tìm sự bình an, thanh thản. Không gian “Động Hoa
Vàng” trong thơ Phạm Thiên Thư có nét gì đó tựa cõi Bồng Lai nơi chàng Từ
Thức gặp tiên, tựa suối hoa đào trong “Đào hoa nguyên ký”, tựa không gian
trong thơ Hai-cư:
“Quán bên đường
Các du nữ ngủ
Trăng và đinh hương”
(Basô - Nhật Chiêu dịch)
Các du nữ ngủ
Trăng và đinh hương”
(Basô - Nhật Chiêu dịch)
2. “Mùa xuân” - Thời gian vĩnh cửu
Nếu không gian của bài thơ “Động Hoa Vàng” là một
không gian vắng lặng, huyền diệu với ánh trăng, hương hoa và tiếng chim thì thời
gian trong bài thơ là thời gian mùa xuân. Có đến 13 lần phạm Thiên thư nói đến
mùa xuân trong bài thơ này, cũng có nghĩa là thời gian bài thơ chủ yếu xoay
quanh mùa khởi đầu cho một năm, mùa của hạnh phúc và niềm vui. Đó là mùa xuân ở
Động Hoa Vàng, nơi con người sống giữa thiên nhiên để tâm hồn thanh tịnh:
“Mùa xuân bỏ vào suối chơi
Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa”
Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa”
là mùa xuân ở đầu nguồn con suối, nơi chú cá nhỏ bất ngờ gặp
bóng mây trôi trong nước:
“Có con cá mại bờ xanh
Bơi lên nguồn cội tắm nhành suối xuân
Giữa dòng cá gặp phù vân
Hỏi sao mây bỏ non thần xuống chơi”
Bơi lên nguồn cội tắm nhành suối xuân
Giữa dòng cá gặp phù vân
Hỏi sao mây bỏ non thần xuống chơi”
Ngay cả khi hoài niệm về tình yêu thì thời gian hoài niệm vẫn
là thời gian mùa xuân:
“Con khuyên nó hót trên bờ
Em thay áo tím thờ ơ giang đầu
Nhớ xưa có kẻ lên lầu
Ngày xuân gieo nhẹ trái cầu gấm hoa”
Em thay áo tím thờ ơ giang đầu
Nhớ xưa có kẻ lên lầu
Ngày xuân gieo nhẹ trái cầu gấm hoa”
Thi ca xưa nay thường ưu ái mùa thu hơn bất cứ mùa nào trong
năm. Với gió heo may, với tiết trời se lạnh, với lá vàng rơi, mùa thu dễ chạm
vào những cảm xúc tinh tế nhất của thi nhân. Ấy thế mà suốt cả một bài lục bát
400 câu, Phạm Thiên Thư hầu như rất ít nói về mùa thu mà nói nhiều đến mùa
xuân. Thiền tông quan niệm bậc trí giả khi đã đạt Đạo, hiểu được lẽ vận hành của
tạo vật, thoát khỏi tham, sân, si thì tâm hồn sẽ đạt đến cảnh giới của mùa xuân
an lạc, không còn buồn khổ sầu lo. Mùa xuân trong “Động Hoa Vàng” cũng
là một mùa xuân như thế. Nó không chỉ là mùa xuân của ngoại giới mà còn là mùa
xuân của tâm tưởng khi con người đã từ bỏ tất cả những giành giật, đua chen mà
tìm tới cõi tịch diệt của Thiền tông. Đó có lẽ là mùa xuân vĩnh cửu mà Mãn Giác
Thiền Sư đã nói đến trong bài kệ nổi tiếng của mình:
“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”
(Cáo tật thị chúng)
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”
(Cáo tật thị chúng)
3. “Gã từ quan” - Nhân vật trữ tình với sự hòa quyện giữa Đời
và Đạo
Chuyện được kể trong “Động Hoa Vàng” là chuyện của
gã từ quan - chủ thể và cũng là nhân vật trữ tình của tác phẩm. Đó là một chuyện
tình yêu nhuốm Thiền vị khiến bài thơ trở nên đẫm hương Thiền. Thiền học và
tình yêu, hai khái niệm tưởng chừng không thể dung hòa được bởi tình là khổ lụy
còn thiền là giải thoát, tình là lưu luyến còn Thiền là cắt đứt nghiệp chướng. Ấy
vậy mà nhân vật gã từ quan cứ vấn vít nửa đời, nửa Đạo, chơi vơi giữa tình yêu
và Phật pháp.
Nội dung bài thơ là chuyện tình yêu, là những lời yêu Phạm
Thiên Thư gửi đến người tình nhưng Thiền tính lại hiển hiện trong cái nhìn,
trong ngôn ngữ, trong tâm thức nhà thơ:
“Em nằm ngó cội thu xanh
Môi ươm đào lý một nhành đôi mươi
Về em vàng phố mây trời
Tay đơm nụ hạ hoa dời gót xuân
Thì thôi tóc ấy phù vân
Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương
Thì thôi mù phố xe đường
Thì thôi thôi nhé đoạn trường thế thôi”
Môi ươm đào lý một nhành đôi mươi
Về em vàng phố mây trời
Tay đơm nụ hạ hoa dời gót xuân
Thì thôi tóc ấy phù vân
Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương
Thì thôi mù phố xe đường
Thì thôi thôi nhé đoạn trường thế thôi”
Nhân vật trữ tình ngắm người yêu mà suy ngẫm, nào lúc nằm,
nào lúc về, nào hình hài, nào dáng vẻ, nào môi ươm đào lý, nào gót dời hoa
xuân. Thế nhưng tóc ấy chỉ là phù vân, lệ ấy, dáng ấy mong manh như sương khói.
Em đẹp rạng ngời giữa cội thu xanh, giữa vàng phố mây trời nhưng chỉ là vô thường,
là hư huyễn. Đó là nỗi sầu nhuốm vẻ Thiền khi nói đến người yêu.
Có lúc đang nói chuyện Thiền, chuyện “Gối tay nệm cỏ nằm
say/ Gõ vào đá tụng một vài biển kinh” thì những kỷ niệm tinh khôi của
tình yêu chợt ùa về trong tâm tưởng:
“Nhớ xưa em chửa theo chồng
Mùa xuân em mặc áo hồng đào rơi
Mùa thu áo biếc da trời
Sang đông em lại đổi dời áo hoa”
Mùa xuân em mặc áo hồng đào rơi
Mùa thu áo biếc da trời
Sang đông em lại đổi dời áo hoa”
Để rồi hình bóng người yêu hiện lên trong mắt nhân vật trữ
tình với một vẻ đẹp thánh thiện tựa Quan Thế Âm:
“Áo em phất cõi di đà
Ngón chân em nở cánh hoa đại từ”
Ngón chân em nở cánh hoa đại từ”
Ta có cảm giác đây là một tu sĩ lãng mạn, một hiền giả tìm về
cõi Phật vẫn mang theo mình hình bóng người yêu. Chính sự kết hợp diệu kỳ của
tình yêu và Thiền học đã tạo nên vẻ đẹp vừa nồng nàn vừa linh thiêng chỉ có
trong thơ Phạm Thiên Thư. Chính con vạc đậu bờ kinh cũng ghẹo nhà thơ - nhân vật
trữ tình:
“Hỏi con vạc đậu bờ kinh
Cớ sao lận đận cái hình không hư
Vạc rằng thưa bác Thiên Thư
Khoác chi cái áo thầy tu ỡm ờ”
Cớ sao lận đận cái hình không hư
Vạc rằng thưa bác Thiên Thư
Khoác chi cái áo thầy tu ỡm ờ”
Tìm hiểu thi phẩm “Động Hoa Vàng” của Phạm Thiên
Thư ở các góc độ: Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, nhân vật trữ
tình… Sẽ nhìn thấy được vẻ đẹp vi diệu, linh thiêng ẩn trong từng câu, từng chữ.
Nhìn từ văn hóa Thiền, “Động Hoa Vàng” tựa một loài hoa bình dị mà
thoang thoảng một mùi hương dịu nhẹ, thanh tao làm say đắm lòng người. Đó là
cõi Thiền tịch lặng, là ánh trăng thanh bình trong cõi phù sinh.
Hồ Tấn Nguyên Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét