Trời qua cơn mưa đêm, nắng hừng lên. Quang cảnh thị trấn sạch
sẽ, óng ả. Tôi đang ngồi làm tin tờ bên cửa sổ. Chợt thấy một cô gái vén quần
bước qua vũng nước ngoài đường, cô mặc bộ áo quần màu đen...
Miên mập hồng, gái mười chín bừng ngoại hình những đường cong
hấp dẫn, làn da Miên ngấm hương biển mặn mòi, khuôn mặt chữ điền sáng láng,
cánh mũi hếch thoáng đãng làm tăng vẻ ngang bướng. Thắp lên trên khuôn mặt ấy một
đôi mắt ươn ướt. Miên đứng trước gương nghiêng đầu, gỡ từng lọn tóc rối cuốn
đêm qua, nheo mắt cười như chớm dậy thì nên tập làm dáng!
Dòng nắng xuyên tán vú sữa lốm đốm hoa nắng nhàn nhạt trên
cát. Dì Quyên đã đi chợ, tôi và Hải em trai Miên dọn bàn ghế dùng vào lễ ra mắt
họ hàng bên vợ, hôm qua chưa kịp dẹp. Lễ đơn giản, chỉ một khách đến chia vui
là ông Chủ tịch xã. Tôi và Miên được công nhận vợ chồng.
Ngoại Miên, ngồi lọt trong chiếc chõng tre, bên trái bếp, vẫy
tay gọi tôi, bà bảo:
- Coi chừng trễ tàu đó mấy đứa.
Nhìn vào mắt tôi, bà tiếp:
- Em nó hư lắm, lớn xác rứa chớ chưa biết chi mô con, chỉ cho
em từ từ nghe. Tội nghiệp! Ngày cưới không cha không mẹ...
Nói ngang đó, mắt ngoại rơm rớm, bà cầm xấp tiền dúi vào tay
tôi dặn:
- Cầm ít tiền mà tiêu, mệ bòn có chừng ni thôi, khi mô mệ bán
thơm mệ gửi tiền lên thêm cho tụi bây.
Miên ôm túi xách căng phồng đi đến, thấy ngoại cho tiền liền
nhoẻn miệng cười nịnh mệ, nói:
- Thôi mệ cất đi, tụi con có rồi.
Tay Miên lấy xấp bạc nơi tôi nhét vào túi xách. Ngoại cười hiền,
đáy mắt còn ngấm ngước, mắng yêu cháu:
- Thôi đừng làm bộ nữa o, lên nói với mụ gia mi mai mốt rảnh
mệ lên thăm.
- Dạ, con lên nghe mệ - giọng Miên chùng xuống buồn buồn -
Thôi đi anh.
Đường làng rực nắng, chúng tôi gặp những cô gái miền biển hối
hả trong công việc thường ngày. Tôi đùa:
- Con gái biển ngực tấn công, mông phòng thủ em hỉ?
- Còn em?
- Cũng rứa, đi cứ rung rung tề.
- Kệ tui, ai biểu ngó.
Ra tới bến tàu sát nách đình chợ. Chúng tôi hoà nhập vào đám
người nhộn nhịp.
Chiếc tàu nước ùng ục chạy ra vùng đầm phá mênh mông, bỏ lại
đằng sau bãi cát trắng miệt mài và những rặng tre dần xám dần. Một vùng quê yên
ả chìm vào chân mây.
Tôi và Miên sống chung với nhau mấy tháng mới về thăm nội
Miên, tôi mới biết Huyền em Miên, em kế Hải. Sau giải phóng chị em Miên tứ tán
người một nơi, sống nhờ nội, ngoại, Miên kể:
- Nhà mệ nội giàu lắm anh, nhưng răng ở không thương tụi em
mô. Mạ em làm dâu cực lắm! Mạ làm tôm tiếc không lặt đầu, nội cũng chửi:
"Con nhà ai không dạy". Sáng nấu nước nóng cho mệ súc miệng, phải đứng
chờ mệ phun phù phù xong và khoanh tay nghe mệ chửi: "Nóng quá muốn giết
tui chắc", nước ấm lại chửi: "Tê cả răng". Mạ em nghe ba có bồ,
mạ nhảy sông tự tử, em đứng trên bờ khóc hu..hu, người vạn đò cứu mạ lên đó. Mệ
cũng chửi: "Muốn gieo hoạ cho tau". Ba em ít khi về thăm nội, vì quê
nội "bất an ninh", chỉ một lần về bằng trực thăng, cả xóm bu lại coi,
lính nghĩa quân xã tự chạy ra gác máy bay. Làng nội cách làng ngoại mười lăm
ki-lô-mét.
Về thăm Huyền, Miên dắt tôi ngủ lại nhà bà con trong xóm biển.
Tới thăm Huyền, Huyền đang phơi củi sau bếp, thấy chị mừng không dám chạy
vô. Miên chào mệ:
- Thưa mệ, chồng con nì.
- Tau có nghe mấy đứa nói - Bà nhìn tôi hờ hững - Ở lại ăn
cơm hử?
- Dạ tụi con lên mệ nợ. Cho con thăm mấy đứa em chút.
- Tụi hắn sau ơ tề.
Miên ra vườn, chị em ôm nhau ngồi bệt xuống cát, khóc! Tôi và
Miên lội bộ lịch xịch trên cát ra bền tàu. Miên nhìn lui thấy Huyền đi chân trần
lẽo đẽo theo sau, Huyền đòi ở với chúng tôi. Miên dỗ em: "Anh chị chưa có
việc làm, mần răng nuôi em được, từ từ đã rồi chị về đem em theo". Tôi
cũng hẹn: "Khi mô anh chị ổn định, Huyền lên ở với cháu và anh chị
nghe". Huyền cứ lì lì đi theo. Miên mấy lần dỗ em trở lui, Huyền lẵng nhẵng
không chịu. Miên bẻ roi dương liễu doạ Huyền, rồi ...đánh thiệt. Miên quay lui,
Huyền chạy lui. Miên đi tới, Huyền lẽo đẽo theo cho tới bến tàu.
Tôi đứng tần ngần ở bến chợ, nhìn hai chị em ôm nhau khóc. Bé
Huyền mười bốn tuổi da ngăm ngăm nắng gió miền biển, nhiều vết xước trên cánh
tay trần đen nhẻm, vì hàng ngày lủi thủi trong rừng dương kiếm củi, chứng tỏ em
ở với nội chẳng sung sướng gì!? Huyền từa tựa Miên. Cặp lông mày vòng nguyệt,
như nét vẽ nhuyễn của hoạ sĩ tài hoa đặt xênh xếch trên đôi mắt nhay nháy đen,
đang loà luyện nước mắt. Miên năn nỉ em:
- Em cố ở với mệ thời gian nữa, anh chị sẽ về đưa em theo.
Miên nhắc hai ba lần. Huyền vẫn lúc lắc mái tóc hoe nắng, nói
trong nhịp nấc:
- Em không chịu m..ô ô.. hớc..., mệ đập....hớc...em hoài...
Tàu nước nổ máy. Tôi nâng má Huyền hôn vào đỉnh trán nụ hôn
ruột thịt sao lòng ngấm đầy vị mặn của em? Huyền khóc to, lững thững đi ra mép
nước. Bóng bé nhỏ của Huyền chơ vơ trên bến vắng, nhoà trong mắt tôi. Tôi hứa
giữa thinh không: "Anh sẽ cố gắng làm có tiền để đón em theo".
Miên sinh con đầu lòng, Huyền lễ mễ nách thúng gạo chiêm xay
lức, phấn gạo hồng hồng. Huyền từ trảng cát quê ngoại, đưa quà ngoại cho Miên
ăn trong tháng còn ở cữ. Tôi lén ngắm trộm cô em vợ sớm lấm tấm cảnh nghèo, nỗi
u hoài trong đáy mắt mười lăm cứ rưng rức trong lòng tôi niềm xao xuyến không
nguôi. Miên len tay, vén những sợi tóc mai vương trên hai má trắng mịn của Huyền,
âu yếm nói:
- Nhẹ tay cho cháu ngủ, hành chị cả đêm đó. Coi, cặp lông mầy
giống dì Huyền như tạc chưa tề.
Huyền thơm má cháu, rạng rỡ:
- Giống chi tui mà giống.
Bỗng Miên nghiêm mặt, hỏi:
- Nì, bữa em theo chị ra bến đò, rồi đi thẳng về nhà ngoại
luôn à? Nghe mệ nội chửi chị dữ lắm, nói chị cù em theo.
- Em đi bộ lần lần, tới tối mới tìm ra nhà ngoại, mệ ngoại giữ
em ở lại luôn, không cho em về nội nữa.
Mẹ Huyền mất năm bảy hai. Ba Miên có con rơi trong vùng hai
chiến thuật! Ảnh ông chụp thời làm tiểu đoàn trưởng bộ binh, trông thật oai
hùng, đường bệ. Bông mai bạc lấp loá dưới khuôn mặt nần nẫn, lưng đeo khẩu col
45 xề xệ, ngang tàng. Tháng ba năm bảy lăm ông bị đồng đội bắn lầm đi chiếm tàu
vượt biển, bỏ đàn con dại chưa biết kiếm ăn, tan tác giữa đời.
Ba tôi từ ông lao công làm đường, được lái xe ru-lô cán đường
thảm nhựa. Mẹ tôi, buôn thúng bán mẹt nuôi tám anh em tôi ăn học đủ ngạt thở.
Tôi lấy vợ, gia đình tôi thêm miệng ăn, ba tôi thường cấu bẳn:
- Cha cô bà, to đầu rồi còn bắt thằng già ni nuôi báo cô...
Đất nước thống nhất. Đâu đâu cũng hừng hực không khí dựng
xây. Dạo ấy, gia đình tôi nhung nhúc miệng ăn nên túng quẫn. Cái khó bó cái
khôn, ảnh hưởng đến cuộc sống vợ chồng tôi, ít khi được phẳng lặng, lâu lâu nổi
lên cơn bão. Hạnh phúc chúng tôi như bếp lửa mùa đông vừa nhen giữa vùng gió
xoáy. Tôi, chàng thanh niên hai mươi ba tuổi, non dại và ngù ngờ giữ lửa, lại mắc
căn bệnh trầm kha của lòng hẹp hòi, để ngọn lửa tình khi bùng khi tắt...
Tôi quen Miên trên chuyến tàu chợ. Miên liến thoắng, tự
nhiên, có giọng ca quyến rũ. Tôi khoe Miên những bài thơ đã được đăng báo, cắt
sẵn. Miên rót những bài ca "Không tên" vào tai tôi trên chặng đường
dài Huế - Đà Nẵng.
Lấy nhau rồi, tôi bỏ hẳn làm thơ để đi buôn dàn xe đạp. Có tiền
dấm dúi cho Miên ăn. Chúng tôi quấn quýt thương yêu nhau và gây gổ. Giặt khăn
lau cho Miên, nhìn da thịt nuột nà lòng tôi lại lịm đi khi nghĩ quá khứ của
Miên. Đôi mắt Miên phiền muộn khi nghe tôi hỏi:
- Cô hãy kể cho tôi nghe!
Tôi chở Miên ra bến sông khi trời chập choạng. Chênh chếch
nguồn sông những áng mây chìm ửng, mặt sông nhăn nhúm muôn con sóng, chuyển từ
màu tím hoa cà sang màu lam lam rồi xám đen, bóng tối ngốn dần những vùng sáng
le lói cuối ngày.
Miên dõi mắt vào hư vô lục tìm dĩ vãng...Miên kể:
- Đại uý Phong dưới quyền ba em đã có vợ, năm con. Phong xưng
chú gọi em bằng tên. Mẹ em chết, ba em lấy vợ. Em thường hục hặc với bà kế mẫu.
Ba em phải đưa em vào đơn vị ở với ba. Ở đó em yêu Phong.
Phong đẹp hoang dã, mái tóc bồng bềnh mùi lửa đạn, trầm ngâm
hằng giờ bên tách cà phê ở câu lạc bộ. Ba em ít quan tâm đến tụi em, ông thường
la cà ở các vũ trường, hoặc về nhà ngủ với bà kế mẫu và các em nhỏ của em. Cơm
nước của em và Hải do mấy chú lính lo, thậm chí áo quần hai chị em em mấy chú
lính cũng giặt.
Em ở trong trại lính ăn học và vui chơi rất tự do.
Hôm ấy, Phong từ ban 3 hành quân ghé dặn em "tối anh
qua". Em lí nhí "dạ". Tối ấy em thức khuya chờ Phong, dù Phong
đi dép im re em vẫn nhận ra bước chân quen thuộc. Phong vào ngồi im lặng ngắm
em, em học bài lòng hồi hộp, những dòng chữ cứ nhảy múa lung tung. Phong cầm
tay em dắt em qua giường, vì biết ba em đã về nhà và Hải đã ngủ say, còn chú
lính gác Phong cho phép đi chơi. Em như bị thôi miên mặc cho Phong nhẹ nhàng cởi
áo... Phong về lén ngó trước ngó sau như tên trộm.
Sáng mai, khi em đi học, em xoay một vòng trước gương, em vẫn
tròn trặn đến lớp vui đùa cùng bạn gái không hay mình đã mất...
Giải phóng, em và Hải về ở với ngoại. Em học lớp mười hai, em
yêu thầy Đỗ. Cứ mỗi lần sắp hàng vào lớp, lòng em sung sướng, khi thấy thầy mặc
áo quần do em giặt, ủi. Thỉnh thoảng chủ nhật thầy về nhà ngoại, có khi ngủ lại.
Ngoại em trọng người có học, biết em thương thầy, mẹ cũng ngầm tác hợp. Nên ngoại
thường giữ thầy ở lại ăn cơm chung.
Với Phong, em là con bé ngu dại, vì nhiễm mốt yêu cuồng sống
vội thời chiến. Qua cơn đau em chín chắn nhận định: Biết xúc động trước sự khốn
khổ của người khác, em thương thầy Đỗ vì thầy nghèo mà có nghị lực vượt khó,
không biết ăn chơi đàng điếm và bản chất lãng mạn nơi em. Tình yêu giữa thầy và
trò có gì đó chênh vênh ngoài phạm vi lễ giáo, nhuốm màu bí mật, chơi vơi giữa
vùng trời lung linh bảy sắc cầu vồng huyền ảo. Em dễ nuôi trong mối quan hệ
trai gái vì không còn trong trắng. Em thích tính cách mô phạm của thầy Đỗ, khi
đùa Đỗ định nghĩa mô phạm là "mô cũng phạm", thầy đã phạm với em!
Nhưng than ôi! Đỗ không dám lấy con bé vụng dại, lầm lỡ. Đỗ
loá mắt trước sự giàu có của một nữ đồng nghiệp xấu xí. Đỗ đột ngột lấy vợ,
quên lời hứa: "Năm sau anh cưới em!
Em đi dự tiệc cưới bạn gái làng em, em nghĩ đời em sẽ không
được lần mặc áo cưới lên xe hoa. Em uống rượu trút buồn... rồi thấm say. Dân bạn
cùng lớp với em, ngồ ngộ bởi chớp mũi hay đỏ khi xúc động. Dân có thời săn đón
em, khi ấy em thương thầy Đỗ nên chỉ thương hại Dân thôi. Tiệc cưới tàn, em
say, Dân dìu em về. Ở làng giáp biển thì anh đã biết, bao la rừng dương, Dân
dìu em về phía ầm ào tiếng sóng, ngan ngát hương đêm, hương cây và hương cát. Nằm
trên cát em tưởng mình đang phiêu du trên sóng biển khơi. Em cảm nhận thấy hơi ấm
mơn trớn quanh em, thì Dân đã.... Em vùng dậy, chạy lảo đảo vì bản năng sực nhớ
lui tìm cái... mình quên. Có Dân đỡ quạnh quẽ. Dân muốn cưới em làm vợ, em
không chịu, em nghĩ em sẽ chóng thành bà nhà quê lam lũ vì cực, tàn tạ vì lũ
con.
Em không thể sống với ngoại, nơi vùng đất em có nỗi buồn bỏng
rát. Em vào đoàn thanh niên "Làm đẹp quê hương". Cùng với bạn bè
trong lao động, em tìm được nguồn vui và nét tươi tắn ngày nào vốn có. Gặp
Siêng, anh ruột Thuý, Thuý bạn học với em thời lớp chín. Siêng là tay du đãng
két tiếng.
Siêng cao lớn dềnh dàng, mặt ngầu hung dữ, vô học. Em nằm viện,
Siêng thuốc thang tận tình, bán cả dây chuyền cho em tiêu, hết tiền Siêng bán
máu. Em suýt thành vợ Siêng vì nghĩa cử ấy. Nhưng đi chung với Siêng em còn ngại
tai tiếng. Nghỉ việc, em bán cà phê cho dì Quyên, dì cũng đáo để, dùng em để
câu khách, nhưng tủn mủn sự tiêu dùng của một người con gái cần có. Siêng lui tới
giúp đỡ em. Em lại lui tới thăm Thuý, có bữa gặp Siêng. Nhà vắng, Siêng rủ em
đàn hát chờ Thuý. Bỗng Siêng vật em xuống giường và la lên như Chí Phèo... Em
chống cự không nổi...
Đời con gái em như cái phao mãi lênh đênh trong dòng giông
gió! Em về thăm ngoại, gặp Vân làm xí nghiệp trên phố. Vân lù khù mà có cái xảo
quyệt học mót ở thành thị, dù không điển trai nhưng Vân có tiền. Lúc này, em
nghiệm ra đồng tiền cần thiết, có thể bọc nhung cho đời mình, che giấu được dĩ
vãng tan hoang. Vân đưa em lên phố chơi, đến nhà bà con Vân ngủ lại, giới thiệu
em là vợ, em lừng khừng không tiện đính chính. Tối ấy Vân chun qua mùng em,
hùng hục như chó rồi bỏ về!
Sáng sớm Vân chở em ghé đổ xăng, nói: "Miên cầm lấy mà về
xe, anh hết tiền rồi". Cầm hai đồng bạc Vân đưa, em đắng trong lòng, lang
thang giữa phố, em tủi thân vô cùng. Chiều, em tạt nhà chú Tư ngủ nhờ. Em thù
thằng Vân nhất!
Đêm vẫn sâu, lòng tôi như nhấp rượu nhạt, không đủ làm say để
xua đi nỗi buồn. Miên tựa vai tôi, người thắm lạnh, ngước đôi mắt vô hồn, đẫm lệ!
- Hết rồi đó anh!
Tôi bỗng hối hận khi đã nghe Miên kể, mâu thuẫn nói:
- Sao em không nói dối, em kể dối hay hơn, anh ít tủi phận và
buồn.
- Khi yêu, em không thể dối lòng.
- Em yêu anh thật hay em muốn nương tựa?
- Anh có gì cho em nương tựa, ngoài lòng chân thật và độ lượng
nơi anh? Em yêu anh vì dám lấy em làm vợ, chịu sự hư đốn của em. Nhưng, anh ác
với em nhiều lắm, cứ bắt em kể quá khứ của em hoài. Anh ơi! Em đã bỏ tất cả để
về với anh, em không còn gì nhưng còn tấm lòng chung thuỷ trao anh. Hãy chìu và
nhịn nhau mà sống nghe anh! Đó rồi, cùng chia nhau những gian nan sắp tới, còn
lo cho con chúng ta nữa. Chúng ta hứa thương nhau đến hơi thở cuối cùng nghe
anh! Hãy thề cho em tin.
Tôi và Miên cùng chắp tay trước ngực:
- Xin thề...
- Xin thề...
Vùng trời phương Đông cuối nguồn sông ừng đỏ dần. Ánh sáng
lan nhanh, rút màu đen xám đang phủ trùm vạn vật. Mặt sông rõ dần những mẻ sóng
lăn tăn, dòng sông vô tình trôi xuôi, không biết trên bến vắng có đôi vợ chồng
vừa qua cơn bão, vừa yêu nhau hoang dã Tabu!
Tôi đạp xe đạp thồ về nhà. Dắt xe ngang cửa bếp thì thấy Miên
lui cui che miệng thổi lửa. Miên đón tôi với hai má ửng hồng vì lửa, ánh mắt
sóng sánh niềm vui:
- Anh, em nói đây nì.
- Chi rứa?
- Con máy.
Miên kéo tay tôi vào phòng, nằm xuống vén bụng lùm lùm cho
tôi áp tai vào nền bụng mát rượi của Miên, lắng chờ nghe... Tôi nghe rung động
nhẹ trong bụng Miên. Miên tròn xoa mắt sung sướng.
Hai vợ chồng tôi xuống bếp. Nồi cơm khô khét tự bao giờ.
Đứng trước trách nhiệm làm cha, mẹ. Chúng tôi ao ước có ngôi
nhà riêng, nên bồng con đi kinh tế mới.
Đứa con đầu lòng mở cánh cửa mùa xuân cho người mẹ bước vào
mùa thu để chín tới độ ngọt ngào. Miên bớt những đường cong thô mộc, nhen lên
nét thon thả mặn mà. Chúng tôi, như đôi chim non, tung cánh bay vào vùng trời ước
mơ, hy vọng.
Rừng núi đại ngàn thâm nghiêm, hùng vĩ, phảng phất huyền thoại.
Đất bazan tươi đỏ. Nhưng sự non yếu lao động của chúng tôi, quả không biết làm
sao đảm bảo cuộc sống ổn định. Tôi khả dĩ tồn tại một mình, huống chi gánh thêm
vợ dại con thơ, trong khi quanh chúng tôi còn bộn bề vất vả, hiểm nghèo. Tôi và
Miên bồng con trở về. Can đảm lắm chúng tôi mới dám đục mặt về nhà cha mẹ tôi.
Ngày ngày lại nghe ba tôi chửi: "Cha cô bà, đồ ô nhi Nam thục". Cầu
viện chút vốn liếng ở mạ tôi, chúng tôi lại ra đi.
Vất vưởng các sân ga, nhờ vả bà con ở Sài Gòn. Miếng ăn đã khổ,
miếng ở còn khổ trăm bề! Nhờ vả đôi bữa đã chạm cái bản mặt sưng sỉa của họ
hàng. Người sống lâu ở thành thị phồn hoa, đa phần nhạt nhẽo tình người, cung
cúc tư hữu một cách ích kỷ. Vợ chồng tôi gồng gánh về vùng đất mút phương Nam,
từ lâu nghe miệng đời ngợi ca, tính cách phóng khoáng, giàu lòng nhân ái của
người Nam Bộ, và vùng đất trù phú cũng ưu đãi con người.
Miên bồng con đứng trước hiên nhà chờ tôi. Bé Đoan Cơ mười
tháng tuổi bụ bẫm, bé đang xoè hai tay trắng xinh ra với từng giọt nước từ mái
hiên rơi xuống. Miên nhướn người nâng con nghịch nước, dễ chừng mỏi. Bé lật
mình bá cổ mẹ. Tôi, vác chài, xách thùng đầy tôm cá đi nhanh tới khoe vợ. Nhìn
tôi với ánh mắt tha thiết, Miên hỏi:
- Nước nay ròng sát anh hì?
- Ừa, nên anh mới chài được nhiều chưa nì.
Hơn nửa năm rồi tôi lam lũ trong cuộc mưu sinh cực nhọc mà
thoáng đạt, trở thành ông chài cá rạch rồi cồn bãi. Cư dân địa phương thường bảo:
"Thằng Hai y chang dân trong bưng dzậy". Tôi chung sống với người miền
Trung, miền Nam lưu lạc tụ về, chia nhau nỗi hiu quạnh sông rạch và nỗi buồn
tha hương ngun ngún trong lòng. Tất cả cái gì ở đây cũng khang khác, dần rồi
cũng quen. Ở cồn hoang, muội mị vì thiếu tiện nghi thành phố, đôi dép nhựa, người
kẻ chợ về đổi cá tôm khô do chúng tôi làm được, cũng thành vật xa xỉ phẩm, hai
ba tháng còn mới nguyên, đi chợ huyện, chợ xã mang vào đâm cấn chân. Ngày chống
cự với bò mắc, đêm tiếp tục với đám muỗi như trấu, đến lợn phải treo màn. Gì rồi
cũng quen, có cụ bà hơn chín mươi tuổi, sống ở vùng cồn này hơn nửa thế kỷ.
Thích hợp với môi trường là điều tất nhiên để tồn tại. Chúng tôi không hề ăn độn
như ở quê, độn chăng là độn tôm cá. Vợ tôi đẩy ra, bé Đoan Cơ trở thành bé 'nận'.
Có bữa tôi đi xa về. Bé Đoan Cơ lẩm chẩm trên bờ đê đón tôi và méc mẹ:
Tôi giật mình, con gái tôi rặt quê đến vậy, mai mốt con học
hành ra sao ở chốn cồn hong này.
Tôi quan hệ bên đất liền. Chúng tôi từ giã vùng cồn nơi một
thời xao xác phận làm thuê.
Vợ chồng tôi được ông bà Nam Thanh nhận làm con nuôi,cho ở
căn nhà lá của con gái ông bà theo chồng bỏ hoang. Tôi làm cỏ lúa, cỏ mía, đi
ruồng cho ông bà và tập đi lễ nhà thờ. Miên gốc công giáo, chỉ cho tôi cách làm
lễ, đọc kinh, đẻ vui lòng bố mẹ nuôilà gia đình sùng đạo.Rỗi rảnh, tôi trở về với
cây bút bỏ quên, viết những bài thơ cũ và mới gửi lên Phòng Văn hoá huyện, biết
Phing Văn hoá ít khi dùng thơ, nhưng tôi có ý khác.
Ông Thanh thứ năm, gần sáu mươi tuổi. Ông bà giàu có nhờ bền
bỉ, chịu khó làm ruộng, lập vườn. Ông Năm Thanh đích thị là nông dân cần cù ham
việc, suốt ngày lúc thúc trong vườn, tren ruộng không ngơi nghỉ. Bàn tay ông
chai sần, nói lên cả hời thanh niên khổ ải. Tôi gặp ông rượt con chuột trong bồ
lúa, bắt được, ông bóp một cái, con chuộpt trào máu chết queo. Hôm tôi đi sạ
lúa giống về, Miên háo hức báo tin:
- Có cô phóng viên Phòng Văn hoá về tìm anh. Trời mưa bất chợt,
nhà dột, ướt hết, cô cảm động lắm, cô hẹn lần sau có dịp vè xã cô sẽ ghé thăm
mình. À, cô nói Phòng khen thơ anh hay. Anh coi thu xếp lên huyện thử xem, biết
đâu...
Tôi mừng những bài thơ của tôi gửi đi đã có tin hiệu tốt.
Tôi được nhận vào làm hợp đồng Phòng Văn hoá huyện. Khi trao
quyết cho tôi, ông Ba Phương trưởng phòng nói:
Ở cái hyện hơn hai trăm ngàn dân này,mười bốn xã môt thị trấn,
vỏn vẹn có ba mươi vị cử nhơn, nên chúng tôi rất caanf người có "dăn
hoá" mà thiếu daqưn hoá thì không làm được "diệc", chú em giỏ
tôi đề nghị lên lương và cho vào biên chế. Tôi chon nguời mien Trung làm thủ quỹ,
làm dăn hoá, cần người bảo vệ tôi chọn người Nam.
Tôi đã có công việc ổn định, nhớ lời hứa với huyền tôi cho
Miên ra quê đưa em vào.
Miên bồng con đi hơn nửa tháng rồi!...
Trời qua cơn mưa đêm, nắng hừng lên. Quang cảnh thị trấn sạch
sẽ, óng ả. Tôi đang ngồi làm tin tờ bên cửa sổ. Chợt thấy một cô gái vén quần
bước qua vũng nước ngoài đường, cô mặc bộ áo quần màu đen càng tôn làn da trắng
mìn mịn, mắt cô ngơ ngác và huyền hoặc như mắt nai rừng - Khi tôi mường tượng
ra Huyền, đã thấy Miên bồng con đứng bên kia đường, cỉ tay nói với bé Đoan Cơ:
- Tề, ba nơi tề.
- Anh- Hyền duyên dáng chào.
Lòng tôi như mở hội... Chiều nào cũng trông mau hết giờ hành
chánh, lội bộ đường đất ven sông về ngủ chung với vợ con. Huyền vào, chưa sắm
thêm giường, tạm ngủ chung với anh chị và cháu gái. Có đêm tôi chỉ nằm chỉ cách
Huyền là bé Đoan Cơ, làm tôi không ngủ đặng... Nơi đất khách quê người người vợ
tôi sinh đứa thứ hai. Tôi một phen xất bất.
Huyền chớm mười tám tuổi, hừng hực và cuốn hút. Tôi làm bài
thơ tặng Huyền mà không dám tặng, lén nhét vào túi áo Huyền. Có mấy câu mà tôi
tâm đắc:
"...Ta bỗng dưng thành người có tội
Say hương em trong giông bão của tâm hồn...
... Ta đã đi qua trăm ngàn bất hạnh
Nên hiểu nỗi buồn trong đáy mắt em...
... Em trong sáng như làn nắng mới
Đi vào đời bằng những bước thơ ngây
Trên mái tóc nhiều lần ta hôn vội
Choáng ngợp hồn như đứng trước trời mây...".
Hôm sau chuẩn bị đi làm, bé Đoan Cơ cầm bài thơ chạy đến đưa
tôi, bé nói:
Bóng Huyền chạy khuất sau vườn dừa, còn rụng lại vào tai tôi
tiếng cười khúc khích thơ ngây.
Tôi xin cho Huyền vào bán cửa hàng ăn uống huyện. Xin được
căn hộ cho gia đình tôi tá túc. Huyền làm có tiền, ăn diện lộng lẫy, thành
trung tâm chú ý của các chàng trai trẻ.
Thị trấn nhộn nhịp, ôm vào lòng các ban phòng huyện khang
trang. Có nước máy, có điện chạy bằng máy nổ, có khu chợ và thị tứ sầm uất. Lớp
trẻ áo quần sang trọng mà sẫm mùi cải lương, đua đòi ăn chơi. Từng đêm nhập nhằng
những cặp trai gái ngồi du dương bên vệ cỏ, trên con đường nhập nhoạng bóng tối
dẫn vào các sóc Miên.
Theo chồng về ở huyện, Miên bị cám dỗ vật chất mà thời con
gái thụ hưởng thừa thãi. Miên bắt đầu thích ăn ngon, mặc đẹp, siêng soi gương
và thả hồn mông lung. Trong đám thanh niên làm quen với Huyền có Hoàng. Anh ta
đến nhà tập thể của tôi chơi, lúc nào cũng đầy nhóc tiền, hào phóng đưa tiền
cho Miên sắm đồ nhậu với tôi. Huyền, Miên cảm kích tính rộng rãi của Hoàng. Tôi
mến sự từng trải nơi Hoàng. Hoàng tâm sự về nghề thầu khoán của anh:
- Nghề Hoàng làm ra tiền cũng khổ lắm anh, xem bản vẽ có chỗ
không đồng ý vẫn làm theo. Căn phòng rộng thì không gian rộng, chủ nhà là người
làm văn nghệ, khi ông đặt cái bàn làm việc quá nhỏ vào thì thấy mênh mông,
không tập trung được, lại ì xèo cằn nhằn. Trước đó ông ta đã bằng lòng với bản
vẽ của kiến trúc sư rồi. Hoàng chỉ tuân theo thôi mà, vậy lại tiền bạc lằng nhằng
với Hoàng.
Tôi góp ý:
- Mình cũng thích nhỏ thôi. Ngồi trong phòng rộng quá như có
ai đang xâm phạm không gian của mình. Khi cao độ suy nghĩ, đầu óc căng như sợi
dây ai đụng vào làm giật thột cả người. Miên nhiều khi không tế nhị, thông báo
chuyện không đâu: "Anh ơi, con gà chết rồi...", thế là mình tan mất
điều đang nghĩ, hiếm tìm lại được.
- Nì, nói xấu chi tui đó.
Miên cầm đôi đũa, nghênh nghếch hỏi trỏng tôi và Hoàng. Tôi
hơi khó chịu vì thái độ Miên không hợp với người đàn bà đã có con và cố tình
gây cho Hoàng chú ý. Hoàng xun xoe với Miên:
- Không dám nói xấu người đẹp đâu, anh khen chị thì có - Nhấp
hớp rượu xây qua tôi Hoàng tiếp - Sau khi xây dựng xong, mình thanh thản ra đi,
tiếp tục nhận mối lo toan khác. Hoàng đi khắp lục tỉnh, tiền chỉ là giấy, tình
cảm mới quý phải không anh? Đôi khi Hoàng cũng trở lại thăm ngôi nhà mình đã bỏ
công xây cất, ít khi được đón tiếp nồng nhiệt.
Tôi đồng cảm với những khó khăn của Hoàng. Hoàng đến với gia
đình tôi ngày càng gần gũi, thân quen. Bỗng một hôm Miên đòi đi buôn:
- Cho em đi Cần Thơ mua tạp hoá về bỏ cho các sạp ngoài chợ.
Cô Hường không làm lương thực nữa, đi buôn mà khá lên đó anh.
- Người ta có sạn trên đầu, em biết chi mà buôn với bán.
- Việc chi cũng phải tập chứ anh, em muốn làm giúp anh.
Thế là Miên đi buôn, một chuyến đôi ba ngày có khi cả tuần.
Tôi lủi thủi với công việc của Phòng Văn hoá, cùng Huyền chăm sóc hai
con. Ngày đêm gần gũi với Huyền, hai chị em giống nhau, đôi khi tôi lầm tưởng
Huyền là Miên, tôi phải...luống cuống chững lại. Có lần tôi thử cô em vợ.
- Huyền đưa cháu cho anh bồng chút.
Huyền ẩy người đưa cu Lượng, tôi choàng tay kéo eo rượu của
Huyền và con trai vào lòng. Huyền thả cháu rơi xuống, tôi hốt hoảng cúi người
chụp con, ôm con vào lòng thì Huyền đã lấp ló dưới cửa bếp cười... Nhiều đêm
Huyền nằm đó, tôi nằm đây, hương con gái dâng lên ngào ngạt. Biên giới nhỏ hẹp
làm bằng khoảng không ước lệ mà kiện cố thay. Bao lần tôi muốn bức phá khỏi ý
niệm thánh thiện của chính mình nhưng rôi...thao thức mãi...
Đến khi tôi gặp người bạn lớn tuổi hơn tôi làm tài xế báo
tin:
- Thằng Hoàng còn thấy đây không mậy?
- Hình như chuyển đi đâu, lâu rồi em không thấy.
- Ừ hé, sao thấy...à...à... mà mày đừng làm ồn lên không hay
đâu mậy.
- Chi vậy anh? - Tôi nhìn anh bạn tài xế, lo lắng.
- Ờ...ờ tao thấy con vợ mày cặp tay thằng Hoàng đi vào khách
sạn Hoàng Cung.
Tôi như bị cú đấm vào mặt, tá hoả. Dù chưa nốc ao như đủ dúi
dúi trong nỗi buồn... Hôm sau Miên về, tôi nhìn bờ mông căng cứng và trắng nhễ
nhại của vợ khi vừa tắm xong vào phòng thay áo. Niềm hoài nghi loé trong mắt
tôi như có lửa, đọc niềm run rẩy trong đáy mắt Miên. Tôi chất vấn:
- Hôm qua cô làm gì trong khách sạn Hoàng Cung?
- Thì..thì, em ngủ lại đó. Em thường trọ đó mình ên.
Bốp!
Tôi tát Miên một cái cật lực, dằn giọng:
- Thằng Hoàng đâu? Hừ, hừ đừng có nói một mình.
Đêm ấy chúng tôi không ngủ. Tôi và Miên thoả thuận sống dựa
vào nhau vì con. Tôi ngày ngày vác cái mặt lừ lừ đi làm, đêm quằn quại với nỗi
đau luân phiên. Tính cách ngây thơ, trong sáng của Huyền ám ảnh thường xuyên
trong tim tôi. Tôi chăm sóc Huyền nhiều hơn, đi chơi đâu về cũng có quà dành
cho Huyền và hai con.
Tôi thích tắt hết điện, ngồi trong bóng tối hút thuốc, ôm
vòng khói ngẫm nghĩ nỗi bất hạnh đời mình, buồn lòng sự lang chạ của Miên,
không thể dứt ra được vì sự bé bỏng của các con đang cần sự nuôi dạy thiêng
liêng của người mẹ. Huyền thập thò ở cửa phòng, rụt rè hỏi:
- Anh, Huyền bật điện lên được không?
- Cứ việc.
- Sao anh phải tắt điện mới hút thuốc?
- Anh cần bóng đêm để tìm chút khuây khoả nỗi lòng.
- Em nghĩ anh hãy vì con, tha thứ cho chị Miên, tạo cho chị
có cơ hội phục thiện, anh sẽ tìm được sự quân bình trong cách đối đãi độ lượng
kia. Em tin, không có roi rọt nào bằng sự im lặng của anh. Chính sự im lặng ấy
đang nghiền và hành hạ trái tim lầm lỗi của chị Miên. Chúng em không cha không
mẹ, nhờ tài trí và sự khéo léo của anh mà chúng em được như hôm nay, anh đã
thương thì thương cho trót.
Tôi thầm khen Huyền ăn nói chín chắn, tôi hỏi:
- Em còn nhỏ mà ăn nói biết điều ghê. À ...nì Huyền... em có
thương anh không?
Tôi hỏi một câu hỏi bất chợt mà từ lâu chưa có cơ hội thuận
tiện. Huyền đã chuẩn bị sẵn, trả lời tôi chóng vánh:
- Có thương, thương anh như anh Hải em.
- Không anh muốn em thương anh khác kia.
- Giá như em... gặp anh trước chị Miên thì... thôi em đi ngủ
đây.
- Khoan! Chỉ có em là nguồn vui của anh, em là người có quyền
lực nhất trong ngôi nhà này, anh không dám mắng Miên khi em xụ mặt xuống. Em...
cho anh hôn.
- Anh đừng gây chị Miên, thì em...em...em hy sinh vì hạnh
phúc của anh chị.
Tôi thơm lên má luôn hườm hườm của Huyền và hỏi:
- Em thương anh khác chưa?
Huyền im lặng cúi đầu...
Miên sinh đứa thứ ba, gia đình tôi thêm khốn đốn. Tôi, Huyền,
Miên mỗi người một góc ưu tư riêng. Riêng tôi cố nén cơn bão chực nổ trong
lòng...
Hăm ba Tết năm ấy tôi bồng hai con lớn về ăn tết với ông bà Năm
Thanh. Miên không đi, viện cớ không ai giữ nhà và chăm sóc con thơ. Mùng bốn tết
tôi lên, biết ngay tin: "Đêm mùng một tết Miên ngủ với Hoàng ở ngoài đập bị
du kích bắt được, nhờ tết nhất nên họ đã thả ra...". Bạn bè, anh em các cơ
quan, ai ai cũng nhìn tôi bằng ánh mắt thương hại.
- Chị Miên bậy quá, bữa em nghe tin chị bị bắt em muốn độn thổ
luôn. Hai người trốn đi rồi, anh. Tết nay, em không dám ra đường, dị bất chết
đi! Hơn nữa cháu nhớ mẹ khóc mãi. Em tính về nhắn anh lên, thì anh đã lên đỡ
cho em. Đừng buồn nữa anh, chị Miên sẽ trở về thôi.
- Về làm chi nữa Huyền. Miên gửi cháu cho Huyền lúc nào?
- Dạ gửi cho em chiều mùng một tết, em tưởng chị đi chút việc
thôi. Ai ngờ cơ sự như vậy, em không giữ cháu giùm chị mô anh.
- Anh đưa các cháu về quê Huyền ạ. Ở đây anh chịu không nổi.
Tôi ôm ba đứa con thơ trở về quê sau chín năm lưu lạc. Từ bến
xe Sóc Trăng ai hỏi tôi cũng nín lặng. Bé Đoan Cơ thay tôi trả lời:
- Mẹ bỏ ba dồi.
Họ gom ít tiền cho bé, bé nhét vào túi tôi, tôi mới hay.
Tôi thẫn thờ dẫn con xuống bến xe Cần Thơ để chuyến xe đi tiếp
Thành Phố Hồ Chí Minh. Vùng đất này còn đó mà hạnh phúc của tôi nơi đâu? Bé
Đoan Cơ dặc tay tôi:
- Đi ba!
Thằng con nhỏ thấy người đông, hàng quà bánh tràn lan, vòi:
- Ba, con ói bụng dồi...
- Lên xe chị mua cho - Bé Cơ dỗ em.
Tôi bồng con nhỏ trên vai, tay dắt con, vai lủng lẳng túi
hành trang. Bé Cơ chạy theo sau. Những kỷ niệm hiện về chới với, hụt hẫng. Tôi
bật khóc và gục đầu vào đứa con trai nức nở... Bé Đoan Cơ bây giờ mới khóc, làm
thằng em kế nó cũng sụt sùi...
Chín năm đứng giữa bão. Chín năm sau lại tới, và đất nở sau
mưa.
Huế vào thu nắng nhạt vàng. Những cơn mưa đầu thoáng về bất
chợt. Đoan Cơ đã mười bảy tuổi, cô kế thừa nét sắc sảo của mẹ, tính nhân hậu và
cẩn trọng của cha, cô có vẻ đẹp khoẻ khoắn, thông minh, đôi mắt nhung miên viễn,
xa xăm.
Cô học bài rất khuya. Bỗng cơn bão ập tới ầm ào gió giông. Cô
nhoẻn miệng cười với chính mình trong cái gương con. Rồi đứng lên đi đóng các
cánh cửa gió, vén mà sửa chăn cho hai em. Xong cô vào phòng học tiếp. Cô lại mỉm
cười tươi rạng như thể vừa đẩy cơn bão về phía xa hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét