Học hết bậc tiểu học trường làng tôi lên phố học tiếp, thi
thoảng có phương việc chạp giỗ mới về.
Năm tôi học lớp Đệ tứ (tức lớp 9 bây giờ) chiến tranh bắt đầu
lan rộng, gia đình tôi lãnh nguyên trái bom nửa tấn. Cha, mẹ, em trai, em gái,
cùng cái nhà rường bằng gỗ kiền kiền đen bóng, truyền từ đời ông cố nội tôi, biến
mất hút dưới cái hố sâu hoắm. Tôi trở thành kẻ tứ cố vô thân, từ đó càng ít trở
về làng. Cũng từ đó cuộc sống cuốn tôi phiêu bạt xa dần nơi chôn nhau cắt rốn.
Quê nhà trong ký ức của tôi là bếp lửa thơm mùi rơm khô, là những chiều trốn học
đi tát cá bẫy chim ngoài đồng nội, là tiếng trống xao động lá vông đồng vàng
trên sân trường mùa thu, là mái đình làng có hai con rồng uốn cong dưới bầu trời
khoáng đãng, là tiếng ve râm ran dưới bóng mát khu vườn ấu thơ vào một mùa hè
thanh bình xa lắc, là tiếng hò ru em vừa cay cực vừa nhân hậu, là những bữa cơm
đầm ấm dưới mái gia đình... Năm 1982 tôi mới trở về quê cũ.
Làng tôi vốn là một miền quê trù phú. Với bàn tay cần mãn và
óc cầu thị của dân làng, đất làng dù nằm trong vùng khí hậu khắc nghiệt và chiến
tranh cày qua xới lại nhiều phen, lúa vãn hai mùa tươi tốt, vườn tược vẫn đầy
hoa trái thơm lành. Dấu tích ý đồ điện khí hóa nông thôn một cách duy ý chí trước
đây còn để lại những cột điện bê tông bị chiến tranh chém gãy ngang lưng, trơ cốt
thép ra với đất trời nhân thế. Những mảng nhựa đường nằm bên những ổ gà trơ nền
đá hộc của con đường nối từ quốc lộ I dãn vào làng, nhắc ta nhớ lại cái thời nó
được rải nhựa phẳng phiu.
Nhờ trời, tôi có được một ông chú đi tập kết về làm phó chủ tịch
kiêm công an xã, nên tôi không bị rắc rối như những kẻ đồng cảnh ngộ, ngược lại
còn được phép mở quán sửa xe đạp sống qua ngày. Chú tôi còn hứa nếu tôi “phấn đấu
tốt” ông sẽ nhập hộ khẩu và cho làm cán bộ thống tin xã. Tôi không khoái làm
cán bộ lắm, chỉ ậm ừ cho chú tôi khỏi giận.
Quán mở cạnh đường cái, thườne vắng khách, bên kia là con hói
nhỏ quanh năm nước đục ngầu nổi váng phèn ngũ sắc, chảy lờ đờ. Đêm khuya thanh
vắng, tiếng chuông chùa ngân lên lẫn trong tiếng những con chó sủa trăng nghe
não nuột.
Chú tôi ít mặn mà với tôi còn tôi cũng không khoái gặp ôn£ để
nshe những bài học chính trị ngô nghê từ nhận thức của một ông cán bộ thất học.
Tôi cũng không dám đem sách vở ra tranh luận với ông sợ ông nổi xung lên rồi
qui kết chống lại nhân dân thì nguy.
Biết tôi là cán bộ một phòng của công ty bề thế, chỉ do “đấu
tranh cực đoan” - theo ngôn ngữ của ông - mà phải bỏ về quê không mảnh giấy,
ngoài cái chứng minh nhân dân, ông cáu lắm:
- Cha mi nuôi cho mi ăn học đàng hoàng mà mi ngu quá - ông
nói - Ai làm chi không đụng chạm tới quyền lợi cá nhân mình thì thôi, làm răng
mi chống nổi lãnh đạo, mi thấy cả cái tập thể nhân dân trong xã ni có dám chốna;
lại tau không? Một mình mi có đúng mười mươi thì đối với tổ chức cũng chẳng có
nghĩa lý chi cả. Tập thể sống được thì mình sống được, thời buổi ni xin đi làm
công nhàn nhà nước để thoát khỏi cái anh xã viên còn khó, nói chi là cán bộ phụ
trách, Sướng không ưa sướng lại ưa khổ. Với lại gia đình mình có truyền thống
cách mạng, mi làm tau cũng nhơ nhuốc theo...
Thời phong kiến, bọn quan lại cũng không muốn con cháu mình
làm dân thường như chú tôi. Với ông, kiếm được cái biên chế để được nhà nước
bao cấp suốt đời là mục tiêu duy nhất của mọi người trong chế độ này. Với tôi,
tôi chưa bao giờ coi cơ quan nhà nước là một trại cứu tế. Hồi chú tôi theo
kháng chiến cũng như hồi tôi xuống đường trong phong trào sinh viên học sinh
tranh đấu, chắc hẳn không vì mục đích được làm “quan cách mạng” hay được nhà nước
bao cấp suốt đời.
Về đây tôi chỉ mong được yên thân. Ngoài công việc sửa xe kiếm
sống hàng ngày, tôi ít giao du với ai, tránh xa những cuộc tranh cãi luận bàn
thế sự. Lúc rảnh đọc sách, đánh cờ, đi câu cá hoặc viết lách lăng nhăng.
Rồi mùa hè đến. Khoảng mươi cô cậu người làng vừa tốt nghiệp
trường sư phạm về quê chờ phân bổ công tác, nghe đồn tôi là một “ẩn sĩ” liền
kéo đến quán sửa xe lân la kết thân. Các “kỹ sư tâm hồn” mới ra lò ấy rất khoái
chuyện đời do tôi kể.
Có lần trong cuộc vui, cánh thầy eiáo giới thiệu cho tối một
bạn học cũ, do thi rớt đại học nên ở nhà luôn. Cậu ta tên là Hoàng Thiên Lâm
(cái tên nghe đầy cao vọng, chắc do ông già xưa đặt cho).
Câu chuyện của Hoànơ Thiên Lâm xứng đáng làm cốt truyện cho
cuốn tiểu thuyết diễm tình hay tuồng cải lương mùi mãn:
Vào một đêm trăng sáng bên giếng làng, Lâm tán tỉnh được cô
nàng Thanh (tên cúng cơm là Nguyễn Thị Địu) ở làng bên - bên kia con hói - thuộc
loại hoa khôi của xã. Cái giếng làng này từng xe duyên cho bao đôi lứa qua nhiều
thế hệ. Có cặp nên đôi, có đồi gãy cánh, nhưng chưa có cặp tình nhân nào yêu
nhau nông thắm quyết liệt, bất chấp cả gia đình và chính quyền như Lâm và
Thanh. Nhất là trong thời buổi đói kém chạy cho ra cái ăn đã xanh mặt, ít ai
dám bạo gan làm trái ý cán bộ xã, trai gái hẹn hò nhau ban đêm dễ bị du kích
trói gô đem về nộp cho chú tôi.
Lâm là con một nhà giàu. Thanh cũng là con một nhưng sinh ra
trong gia đình bần cùng. Dân làng, ngoại trừ số ít người (trong đó có ba Lâm),
không ai đặt nặng chuyện môn đăng hộ đối. Khi những chiếc máy đa dụng tiến vào
đồng ruộns thay cho sức người sức trâu, khi những chàng học trò nghèo có thể
làm nên danh phận rỡ ràng, khi sách báo phim ảnh bênh vực cho tình yêu tự do được
phổ biến rộng rãi, và nhất là khi chính quyền cách mạng được thiết lập thì quan
niệm cổ hủ về hôn nhân bị lung lay tận gốc rễ. Dân làng chỉ ngại một điều: Xưa
nay gái làng kia không thể về làm dâu làng này được, vì ngạch đất hai làng xung
khắc nhau ở cung tình duyên. Chẳng ai chứng minh có thật vì “cái ngạch đất” mà
bao cặp uyên ương đành gãy cánh, nhưng cũng không có chính quyền nào có thể làm
suy suyển niềm tin tư biện kia. Có một sự thật hiển nhiên là làng bên này con
hói có rất nhiều người làm quan to cả bên “quốc gia” lẫn bên cách mạng, còn
làng bên kia con hói thì có người mới leo lên được quan hai (trung úy) là đã chết
trận. Tinh duyên trắc trở của Lâm và Thanh thêm một bằng chứng sống nữa cho
lòng tin dân làng. Hồi mới giải phóng, chú tôi cũng kiên quyết xóa đi sự mê tín
ấy, nhưn? dần dà những tập quán, tín ngưỡng ăn sâu từ bao đời trong lũy tre
làng sống dậy nơi tâm hồn con người sinh ra và lớn lên ở đó, lặng lẽ đánh bật
quan điểm vô thần (đối với chú tôi cũng chỉ là niềm tin tự biện) ra khỏi tư duy
của ông. Có điều chú tôi khôn lắm, ông biết cách chứng tỏ “lập trường duy vật”
của mình trước đám dân làng ưa xoi mói, lý sự nhưng lại cầu an.
Mẹ con Thanh không phải là loại nhác nhớm vụng về tay chân, cả
hai đều miệng bằng tay tay bằng miệng, chỉ có cái tội là vụng tính nên làm được
ngã trước tiền của chạy liền ngã sau. Làm đồng nào xào đổng nấy, không biết
giành giụm tích lũy, tới lúc chẹt chân hả miệng thì tới vay tiền góp nhà giàu,
vay tám chục góp mười ngày một trăm, không có mười đồng góp từng ngày thì phải
vay mỗi tiền góp khác, nợ mẹ đẻ nợ con, chỉ nuôi lãi nhà giàu còn hơn nuôi thêm
hai ba miệng ăn không ngồi rồi trong nhà. Thành thử miệng bằng tay tay bằng miệng
mà cứ mạt. Người trong làng gọi đó là kiểu sống “đoản hậu”.
Ba của Lâm thì khác hẳn. Từ một anh lính “quốc gia” bị què
chân được giải ngũ về quê với số vốn ít ỏi, cha mẹ đã mất, bà con cô bác góp miệng
thì ai cũng sẵn lòng nhưng góp của thì không. Ba Lâm nghiên cứu kỹ, thấy mở
quán sửa xe là ngon ăn nhất. Trong làng người ta đều biết ba Lâm là thợ “trời
sinh”, nhưng được cái ông ham học hỏi, cần cù kỹ lưỡng và khéo tay, nên chẳng
bao lâu một anh thợ khác trong làng (thợ thứ thiệt có học nghề hẳn hoi) đành phải
chuyển ra đường quốc lộ I để hành nghề. Từ khi ra khỏi lính không còn kiếp sống
rày chết mai, ba Lâm bỏ thuốc bỏ cà phê bỏ rượu, chí thú làm ăn. Trời chẳng phụ
lòng người, chẳng bao lâu ba Lâm phất lên như diều gặp gió, ông mua xe đạp cũ về
sửa lại cho thuê giờ (hồi nhỏ tôi cũng từng thuê xe đạp của ông một giờ một đồng
để tập đi). Rồi ông nhắm mẹ Lâm, cô gái đẹp nhất làng, con nhà nghèo nhưng nết
na sắc sảo. Khi có số vốn kha khá, ông mua máy nước chạy dầu cặn (diezel) về cạnh
tranh với những máy chạy bằng than tưới nước cho ruộng, đang hoạt động trong
làng; rồi ông mua máy cày cày thuê; đặt máy xay xát gạo. Đến lúc có được cơ
ngơi đồ sộ như thế ông mới tính chuyện hưởng thụ, cải lương xi-nê, chiều thứ bảy
đi ăn thịt dê bảy món dưới phố.
Tạo hóa phú cho ông khả năng sử dụng đồng tiền một cách mẫn cảm.
“Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” lần hồi ông biết cách len lỏi vào kẽ hở
của nhà nước để làm ăn. Và trong lúc phần đông người trong làng phải treo xe đạp
lên phên nhà vì không có tiền sửa thì ông vẫn ngự lên yên xe vespa mỗi lần xuống
phố.
Khi biết Làm có quan hệ tình cảm với Thanh, ba Lâm bảo:
- Mi ưa chi cái thứ khố rách áo ôm đó? Với lại trông cặp mắt
sắc như dao lam của con đó thì khôns; buôn chồng người cũng lấy trai. Mua heo
xem nái mua gái xem tông, cái tông đường con Địu thì cả làng cả xã này ai không
biết!
- Ba thì khi mô cũne tướng số với tông đường - Lâm cãi - Quan
niệm vợ chồng thế hệ tui còn mô có giống thế hệ của ba. Con gần gũi Thanh con
hiểu Thanh hơn ba hiểu. Tụi con đã trưởng thành rồi, ba cho con tự do quyết định
đời mình.
Ba Lâm khoát tay:
- Đừng dài dòng lôi thôi. Tau không ưa là không ưa. Tau cho
mi ăn học không phải để bất hiếu với cha mẹ, mình là con nhà gia giáo, giấy
rách còn giữ lấy lề huống chi RÍa đình mình chưa suy vi đến nỗi con cãi lời
cha. Tau nói như đinh đóng cột, gia đình này không chấp nhận con đó làm dâu.
Thuyết phục ône; không xong, Lâm dẫn Thanh ra ủy ban xã xin
đăng ký kết hôn theo pháp luật hiện hành, chẳng cần cưới hỏi theo tập tục.
Nhưng xã không cho đăng ký. Lâm thắc mắc thì chú tôi tuyên bố:
- Ba mi nói với tau đừng cho hai đứa bây đăng ký. Tau hứa với
ông rồi!
Vốn là thanh niên có học, lại là đoàn viên thanh niên, Làm lý
sự:
- Luật hôn nhân gia đình qui định...
Chú tôi xua tay:
- Ớ đây chì có tau qui định. Tau báo trước, chính quyền đã
không cho đăng ký mà hai đứa bây lén lút ăn ở với nhau là tau cho đi cải tạo liền!
Lâm chưa chịu thua:
- Cháu nghĩ rằng chính quyền ta phải ủng hộ cái tiến bộ chống
lại cái lạc hậu phong kiến...
Chú tỏi lại xua tay:
- Mi khỏi dạy chính trị cho tau, tau đi làm cách mạns từ khi
cha mi còn thò lò mũi xanh... - ngừng một chút để suy nghĩ, ông nói tiếp - Thằng
địch cãi còn chưa lại tau chứ đồ cái thứ tụi bây trứng đòi khôn hơn vịt. Mi nên
nghe lời cha mi thì sướng cái thân.
Lâm cầu cứu tổ chức Đoàn thanh niên. Tay bí thư lắc đầu cười
cười:
Túng thế cô cậu dẫn vào “đất thánh miền Nam” xây tổ uyên
ương. Đi lòng vòng đâu được bảy tháng mấy ngày, cô cậu lóp ngóp xách bị rỗng về
làng, mặt cắt không ra hột máu, xấc bất xan ban như chạy giặc về. Duy cái bụng
của Thanh thì đã phình lên.
Lâm liều mạng trình diện ông già xin chịu tội, đồng thời đặt
ông trước một việc đã rồi. Lâm nghĩ dù sao ông cũng không thể bỏ rơi đứa cháu
đích tôn trong bụng Thanh. Nhưng ông bảo:
- Cho hắn ít tiền sinh nở rồi bồng con về, còn mi ở đây tau
lo vợ con ở chỗ đàng hoàng. Thiếu chi con gái đẹp, chỉ sợ không có tiền.
Nhưng thưa, đâu dễ quên nhau, dẫu cho tơ tóc nát nhầu gió
mưa. Cô cậu bằng lòng trả giá cho tình yêu tự do: Từ bỏ gia đình, chấp nhận tai
họa giáng xuống từ mọi phía, kéo nhau ra cư ngụ ở đình làng. Lâm cuốc thuê làm
mướn, Thanh buôn bán vặt ở chợ để nuôi nhau. Cũng may chú tôi chưa thể “quốc hữu
hóa” moi sự nên Lâm và Thanh còn đất sống, đất làm ăn. Gần tới ngày Thanh sinh
nở mẹ Thanh liền gọi hai người về nhà mình. Có lẽ bà không nỡ để con gái mình
sinh đẻ ở đầu đình xó chợ. Bà nói:
- Ai ăn ở không phải thì có trời, hai đứa bây cứ về nhà mà ở,
no cùng no đói cùng đói. Ai nói chi mặc kệ miệng lưỡi thế gian.
Khi đám thầy giáo giới thiệu Lâm làm quen với tôi thì Thanh
đã sinh được chú bé bảy tháng rất kháu khỉnh. Ba Lâm thì vẫn cương quyết không
đón con dâu dẫn cháu đích tôn về nhà mình. Tinh cảnh vợ chồng Lâm thật là bi
đát. Thanh buôn bán không dễ dàng như xưa vì ngay ở cổng chợ, xã cho kẻ cái khẩu
hiệu to đùng “Bớt chợ thêm đồng thâm canh tăng vụ”, mà đồng ruộng thì ngay cả
xã viên còn khó nhai huống chi vợ chồng Lâm là người đã bị gạch tên khỏi số
nhân khẩu từ dạo trốn vô Nam. Đó là chưa kể tới những thế lực vô hình lãn hữu
hình thường xuyên đè nặng lên hạnh phúc mong manh của họ. Thiên hạ đoán già đoán
non thế nào Lâm cũng phải đầu hàng số mệnh hoặc mẹ con Thanh cũng không còn
kiên nhẫn. Dân làng càng tin vào sự linh ứng của thế lực vô hình. Và có lẽ chú
tôi và ba Lâm càng tin cuối cùng thắng lợi sẽ về phía họ. Hình như cả trời đất
lẫn lòng dạ con người đều không muốn điều quen thuộc bị phá vỡ.
Mùa hè đã qua. Tốp giáo viên dù có bằng lòng với sự phân công
của tổ chức hay không thì cũng đã lên đường đi nhận nhiệm vụ. Chẳng ai cả gan bỏ
bục dạy để nhận cái chân xã viên hợp tác. Tôi trở lại cuộc sống đơn độc của
mình và cũng không còn lưu tâm tới thiên tình sử của Lâm và Thanh. Dù đối với
tôi, tình yêu của hai người là sự đúc kết ước mơ đẹp nhất từ ngàn xưa tới nay của
dân làng. Nhưng người ta còn phải sống với hiện thực nữa.
Họ hàng tôi người thì chết kẻ thì phiêu linh xa xứ, chỉ hai
chú cháu tôi còn lại trong làng. Chú tôi (vừa trúng bí thư xã trong đại hội vừa
rồi) không thể bỏ tôi và tôi không thể thọc gậy bánh xe vào công chuyện của
ông. Người làng cũng nhìn tôi bằng cặp mắt e dè, chẳng ai dại dột phơi lòng tỏ
dạ với cháu ruột của bí thư. Ngay cả Làm, Lâm cũng dè dặt khi nói với chú tôi
trước mặt tôi. Tôi tự nhủ, như thế cũng hay. Thời gian gần đây Lâm không ghé lại
chỗ tôi nữa, vì chiếc xe đạp của cô nàng Thanh đã bán. Nhưng Lâm vẫn không quên
tôi.
Một buổi xế chiều tôi đang đóng cửa quán thì Hoàng Thiên Lâm
tới rủ đi uống cà phê. Tôi hơi ngạc nhiên trước sự hào phóng của anh chàng từ
lâu không còn biết tới cà phê thuốc lá, ngay cả những đám cưới bạn bè Lâm cũng
tránh vì không có tiền mua quà mừng. Cả Thanh cũng thế, vốn là cô gái xinh đẹp
đỏm dáng nhưng đã sớm thành một thiếu phụ lam lũ vì chồng con. Tuy vậy nhan sắc
nàng vẫn rực rỡ đúng với câu ca “gái một con trông mòn con mắt”. Nhiều anh cán
bộ hãnh tiến, lắm kẻ mới phất còn độc thân ở trong làng ngoài huyện đã để mắt gấm
ghé tán tỉnh cô nàng có anh chồng công tử đang biến thành anh nông dân vai u thịt
bắp thô kệch lại chẳng có đám cưới đám hỏi hay giấy tờ kết hôn với nhau. Nhưng
Thanh chưởi thẳng thừng vào những lời 0112; bướm kèm theo những miếng mồi vật
chất. Dẫu rằng, lắm khi cả hai vợ chồnơ phải nhịn đói. Đôi lần nhìn con quá thiếu
thốn, Thanh nói với chồng liều quá xin ông nội một ít tiền, cháu của ông ăn chứ
phải hai vợ chồng ăn đâu. Nhưng Lâm từ chối, anh ta nói: “Con mình không còn là
cháu nội của ai nữa”. Thấy chồng quá cương quyết Thanh cũng không ép. Hai vợ chổng
đều hy vọng tới một ngày nào đó tình thế sẽ đổi thay. Mẹ của Thanh thì vẫn giữ
im lặng, có lẽ bà vẫn ngại “miệng lưỡi thế gian”, chứ không phải mặc kệ người đời.
Thời gian gần đây nghe làng nước xì xào mẹ con Thanh bắt đầu
đối xử tàn tệ với Lâm. Theo “miệng lưỡi thế gian” thì mẹ con nhà Nguyễn Thị Địu
thấy khó nuốt trôi cái gia sản của ba Lâm nên trở mặt. Trò vờ vịt yêu thương rộng
lòng tốt dạ không đánh lừa nổi con mắt tinh đời của ba Lâm nên mẹ con nhà Địu hạ
màn lột mặt nạ. Chí có Lâm là càng ngày càng đắm say vợ. Người ta đồn khi Lâm mới
quen Thanh, hai mẹ con đã toa rập cho Lâm uống bùa mê thuốc lú nên tâm thần Lâm
trở nên mê mẩn. Người ta còn kháo ầm lên, Thanh vừa cặp bồ với tay lái xe bồn để
theo tay này đi buôn đường dài. Tôi cũng định bụng nếu gặp Lâm sẽ hỏi cho rõ thực
hư.
Quán cà phê duy nhất trong làng do một ông cán bộ hưu trí làm
chủ, nằm cạnh ngã ba đường rẽ ra quốc lộ, trông tồi tàn dơ bẩn, đầy ắp các thứ
âm thanh bị biến dạng do cái máy cassette quá tã, cứ léo nhéo chưởi vào tai người
ta chứ không phải là hát. Thanh niên thời nay ít được giáo dục về thẩm mỹ nên
không tỏ ra khó tính với nghệ thuật, thanh niên ở nông thôn thị hiếu càng dễ
dãi và dung tục hơn. Các chú choai choai trong làng cũng không ghiền cà phê, họ
tụ tập ở đây để tán dóc, chơi bài, đấu cờ... vì chẳng có trò giải trí nào khác.
Không biết sao, chú tôi thườns gào thét: “Mặt trận văn hóa tư tưởng là mặt trận
hàng đầu” nhưng ông chẳng cho lập một thư viện hay phòng đọc báo - tất nhiên ít
tốn kém hơn một cuộc liên hoan và xã hoàn toàn có khả năng làm được nếu muốn, -
phim ảnh thì vài tháng mới chiếu một lần, sân khấu càng hiếm hơn (chú tôi không
muốn bà con thức đêm coi hát vì sợ ảnh hưởng tới sức khỏe làm giảm năng suất
lao động), còn phong trào thể dục thể thao do chú tôi phát động rầm rộ đều được
ít bữa rồi xẹp xuống như trái bánh xì hết hơi vất lăn lóc trong kho văn hóa
thông tin xã.
Tôi vốn ghiền trà hơn là cà phê. Thứ cà phê bán ở đây thì
càng làm cho tôi xa lánh. Có trời mà biết bọn bất lương tạo ra thứ bột màu nâu
mà ta gọi là cà phê bằng thứ nguyên liệu gì. Khó mà gọi cái thứ nước đắng
nghét, hăng hắc, nhấp vào muốn nôn mửa là cà phê, dù nó được bán trong quán cà
phê. Vì vậy, khi nể lời ai phải ra đây, tôi chỉ gọi một ấm trà ngon rồi đem vài
cái ghế ra tít ở góc vườn, dưới rặng tre xào xạc gió lay động những đốm nắng, để
thưởng thức hương vị của đồng quê, tránh xa cái không khí nhốn nháo của thứ “đô
thị hóa” nửa mùa ở trong quán.
Lúc tôi và Lâm bước đến thì chiếc loa thùng bịt bằng bao bố đặt
ngay cửa quán đans; léo nhéo lời tình ca sướt mướt, nói về tâm sự của một anh
chàng vô tích sự nào đó dường như được sinh ra cõi đời này mà sầu thảm và thất
tình. Đây là loại nhạc dành cho giới bình dân được sáng tác ở miền Nam trước
ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ban đầu bị cấm gắt gao và nhiều người cũng đã bị chú
tôi tống giam vì cái loại nhạc này. Nhưng dần dà nó được tái sinh bởi nhiều lẽ
tế nhị (chính chú tôi cũng mê loại nhạc này).
Một tốp thanh niên xúm xít quanh chiếc bàn để sâu trong góc
quán, được chiếu sáng bằng ngọn đèn dầu. Tất cả đang chú tâm vào ván cờ domino
đang hồi quyết liệt. Một tay thanh niên tóc dài chấm vai, hành nghề buôn đường
dài theo tàu Thống Nhất, chợt ngẩng lên nhìn thấy Lâm. Hắn đưa bàn tay nắm lấy
mấy quân cờ lên chào Lâm và châm chọc:
- Ê, Rô-mê-ô! Nghe nói con Juy-li-ét đá mi để cặp bồ với xe bồn
phải không?
Lâm đỏ mặt nín thinh. Tay thương nhân cười đểu:
- Trai ở nhà vợ như chó ở gầm giường, sức mấy mà dám nẹt vợ.
Đ.m. phải tay tau, tau tặng cho em cái bầu tâm sự rồi là cho em gái số de. Đ.m.
giàu như ông già mi mà đã chịu làm thân trâu ngựa cho nó đến nỗi ông già cũng từ
mặt mà còn bị nó đá đít thì nhục quá!
Lâm cáu tiết định xông tới. Mẽ người bạc nhược như tay du côn
vườn ấy thì Lâm cho một thoi là đo ván, nhưng tôi can ngay. Lúc này tốt nhất là
tránh việc rầy rà. Dịp khác sẽ dạy cho thằng lưu manh tép riu bài học về phép xử
thế. Thấy không thể ngồi nói chuyện ở quán, tôi mua gói thuốc thơm rồi kéo Lâm
đi.
Tôi và Lâm thả những bước chân hoang trên những con đường
làng ngợp bóng tre, trong ánh chiều tà sắp tắt và ánh trăng non bàng bạc tỏa xuống
xóm thôn. Bầu trời mùa thu yên tĩnh và thanh bình đến lạ lùng. Vì sao hôm lấp
lánh chân trời xa như ước mơ muôn thuở chói sáng và xa xôi. Bếp lửa rơm tỏa
khói hòa quyện mùi hương hoa trái trong vườn.
Vừa đi Lâm vừa kể tình cảnh hiện nay của vợ chồng Lâm. Thì ra
điều dư luận đồn đại cũng chẳng sai mấy tí. Tôi nắm bàn tay đen đúa chai sần của
Lâm. Bàn tay một thời mềm mại lướt trên đàn ghi-ta xòe ra những âm thanh bay bổng
của khúc tình ca, giờ đây chính tình yêu biến ngón đàn thành vụng về do phải
nuôi sống hạnh phúc đôi lứa trong thời buổi nghiệt ngã, rất nhiều giá trị tinh
thần trở thành vô dụng. Tôi lo lắng nghe trong mạch đập của Lâm tình yêu cuồng
nhiệt dành cho vợ. Nếu ai chưa được may mắn nếm trải một tình yêu nồng thắm cuồng
si trong đời, thì chỉ có thể tin Lâm bị bỏ bùa mê thuốc lú như dân làng đồn đại.
Hình như ba Lâm thời thanh niên chỉ trai gái mèo mỡ chứ chưa yêu ai say đắm, cưới
vợ với tính toán khôn ngoan hơn là yêu thương. Còn chú tôi cũng chẳng có dịp lắng
nghe tiếng “thổn thức con tim” trong cuộc kháng chiến khốc liệt, ông cưới vợ
theo ý đồ của tổ chức hơn là ý ông chọn lựa.
Đi ngang giếng làng thấy chẳng có ai, tôi và Lâm ghé lại ngồi
trên thành giếng ngắm trăng. Đêm đã lên đều khắp tràn trề. Đêm bao la dịu ngọt.
Thưa rằng thế sự hỗn mang? Triệu vì sao lấp lánh từ cõi vô cùng. Trăng khoác
cho bầu trời đêm ánh sáng huyền diệu. Tiếng hò ru em đâu đó vừa thắm thiết vừa
cay cực. Tôi nhìn xuống giếng. Đáy nước in bóng một vũ trụ huyền hoặc cùng mảnh
trăng rạng ngời. Tôi nhìn sâu vào mắt Lâm: Một vầng trăng kỷ niệm buổi hẹn đầu
lung linh tỏa sáng trong đó.
Chúng tôi im lặng một lúc lâu. Sau đó, Lâm tiếp tục câu chuyện:
- Anh cũng biết Thanh rất thương em, vì em mà chịu khổ nhiều
điều, chịu cả tai tiếng nữa. Nhưng sức chịu đựng con người có hạn. Đã là con
người ai mà không ham tiền, Thanh lại bị bà già thúc ép mãi nên mới chịu đi
buôn với thằng lái xe bồn. Nhưng nếu muốn giữ Thanh ở nhà thì em phải làm ra tiền
để nuôi gia đình. Mà anh nghĩ thời buổi này khả năng em biết làm gì cho ra tiền?
Phải chi có cưới hỏi hoặc có hôn thú đàng hoàng thì em còn mạnh thế, vì dù gì
Thanh và mẹ Thanh cũng ngại miệng tiếng làng nước chê trách là bỏ chồng. Còn đằng
này tụi em sống với nhau như vợ chồng hờ, chẳng có luật pháp hay lễ cưới xin
ràng buộc. Bà già vợ em thì nói thẳng với em: “Ba anh khinh gia đình tôi là thứ
nghèo hèn nên không chịu cưới con tôi làm dâu, anh sống với con tôi cũng chẳng
có hôn thơ hôn thú, vui ở buồn đi. Lỡ sau ni anh ưng ai bỏ con tôi thì mẹ con
tôi biết kêu kiện nơi mô. Thôi thì coi như con tôi lỡ dại chửa hoang để cho hắn
đi kiếm tương lai”. Em thấy bà nói cũng có cái lý của bà. Ai mà dò được lòng
người. Phận gái phải lo mà giữ mình. Bây giờ chỉ còn một cách là nói cách nào để
ông già em chấp nhận đưa Thanh về nhà em sống, sau đó ông nói với xã cho chúng
em đăng ký kết hôn là êm đẹp mọi bề. Mà phải làm gấp trước khi Thanh sa chân
vào tay thằng xe bồn thì mới cứu vãn được tình thế. Anh đã biết ông già em rất
khó lay chuyển. Em biết ông già em rất nể anh, anh thuyết phục dùm em.
Quả ba Lâm có nể tôi thật, nhưng điều đó không có nghĩa ông sẽ
nghe tôi thuyết phục. Đã tiếp xúc nhiều lần với ông (và cũng từng nêu ra vấn đề
của Lâm) tôi hiểu con người ấy. Ông có thể nghe tôi nhiều chuyện, nhưng về chuyện
“đạo lý thánh hiền” thì ông coi lớp người như tôi nói chung đã mất gốc. Tuy
nhiên không muốn đánh mất hy vọng cuối cùng của Lâm nên tôi đành nhận lời làm
thuyết khách, hứa hôm sau sẽ đến nhà ba Lâm.
Thú thật từ lâu tôi vẫn tin tưởng vào tài hùng biện của mình.
Chỉ đến lúc ấy, khi định mệnh trao vào tay tôi một sứ mệnh nghiêm trọng, không
chỉ liên quan tới số phận của Lâm và Thanh cùng đứa con của họ, mà còn liên
quan tới việc đánh đổ một thứ thành kiến, một trật tự cổ hủ đang ngăn chặn sự
tiến bộ và làm tha hóa con người, thì tôi mới thấy mình chỉ là thằng bất tài,
thích ba hoa bịp đời dối mình, tôi mới chua chát nhận ra mình là loại người
đang bị đào thải chứ không phải là thứ ẩn sĩ ẩn siếc gì cả.
Phòng tiếp khách của gia đình Lâm là căn giữa ngôi nhà rường
ba gian lợp ngói. Bộ salon gõ đặt trước tủ thờ cẩn xà cừ, ti-vi đặt trên chiếc
tủ nhỏ dán đầy ảnh các cô đào cải lương, radiô cat-sét đặt trên tủ búp phê (khi
tôi đến nó đang phát tuồng cải lương “Máu nhuộm sân chùa”). Tường treo đầy lịch
ảnh và mấy bức sơn mài mô tả phong cảnh hữu tình bằng bút pháp của một họa sĩ
nhà quê, trông rối mắt như rạp hát. Trên cao là cái trang thờ bổn mạng của mẹ
Lâm, dưới đất là ông thần tài phưỡn cái bụng phệ cười toe toét (không hiểu sao
chú tôi không tịch thu ba cái món mê tín ấy, trong lúc ông không ngần ngại bê mấy
vị được thờ trong đình làng đi chỗ khác chơi để biến nơi ấy thành kho chứa lúa
của hợp tác xã). Ở một bức tường khác treo trang trọng tấm bằng liệt sĩ của chú
ruột Lâm, lồng kính nghiêm chỉnh. Một giấy chứng nhận “Gia đình có công với
cách mạng” cũng được lồng kính treo bên cạnh; có lẽ xuất phát từ mấy tạ gạo được
ba Lâm ủng hộ một cách không tự giác lắm cho bộ đội hồi Mậu Thân và do công lao
giúp đỡ của chú tôi. Đối với ba Lâm, hai tấm giấy ấy là tấm lá chắn khá quan trọng
trong công việc làm ăn. Gia đình chính sách mà!
Ba Lâm tiếp tôi bằng thuốc thơm, rượu ngâm bìm bịp và nụ cười
khó đoán biết được lòng dạ trên khuôn mặt hồng hào tinh quái của ông. Ngoài cái
chân thọt xem ra không đáng kể (nhất là khi ông ngồi trên xe vespa), trông ông
rất phong độ ở cái tuổi năm mươi, với dáng hào hoa phong nhã của kẻ có tiền và
biết cách dùng tiền, ông có vẻ lôi cuốn được đàn bà con gái hơn cả chàng công tử
Hoàng Thiên Lâm đã trở thành một anh nông dân thô tháp trong túi không có một
xu. Sau khi thay băng nhạc theo gu của tôi và vặn nhỏ âm lượng, ông ngồi đối diện
với tôi nâng ly, nói:
- Thằng Lâm mà khôn ngoan như chú mi thì bà choa đỡ khổ thân
biết mấy. Hắn được cha mẹ lo cho từng li từng tí rồi sinh ra hư đốn. Chú mi quá
biết mẹ con con Địu ưa cái gia tài của tôi là chính. Xin lỗi. Bà choa đổ mồ hôi
sôi nước mắt tạo nên cái sản nghiệp này đâu phải để cho cái bọn khố rách áo ôm
nó nhảy vào hưởng.
Tôi nói:
- Theo em thì tình yêu có lý lẽ riêng của nó.
Ông cười ruồi:
- Lý lẽ cái chó chi, thằng Lâm mà tứ cố vô thân... Hình như
ông cảm thấy nói như thế đụng chạm đến tôi nên ngừng lại. Suy nghĩ một chút ông
nói tiếp - Sự đời mô có đẹp đẽ như trong sách chú đọc, sự đời nó chó má lắm. Bà
choa mà như thằng Lâm thì bây chừ bị lùa ra đồng cuốc đất rồi. Tinh cảm ai cũng
có, nhưng muốn có tình cảm thì trước hết phải có tiền.
Chú mi có hiếu với cha mẹ mà không có đồng xu thì cũng thua
cái thằng lâu lâu về chơi vất ra một nắm tiền. Chú mi thấy đó, trong gia đình đứa
con mô làm ra tiền là đứa đó được cha mẹ quý trọng. Muốn yêu đương hẹn hò thì
cũng phải có chục bạc mời con người ta vô quán uống nước chớ không lẽ đi xan
khao ngoài đường mãi?
Tôi nói:
- Hiển nhiên đồng tiền có giá trị của nó. Nhưng chỉ có đồng
tiền thôi thì cũng không đem lại hạnh phúc.
- Chú mi nói chơi đó chứ? Chú mi chỉ cho bà choa thấy ai giàu
có mà khổ còn ai nghèo rớt mồng tơi mà sướng coi thử?
Tôi bí. Thì ra cái đầu óc vốn tự hào thông hiểu triết lý duy
tâm lẫn duy vật biện chứng và không biện chứng, cộng với tài hùng biện của tôi
đem ra thực hành ở đây chẳng đắc dụng chút nào. May sao lúc ấy ông chủ nhiệm hợp
tác xã nông nghiệp ló vào. Ông chào chủ nhà rồi ban cho tôi nụ cười thân thiện.
Dù ngu ngốc đến mấy tôi cũng hiểu nếu tôi không có ông chú đang làm bí thư xã
thì tôi chẳng bao giờ vinh dự nhận được nụ cười ấy, mà ngược lại.
Ông chủ nhiệm hợp tác chắc định bàn riêng với anh “tư sản dịch
vụ” làm ăn gì đó (dân làng đều biết hai tay này liên kết làm ăn với nhau dưới sự
bảo trợ ngầm của chú tôi. Tuy nhiên không ai hiểu được nội dung hoạt động của
cái liên minh này ra sao). Sự có mặt của tôi làm cho cả hai kẹt khàn, đưa mắt
nhìn nhau đầy ý nghĩar Sau đó ông chủ nhiệm ngồi xuống ghếch cả hai bàn chân đất
lên mặt ghế. Ông đón ly rượu từ tay ba Lâm nốc một hơi rồi nói:
- Cái thứ này mà nhắm với lòng lợn là nhất hạng.
Khi chưa làm chủ nhiệm, ông ta vẫn gọi heo là heo chứ không gọi
là lợn như dân tập kết. Ba Lâm không quan tâm tới điều ấy, ông quan tàm tới ý
thích của ông chủ nhiệm. Trong lúc ông chủ nhiệm đưa tay chùi mép thì ba Lâm bảo
mẹ Lâm ra chợ mua lòng heo. Ông chủ nhiệm nói:
- Thôi anh để khi khác, kẻo quần chúng nhân dân họ lại phê
bình.
Ba Lâm khoát tay:
- Họ có sức cứ nói, tôi có tiền tôi muốn ăn uống với ai quyền
của tôi.
Ông chủ nhiệm nhìn tôi nói:
- Dân họ ưa xoi móc lắm. Chú anh với tôi khổ với họ từ miếng
ăn cho tới cái nhà. Anh thấy chú anh đi cách mạng qua hai cuộc kháng chiến mà
đã hưởng được chi bao lăm.
Tôi không biết nói sao cho phải, đành gật đầu ừ è cho qua
chuyện, rồi tính đường chuồn. Nhưng ba Lâm nhất quyết giữ tôi ở lại nhậu nhẹt.
Trong cuộc rượu lòng heo khá xôm tụ, tôi chỉ đực mặt ra nghe
ba Lâm thuyết phục tôi nên động viên Lâm biết “cải tà qui chánh”, bồng con trở
về nhà sau đó ưa con nào ông cưới cho con nấy. Ông chủ nhiệm cũng hùa vào nói
tuổi trẻ cần phải thức thời, biết nghe lời người trên thì sướng cái thân. Tinh
trai gái như lửa rơm, cháy đó rồi tàn đó. Đợi khi con Địu nó theo trai rồi mới
chịu ôm con về thì quá ê mặt. Tiếp đó hai ông nói chuyện thế sự, nói chuyện làm
ăn và khuyên tôi nên tích cực tham gia lao động để chú tôi dễ bề đưa tôi lên
làm cán bộ thông tin xã. Ông chủ nhiệm còn nói, đảng ủy xã và chi bộ hợp tác đã
nhất trí rồi, nếu Lâm chịu về nhà thì cũng sẽ được cho làm cán bộ xã. Ba Lâm
nói thêm, hắn ưa làm cán bộ huyện tôi cũng lo được, miễn hắn chịu nghe lời tôi.
Đến lúc tống tiễn “nhà thuyết khách” bất tài ra cửa, ba Lâm còn hứa sẽ làm một
chầu ra trò nếu Lâm bồng con trở về nhà để “làm lại cuộc đời”.
Lâm đợi tôi ở ngoài ngõ. Thấy tôi lắc đầu, Lâm rũ xuống như
tàu lá chuối non gặp lửa. Chẳng nói chẳng rằng, Lâm thất thểu bước đi như người
mất hồn. Sợ Lâm quẫn chí làm liều, tôi chạy theo an ủi Lâm, hứa sẽ có cách vận
động cả chú tôi nữa, thế nào cũng có kết quả, phải kiên nhẫn kẻo hư việc. Lâm tỏ
vẻ không tin tưởng lắm và chính tôi cũng chẳng tin sẽ có phép lạ nào có thể
xoay chuyển được tình thế.
Tôi về tới quán thì gặp chú tôi đang đợi tôi với chiếc xe đạp
có mang bảng số từ ngoài Bắc đem vào. Ông độp ngay:
- Mi vừa mới tới nhà cha thằng Lâm năn nỉ ông cưới con Địu
cho hắn phải không? Làm ăn không lo làm ăn đi lo chuyện bao đồng. Lại còn tứa
rượu vô nữa - ông tháo cái cặp đen to tổ bố ra khỏi xe rồi nói tiếp - Mi thay bộ
bi trục giữa, vô dầu mỡ hai bánh xe, xiết lại cặp dây phanh, tau ra xã một chút
rồi quay trở lại lấy.
Thấy ông quày quả bỏ đi, tôi vội nói:
- Cháu muốn bàn với chú chuyện này...
- Thôi lo mà sửa xe đừng có mà xen vô chuyện của người khác -
Chú tôi khoát tay - Đã từ một anh cán bộ phụ trách bị hất ra làm thằng sửa xe
mà không thất kinh. Bỏ cái thói ăn cơm nhà đi vác ngà voi, lo tu tỉnh làm ăn
cho nên người. Mi làm cái chi, nói năng ra răng, tau đều được báo cáo đầy đủ,
liệu cái thần hồn. Không có tau thì mi vô trại cưỡng bức lao động chớ không được
ngồi đây mà sửa xe mô, đừng có múa mặt. Cố tu tỉnh đi rồi tau cho làm cán bộ
văn hóa xã, sau đó phấn đấu tốt tau cơ cấu làm trưởng ban.
Làm cán bộ hay trưởng ban văn hóa xã có lẽ là tiêu chuẩn nên
người nhất mà chú tôi dành cho tôi. Nhưng lúc ấy tôi không quan tâm tới chuyện
đó. Tinh cờ gặp ông ở đây tôi thử liều một phen. Biết đâu số phận phiêu bồng, bỗng
dưng lại thuận theo lòng ước mong?
Ông vừa nói xong tôi tung ngay một đòn quyết định:
- Thằng Lâm dồn vào chân tường nó có thể tự tử, trước khi chết
nó có thể viết thư tố cáo chú làm sai pháp luật lên huyện lên tỉnh. Công an sẽ
về điều tra. Lúc đó là lôi thôi to.
Chú tôi gắt:
- Cái chi mà sai pháp luật? Cái chi mà lôi thôi to? Mà ai lôi
thôi? Còn luật pháp mô cho hắn tự tử?
- Luật pháp không qui định về việc tự tử, nhưng luật pháp
truy tố kẻ nào bức bách người khác đi đến chỗ phải tự tử. Nhất là do hành vi cố
tình làm sai luật pháp dẫn đến. Thằng Lâm với con Thanh đăng ký với nhau hoàn
toàn đúng với luật hôn nhân, đáng lý ra chính quyền phải ủng hộ cái đúng cái tiến
bộ...
Chú tôi nóng nảy cắt ngang:
- Chứng cớ mô mà nói tau làm sai luật pháp? Mà luật pháp thì
cũng phải được lãnh đạo chớ mô phải ai muốn tự do vô chính phủ cũng được. Mà
tau làm theo ý gia đình hắn chớ có chèn ép khi mô?
Thấy ông xuống câu cuối với giọng điệu hơi nao núng, tôi tấn
công tới:
- Cháu thấy chú có bao nhiêu việc trong xã cần phải giải quyết
thì không nên vì chuyện thằng Lâm mà tạo ra rắc rối. Chú làm như thế dân làng
nghĩ chú bị đồng tiền của ông già thằng Lâm mua chuộc thì còn thể thống gì? Ai
mà lường được hậu quả sẽ ra sao nếu thằng Lâm phẫn chí tố cáo tùm lum rồi liều
mình? Cái họa lớn nhiều khi do một nguyên nhân nhỏ nhặt gây ra. Con chó dồn nó
vào đường cùng thì nó phải cắn. Cháu biết chú thừa khôn ngoan, thừa bản lĩnh
nhưng trong việc này chú hơi chủ quan. Trước kia những ông quan khôn ngoan bao
giờ lột hết tiền của người khác họ cũng ném lại vài đồng bạc lẻ để xoa dịu bớt
sự phẫn uất dẫn tới chuyện làm liều...
Không biết sao vừa rồi với ba Lâm tôi lọng ngọng như một thằng
đần mà lúc ấy tôi lại hùng biện một cách lưu loát vậy. Tôi tiếp tục vừa đánh vừa
xoa. Cố chứng minh cho ông thấy không phải mọi pháp luật đều bị ông vô hiệu hóa
ở trong xã này. Và nếu có một sự cố xảy ra người ta sẽ bới móc bao nhiêu là
chuyện. Tôi cũng cố chứng minh cho ông hiểu dù sao tôi cũng là cháu ruột của
ông, tôi cũng có bổn phận giúp ông bảo vệ sự nghiệp chính trị của ông, ông mà bị
hề gì thì tôi cũng chẳng yên thân mà sửa xe chứ đừng nói tới làm cán bộ cán biếc.
Dù không thích ông lắm nhưng trong thâm tâm tôi vãn quý ông.
Khi gia đình nội tôi sa sút, nhờ chút ít chữ nghĩa ba tôi kiếm được một việc
làm khá nhàn nhã; còn ông phải làm thuê cuốc mướn và bị bọn nhà giàu, bọn cường
hào ác bá nó làm tình làm tội đủ điều, rồi còn gánh chịu tai họa chiến tranh...
Chú tôi có vẻ hơi ngạc nhiên thấy thằng cháu làm mình “nhơ
nhuốc theo” nói vanh vách chủ trương đường lối của Đảng, trích dẫn rành mạch lời
dạy của các lãnh tụ cách mạng vô sản, lại tỏ ra có quan điểm lập trường vững
vàng. Đồng thời nghe tôi quy đủ thứ “chịu trách nhiệm” ông cũng hơi run. Tôi đã
đánh trúng điểm yếu của ông. Người thiếu năng lực nhận thức thường rất sợ gánh
chịu trách nhiệm. Thấy có mòi thắng lợi, tôi kết luận:
- Bây giờ, giải pháp tối ưu nhất là chú bảo ông già thằng Lâm
cưới con Thanh cho nó. Ông phải nghe theo lời chú: Thứ nhất ông không dại gì mà
chống lại chú, nhất là khi chú làm đúng pháp luật, thứ hai là ông còn nương nhờ
chú trong công chuyện làm ăn lâu dài. Tính ra chú chẳng mất gì mà còn để tiếng
tốt. Ông già thằng Lâm phải biết rằng nếu con Thanh đi theo thằng lái xe bồn có
khi ông mất cả cháu lẫn con trai.
Xem ra chú tôi đã nghe ra. Nhưng ông vẫn nói nước đôi:
- Để tau coi lại... Mi qua nói thằng Lâm đừng làm liều.
Giao xe cho chú tôi xong tôi qua ngay chỗ Lâm. Chỉ có mình
Thanh ở nhà. Độ rày cô nàng như trái cây vừa chín tới, đẹp một cách sắc sảo. Dù
ở nhà, Thanh vẫn đánh phấn tô son một cách kỹ lưỡng, ở đó toát ra một vẻ gì đó
làm người ta nghi ngờ lòng chung thủy. Tôi hỏi Lâm, Thanh trả lời cay đắng:
- Anh ấy bồng con đi rồi.
Hình như tất cả đã chậm trễ. Tôi nói:
- Anh cần gặp cả Lâm và Thanh để nhắn lại lời của chú anh.
Thanh rơm rớm nước mắt:
- Vô ích thôi anh ạ. Chẳng mấy ai muốn tụi em nên đôi mô. Chẳng
qua ông bí thư và ba anh Lâm bày mưu tính kế chi đó.
Tôi giải thích:
- Không phải vậy đâu. Anh vừa nói chuyện với chú anh - thấy cần
tạo lòng tin nơi Thanh tôi nói dối - Chú anh nói sẽ bàn chuyện lại với ba Lâm,
ông bảo anh sang gặp Thanh và Lâm nói cứ yên tâm. Thanh đi tìm Lâm về đi.
Thanh nhìn tôi tỏ ý nghi ngờ, nhưng rất nhanh Thanh lắc đầu:
- Em không còn tin ai nữa cả. Anh không biết chớ em với Lâm sống
với nhau, Lâm xin nhận ruộng khoán hợp tác cũng không cho, còn em đi buôn đậu
thì thuế vụ xã rình bắt cho bằng được. Anh thấy đó, người ta buôn đậu cả làng
thì được còn em đi ba giờ sáng cũng bị bắt, hết vốn hết liếng. Các ông tìm đủ
cách o ép cho Lâm và em phải bỏ nhau. Em mang tiếng chịu lời mà miếng cơm manh
áo cũng không nên thân. Nếu mà em chỉ ham giàu như ba anh Lâm nói thì chán vạn
chi mối, gia đình anh Lâm mười họ cũng được tám chín. Nhưng chừ có thương anh
Lâm cũng đành chịu, anh Lâm cứ bồng con về nhà rồi cưới vợ khác, còn em thì lo
phận em. Chiếu manh thì theo phận chiếu manh.
Những lời nói xé lòng lại được phát ra từ cái miệng tô son
trên khuôn mặt điểm trang rực rỡ, và cái nhìn sắc như dao, gây cho tôi cảm giác
bứt rứt. Tôi không tài nào đoán ra được lòng dạ của Thanh. Lời nói của Thanh và
những tình cảm cô dành cho Lâm mà tôi biết được, khiến tôi không thể tin Thanh
có thể ngồi tỉ mẩn trang điểm nhan sắc mình khi Lâm vừa ôm con ra đi. Thế nhưng
điều đó đang ở trước mắt tôi đây. Phải chăng ở trong Thanh tình yêu nồng thắm,
đức tính hy sinh và sự lạnh lùng tàn nhẫn phản trắc đều mạnh mẽ như nhau? Phải
chăng cả chú tôi lẫn ba Lâm đã bẻ gãy mầm thiện lương xanh tươi đang may mắn
phát triển trên cây đời của Thanh, để rồi do bản năng tồn sinh cây đời ấy nhú
ra những gai nhọn ác độc?
Tôi bỗng cảm thấy một nỗi chán chường mệt mỏi. Tuy nhiên,
trót “xen lo vô chuyện người khác” tôi cố lựa lời thuyết phục Thanh. Cuối cùng
tôi nói:
- Thôi để anh đi tìm Lâm coi.
Thanh nói giọng như có pha giấm:
- Anh khỏi tìm chi mất công, tối chi “ông” cũng mò về!
Câu nói của Thanh làm tiêu tan trong tôi tất cả niềm hy vọng.
Ba ngày sau, chú tôi mời ba Lâm lên trụ sở ủy ban xã làm việc.
Khi về ba Lâm ghé chỗ tôi nói:
- Nhờ chú qua nhà con Địu nhắn thằng Lâm về nhà tôi nói chút
chuyện.
Tôi bảo:
- Bữa trước em có qua chỗ Lâm thì Thanh nói Lâm bồng con đi rồi.
Ba Lâm nói:
- Hắn không xa nổi cái lưng quần con Địu mô. Chú đi giùm
choa.
Thú thật tôi đã chán ngấy chuyện này. Nhưne vì thương Lâm nên
tôi cũng đóng cửa quán qua nhà Thanh.
Chỉ có mẹ Thanh ở nhà. Thanh đã đi theo anh xe bồn hành nghề
buôn chuyến từ tối hôm qua. Lâm thì mới tảng sáng đã bồng con ra đi sau khi nói
với bà là từ nay Lâm không trở về đây nữa. Thanh tự do ưng ai thì ưng. Bà kết
luận:
- Thôi thế cũng xong!
Tối trở về nhà Làm thì mẹ Lâm nói, Trong lúc ba Lâm lên làm
việc với chú tôi ở ủy ban thì Lâm bồng con về gởi cho bà rồi đi ngay. Bà cố giữ
chờ ông về nhưng không được. Ba Lâm cũng vừa về biết tin Thanh đã di theo anh
lái xe bồn, ông hầm hầm nói: “Sinh cái thằng con ngu quá mức, làm thiên hạ cười
thúi đầu cha hắn”, mẹ Lâm nín nhịn từ lâu nay gào lên: “Chính tự ông mà ra, tự
ông hại con hại cái. Thời buổi ni mà cứ đòi môn đăng hộ đối. Chừ biết con tui ở
mô mà tìm”. Nói xong bà khóc lóc kể lể một tràng. Ông cáu sườn quát: “Bà có câm
cái miệng không, thứ con bất hiếu có chết tui cũng không tiếc”. Tôi không muốn
chứng kiến thêm bi kịch gia đình Lâm nên thối lui, trở về với cái quán sửa xe của
mình.
Tôi đinh ninh Lâm buồn đời đi lang thang một thời gian để xóa
vết thương lòng rồi sẽ trở về. Tôi thầm hy vọng vào thời gian dù thật ra cũng
chẳng biết hy vọng về điều gì trong dòng đời trôi chảy mịt mùng.
Thời gian cứ trôi đi. Thời gian có thể làm lành vết thương
nhưng cũng có thể hủy hoại tâm hồn tan nát.
Đi đâu chừng hơn hai tháng, Lâm trở về (sau này mới biết Lâm
đi tìm trầm quyết làm giàu để lôi vợ ra khỏi vòng tay của thằng lái xe bồn).
Đêm ấy trăng mười ba. Lâm về làng nhưng tránh không gặp mặt ai, kể cả cha mẹ
mình. Lâm kín đáo mang đến cho con một đồ chơi điện tử, loại không có đứa bé
nông thôn nào vào thời ấy dám mơ ước; để lại cho con một cái hộp đựng xấp ảnh
Lâm và Thanh chụp chung với nhau. Sau một tấm ảnh màu chụp Thanh bồng đứa bé
ngày đầy tháng đứng cạnh Lâm (hình như do một anh thợ ảnh ở thành phố vốn là bạn
học cũ ghé thăm chụp tặng hai vợ chồng), Lâm ghi: “Gởi lại con kỷ niệm của ba mẹ
với con. Cầu nguyện ơn trên cho thế hệ con không chịu nỗi bất hạnh như ba và mẹ
đã hứng chịu. Lớn lên con có một tình yêu chân chính con sẽ hiểu và tha thứ cho
ba”. Lâm gởi lại cho cha mẹ mình một lá thư, nội dung xin ba mẹ tha thứ cho tội
bất hiếu. Nhưng cũng xin ba mẹ cho phép Lâm quyết định số phận đời mình vì dẫu
sao Lâm cũng đã trưởng thành. Lâm nhấn mạnh rằng, xin cha mẹ đừng dùng tình
thương lẫn sự cưu man của mình để biến con cái thành kẻ nô lệ vào điều mà cha
mẹ tự cho là tốt đẹp là hợp với lẽ phải. Lâm còn nhờ người bạn thân của Thanh
chuyển cho Thanh một lá thư (lúc đó Thanh đang buôn chuyến với tay xe bồn chưa
về), nội dung nói gì thì tôi không biết.
Cũng đêm mười ba ấy có người trông thấy Lâm đứng hàng giờ bên
giếng làng giữa đêm khuay thanh vắng một mình.
Đêm hôm sau (tức là đêm mười bốn), tôi và một tay du kích xã
ra cái giếng định mệnh đó tắm, nửa chừng thì gàu đút. Tay du kích phải lặn xuống
giếng để vớt gàu lên. Mới hụp xuống tới đáy, hắn đã trôi lên hét lạc cả giọng:
- C... ó... có... có... người chết!
Chúng tôi vội đi báo cho xã đội. Xã đội cho du kích lặn xuống
vớt cái xác lên. Người chết là Hoàng Thiên Lâm.
Một tay du kích nhận xét:
- Thằng ni hắn quyết tâm chết nên cột luôn hai cục bờ-lô rất
chắc vô người.
Người ta đặt Lâm nằm ngửa mặt lên trời. Tôi cúi xuống vuốt mắt
cho Lâm bằng những ngón tay run rẩy. Trong đôi mắt ấy có cả một trời trăng huyền
ảo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét