Các nhạc sĩ của Sài Gòn sau 1975 định cư tại nước ngoài vẫn
tiếp tục sáng tác và cùng với những nhạc sĩ trẻ hơn đã tạo nên dòng nhạc hải
ngoại với nhiều chủ đề thay đổi theo thời đoạn. Trong những năm đầu, một
chủ đề sáng tác chính của họ là hoài niệm với nỗi nhớ quê hương và
Sài Gòn như: Sài Gòn ơi! Vĩnh biệt của Nam Lộc, Khi xa Sài Gòn của
Lê Uyên - Phương, Đêm nhớ về Sài Gòn của Trầm Tử Thiêng, Quê
hương bỏ lại của Tô Huyền Vân, Đường về quê hương của Lam
Phương…
Vào thời điểm đầu, chủ đề thân phận lưu vong cũng được nói đến
trong nhiều ca khúc: Tị nạn ca của Phạm Duy, Người di tản buồn của
Nam Lộc, Ai trở về xứ Việt của Phan Văn Hưng, Một chút quà
cho quê hương của Việt Dzũng... Nhiều tác giả viết về đề tài phổ biến
nữa là ngục tù, phản kháng như Phạm Duy, Trần Thiện Khải, Hoàng Nguyên
Linh, Nguyệt Ánh, Nguyễn Hữu Nghĩa, Hà Thúc Sinh, Châu Đình An,
v.v…
Đến giữa thập niên 1980, sau khi trong nước đổi mới,
các nhạc sĩ hải ngoại bắt đầu bỏ các chủ đề trên, quay lại viết nhạc
trẻ và tình ca. Tình ca hải ngoại là sự tiếp nối vài dòng nhạc ở
Miền Nam trước 1975, nhất là nhạc vàng và tình khúc.
Nhưng ranh giới giữa hai dòng nhạc này trong nhạc hải ngoại không còn
rõ rệt như thời kỳ trước năm 1975 ở Miền Nam.
Nhạc hải ngoại cũng ít nhất là ba thế hệ nhạc sĩ. Thế hệ thứ
nhất là các nhạc sĩ tình khúc và nhạc vàng trước 1975 di tản ra nước ngoài. Nhạc
sĩ tình khúc 1954-1975 có Phạm Duy, Trầm Tử Thiêng, Ngô Thụy Miên, Vũ
Thành An, Đức Huy, Từ Công Phụng, Thanh Trang, Nguyễn Hữu Nghĩa... Phạm
Duy vẫn sáng tác mạnh theo nhiều thể loại, và cùng với con trai là Duy Cường thử
nghiệm cả nhạc new age, thực hiện các băng nhạc “Minh họa truyện Kiều”. Vũ
Thành An tiếp tục những Bài không tên số 11 đến Bài không
tên số 50 và nhiều tình khúc khác; Đức Huy với Và tôi cũng yêu em, Khóc
một dòng sông, Và con tim đã vui trở lại, Từ Công Phụng với Khi
tôi đến nơi đây, Đừng nữa nhé, chia ly, Nguyễn Hữu Nghĩa với Tình
ca; Thanh Trang với một loạt tình khúc viết đầu thập niên 2000: Một đời
tôi hát, Bài thơ xưa cho em, Chiều đông, Lời tình cuối, Tóc em vẫn là
hương của mẹ, Còn nhớ gì khi xa Huế; Ngô Thụy Miên với nhiều
sáng tác mới, trong đó Riêng một góc trời nổi tiếng viết
năm 1997...
Nhạc sĩ nhạc vàng 1954-1975 có Lam Phương, Nhật Ngân,
Song Ngọc, Anh Bằng, Phan Ni Tấn... Song Ngọc với Đàn bà, Hà Nội
ngày tháng cũ, Hương đồng gió nội...; Nhật Ngân với hai ca khúc viết tiếp
bài Xuân nầy con không về: Xuân nầy con sẽ về, Xuân nầy con về mẹ
ở đâu; Phan Ni Tấn với Lý con sáo Bạc Liêu; Lam Phương với Bé
yêu, Mùa thu yêu đương, Tình vẫn chưa yên, Bài tango cho em (1991) và
hàng loạt ca khúc tiêu đề chỉ có một chữ khi đau xót vì hạnh phúc gia đình tan
vỡ như Điên, Say, Tiếc..., trong đó nổi tiếng nhất
là Lầm với câu hát "Anh đã lầm đưa em sang đây". Đặc
biệt, Anh Bằng sáng tác rất nhiều, trong đó có cả những tình khúc phổ
thơ như Cánh phượng hồng thuở (thơ Trịnh Bửu Hoài), Khúc
thụy du (thơ Du Tử Lê), Chuyện giàn thiên lý 1, 2 (ý thơ Yên
Thao), Anh còn nợ em và Anh còn yêu em đều phổ thơ của Phạm
Thành Tài, v.v...
Từ giữa thập niên 80, xuất hiện một lớp nhạc sĩ mới với những tình
ca và nhạc trẻ. Tình ca hải ngoại có các nhạc sĩ
như Nguyễn Đình Toàn, Đăng Khánh, Vũ Tuấn Đức, Diệu Hương, Ngọc
Trọng, Lê Tín Hương, Ngọc Loan, Trúc Hồ, Trịnh Nam Sơn, Trần
Quảng Nam, Hoàng Thanh Tâm, Trần Duy Đức, Trần Đức, Mai Anh Việt, Hoàng
Việt Khanh, Hoàng Trọng Thụy, Phạm Anh Dũng, Trần Chí Phúc… Nhạc
trẻ hải ngoại có Jimmii Nguyễn, Lãnh Ngọc Tâm,
v.v...
Có thể kể ra vài ca khúc tiêu biểu của thế hệ nhạc sĩ mới
này: Trần Quảng Nam với Mười năm tình cũ; Hoàng Thanh
Tâm với Tháng sáu trời mưa; Trúc Hồ với Trái tim mùa
đông; Ngọc Trọng với Buồn vương màu áo; Trịnh Nam
Sơn với Dĩ vãng, Quên đi tình yêu cũ; Nguyễn Tâm với Rong
rêu; Phạm Anh Dũng với Dạ quỳnh hương; Lê Tín Hương với Có
những niềm riêng, v.v…
Từ giữa thập niên 1990, các thể loại nhạc new
age, new wave, rap, hip hop lời Việt đựơc nhiều nhạc sĩ như Phong Lê,
Heart2 Exist (Lê Huy Phong & Lê Huy Phát)… sáng tác.
Đầu thế kỷ 21, xuất hiện dòng nhạc trẻ hải ngoại với
nhiều tiết điệu mới (và cả cách phối khí mới) bởi các nhạc sĩ trẻ như Huỳnh
Nhật Tân, Nhật Trung, Đồng Sơn, Lê Xuân Trường... Một số nhạc sĩ sáng tác tân
nhạc lời Anh như Vũ Tuấn Đức, Kristine Sa, Lê Tâm, Cardin Nguyễn, Trish
Thùy Trang, Alan Nguyễn, Vy Nguyễn... Tuy nhiên, phần nhiều ca khúc VN ở hải
ngoại ca từ vẫn là lời Việt.
Nhạc hải ngoại cũng có sự nối kết và liên hệ với nhạc trong
nước, nhất là kể từ khi trong nước đổi mới, các ca sĩ và nhạc sĩ ở hải
ngoại được về nước biểu diễn đã tạo nên sự giao thoa, trao đổi nghệ thuật (âm
nhạc) giữa hai bên. Nhiều ca khúc trong nước được các ca sĩ hải ngoại biểu diễn
rất thành công. Và ngược lại, nhiều ca sĩ trong nước thể hiện các tình khúc hải
ngoại được công chúng yêu thích, như: Thanh Lam, Hồng Nhung, Mỹ Linh, Đàm
Vĩnh Hưng, Mỹ Tâm, Quang Dũng, Thanh Long Bass, Hồng Ngọc, Song Giang, Tùng
Dương, Lệ Quyên, Hoài Phương, v.v…
Các nhạc sĩ trong nước như: Lê Hựu Hà, Trịnh Công Sơn, Tùng
Giang, Quốc Dũng, Vũ Đức Sao Biển, Bắc Sơn, Trần Quang Lộc, Ái Lan… cũng tham
gia thị trường âm nhạc hải ngoại bằng những tình ca mới và lúc đầu, gần như các
tình ca mới này của họ chỉ được hát tại hải ngoại. Các ca khúc của nhạc sĩ Bảo
Chấn, Phú Quang, Nguyễn Ngọc Thiện được trình bày và nổi tiếng tại nước
ngoài từ những năm đầu thập niên 1990. Đức Trí, Việt Anh, Nhật Trung, Nguyễn
Xinh Xô trong thời gian du học cũng sáng tác nhiều ca khúc cho thị trường âm nhạc
tại hải ngoại. Nhiều nhạc sĩ đã nổi tiếng từ trong nước trước khi ra định cư tại
nước ngoài và trở thành nhạc sĩ hải ngoại như Sỹ Đan, Quốc Hùng, Ngọc Lễ… Sau
này, một số nhạc sĩ trẻ trong nước như Lê Quang, Hoài An, Nguyễn Nhật Huy, Nguyễn
Kim Tuấn, Thái Thịnh, Minh Nhiên, Minh Khang, Vũ Quốc Việt... cộng tác và bán độc
quyền một số ca khúc của họ cho các Trung tâm hải ngoại. Các ca sĩ trong nước nổi
tiếng như Trần Thu Hà, Bằng Kiều, Thu Phương, Kiều Hưng, Ngọc Anh, Lam Trường,
Thủy Tiên, Quang Dũng, Nguyễn Hồng Nhung, Xuân Mai… sau này định cư tại hải
ngoại cũng tham gia sinh hoạt âm nhạc tại đây và rất được nhiều người hâm mộ... Hầu
hết các ca sĩ tình ca trong nước đều đã từng lưu diễn tại hải ngoại.
Trong những năm 1991-2000, riêng Trung tâm Mưa Hồng đã phát
hành tại Mỹ hơn 400 tựa CD với các giọng ca quốc nội như Bảo Yến, Nhã Phương,
Đình Văn, Bích Phượng, Cẩm Vân hát nhạc hải ngoại, tình khúc 1954-1975 và tình
ca quê hương và làm những ca sĩ này rất nổi tiếng tại hải ngoại. Trung tâm Làng
Văn/Lạc Vũ cũng đặt hàng và phát hành rất nhiều CD với các giọng ca trong
nước và sau này thực hiện các chương trình Duyên dáng Việt Nam trong nước.
Từ năm 2000, một số ca khúc nhạc hải ngoại bắt đầu được phép
lưu hành chính thức trong nước (tuy rằng trước đó và sau đó, một số ca khúc hải
ngoại phải thay tên tác giả để qua kiểm duyệt, như trường hợp Em đã quên một
dòng sông của Trúc Hồ lại ghi là tác giả Hải Triều, Cơn mưa hạ của
Trúc Hồ - Trầm Tử Thiêng, ghi là nhạc Hoa, Vì đó là em của Diệu Hương
do Quang Dũng thể hiện đoạt giải Mai Vàng 2003, nhưng sau đó bị rút giấy
phép khi biết Diệu Hương ở hải ngoại). Một số nhạc sĩ hải ngoại sau này về thực
hiện nhiều dĩa nhạc, cũng như hòa âm phối khí cho các ca sĩ và tham gia các
chương trình văn nghệ trong nước như Phạm Duy, Phạm Duy Cường, Trịnh Nam Sơn,
Huỳnh Nhật Tân, Trần Viết Tân, Đức Huy (đã định cư hẳn tại Việt Nam)... Một số
ca sĩ hải ngoại sau này về định cư hẳn tại quê nhà hay thường xuyên hát
trong nước như Elvis Phương, Hương Lan, Duy Quang, Tuấn Vũ, Phi Nhung, Thái
Châu, Ngô Thanh Vân và nghệ sĩ hài Hoài Linh, Chí Tài, Hoài Tâm… Ca sĩ nổi tiếng
khác ở hải ngoại như Ái Vân, Lệ Thu, Tuấn Ngọc, Khánh Hà, Ý Lan... cũng đã từng
nhiều lần về nước lưu diễn.
Nhạc cách mạng 1945 - 1954
Từ tháng 9.1945, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công đến
cuối năm 1946, khi Pháp đã đổ quân vào Nam bộ, Lưu Hữu Phước và nhóm Hoàng Mai
Lưu vẫn tiếp tục sáng tác nhiều ca khúc yêu nước và cách mạng: Đoàn quân
du kích (Bài hát của quân du kích Nam bộ - 23.9.1945), Đoàn
quân địch vận (1945 - lời: Phòng địch vận khu X), Đoàn quân ma (1945), Bóng
người núi Lam (1946), Vượt trùng dương (1946), Lục quân Trần
Quốc Tuấn (1945), Hướng đạo cứu quốc Việt Nam (Hướng đạo hành
khúc - 1946)… Hướng đạo cứu quốc Việt Nam sau này trở
thành Hội ca chính thức, hát trong nghi lễ của Hội Hướng đạo VN.
Trong thời đoạn này (1945-1946), những nhạc sĩ thuộc nhiều
dòng nhạc khác nhau đã tuôn về một dòng sông âm nhạc chung và viết lên những ca
khúc giá trị: Hoàng Quý với Tiếng gọi non sông (10.1945);
Việt Lang với Chiều Yên Thế (10.1945); Lê Yên với Kỵ binh hành
khúc (Ngựa phi đường xa - 1945); Nguyễn Xuân Khoát với Tiếng
chuông nhà thờ (1946); Phan Huỳnh Điểu với Giải phóng quân (1945 -
sau đổi tên thành Đoàn vệ quốc quân), Mùa đông binh sĩ (1946), Những
người đã chết (1946 - thơ Tế Hanh) và Tạ Thanh Sơn với Nam
bộ kháng chiến (1946) trở thành nhạc hiệu của Đài phát thanh Nam Bộ. Đáng
ghi nhận là Văn Cao với một loạt ca khúc cách mạng viết chỉ trong năm
1945: Bắc Sơn, Chiến sĩ Việt Nam, Bài ca chiến sĩ hải quân,
Không quân Việt Nam… Và Đỗ Nhuận cũng với một loạt ca khúc đỏ
viết trong hai năm 1945 - 1946: Bé yêu Bác Hồ, Ngày Quốc hội, Tiếng súng
Nam Bộ, Đường trường vô Nam, Đoàn lữ nhạc (1946). Hầu hết ca khúc
cách mạng viết trong hai năm đầu Cách mạng Tháng Tám thành công, 1945 và 1946
có giai điệu: nhịp đi, nhanh, hùng, mạnh.
Sang thời đoạn 1947-1948, sau ngày “Toàn quốc kháng chiến", 19.12.1946,
khi chiến sự bùng nổ khắp ba miền, các nhạc sĩ bước vào “trường kỳ kháng chiến”
với những bài ca xung trận.
Năm 1947, Nguyễn Đình Thi với Người Hà Nội; Lương Ngọc
Trác với Mơ đời chiến sĩ, Lô giang và Lời thề quyết tử; Việt
Lang với Những hình bóng qua; Văn Cao viết Làng tôi và
bản trường ca đầu tiên của tân nhạc Việt: Trường ca Sông Lô, Nguyễn
Đình Phúc với Chiến sĩ sông Lô và trường ca thứ hai của tân nhạc Việt: Bình
ca, v.v…
Đến năm 1948, Văn Cao với Ngày mùa; Đỗ Nhuận với Áo
mùa đông; Lương Ngọc Trác với Trường chinh ca (lời Lê
Minh); Huy Du với Sẽ về thủ đô; Bùi Công Kỳ với Ba Đình nắng (lời
Vũ Hoàng Định); Nguyễn Văn Thương với trường ca Bình Trị Thiên khói lửa; Lưu
Hữu Phước với ca khúc hợp xướng Ngọn cờ dân chủ, Việt Lang với 5 ca
khúc giá trị trong một năm: Đoàn quân đi, Bài ca Quốc tế lao động,
Mùa không biên giới, Thu trên sông, Đàn xuân… Hơi trái với giai điệu của
thời đoạn trước đó (1945-1946), hầu hết ca khúc đỏ viết trong thời đoạn này
(1947-1948) thường có giai điệu: chậm vừa, thong thả, nhẹ nhàng, tình cảm, có
khi dịu dàng, tha thiết… với ca từ là ngôn ngữ trong sáng, giản dị mà điêu luyện,
giàu hình tượng văn chương mang nội dung trữ tình, lãng mạn hơn, như dòng nhạc
tiền chiến, mà sau này các nhà nghiên cứu gọi là lãng mạn cách mạng. Một trong
những cách giải thích cho sự khác biệt nầy là trong hai năm sau, các nhạc sĩ đã
“điềm tĩnh” bước vào “trường kỳ kháng chiến”, vẫn nhiệt tình yêu nước
nhưng đã qua rồi cái tâm trạng hồ hởi, sôi nổi, nhiệt huyết “bốc” lên như
hai năm đầu vừa mới được tận hưởng không khí tự do, được sống trong
một đất nước độc lập, dân chủ.
Xu hướng nhạc cách mạng đã hình thành từ 1930 với Cùng
nhau đi hồng binh của Đình Nhu và thành cao trào từ 1941-1945. Nhưng phải
đến khi xảy ra cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954), cùng với những
nhạc sĩ đã viết ca khúc “nhạc đỏ” từ trước, nhiều nhạc sĩ thuộc dòng nhạc hùng,
nhạc lãng mạn đi theo kháng chiến, sáng tác những ca khúc mới thì dòng nhạc
cách mạng mới thực sự định hình và phát triển thành nhiều giai đoạn sau này
theo biến chuyển của tình hình lịch sử xã hội Việt Nam. Các ca khúc “nhạc
đỏ” mới có giai điệu hùng tráng và nội dung động viên, cổ vũ
tinh thần yêu nước, yêu Tổ quốc, đồng bào, yêu lý tưởng cộng sản, phục vụ sự
nghiệp kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát
triển đất nước và từ 1949-1954, do hoàn cảnh lịch sử đã tập trung cao độ vào đề
tài kháng chiến chống
Pháp.
Ở miền Bắc, Đỗ Nhuận viết Du kích sông
Thao (1949), Hành quân xa (1953); Văn Cao đã sửa lời Bến
xuân (viết chung lời với Phạm Duy) thành Đàn chim Việt và viết Tiến
về Hà Nội (1949); Lê Yên viết Đoàn kỵ binh Việt Nam, Trận
Đoan Hùng (1949), Bộ đội về làng (thơ Hoàng Trung Thông
- 1950), Chiều hậu phương, Lúa mới; Hoàng Vân viết Hò
kéo pháo (1953); Tô Hải với Toàn dân kháng chiến trường kỳ, Chiến
sĩ khu Ba; Hồ Bắc với Làng tôi (1949), Bên kia sông Đuống (thơ Hoàng
Cầm - 1950), Gặt tay nhanh (1952), Giữ mãi tuổi xuân (1954);
Hoàng Hà với Vui lên đường (1949), Hò dân công (1952),
v.v…
Tham gia kháng chiến, Phạm Duy viết nhiều ca khúc nổi
tiếng về đề tài cách mạng: Chiến sĩ vô danh, Bà mẹ Gio
Linh, Xuất quân, Chinh phụ ca, Gươm tráng sĩ, Thu chiến trường,
Đường về quê, Nợ xương máu, Bao giờ anh lấy được đồn Tây (sau đổi
thành Quê nghèo), v.v...
Ở miền Trung có Lời người ra đi, Con trâu
kháng chiến, Bà Ba kháng chiến của Trần Hoàn; Đoàn vệ
quốc quân, Có một đàn chim của Phan Huỳnh Điểu; Du
kích Ba Tơ của Dương Minh Viên; Tự túc của Dương Minh
Ninh; Đánh giặc tăng gia của Văn Cận; Ai xây chiến lũy (1949), Vượt
trùng dương (1952) của Nguyễn Văn Tý; Bước chân chiến sĩ của Vân
Đông; Chuyến tàu trăng, Bảo vệ hòa bình, Đố cờ, Hoa bên suối của
Trương Quang Lục, v.v…
Còn ở miền Nam, một lớp nhạc sĩ trẻ hơn như Hoàng Việt với Thành
đồng Tổ quốc (1949), Ai nghe chiến dịch mùa xuân (1950), Mùa
lúa chín (1951), Tin tưởng (1951), Đêm mưa dầm (1951), Lên
ngàn (1952), Nhạc rừng (1953); Nguyễn Hữu Trí với Tiểu
Đoàn 307 (1950 - phỏng thơ Nguyễn Bính); Trần Kiết Tường với Anh
Ba Hưng; Quốc Hương với Du kích Long Phú (1949), Cô gái
Vĩnh Hanh, Đoàn người đi tòng quân, Tầm Vu (viết cùng Đắc
Nhẫn - 1951)… Lưu Hữu Phước và nhóm Hoàng Mai Lưu tham gia Nam bộ kháng
chiến đóng góp vào những ca khúc như: Cô gái Củ Chi, Bài hát Đoàn thiếu
nhi nghệ thuật, Thanh niên ca (1950), Em yêu chị Ray-mông (1950), Xuân
Việt - Trung - Xô (1954), Ðoàn quân ma, Ca ngợi Hồ Chủ tịch, Hăng-ri
Mác-tanh (Henri Martin), Cả cuộc đời về ta và hai ca khúc hợp xướng: Đông
nam Á châu và Ngọn cờ dân chủ,
v.v...
Cuối giai đoạn, không khí hào hùng và tinh thần lạc quan, tự
hào bởi chiến thắng Điện Biên Phủ vẻ vang của nhân dân, dân tộc đã ùa vào
hàng loạt ca khúc có giá trị viết năm 1954, trước, trong và sau chiến
dịch này: Trên đời Him Lam, Chiến thắng Điện Biên của Đỗ
Nhuận; Quê tôi giải phóng của Văn Chung; Hát mừng
anh hùng Núp, Ngày về (thơ Chính Hữu) của Lương Ngọc
Trác; Ta lớn lên (thơ Tố Hữu) của Nguyễn Xuân Khoát; Lá cờ tháng
Tám của Phan Thanh Nam; Buổi sáng trên đồng nội của Trần Tất Toại; Hòa
bình trên đất nước ta của Nguyễn Mạnh Thường…
Thật thú vị khi Sẽ về thủ đô (1948) của Huy Du
và Tiến về Hà Nội (1949) của Văn Cao được viết rất sớm, nhưng lại dự
cảm được không khí hùng tráng, niềm vui ngút ngàn thắng lợi của năm 1954.
Song song với những ca khúc chiến đấu, tình cảm lãng mạn
vẫn còn là nguồn cảm hứng chủ đạo trong các tình ca, như: Em đến thăm anh
một chiều mưa, Tạ từ (1947), Tiếng chuông chiều thu (1948) của
Tô Vũ; Lời người ra đi (1948), Tìm em, Sơn nữ ca (1950)
của Trần Hoàn; Dư âm (1950), Mùa hoa nở của Nguyễn Văn
Tý; Nụ cười sơn cước (1947) của Tô Hải; Ngày về (1846) của
Hoàng Giác; Tình quê hương (1946), Những hình bóng qua (1947), Mùa
không biên giới, Thu trên sông, Đàn xuân (1948) của Việt Lang; Tiếng
hát quay tơ (1948) của Tử Phác; Ánh trăng mùa thu (1947 - ca
khúc đầu tay); Tình nghệ sĩ (1947), Đường về Việt Bắc (1948), Lá
thư (1949) của Đoàn Chuẩn; Bên cầu biên giới, Khối tình Trương
Chi, Cây đàn bỏ quên, Tình kỹ nữ, Chú Cuội, Tiếng đàn tôi, Đêm
xuân, Tiếng bước trên đường khuya của Phạm Duy,
v.v…
Bên cạnh đó, các nhạc sĩ đã dùng nhạc để diễn tả những bài
thơ lãng mạn của các nhà thơ: của Lưu Trọng Lư (Tiếng thu, nhạc Phạm
Duy); của Nguyễn Bính (Cô lái đò, nhạc Nguyễn Đình Phúc); của Nguyễn
Nhược Pháp (Ði chùa Hương, nhạc Trần Văn Khê); của Hữu Loan (Những
gác chuông giáo đường, nhạc Huy Du)
Cũng theo giọng điệu trữ tình của dòng nhạc tiền chiến nhưng
với chủ để tình yêu quê hương như: Quê em miền trung du (1949) của
Nguyễn Đức Toàn; Làng tôi (1947), Ngày mùa (1948), Tình
ca trung du của Văn Cao; Con kênh xanh xanh (1949) của Ngô
Huỳnh; Lá xanh (1951) của Hoàng Việt, Nương chiều (1947); Gánh
lúa (1949) của Phạm Duy…
Một đề tài sáng tác mới nữa của các nhạc sĩ là ca ngợi Hồ Chí
Minh và Đảng Lao động Việt Nam mà giới nghiên cứu sau này gọi là chính ca. Đỗ
Minh viết Chào mừng Đảng Lao động Việt Nam (1952); Lưu Bách Thụ viết Biết
ơn cụ Hồ (9.1945); Hoàng Việt và Minh Trị viết Mong Bác Hồ vào Nam;
Hoàng Hà viết Thanh niên làm theo lời Bác (1953); Lưu Hữu Phước
viết Ca ngợi Hồ Chủ tịch (1948 - lời Nguyễn Đình Thi); rồi
cũng Ca ngợi Hồ Chủ tịch của Đỗ Nhuận. Đặc biệt, nhạc sĩ chuyên viết
ca khúc thiếu nhi Phong Nhã đã viết Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên
nhi đồng (1946) được phổ biến rất sâu rộng,
v.v...
Ca sĩ nhạc đỏ nổi tiếng thuộc thế hệ này là Trần
Khánh, Trần Thụ, Mai Khanh, Thương Huyền..., trong đó Nghệ sĩ
Nhân dân Quốc Hương với một giọng hát giản dị, đầy nhiệt huyết mà nhiều thế hệ
ca sĩ đã chịu ảnh hưởng, là một tên tuổi lớn trong nền tân nhạc cách mạng Việt
Nam nhiều giai đoạn sau. Nhiều ca khúc cách mạng được ông thể hiện đầu tiên, và
cũng nhiều ca khúc gắn với tên tuổi ông như: Tình ca (Hoàng Việt), Bình
Trị Thiên khói lửa (Nguyễn Văn Thương), Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu
Trí)…
Nhạc cách mạng 1954 - 1975
“Nhạc đỏ” cùng với nhạc dân ca, truyền thống là những thể loại
âm nhạc được phát trên đài phát thanh, các phương tiện thông tin đại chúng, được
trình diễn trong các buổi sinh hoạt, hội diễn văn nghệ từ năm 1954 đến năm 1975
ở Miền Bắc và vùng giải phóng Miền Nam.
Trong giai đoạn 1954-1975, với quan điểm văn nghệ phục vụ
chính trị, âm nhạc ở Miền Bắc và vùng Giải phóng Miền Nam sáng tác theo phương
châm: Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng, với các
đề tài phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược lúc đó: chống Mỹ cứu nước ở hai miền và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, trong đó đề tài thứ nhất, âm nhạc có nhiều
ca khúc thành công hơn.
Vào thời đoạn đầu, trong 1955-1956, tiếp tục niềm tự hào, lạc quan
trong ca khúc 1954, là tiếng ca vui tự do khi miền Bắc được giải phóng được
ngân lên với cung bậc mới: Lời ca thống nhất (1955) của Trần Quý; Liên
khu Năm yêu dấu (1955), Tình trong lá thiếp (1955) của Phan Huỳnh
Điểu; Bài ca cách mạng tiến công (1956) của Đỗ Nhuận; Tiếng
hát biên thùy (1956) của Tô Hải; Ca mừng đời ta tươi đẹp (1955)
của La Thăng; Ca mừng chế độ ta tươi đẹp (1955) của của Xuân
Oánh; Hát mừng quê ta (1956) của Lê Lôi; Mẹ yêu con (1956)
của Nguyễn Văn Tý và Ánh sáng trên cầu Việt Trì (1956) của Hoàng Hà,
v.v...
Sau đó, khi Tổng tuyển cử thống nhất Tổ quốc theo Hiệp định
Genève không được thực hiện, đất nước bị chia cắt dài lâu, trong thời đoạn từ
cuối năm 1956 đến đầu năm 1958 nội dung ca khúc là tình cảm nhớ thương quê
hương Miền Nam, niềm tin, khát vọng cháy bỏng thống nhất đất nước, như
các ca khúc: của người con miền Nam ra Bắc tập kết như các ca khúc: Tình
ca (1957), Tình ca 2 (1958), Quê mẹ (1958) của Hoàng
Việt; Quê tôi (1957 - Lưu Cầu); Quê tôi miền Nam (1957 -
Phan Huỳnh Điểu); Câu hò bên bờ Hiền Lương (1957 - Hoàng Hiệp - Đằng
Giao); Bài ca hy vọng (1958 - Văn Ký), v.v...
Chuyển qua thời đoạn 1958-1960, Miền Bắc vừa
đã hoàn thành kế hoạch ba năm (1954-1957) khôi phục kinh tế thắng lợi và bước
vào thời kỳ mới: cải tạo XHCN, bước đầu phát triển kinh tế, phát triển văn hóa.
Những thành tựu đạt được trong kế hoạch 3 năm sau này (1958-1960) cùng với những
thay đổi lớn về văn hóa, kinh tế, xã hội của miền Bắc trong sáu năm
(1954-1960) đã tác động sâu sắc đến văn nghệ sĩ nói chung, nhạc sĩ nói
riêng. Hòa nhập với cuộc sống của nhân dân, họ đã viết nên nhiều ca khúc giá trị
phản ánh được cuộc sống mới và biểu hiện được tâm tư, tình cảm, khát vọng của
nhân dân. Không khí hồ hởi, niềm tin yêu, tinh thần lạc quan trong cuộc sống dựng
xây được các nhạc sĩ đưa vào các ca khúc sáng tác trong ba năm này. Năm 1958 là Mời
anh đến thăm quê tôi, Biết ơn Võ Thị Sáu của Nguyễn Đức Toàn; Tiến bước
dưới quốc kỳ của Doãn Nho; Tiếng hát trên tiền tiêu Tổ quốc của
Thái Quý; Nhớ đàn xe nước của Vân Đông; Lời
ca gởi Nọong của Nguyễn Tài Tuệ và Lướt sóng ra khơi của Thế
Dương trở thành bài hát chính thức của quân chủng Hải quân Việt Nam,
v.v…
Sang năm 1959, không gian nghệ thuật trong ca khúc mở rộng
hơn: Từ trên đỉnh núi của Nguyên Nhung; Tiếng hát giữa rừng Pắc
Bó của Nguyễn Tài Tuệ; Kể chuyện người cộng sản của Trần
Hoàn; Trước ngày hội bắn của Trịnh Quý; Lướt sóng ra khơi của
Thế Dương; Dấu chân trong rừng của Vĩnh An; Đêm thao thức của
Kpa Pùi; Sao em chưa về của Lê Lan… Đến năm 1960 là: Xa
khơi của Nguyễn Tài Tuệ; Việt Nam ta đang mùa hoa của Vũ Trọng Hối; Việt
Nam quê hương tôi của Đỗ Nhuận; Cánh diều miền Bắc của Văn An,
v.v…
Trong thời đoạn này (1958-1960), các nhạc sĩ đã đi thực tế
sáng tác, sống, làm việc cùng nhân dân và viết lên những ca khúc về ngành nghề
của họ: Con trâu sắt (1958) của Trần Chương; Hò kiến thiết (1958)
của Thái Cơ; Tiếng còi thi đua (1959); Quà tháng năm (1960-
lời Thế Bảo) của Hồng Đăng, v.v…
Sau phong trào Đồng khởi (1959), nhất là từ năm
1960, khi Mặt trận Giải phóng Miền Nam chính thức thành lập, Miền Nam bước vào
cuộc kháng chiến chống Mỹ với sự chi viện của Miền Bắc, nhiệm vụ cổ vũ chiến đấu,
giải phóng Miền Nam là đề tài chính của âm nhạc thời đoạn
này. Nhiều ca khúc “đi cùng năm tháng" ra đời, biểu hiện tâm tình, khát vọng
của nhân dân và phản ánh những sự kiện anh hùng của thời đại. Với phương
châm văn nghệ phục vụ chính trị, mà quan trọng hơn tấm lòng vì nhân dân, dân tộc,
tự nguyện nhận trọng trách về mình, với một đội ngũ hùng hậu, nhiều thế hệ, nhiều
vùng miền, các nhạc sĩ Việt Nam đã bám sát nhiệm vụ chính trị của từng thời điểm
để sáng tác những ca khúc giá trị và kịp thời cho cách mạng giải phóng dân tộc.
Có thể thấy những cao trào của kháng chiến chống Mỹ cũng là những thời điểm ca
khúc cách mạng Việt Nam nở rộ, vút cao: 1960, 1965, 1972, 1973 và 1975.
Năm 1960, khi Miền Nam bắt đầu vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, bài hát Giải
phóng miền Nam (1960 - Huỳnh Minh Siêng) ra đời và trở thành ca khúc chính
thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt
Nam và Quốc ca Cộng hòa miền Nam Việt Nam, mở đầu cho hàng loạt
sáng tác về đề tài chống Mỹ cứu nước trong những năm đầu chống Mỹ.
Sau đó, cũng trong năm 1960 nhiều ca khúc được viết kịp thời: Bạn
ơi! Hãy nghe Bến Hải tâm tình của Vĩnh Cát; Cánh diều miền Bắc của
Vân An; Việt Nam đang mùa hoa của Vũ Trọng Hối; Việt Nam quê
hương tôi của Đỗ Nhuận… Sang năm 1961 là: Bài ca may áo của Xuân
Hồng; Hà Hội - Huế - Sài Gòn của Hoàng Vân; Trăng
sáng đôi miền của An Chung; Nhớ (thơ Thanh Hải) của Lê
Yên; Tổ quốc tôi trên 10 năm đã lớn của Hồng Đăng, v.v…
Năm 1962, ca khúc nở rộ hơn với Những ánh sao đêm của Phan
Huỳnh Điểu; Giờ hành động của Lưu Hữu Phước; Nắng ấm về trên Tổ
quốc của Trần Khánh; Tiếng hát Mơ Nông Tipri của Nhật Lai; Tình
em của Huy Du - Ngọc Sơn; Quê Hương ơi! Ta sẽ về của Trần Kiết
Tường; Nhớ về quê mẹ của Vân Đông; Trên đường ta đi tới của
Bửu Huyền; Khúc ca Hơ Rê của Văn Ngọc…
Sang năm 1963-1964, khi phong trào cách mạng lên cao thì ca
khúc cách mạng ở cả hai miền cũng bay bổng theo. Năm 1963 là: Hành khúc giải
phóng của Lưu Hữu Phước; Xuân chiến khu của Xuân Hồng; Lời
ca không tắt của Tô Hải; Qua sông của Phạm Minh Tuấn; Gởi
anh đi đầu quân của Nguyễn Đình Phúc; Nhớ (thơ Nguyễn Đình Thi)
của Hoàng Vân; Quê hương anh là biển cả của Tường Vi; Chiếc đàn
môi của Nguyên Nhung; Bài ca chiến thắng của Trần Kiết Tường; Ta
là chiến sĩ giải phóng quân của Văn Lưu - Triều Dâng; Chim
hót trên đồng đay; Dòng nước quê hương của Nguyễn Văn Tý, Bế
Văn Đàn sống mãi (thơ Trinh Đường) của Huy
Du, v.v…
Cao điểm của ca khúc thời đoạn năm năm này là năm 1964 với
nhiều ca khúc tỏa ra cả ba chủ đề: xây dựng đất nước, chống Mỹ cứu nước ở miền
Bắc và kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam. Về chủ đề xây dựng đất nước,
có các ca khúc: Từng bước đi vững chắc của Văn Chung; Tôi là người
thợ lò của Hoàng Vân; Những người con gái đồng chiêm, Bám biển quê
hương của Phạm Tuyên; Tiếng hò trên đất Nghệ An của Tân Huyền,
v.v…
Về chủ đề chống Mỹ cứu nước ở cả hai miền trong năm 1964 có: Tiễn
anh lên đường của Nguyễn Văn Tý; Chiếc khăn tay, Hành quân đêm (lời
Trí Thanh) của Xuân Hồng; Sẵn sàng chiến đấu, Thanh niên ba sẵn sàng của
Lưu Hữu Phước; Anh vẫn hành quân (thơ Trần Hữu Thung), Tôi
ca mãi đời anh của Huy Du; Miền Nam ơi! Chúng tôi đã sẵn sàng của
Lưu Cầu; Nhớ anh giải phóng quân của Nguyễn Đình Phúc; Vui mùa
chiến thắng của Văn Chừng - Lam Lương; Tiếp lương ra tiền tuyến của
Phương Giao, v.v…
Cũng trong năm 1964, vào ngày 5 tháng 8, sau sự kiện
vịnh Bắc bộ, Mỹ mở Chiến dịch Mũi Tên Xuyên (Opeation Pierce Arrow) không
kích phá hoại miền Bắc do Hải quân Mỹ thực hiện. Hòa cùng tiếng
nổ của hỏa tiễn, pháo phòng không, súng máy, trường bắn máy bay của bộ
đội, dân Mỹ quân là tiếng hát kịp thời động viên, ca ngợi chiến công của
họ: Đánh đích đáng của Ngô Sĩ Hiền; Phi đội ta xuất kích của
Tường Vi; Giữa biển trời Xô viết - Nghệ An của Hồ Bắc; Hành khúc
không quân Việt Nam của Văn Cao; Không cho chúng nó thoát của
Hoàng Vân; Bay trên bầu trời Tổ quốc của Xuân Giao…
Từ năm 1965, Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược, chuyển
sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân Mỹ và đồng minh vào tham
chiến ở miền Nam, đồng thời leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng các chương
trình quy mô và dài ngày hơn có các mật danh là Chiến dịch
Flaming Dart (Hỏa Tiêu - 07 đến 11.02.1965) và Rolling
Thunder (Sấm Rền - 02.3.1965 đến 31.10.1968) huy động
một lực lượng hải và không quân hùng hậu ném bom với ý đồ hủy hoại hoàn toàn miền
Bắc. Cùng với tiếng bom rền và đạn pháo phòng không nổ tung trên bầu trời miền
Bắc, âm nhạc cũng ngân lên điệu kèn xung trận vừa hùng tráng, vừa thiết tha.
Năm thứ hai miền Bắc trực tiếp đánh Mỹ (1965), nhiều ca khúc
ra đời trong ý chí “tiếng hát át tiếng bom” kiên cường: Quảng Bình chiến
thắng của Phạm Tuyên; Em bé Bảo Ninh (thơ Nguyễn Văn Dinh) của
Trần Hữu Pháp; Bài ca sông Nhật Lệ của Nhật Lai; Trên biển quê
hương của Đức Minh; Tiếng hát sông Lam của Đinh Quang Hợp; Thanh
Hóa anh hùng của Hoàng Đạm; Hà Tây quê lụa của Nhật Lai; Mỗi
bước đi thêm yêu Tổ quốc của Tân Huyền; Hai chị em, Bài ca giao
thông vận tải, Nổi trống lên đi núi rừng ơi của Hoàng Vân; Tên lửa
về bên sông Đà của Hoàng Tạo; Bài ca đảo Bạch Long
Vĩ của Vũ Ngọc Quang; Chào sông Mã anh hùng của Xuân Giao, Nhịp
cầu sông Mã của Lê Xuân Thọ, Chưa hết giặc ta chưa về, Thề quyết bảo
vệ Tổ quốc, Bạch Long Vĩ đảo quê hương của Huy Du, v.v…
Còn ở Miền Nam trong năm này (1965) cũng được mùa
ca khúc với nhiều bản nhạc “nổi tiếng một thời”: Cô
gái vót chông của Hoàng Hiệp; Ra tiền tuyến của Phan Huỳnh Điểu; Tôi
người lái xe của An Chung; Giết giặc Mỹ cứu nước của Hoàng Việt; Bài
hát giải phóng quân của Lưu Hữu Phước; Mỗi bước ta đi, Hát mừng quê
ta giải phóng của Thuận Yến…
Chiến tranh càng lan rộng, bài hát hay càng nhiều. Năm 1966, nhiều “bài ca không bao giờ quên” đã ra đời: Múa hát mừng chiến công của Nguyễn Văn Tý; Hành khúc binh đoàn gang thép, Rạch Gầm dậy sóng của Lưu Hữu Phước; Ngọn đèn đứng gác (thơ Chính Hữu) của Hoàng Hiệp; Đường ra mặt trận (thơ Chính Hữu) của Huy Du, Bài ca thanh niên miền Nam thành đồng của Hoàng Việt; Yêu biết mấy những con đường của Phạm Tuyên; Cô gái mở đường của Xuân Giao; Về đây với đường tàu của Lưu Cầu; Người Châu Yên em bắn máy bay của Trọng Loan; Những cô gái quan họ của Phó Đức Phương; Bài ca Hà Nội của Vũ Thanh; Biển gọi của Nguyễn Kim; Tiếng hát pháo binh của Huy Du; Vàm Cỏ Đông (thơ Hoài Vũ) của Trương Quang Lục, v.v…
Chiến tranh càng lan rộng, bài hát hay càng nhiều. Năm 1966, nhiều “bài ca không bao giờ quên” đã ra đời: Múa hát mừng chiến công của Nguyễn Văn Tý; Hành khúc binh đoàn gang thép, Rạch Gầm dậy sóng của Lưu Hữu Phước; Ngọn đèn đứng gác (thơ Chính Hữu) của Hoàng Hiệp; Đường ra mặt trận (thơ Chính Hữu) của Huy Du, Bài ca thanh niên miền Nam thành đồng của Hoàng Việt; Yêu biết mấy những con đường của Phạm Tuyên; Cô gái mở đường của Xuân Giao; Về đây với đường tàu của Lưu Cầu; Người Châu Yên em bắn máy bay của Trọng Loan; Những cô gái quan họ của Phó Đức Phương; Bài ca Hà Nội của Vũ Thanh; Biển gọi của Nguyễn Kim; Tiếng hát pháo binh của Huy Du; Vàm Cỏ Đông (thơ Hoài Vũ) của Trương Quang Lục, v.v…
Sang năm 1967, có thêm nhiều ca khúc nổi tiếng của các nhạc
sĩ nổi tiếng: Chiếc gậy Trường Sơn của Phạm Tuyên; Tiếng đàn Ta
Lư, Ơi dòng suối La La! của Huy Thục; Tiếng chày trên sóc Bom
Bo của Xuân Hồng; Bài ca năm tấn của Nguyễn Văn Tý; Tải đạn
ra chiến trường của Thanh Anh; Quân reo quê mẹ Quảng Trị anh
hùng của Trọng Loan; Rừng xanh vang tiếng Ta Lư của Phương Nam; Tiếng
nói Hà Nội (thơ Cảnh Trà) của Văn An; Cả nước hướng về Hà Nội của
Trọng Bằng, v.v...
Bước ngoặt mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ là cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Chiến dịch đã mang lại cho
quân và dân Việt Nam một xung lực mới, một khả năng mới và củng cố niềm tin vững
chắc vào thắng lợi cuối cùng ngay trong những ngày tháng cam go, ác liệt nhất.
Sự kiện này được các nhạc sĩ ghi lại bằng những ca khúc rất thời sự kịp
thời mà rất có gía trị về nghệ thuật - tư tưởng, trở thành những bài ca
truyền thống cách mạng sau này: Bão nổi lên rồi của Trọng Bằng; Chào
anh giải phóng quân, chào mùa xuân giải phóng, Tiếng còng giải phóng, tiếng
còng chiến thắng của Hoàng Vân; Sài Gòn quật khởi của Hồ Bắc; Cô
gái Sài Gòn đi tải đạn của Lư Nhất Vũ; Nổi lửa lên em (thơ Giang
Lam) của Huy Du; Đất quê ta mênh mông (thơ Bùi Minh Quốc) của Hoàng
Hiệp; Tây Nguyên mừng đón thơ Bác của Doãn Nho; Bài ca đường
9 của Huy Du; Bài ca thành Huế của Đào Việt Hưng; Bài ca
người nữ tự vệ Sài Gòn của Phạm Minh Tuấn; Người Đà Nẵng của
Phan Ngọc; Đưa anh đi hái măng rừng của Hoàng Tạo; Anh ở đầu
sông em cuối sông của Phan Huỳnh Điểu và Chia tay hoàng hôn (thơ
Hoài Vũ), một tình ca bất hủ của Thuận Yến,…
Những năm kế tiếp, chiến trường trở nên ác liệt hơn, ca khúc
càng hùng tráng hơn và đi sâu vào lòng người hơn. Chỉ kể ra vài bản hùng
ca trong từng năm này đã trở thành bất tử trong lòng người dân Việt Nam. Năm
1969 là: Tiến lên chiến sĩ đồng bào (thơ Hồ Chí Minh) của Huy Thục; Vui
mở đường của Đỗ Nhuận; Theo lời Bác gọi (lời Lê Kỳ Vân) của Nguyễn
Xuân Khoát…
Năm 1970 là Dáng đứng Việt Nam (thơ Lê Anh
Xuân); Trên đỉnh Trường Sơn ta hát của Huy Du; Tiếng hát
những đêm không ngủ của Phạm Tuyên; Bài ca phụ nữ Việt Nam, Huyền
diệu của Nguyễn Văn Tý; Như hoa hướng dương (thơ Hải Như) của Tô
Vũ; Thành phố hoa phượng đỏ (lời Hải Như) của Lương Vĩnh; Bến cảng
quê hương tôi của Hồ Bắc; Bác cùng chúng cháu hành quân của Huy
Thục; Cái dốc nó cao của Nguyễn Trọng Tạo,…
Rồi đến năm 1971 là: Tiến lên thanh niên thế hệ Hồ Chí
Minh của Văn Ký; Cùng hành quân giữa mùa xuân của Cẩm La
(Hoàng Hà); Đi tới những chân trời của Xuân Giao; Bài ca đường 9 (thơ
Xuân Sách) của Huy Du; Người con gái sông La (thơ Phương Thúy), Năm
anh em trên một chiếc xe tăng (thơ Hữu Thỉnh) của Doãn Nho; Màu áo
chú bộ đội, Em đi làm tín dụng của Nguyễn Văn Tý, v.v…
Đỉnh cao của cuộc chiến là Chiến dịch Xuân - Hè
1972 (Việt Nam Cộng hòa gọi là Mùa hè đỏ lửa, Mỹ gọi
là Easter Offensive) và sau đó là Chiến dịch Linebacker I (từ tháng 5
- 10.1972) và Chiến dịch Linebacker II (từ 18
- 30.12.1972) của Mỹ cho không quân và hải quân, phong tỏa, bắn phá,
oanh tạc không giới hạn toàn miền Bắc với ý đồ hủy diệt hòng làm tê liệt ý chí
chiến đấu và khả năng chi viện cho Miền Nam, mà thắng lợi hoàn toàn thuộc về Việt
Nam: Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”. Trong năm này,
1972, nhiều khúc ca vui vang lên ở cả hai miền Nam, Bắc hát mừng chiến thắng: Ca
hát mừng chiến công của Nguyễn Văn Tý; Hà Nội niềm tin yêu và hy vọng của
Phan Nhân; Hà Nội Điện Biên Phủ, Hà Nội những đêm không ngủ của Phạm
Tuyên; Cả nước hướng về Hà Nội của Trọng Bằng; Từ mặt đất thân
yêu của Tô Hải; Hành khúc ngày và đêm của Phan Huỳnh Điểu; Ta
tự hào lên đi, ôi Việt Nam (thơ Hoàng Trung Thông) của Chu Minh; Biết
mấy tự hào Tô quốc ta của Phạm Đình Sáu; Tây Nguyên chiến thắng của
Doãn Nho; Xóm làng theo bước chân anh của Trần Kiết Tường; Những
bước chân chiến thắng của Tân Huyền; Rừng núi Tây Nguyên chiến công
hoa nở của Chu Minh; Xe qua cầu Tùng Cốc của Nguyễn Trọng Tạo,
v.v…
Thắng lợi của Chiến dịch Xuân - Hè 1972 và Trận
Điện Biên Phủ trên không 1972 đã đưa đến Hiệp định Paris 27.01.1973 với
Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam được quốc tế chính thức công nhận và kiểm
soát hầu hết vùng nông thôn Miền Nam. Niềm vui quá lớn nên tràn đầy và kéo dài
suốt hai năm trong âm nhạc. Năm 1973 là: Cả Hà Nội hành quân của Lê
Lôi; Gẩy đàn lên hởi người bạn Mỹ, Thấy chăng anh cảng của chúng tôi của
Phạm Tuyên; Ta ra trận hôm nay của Văn An; Lời ru trên nương (thơ
Nguyễn Khoa Điềm) của Trần Hoàn; Em ở nơi đâu của Phan Nhân; Tiếng
đàn bầu (lời Lữ Giang) của Nguyễn Đình Phúc; Tôi lắng nghe sông Đà gọi
Thác Bà của Nguyễn Đình Tấn; Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa của
Nguyễn Văn Tý; Giải phóng quân, Nhớ của Phan Huỳnh Điểu, Tiếng
hát trên quê hương giải phóng của Phạm Đình
Sáu...
Năm sau, 1974, niềm vui lớn lắng đọng lại trong hành khúc và
lắng sâu trong cả tình ca: Chiến sĩ vô danh (lời Dân Thanh) của Trần
Kiết Tường; Tiếng người vang mãi trên đường hành quân của Phan Khắc
Vinh; Quảng Ngãi đất mẹ anh hùng của Trương Quang Lục; Chú lính đường
dây của Phạm Huy Thưởng; Tình em biển cả của Nguyễn Đức
Toàn; Đêm nay anh ở đâu của Phan Huỳnh Điểu; Đất nước Bác Hồ và
cuộc hành quân không nghỉ, tổ khúc ba bài của Nguyễn Trọng Tạo,
v.v…
Điểm đỉnh của ca khúc giai đoạn này là năm 1975. Trước, trong
và sau thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh, với một dàn hợp ca hát mừng đất
nước thống nhất: Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng của Phạm
Tuyên; Đất nước trọn niềm vui của Hoàng Hà; Trên đường hạnh phúc (thơ
Tạ Hữu Yên) của Vân An; Tiếng hát từ thành phố mang tên Người (thơ
Đăng Trung) của Cao Bách Việt; Bài ca thống nhất của Võ Văn Dị; Ngày
thống nhất Bác đi thăm của Phạm Tuyên; Mùa Xuân trên thành phố Hồ Chí
Minh của Xuân Hồng; Tổ quốc chưa đẹp thế bao giờ (thơ Tố Hữu) của
Nguyễn Văn Thương; Chiều nay biển hát của Hồng Đăng, liên khúc
hoành tráng Đường tàu thống nhất của Nguyễn Trọng Tạo và hai ca
khúc hợp của Nguyễn Văn Thương: Dân ta đánh giặc anh hùng, Tiến lên toàn
thắng ắt về ta, v.v…
Nhiều nhạc sĩ miền Nam tập kết ra Bắc rồi ở lại công tác hoặc
trở lại miền Nam, hoặc được phân công ở lại miền Nam rồi vào chiến khu đã
có đóng góp lớn cho ca khúc cách mạng Việt Nam thời chống Mỹ bởi những ca khúc
được công chúng say mê và nhớ đời. Và thời điểm gay gắt nhất nào của đất nước
cũng xuất hiện những sáng tác giá trị của họ: Phan Huỳnh Điểu, Ca Lê Thuần,
Xuân Hồng, Hoàng Hiệp, Trần Kiết Tường, Nguyễn Văn Tý, Lư Nhất
Vũ, Nguyễn Văn Thương, Trần Hoàn, Lưu Hữu Phước, Thuận Yến, Phạm
Minh Tuấn, Tôn Thất Lập, Trương Quang Lục, Lưu Cầu… Từ những năm đầu thập
niên 60, nhiều người trong họ vào chiến trường miền Nam sáng tác những
bài ca để đời với bút hiệu mới: Phan Huỳnh Điểu với bút danh Huy Quang, Trần
Hoàn với Hồ Thuận An, Hoàng Việt với Lê Quỳnh, Lưu Hữu Phước ký
tên Lưu Nguyễn - Long Hưng hoặc Huỳnh Minh Siêng đã viết nhiều ca khúc nổi tiếng,
đặc biệt bài Giải phóng Miền Nam (1960) mang đậm dấu ấn lịch sử.
Liên quan đến đề tài Chống Mỹ cứu nước và Xây dựng đất nước,
các nhạc sĩ viết nhiều ca khúc về đất nước và tâm hồn Việt Nam, trong đó
có một số ca khúc bất hủ như Quảng Bình quê ta ơi (1964) của
Hoàng Vân; Tiếng hát sông Lam (1965) của Đinh Quang Hợp; Vàm Cỏ
Ðông của Trương Quang Lục; Tây Nguyên bất khuất của Văn
Ký; Bài ca Hà Nội của Vũ Thanh; Một khúc tâm tình của người Hà
Tĩnh (1974) của Nguyễn Văn Tý; Những cô gái đồng bằng sông Cửu
Long của Huỳnh Thơ; Cô gái Sài Gòn đi tải đạn của Lư
Nhất Vũ; Hà Nội - Niềm tin và hy vọng (1972) của Phan Nhân,
v.v…
Cũng do hoàn cảnh chiến tranh, một số nhạc sĩ có dịp tiếp xúc
với đồng bào các dân tộc thiểu số và đã viết các ca khúc nổi tiếng về đề tài
này, như Tiếng hát ban mai (1964 - Thanh Anh); Tiếng cồng Plây
Gi-răng (1965- Hồ Bắc); Tiếng đàn ta lư (Huy Thục); Cô
gái cầm đàn lên đỉnh núi (Văn Ký); Bản Mèo đổi mới (Trịnh Lai); Em
là hoa Pơ Lang (1966 - Ðức Minh); Tiếng cồng giải phóng, tiếng cồng
chiến thắng (1968 - Hoàng Vân); Cánh chim báo tin vui (1969 -
Đàm Thanh); Bóng cây Kơ-nia (1971 - nhạc Phan Huỳnh Điểu - thơ Ngọc
Anh phỏng dịch dân ca Hơ-rê); Tháng ba Tây Nguyên (1974 - Văn Thắng -
Thân Như Thơ); Sông Dakkrong mùa xuân về (1975 - Tô Hải), v.v…
Chiến trường ác liệt, cam go nhất lúc bấy giờ là Trường Sơn,
nơi quân dân “xẻ dọc đi cứu nước” là đề tài cho nhiều ca khúc
lãng mạn cách mạng, tráng lệ “vượt thời gian”. Có thể kể ra không dưới 10 ca
khúc tiêu biểu nhất về đề tài Trường Sơn: Đường tôi đi dài theo đất nước (1966); Bước
chân dài trên đỉnh Trường Sơn (1966 - lời Tào Mạt) của Vũ Trọng Hối; Bài
ca Trường Sơn (1967 - lời Gia Dũng); Trên đỉnh Trường Sơn ta hát (1970)
của Huy Du; Gặp nhau trên đỉnh Trường Sơn (1970) của Hoàng Hà; Trường
Sơn Đông Trường Sơn Tây (1971 - thơ Phạm Tiến Duật) của Hoàng Hiệp; Đường
Trường Sơn xe anh qua (1972) của Văn Dung; Xe ta đi trong đêm Trường
Sơn (1972); Đêm Trường Sơn nhớ Bác (1975 - lời Nguyễn
Trung Thu) của Trần Chung; Lá đỏ (1975 - thơ Nguyễn Đình Thi) của
Hoàng Hiệp, v.v…
Tinh thần lạc quan cách mạng thấm tràn vào ca khúc cách mạng.
Nhiều bài hát hài hước, sôi nổi, yêu đời xuất hiện được bộ đội và nhân dân yêu
thích. Anh quân bưu của Đàm Thanh; Con cua đá của Phan Ngạn; Năm
anh em trên một chiếc xe tăng (thơ Hữu Thỉnh) của Doãn Nho; Nổi lửa
lên em của Huy Du… nằm trong loại nhạc này, trở thành những bài hát phổ biến
trong sinh hoạt, liên hoan, tiệc tùng của quân
dân.
Một đề tài nữa của ca khúc Việt Nam trong giai đoạn này là ca
ngợi hình ảnh lãnh tụ. Hình tượng Hồ Chí Minh trong ca khúc giai đoạn này được
nâng lên tầm cao hơn thông qua cảm nhận hoàn mỹ hơn của các nhạc sĩ về Người.
Có rất nhiều ca khúc chính thống: Việt Bắc nhớ Bác Hồ của Phạm
Tuyên; Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người (1962) của Trần Kiết Tường; Ðôi
dép Bác Hồ của Văn An; Nhớ ơn Hồ Chí Minh của Tô
Vũ; Lời ca dâng Bác của Trọng Loan; Trông cây lại nhớ đến
Người của Ðỗ Nhuận; Ca ngợi Hồ Chủ tịch của Văn
Cao (khác hai bài Ca ngợi Hồ Chủ tịch của Lưu Hữu Phước và của
Đỗ Nhuận viết trong giai đoạn trước); Tình Bác sáng đời ta của Lưu
Hữu Phước; Người chiến sĩ ấy (1970) của Hoàng Vân; Miền Nam nhớ
mãi ơn Người (1969 - thơ Trần Nhật Lam) của Lưu Cầu, Mỗi dòng thư Bác
sáng ngời niềm tin (1968) của Thuận Yến, v.v…
Tình khúc 1954 - 1975 ở miền Nam
Ở Miền Nam từ 1954-1975, một lớp nhạc sĩ trẻ hơn xuất hiện
với các bản tình ca mới. Khác với dòng nhạc tiền chiến thường mượn cảnh mùa
thu, mưa, sương, đêm khuya... để nói lên tình cảm của mình.
Những nhạc sĩ này có cách thể hiện trực tiếp hơn, ca từ lãng mạn vẫn là ngôn ngữ văn hóa nhưng mới mẻ hơn, trẻ trung hơn và sống động hơn, với nhiều cung bậc tình cảm hơn, khoắc khoải, nồng nàn, sâu lắng, say mê, man mác, hoài nhớ, tiếc thương... thường theo các thể điệu Slow Rock, Slow, Valse, Ballad, Boston… Gần với nhạc tiền chiến hơn, cung điệu cũng trau chuốt, nhưng khác nhạc tiền chiến là thường ít chậm hơn, biểu hiện tâm trạng cá nhân không có không gian cụ thể và có tính hiện đại hơn, và cũng xa rời nhạc cổ điển hơn so với nhạc tiền chiến, tình ca 1954-1975 là dòng nhạc được giới trí thức, trung lưu và sinh viên, học sinh (SVHS) ở miền Nam thuở ấy yêu thích.
Những nhạc sĩ này có cách thể hiện trực tiếp hơn, ca từ lãng mạn vẫn là ngôn ngữ văn hóa nhưng mới mẻ hơn, trẻ trung hơn và sống động hơn, với nhiều cung bậc tình cảm hơn, khoắc khoải, nồng nàn, sâu lắng, say mê, man mác, hoài nhớ, tiếc thương... thường theo các thể điệu Slow Rock, Slow, Valse, Ballad, Boston… Gần với nhạc tiền chiến hơn, cung điệu cũng trau chuốt, nhưng khác nhạc tiền chiến là thường ít chậm hơn, biểu hiện tâm trạng cá nhân không có không gian cụ thể và có tính hiện đại hơn, và cũng xa rời nhạc cổ điển hơn so với nhạc tiền chiến, tình ca 1954-1975 là dòng nhạc được giới trí thức, trung lưu và sinh viên, học sinh (SVHS) ở miền Nam thuở ấy yêu thích.
Giai đoạn này, bên cạnh nhạc sĩ tiền bối Phạm Duy vẫn sáng tác
đều đặn những ca khúc có giá trị nghệ thuật: Cỏ hồng, Trả lại em yêu, Mùa
thu chết, Nghìn trùng xa cách, Nha Trang ngày về…, còn xuất hiện thêm
những nhạc sĩ với phong cách riêng: Lê Uyên - Phương, Ngô Thụy
Miên, Trịnh Công Sơn, Hoàng Nguyên, Nguyễn Ánh 9,
Khánh Băng, Thanh Bình, Thanh Trang, Nguyễn Phú
Yên, Trần Trịnh, Nguyễn Văn Đông, Phạm Trọng Cầu, Từ Công
Phụng, Văn Phụng, Trần Quang Lộc, Vũ Thành An, Lê Hựu Hà, Cung Tiến, Lê
Trọng Nguyễn, Phạm Mạnh Cương, Đức Huy, Phạm Đình Chương, Quốc Dũng,
Hoàng Trọng, Nguyễn Hữu Thiết, Vũ Đức Sao Biển,
v.v…
Không thể kể hết những tình khúc nổi tiếng đương thời: Các Bài không
tên của Vũ Thành An; Tình lỡ, Đừng đến rồi đi, Tiếc một người của
Thanh Bình; Thuyền em đi trong đêm, Ngàn năm vẫn lạ, Tiếng chim
rừng hát mừng sông núi, Cô giáo trẻ trên bản làng xa của Nguyễn Phú
Yên; Chiều nay không có em, Niệm khúc cuối, Mắt biếc, Dấu
tình sầu, Bản tình cuối của Ngô Thụy Miên; Bài ca hạnh
ngộ, Còn nắng trên đồi, Dạ khúc cho tình nhân, Lời gọi chân
mây, Vũng lầy của chúng ta, Uống nước bên bờ suối, Cho lần cuối của
Lê Uyên - Phương; Phiên khúc mùa đông, Huyền thoại người con gái của
Lê Hựu Hà; Suối lệ xanh của Phạm Mạnh Cương; Bây giờ tháng mấy, Lời
cuối, Giọt lệ cho ngàn sau, Mắt lệ cho người, Tuổi xa người, Bài
cho em của Từ Công Phụng; Nụ cười thơ ngây, Nếu một ngày, Vọng
ngày xanh của Khánh Băng…. Đặc biệt là Vọng ngày xanh viết năm
1956 được nhiều ca sĩ nổi tiếng đương thời như Minh Trang, Lệ
Thu, Thái Thanh... trình bày, trong đó thành công hơn cả phải kể đến danh
ca Thái Thanh. Bài hát này được nhà văn nữ nổi tiếng Françoise Sagan viết
lời Pháp và nhờ vậy, ông được Hội Tác quyền Thế giới mời
gia nhập…
Nhiều tình khúc nổi tiếng khác rất được ưa chuộng vào thời
gian này như Thanh Trang với Huyền, Tình khúc mùa đông, Duyên thề;
Hoàng Nguyên với Cho người tình lỡ; Tà áo tím; Quốc Dũng với Đường
xưa, Cơn gió thoảng; Nguyễn Ánh 9 với Không, Buồn ơi,
xin chào mi; Văn Phụng với Yêu, Tình, Suối tóc, Tôi
đi giữa hoàng hôn; Vũ Đức Sao Biển với Thu hát cho người; Y
Vân với Buồn, Ngăn cách, Ảo ảnh, Những bước chân âm thầm; Đức
Huy với Bay đi cánh chim biển, Cơn mưa phùn; Anh Bằng với Nỗi
lòng người đi; Nguyễn Hiền với Mái tóc dạ hương; Đan
Thọ với Chiều tím; Trần Trịnh với Lệ đá; Tuấn
Khanh với Hoa xoan bên thềm cũ, Chiếc lá cuối cùng; Nguyễn
Văn Đông với Hải ngoại thương ca. Phạm Trọng Cầu khi
du học ở nhạc viện Paris (Conser - vatoire Supérieur
de Musique de Paris) cũng đã viết Mùa thu không trở lại để
đời…
Hoàng Trọng thành công với các bài hát theo điệu tango: Ngỡ
ngàng, Lạnh lùng, Tiễn bước sang ngang…, đặc biệt
bài Ngàn thu áo tím (lời Vĩnh Phúc) điệu valse luôn được công
chúng trước nay ưa thích.
Cung Tiến nối tiếp dòng nhạc lãng mạn tiền chiến với những
tình khúc bất tử: Hương xưa, Hương xuân, Mùa hoa nở, Đêm hoa đăng, Mắt
biếc (khác bài Mắt biếc của Ngô Thụy Miên)…
Đặc biệt, Nguyễn Hữu Thiết với những tình
khúc đậm đà màu sắc âm nhạc dân gian, dân tộc, như: Giọt mưa chiều
hay nước mắt em, Lời nguyền cho một tình yêu, Chỉ có tình yêu, Cánh
hoa xuân, Mưa chiều nhớ nhau, Hoa nhớ thương ai,…
Phạm Duy, Trần Quang Lộc, Phạm Đình Chương, Vũ
Thành An, Từ Công Phụng, Trần Trịnh, Cung Tiến, Ngô Thụy Miên… có
nhiều tình khúc phổ thơ nổi tiếng. Với Phạm Duy là: Còn chút gì
để nhớ (thơ Vũ Hữu Định), Ngậm ngùi (thơ Huy Cận), Áo
anh sứt chỉ đường tà (thơ Hữu Loan), Tiếng sáo Thiên thai (1959
- thơ Thế Lữ), Tiễn em, Mùa thu Paris (thơ Cung Trầm Tưởng), Tỳ
bà (thơ Bích Khê), Vần thơ sầu rụng (thơ Lưu Trọng
Lư), Tình cầm (thơ Hoàng Cầm); Em hiền như masoeur, Thà
như giọt mưa, Hai năm tình lận đận (thơ Nguyễn Tất Nhiên), Ngày
xưa Hoàng Thị, Đưa em tìm động hoa vàng (thơ Phạm Thiên Thư),
Chuyện tình buồn và 12 tháng anh đi (thơ Phạm Văn Bình), Màu
thời gian (1971- thơ Đoàn Phú Tứ)… Với Trần Quang Lộc là: Về đây nghe
em (thơ A Khuê), Em theo đoàn lưu dân (thơ Phạm Hòa Việt), Có
phải em mùa thu Hà Nội (thơ Tô Như Châu)… Phạm Đình
Chương là: Nửa hồn thương đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Người
đi qua đời tôi (thơ Trần Dạ Từ), Đôi mắt người Sơn
Tây (thơ Quang Dũng)… Vũ Thành An là Em đến thăm
anh đêm 30 và Tình khúc thứ nhất (thơ Nguyễn Đình Toàn)… Từ
Công Phụng là Trên ngọn tình sầu (thơ Du Tử Lê)… Trần Trịnh là Lệ
đá (thơ Hà Huyền Chi), Chiếc lá cuối cùng (thơ Théophile
Gauthier)…
Cung Tiến là: Đôi bờ (thơ Quang Dũng), Hoàng Hạc lâu (thơ Thôi Hiệu - Vũ Hoàng Chương dịch), Kẻ ở (Mai chị về - thơ Nguyễn Đình Tiên), Khói hồ bay (thơ Nguyễn Tường Giang), Nguyệt cầm (ý thơ Xuân Diệu), Thuở làm thơ yêu em (thơ Trần Dạ Từ), Vết chim bay (thơ Phạm Thiên Thư) và ba bài: Vang vang trời vào xuân, Đêm, Lệ đá xanh đều phổ thơ Thanh Tâm Tuyền…Và Ngô Thụy Miên là Tình khúc buồn (thơ Phạm Duy Quang) và nhiều ca khúc phổ từ các bài thơ nổi tiếng của Nguyên Sa: Áo Lụa Hà Đông, Paris có gì lạ không em, Tình khúc tháng sáu, Tuổi 13…
Cung Tiến là: Đôi bờ (thơ Quang Dũng), Hoàng Hạc lâu (thơ Thôi Hiệu - Vũ Hoàng Chương dịch), Kẻ ở (Mai chị về - thơ Nguyễn Đình Tiên), Khói hồ bay (thơ Nguyễn Tường Giang), Nguyệt cầm (ý thơ Xuân Diệu), Thuở làm thơ yêu em (thơ Trần Dạ Từ), Vết chim bay (thơ Phạm Thiên Thư) và ba bài: Vang vang trời vào xuân, Đêm, Lệ đá xanh đều phổ thơ Thanh Tâm Tuyền…Và Ngô Thụy Miên là Tình khúc buồn (thơ Phạm Duy Quang) và nhiều ca khúc phổ từ các bài thơ nổi tiếng của Nguyên Sa: Áo Lụa Hà Đông, Paris có gì lạ không em, Tình khúc tháng sáu, Tuổi 13…
Nổi bật nhất là Trịnh Công Sơn với hàng loạt tình
ca muôn thuở như: Tình nhớ, Tình xa, Phôi pha, Diễm
xưa, Nhìn những mùa thu đi, Hạ trắng, Biển nhớ, Cát bụi, Như cánh vạc bay, Còn
tuổi nào cho em, Tuổi đá buồn, Chiều một mình qua phố...
Các danh ca hát tình khúc giai đoạn này có: Khánh
Ly, Duy Trác, Thái Thanh, Lệ Thu, Thanh Lan, Hoàng
Oanh, cặp đôi Ngọc Cẩm - Nguyễn Hữu Thiết…
Tuy chỉ có 20 năm, nhưng giai đoạn này tại miền Nam
đã hình thành một số lượng tình khúc khổng lồ, trong đó có nhiều bản nhạc
nổi tiếng, được yêu thích và lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Nhạc vàng 1954 - 1975 ở miền Nam
Là dòng nhạc trữ tình bình dân, hình thành ở Miền Nam từ
sau 1954 với các bài hát được viết trên những giai điệu đơn giản, chậm buồn
đều đều, mang âm hưởng dân ca, nhẹ nhàng của boléro, rumba, ballade,
slow rock…, phổ biến nhất là bolero được hát bằng giọng thứ quãng âm
trung hoặc trầm chậm, ca từ bình dị, dễ nghe, dễ hiểu, chất chứa nỗi niềm
của một con người bình thường, nên dòng nhạc này đã thu hút một số lượng lớn
khán giả bình dân…
Ba đề tài chủ yếu phổ biến của “nhạc vàng” là: Tình - Lính và Quê hương, sắc thái tình cảm thường là buồn thương... và thường có giọng điệu tự sự, kể chuyện như các ca khúc: Hàn Mặc Tử (Trần Thiện Thanh), Những đồi hoa sim (Dzũng Chinh), Chuyện tình Lan và Điệp (Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng)…
Ba đề tài chủ yếu phổ biến của “nhạc vàng” là: Tình - Lính và Quê hương, sắc thái tình cảm thường là buồn thương... và thường có giọng điệu tự sự, kể chuyện như các ca khúc: Hàn Mặc Tử (Trần Thiện Thanh), Những đồi hoa sim (Dzũng Chinh), Chuyện tình Lan và Điệp (Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng)…
Ở miền Nam, nơi khai sinh và nuôi dưỡng dòng nhạc này, có khi
người ta dùng từ “nhạc sến”, hoặc tế nhị hơn thì gọi là “nhạc trữ tình bình
dân” để chỉ dòng nhạc này. Nhưng thực ra ở VN, vùng kháng chiến từ đầu thập
niên 1950 đã du nhập khái niệm "nhạc vàng" từ Trung Hoa dịch từ "huangse yinyue" (hoàng sắc âm nhạc) là nhạc tình thời thượng lúc
đó đang phổ biến ở Thượng Hải.
Có lẽ người viết ca khúc đầu tiên theo điệu bolero là Lê
Trọng Nguyễn, Lam Phương rồi Trúc Phương. Lam Phương sáng tác Chiều
thu ấy từ 1952, lúc mới 15 tuổi, nhưng đến năm 1954 ông mới nổi danh
với hai bài Kiếp nghèo và Chuyến đò vĩ tuyến. Sau đó, trong
hơn 2 thập niên, ông viết gần 200 bài hát trữ tình được công chúng Miền Nam yêu
thích như: Thành phố buồn, Nhạc rừng khuya, Nắng đẹp miền
Nam, Bài Tango cho em, Tình bơ vơ, Duyên kiếp, Tình chết
theo mùa đông, Tình cố đô, Tình đau, Tình đầu muôn thuở, Tình đẹp như mơ, Tình
mẹ, Tình người viễn xứ, Tình nghĩa đôi mình chỉ thế thôi, Tình như mây khói,
Tình vẫn chưa yên, Tình thiên thu…
Còn Lê Trọng Nguyễn thành công ngay từ ca khúc bolero đầu
tiên là Nắng chiều cũng viết năm 1952, là một bản nhạc boléro
“kinh điển”, được viết với cung trưởng trẻ trung, buồn mà không bi lụy, rất hiếm
gặp trong thời kỳ đầu của dòng nhạc boléro và cả sau này. Nắng chiều còn
được biết đến ở Hồng Kông, Đài Loan và Nhật Bản. Ông
sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm của ông đều có giá trị nghệ thuật
cao, giai điệu và ca từ trau chuốt, hình ảnh đẹp như tranh: Chiều bên giáo
đường, Lá rơi bên thềm, Sóng Đà Giang, Sao đêm… thường được xếp vào dòng nhạc
tình khúc.
Trúc Phương cũng được biết đến trễ hơn, với hai sáng tác đầu
tay là Tình thương mái lá và Tình thắm duyên quê viết năm
1957, kế đến là Chiều làng em (1958) và Đò chiều (1959)...
đều được nhiều người thích. Bản nhạc nổi tiếng nhất của ông là Tàu
đêm năm cũ viết vào đầu thập niên 1960, Sau đó, là khoảng
70 ca khúc được phổ biến rộng rãi: Nửa đêm ngoài phố, Buồn trong kỷ
niệm, Thói đời, Hai lối mộng, Kẻ ở miền xa, Đêm gác trọ, Đêm
tâm sự, Đêm trên vùng đất lạ, Đêm Việt Nam, Đôi mắt người xưa, Đường chiều cao
nguyên, Hai chuyến tàu đêm, Hình bóng cũ…
Còn Hoàng Thi Thơ, người được xem là “khơi dòng Việt hóa
bolero”, sau Gạo trắng trăng thanh (1954), tiếp tục viết nhiều tình
ca quê hương nổi tiếng như Đường xưa lối cũ (1955), Duyên quê, Ai
nhớ chăng ai, Trăng rụng xuống cầu (1956)… Sau đó, dưới nhiều bút danh
như: Hoàng Thi Thơ, Tôn Nữ Trà Mi, Tôn Nữ Diễm Hồng, Bích Khê, Triệu
Phong, Tố Tâm…, ông viết rất nhiều bản nhạc vàng và tình khúc đậm chất dân
ca rất được phổ biến và ưa chuộng.
Nhưng người quảng bá tích cực nhất cho dòng nhạc này là nhạc
sĩ Phó Quốc Lân, tác giả các ca khúc: Xuân ly hương, Hương lúa miền
Nam, Mong ngày anh về, Vui khúc tương phùng... Năm 1955, ông tái lập
ban nhạc Lửa Hồng và sau đó cho ra
mắt ban Nhạc Vàng thuộc đài phát thanh rồi đài truyền hình Sài
Gòn để trình tấu định kỳ. Ngoài ra, các nhạc sĩ như Anh Bằng lập
ra các hãng Hương Giang, Dạ Lan; Ngọc Chánh lập ra hãng Shotguns để
phát hành băng và đĩa nhạc với nhãn hiệu "nhạc vàng”.
Trong hồi ký của mình, Phạm Duy viết: "Những bài hát
thông thường và chỉ được coi là nhạc thương phẩm - mệnh danh là nhạc vàng - với những tình cảm dễ dãi phù hợp với tuổi choai choai, với em gái hậu phương
và lính đa tình, tuy không được coi trọng nhưng lại rất cần thiết cho vài
tầng lớp xã hội trong thời chiến".
Ngoài các tên tuổi trên, nhạc sĩ tiêu biểu cho dòng nhạc này
là: Trần Thiện Thanh, Châu Kỳ, Duy Khánh, Anh Chương, Đỗ Lễ, Hoài
Linh, Hoài An, Phạm Thế Mỹ, Mạnh Phát, Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh
Bằng, Hàn Châu, Y Vân, Vinh Sử, Thanh Sơn, Anh Việt
Thu, Anh Việt Thanh, Trịnh Lâm Ngân (bút hiệu ghép của Trần Trịnh,
Lâm Đệ, Nhật Ngân), v.v...
Giọng ca tiêu biểu của nhạc vàng: Duy Khánh, Chế
Linh, Thanh Thúy, Thanh Tuyền, Giao Linh, Hoàng Oanh, Anh
Chương, Anh Bằng, Nhật Trường, Trung Chỉnh, Giang Tử, Minh
Hiếu, Trúc Mai, Hà Thanh, Ngọc Minh, Phương Dung, Anh
Khoa, Phương Hồng Quế, Sơn Ca, Băng Châu, Thái Châu, Nhật
Trường (tức NS Trần Thiện Thanh)... Cùng với các nhạc sĩ, các ca sĩ này cũng
góp phần định hình dòng nhạc vàng với cách hát khác hẳn các ca sĩ của nhạc tiền
chiến hay tình khúc 1954-1975.
Hai dòng nhạc trữ tình - tình khúc và nhạc
vàng 1954-1975 “đối cực” về thính giả, nhưng có khi “đồng nhất” về tác giả. Một
số NS chuyên sáng tác nhạc vàng nhưng cũng có những ca khúc của họ được xếp vào
tình khúc, như một số bài hát của các NS Hoàng Thi Thơ, Y
Vân, Nguyễn Văn Đông, Phạm Thế Mỹ, Song Ngọc,
Lam Phương, Anh Bằng,... Ngược lại, một số NS trước đã nổi tiếng với tình
khúc lại thành công trong nhiều bản nhạc vàng. Như Phạm Mạnh Cương của tình ca Thu
ca (1953) bất hủ, sau nầy viết nhiều bản nhạc vàng được yêu thích: Tình
mùa phượng thắm (1961), Tháng bảy mưa ngâu (1964)… Hoặc Trần Trịnh
của tình khúc Lệ đá nổi tiếng đã viết nhạc vàng cùng Nhật Ngân trong
bút hiệu chung Trịnh Lâm Ngân được phổ biến rộng rãi: Mùa xuân của mẹ,
Xuân này con không về…
Đề tài nhạc vàng sẽ trở lại nhiều lần trong chuyên đề này ở
các giai đoạn âm nhạc khác, do sự tồn tại lâu dài của nó trong tầng lớp công
chúng bình dân nhiều thế hệ.
Nhạc trẻ 1960 - 1975 ở Miền Nam
Vào cuối thập niên 1950, nhạc kích động châu Âu và Mỹ bắt
đầu thâm nhập thị trường miền Nam. Đầu những năm 1960 thì nhạc trẻ (còn gọi
là nhạc xanh) trở thành một hiện tượng của âm nhạc Việt Nam, đó là
dòng “âm nhạc trẻ trung, tươi mới, tự do”, "trẻ" cả về
âm nhạc, nhạc sĩ (trừ Phạm Duy), nghệ sĩ biểu diễn lẫn công chúng.
Thực tế, nhạc trẻ bao gồm âm nhạc từ loại pop/rock nhẹ nhàng của Bread và The Carpenters, cho đến những bài hát yéyé của Pháp, và rock nặng (heavy rock) của Mỹ. Gọi là nhạc trẻ cũng để phân biệt với nhạc tiền chiến, nhạc vàng, tình khúc..., dù rằng nhiều bản nhạc trẻ của Phạm Duy, Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang, Khánh Băng... cũng được xếp vào dòng tình khúc, được cả giới trẻ lẫn giới trung lưu, trí thức ở Miền Nam thuở ấy say mê.
Thực tế, nhạc trẻ bao gồm âm nhạc từ loại pop/rock nhẹ nhàng của Bread và The Carpenters, cho đến những bài hát yéyé của Pháp, và rock nặng (heavy rock) của Mỹ. Gọi là nhạc trẻ cũng để phân biệt với nhạc tiền chiến, nhạc vàng, tình khúc..., dù rằng nhiều bản nhạc trẻ của Phạm Duy, Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang, Khánh Băng... cũng được xếp vào dòng tình khúc, được cả giới trẻ lẫn giới trung lưu, trí thức ở Miền Nam thuở ấy say mê.
Bắt đầu là nhiều bản nhạc ngoại quốc nổi tiếng được các nhạc
sĩ đặt lời Việt rất thành công và có những ca khúc để đời.
Mở đầu cho trào lưu “Việt hóa” các ca khúc Âu - Mỹ thời ấy có thể nói đến nhạc
sĩ Vũ Xuân Hùng, ông đã chuyển soạn lời Việt cho các ca khúc được nhiều người
yêu mến như: Búp bê không tình yêu (Poupée de cire, poupée de son), Gõ cửa
ba tiếng (Knock three times), Chuyện phim buồn (Sad movies), Lãng du
(L’Avventura), Anh thì không (Toi jamais), v.v... Sau đó nhiều nhạc sĩ
khác, nhiều ban nhạc, cũng đã soạn lời Việt cho nhiều ca khúc ngoại quốc khác: Phạm
Duy, Quốc Dũng, Trường Hải, Jo Marcel, Kỳ Phát, Lữ Liên, Khúc Lan,
Nam Lộc, Nguyễn Duy Biên, Tùng Giang, trong đó có cả nhà báo Trường Kỳ (cột
chèo với Vũ Xuân Hùng), v.v...
Nhạc sĩ Nam Lộc "Việt hóa" nhiều bản nhạc ngoại quốc
thịnh hành đương thời bằng cách đặt lời tiếng Việt: Trưng Vương khung cửa
mùa thu (Tell laura i love her), Mây lang thang (The cowboy's
work is never done), Dĩ vãng buồn (I’ll never fall in love again), Tình ca cho
em (Good bye to love), Như mùa thu lá bay (Ben), Chỉ là giấc
mơ qua (Yellow Bird), Một thời để yêu (Les amoureux qui passent), Phút bên em
(L’Amour avec toi), v.v...
Thành công hơn cả là Phạm Duy, với đa phần là nhạc
Pháp, với giọng hát bằng song ngữ điêu luyện của ca sĩ Thanh Lan, đã gây được ảnh
hưởng khá mạnh mẽ trong giới trẻ: Khi xưa ta bé (Bang bang), Tình cho
không biếu không (L'amour c'es pour rien), Hỡi người tình lara (Dr. Zhivago), Chuyện
tình (Love story), Người yêu nếu ra đi (If you go away), Cuộc tình tàn (Je
sais), Himalaya, Ngày tân hôn (The wedding), Em đẹp nhất đêm nay (La plus belle
pour aller danser), Những nụ tình xanh (Tous les garcons et toutes les
filles), Viễn du trong tưởng tượng (En partant), Trong nắng trong gió (Dans le
soleil et dans le vent), Nắng đã tắt (Il est mort le soleil), Ôi giàn thiên lý
đã xa (Chèvrefeuille que tu es loin), Tình yêu mùa đông (J'aime bien l'hiver),
Chàng (Lui), Nàng (Elle etait belle), Chỉ cần một giọt lệ (Rien qu'une larme),
Tiễn em nơi phi trường (Adieu jolie candy), Gọi tên người yêu (Aline), v.v…
Sau đó, không chỉ dừng lại ở việc hát nhạc ngoại quốc, nhiều nhạc sĩ tự sáng tác các bản nhạc trẻ với tiết điệu nhanh và lạ, lời ca dễ hiểu, gần gũi. Những người đầu tiên có thể kể tới là Phạm Duy, Khánh Băng, sau đó là các nhạc sĩ khác như Quốc Dũng, Lê Hựu Hà, Tùng Giang, Nguyễn Trung Cang, Ngọc Chánh, Jo Marcel, Trường Kỳ, v.v …
Sau đó, không chỉ dừng lại ở việc hát nhạc ngoại quốc, nhiều nhạc sĩ tự sáng tác các bản nhạc trẻ với tiết điệu nhanh và lạ, lời ca dễ hiểu, gần gũi. Những người đầu tiên có thể kể tới là Phạm Duy, Khánh Băng, sau đó là các nhạc sĩ khác như Quốc Dũng, Lê Hựu Hà, Tùng Giang, Nguyễn Trung Cang, Ngọc Chánh, Jo Marcel, Trường Kỳ, v.v …
Từ giữa thập niên 60, nhiều ban nhạc trẻ được thành lập,
như Les Fanatics của Công Thành, Spotlights của Tuấn Ngọc,
Les Vampires của Đức Huy, và nhạc sĩ Lê Hựu Hà với nhiều ban nhạc
trẻ nổi tiếng: Hải Âu (1965), Phượng Hoàng (cộng tác với nhạc
sĩ Nguyễn Trung Cang và ca sĩ Evis Phương - 1970) và sau đó là Mây
Trắng. Ông còn viết nhiều ca khúc nhạc trẻ rất được ưa chuộng như: Tôi muốn, Lời
người điên, Hãy nhìn xuống chân, Bài ca tuổi trẻ, Yêu người yêu
đời, Hãy ngước mặt nhìn đời, Đôi khi ta muốn khóc...
Nhưng trước đó, khoảng năm 1962, Khánh Băng đã
viết rất nhiều ca khúc có tiết tấu nhanh, sôi động, gần như thể loại nhạc
kích động sau nầy, được coi là những bài nhạc trẻ đầu tiên ở Việt
Nam: Sầu đông, Có nhớ đêm nào, Tiếng mưa rơi..., đặc biệt
bài Sầu đông có thêm lời tiếng Pháp và tiếng Anh, trong đó lời
tiếng Pháp do chính ông viết.
Tới năm 1971, Đại hội nhạc trẻ đầu tiên được tổ chức tại
sân Hoa Lư do Trường Kỳ, Tùng Giang và Nam Lộc đứng ra
chủ trì và sự hợp tác của nhạc sĩ Phạm Duy, với gần 20 ban nhạc quốc tế của
Mỹ, Phillippines và Việt Nam tham gia. Sự thành công của đại hội nhạc trẻ đầu
tiên ở Sài Gòn đã đẩy mạnh nhạc trẻ lên cao độ.
Tiếp theo đó nhiều đại nhạc hội khác được tiếp tục được tổ chức:
năm 1971 tại trường trung học Taberd với hơn 10.000 người nghe, năm 1974 tại Thảo
Cầm Viên với trên 20.000 khán giả.
Năm 1973, Phạm Duy, Ngọc Chánh và Thanh Lan đi dự Đại hội
âm nhạc quốc tế tại Tokyo, tại đây bản nhạc trẻ Tuổi biết
buồn của Phạm Duy được lọt vào chung kết.
Thuộc thế hệ nhạc sĩ đi trước từ rất lâu, nhưng Phạm Duy vẫn
được coi là người đứng đầu và có những đóng góp lớn cho phong trào nhạc trẻ với
những sáng tác nhạc trẻ Việt và đặc biệt ca khúc nhạc ngoại lời Việt của ông được
cho là nhiều nhất và thành công nhất thời bấy giờ.
Có người cũng xếp "Kích động nhạc” vào dòng nhạc
trẻ, nhưng thực chất 2 dòng nhạc nầy hoàn toàn khác nhau: "Kích động nhạc" là
loại nhạc "giật gân", sôi động như twist hay rock and roll thường
viết về đề tài người lính Việt Nam Cộng hòa, gần với nhạc tâm lý chiến hơn, chứ
không “vô tư” như nhạc trẻ mà hai ca sĩ nổi tiềng trở thành cặp bài
trùng của loại nhạc nầy là Hùng Cường - Mai Lệ Huyền.
Nhạc du ca trong trào Du ca ra đời đúng lúc mọi người đang
đòi hỏi một nền văn nghệ sống động, thức tỉnh và mới lạ. Phong trào Du ca ra đời năm 1966 do hai nhạc sĩ Nguyễn Đức
Quang và Đinh Gia Lập thành lập, có khởi nguồn là một ban nhạc
sinh viên lúc bắt đầu hình thành chỉ có năm người: Nguyễn Đức Quang, Trần
Trọng Thào, Hoàng Kim Châu, Nguyễn Quốc Văn và Mai Thái Lĩnh (tức Hoàng Thái
Lĩnh), sau đó có thêm ca sĩ Phương Oanh và lấy tên chính thức là Ban Trầm
Ca, rồi cùng nhạc sĩ Phạm Duy lưu diễn nhiều nơ tại miền Nam Việt
Nam. Phong trào Du ca, là một đoàn thể hoạt động về văn hóa và văn nghệ phục vụ
cộng đồng, xuất hiện cùng lúc với phong trào làm công tác xã hội của sinh viên,
học sinh. Tôn chỉ của Phong trào là: "Dùng tiếng hát chung của cộng
đồng để tô điểm cho nền văn nghệ dân tộc một màu xanh đầy hy vọng, đưa mỗi người
đến gần nhau hơn để cùng lo xây đắp một quê hương tươi sáng".
Du ca quy tụ khá nhiều các nhạc sĩ tên tuổi, cũng như nhiều
nhạc sĩ trẻ xuất phát từ phong trào: Nguyễn Đức Quang, Trầm Tử Thiêng, Anh
Việt Thu, Trần Tú, Nguyễn Quyết Thắng, Phạm Duy, Ngô Mạnh
Thu, Giang Châu, Trần Đình Quân, Lý Văn Chương, Lê Quang Dũng, Nguyễn Văn
Phiên, Võ Thị Xuân Đào, Fa Thăng, Trần Trọng Thào, Hoàng Kim Châu, Nguyễn Quốc
Văn, Bùi Công Thuấn, Trần Quang Lộc, Mai Thái Lĩnh… Trong đó, ba nhạc sĩ
tiêu biểu nhất cho phong trào Du ca Việt Nam với nhiều ca khúc được phổ biến rộng
khắp là: Nguyễn Đức Quang, người sáng lập phong trào, Nguyễn Quyết Thắng và
Bùi Công Thuấn.
Những ca khúc trong phong trào du ca có mục đích kêu gọi
thanh niên hãy tự hào dân tộc, tin tưởng và hy vọng vào tương lai. Những loại
nhạc mà phong trào du ca thường sử dụng là Thanh niên ca, Thiếu nhi ca, Sinh hoạt
ca, Nhận thức ca, Sử ca, Dân ca, những bài hát phản ánh thân phận
quê hương và ca ngợi tình yêu con người, quê hương.
Nhiều bài hát của Du ca đã trở nên quen thuộc, được hát phổ
biến, thậm chí trở thành bài ca sinh hoạt trong học đường và các đoàn thể
thanh thiếu niên bấy giờ, như: Hướng đạo Việt Nam, CPS, Thanh sinh công,
Thanh niên Phụng sự Xã hội Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Thanh niên Caritas,
Thanh niên Hồng thập tự, Thiếu nhi thánh thể, Gia đình Phật tử… Có thể
kể ra những bài ca tiêu biểu có tác động lớn đối với lớp trẻ bấy giờ, ngoài những
ca khúc của Nguyễn Đức Quang, người sáng lập phong trào: Việt Nam, Việt
Nam của Phạm Duy; Đêm hồi động, Ta biết gì trên quê hương, Câu hát
tình quê, Hát gọi mặt trời lên, Lãng du ca của Trần Quang Lộc; Anh sẽ
về (thơ Khê Kinh Kha) của Nguyễn Hữu Nghĩa; Đến với quê
hương tôi, Những bước chân đi tới, Tình ca quê hương, Mãi mãi
bên nhau của Bùi Công Thuấn; Nước Việt Nam, Ta hát vang của Ngô
Mạnh Thu; Chiều trên quê hương, Tuổi trẻ chúng tôi của Giang
Châu; Hòa bình ơi! Hòa bình ơi! của Trầm Tử Thiêng; Đứa học
trò trở về, Lặng im, Nằm vắt tay lên trán, Gọi tên đất Mẹ, Quê hương
tôi của Nguyễn Quyết Thắng, v.v...
Trước năm 1975, phong trào Du ca có tác dụng sâu mạnh đối
với giới trẻ qua các đoàn, toán ca như: Du ca Con Sáo Huế, Áo Nâu, Lòng Mẹ,
Trùng Dương, Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông, Hồ Gươm, Sông Hậu, Vượt Sóng, Giao Chỉ,
Đà Nẵng, Kiên Giang, Sông Phố, Mùa Xuân, Đồng Vọng, Phù Sa, Ca đoàn
Trùng Dương, Trung Ương, Đuốc Việt, Tình Người, v.v... Họ trình diễn ở khắp nơi
ở miền Nam khi đó, trong trường học, ngoài sân cỏ, trên sân khấu, trong các
đoàn thể bạn… Khởi động phong trào hát cộng đồng, hát chung khắp mọi nơi, sau
này được lan truyền sang nhiều địa hạt và nhiều giới khác, kể cả tôn giáo.
Du ca cũng đã phát hành một số tuyển tập nhạc như: “Tuyển
tập Du ca 1, 2 và 3”, “Những bài ca khai phá”, “Ta đi trên dòng lịch sử”, “Những
điều trông thấy”, “Hát từ tim - hát bằng hơi thở”, “Những khuôn mặt Du ca”,
“Hát cho những người sống sót”, “Anh hùng ca”, “Sinh hoạt ca”… Đặc biệt, hai tập
ca khúc của người đứng đầu phong trào, NS Nguyễn Đức Quang để lại dấu ấn
không phai mờ trong nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam từ đó đến nay. Tập “Trầm
Ca” gồm 10 ca khúc cho thanh niên và thời cuộc, những thao thức lớn nhất về
con người, đất nước có các bài hát tiêu biểu: Nỗi buồn nhược tiểu, Người
anh Vĩnh Bình, Tiếng hát tự do, Chiều qua Tuy Hòa, Việt Nam quê hương ngạo nghễ…
Tập “Những bài ca khai phá” gồm trên 40 ca khúc sinh hoạt đặc biệt
cho đoàn thể, sinh viên, học sinh dùng trong các buổi họp mặt công tác xã hội,
các hoạt động đám đông, là tiếng kêu gọi tuổi trẻ đến với nhau cùng vun đắp niềm
tin và xây dựng quê hương, đất nước: Không phải là lúc, Về với mẹ
cha, Dưới ánh mặt trời, Chuyện quê ta, Hy vọng đã vươn lên, Xin chọn
nơi này làm quê hương (thơ Nguyễn Ngọc Thạch),…
Phân cực và giao thoa giữa các dòng nhạc Việt từ 1930 đến
nay
Trong quá trình phát triển của ca khúc tân nhạc Việt Nam, tùy
theo giai đoạn, thời đoạn, các dòng nhạc, các xu hướng trào lưu âm nhạc có khi
cùng song song tồn tại, có khi đối lập nhau, có khi vừa phân cực vừa giao thoa
với nhau, bổ sung hỗ trợ lẫn nhau, có khi hòa nhập vào nhau, hợp lưu lại với
nhau… Sự phân cực và giao thoa giữa các dòng nhạc Việt trong 9 thập
kỷ hình thành, tồn tại, phát triển ca khúc tân nhạc Việt sẽ được trình bày theo
từng giai đoạn, thời đoạn trong không gian âm nhạc lưu hành:
1. Trong giai đoạn tiền chiến 1930-1945:
Do sự khác biệt về nhân vật trữ tình, đối tượng trữ
tình, nội dung phản ánh và cả giai điệu của ca khúc mà phân định thành ba dòng
nhạc: nhạc hùng, nhạc đỏ, nhạc tiền chiến. Nhưng ba dòng nhạc khác nhau
này trong quá trình hình thành, đồng hành tồn tại và phát triển thường giao
thoa với nhau. Rõ rệt nhất là sự gần gũi nhau giữa dòng nhạc đỏ (cách mạng) và
dòng nhạc hùng (yêu nước). Hai dòng nhạc nầy về giai điệu chủ yếu là hành khúc,
về nội dung ca khúc, chúng gặp nhau ở hai điểm là dân tộc và đấu tranh, nhất là
vào cuối giai đoạn, khi Mặt trận Viêt Minh ra đời (1941), nhiều nhạc sĩ nhạc
hùng tham gia vào phong trào Việt Minh và trở thành chiến sĩ Cách mạng hoặc
chịu ảnh hưởng của Mặt trận. Khi đó, dòng nhạc hùng gần như hòa nhập vào dòng
nhạc đỏ (Nên phải xác định chính xác thời điểm bản nhạc được viết, mới xếp loại
đúng dòng nhạc của nó, mà có rất nhiều ca khúc, các nhà nghiên cứu âm nhạc
không thống nhất về năm sáng tác!). Vì lúc này hai dòng nhạc hòa vào nhau nên
có nhiều ca khúc xếp vào dòng nhạc nào trong hai dòng nhạc đó, nhạc hùng và nhạc
đỏ, cũng được, như các bản nhạc của Lưu Hữu Phước và nhóm Hoàng Mai Lưu: Tiếng
gọi sinh viên, Hồn tử sĩ, Bạch Đằng giang, Ải Chi Lăng, Hội nghị Diên Hồng,
Hờn Sông Gianh... Còn nhạc hùng và nhạc tiền chiến dù khác nhau ở giai điệu
(một bên là hành khúc, nhanh mạnh và một bên là trữ tình, nhẹ nhàng) và nhân vật
trữ tình (một bên là cái ta - công dân và một bên là cái tôi - cá nhân), nhưng
trong đối tượng trữ tình có một nội dung giống nhau là đề tài quê hương.
Trước 1946, có những nhạc sĩ sáng tác cả ba dòng nhạc: Tô
Vũ (Hoàng Phủ), Văn Cao, Hoàng Quý… Còn viết cả hai dòng nhạc thì nhiều.
Nhạc tiền chiến và nhạc hùng có: Thẩm Oánh, Phạm Duy, Canh Thân, Phạm
Ngữ, Nguyễn Mỹ Ca, La Hối…; nhạc hùng và nhạc đỏ là có: Lưu Hữu Phước và nhóm
Hoàng Mai Lưu… Đặc biệt là Đỗ Nhuận có “bước chuyển” sáng tác hai dòng nhạc này
- nhạc hùng và nhạc đỏ, trong hai thời đoạn khác nhau của cuộc đời mình (trước
và trong - sau khi bị tù, 1943).
2. Trong giai đoạn 1946-1954:
Trong giai đoạn 1946-1954, ở vùng kháng chiến, thời điểm
phân cực nhạc vàng - nhạc đỏ là đầu thập niên
50.
Năm 1946, hưởng ứng Lời kêu gọi Toàn quốc
kháng chiến, tuyệt đại đa số trí thức, văn nghệ sĩ (VNS) bỏ chốn phồn
hoa đô hội lên chiến khu gian khổ để đánh giặc bằng ngòi bút và trí tuệ của
mình. Cho đến cuối thập niên 40, nhiều tác phẩm văn nghệ xuất sắc ra đời.
Về văn xuôi có: Dân khí miền Trung của Hoài Thanh, Một lần đến
Thủ đô, Trận Phố Ràng của Trần Đăng, Đôi mắt, Nhật ký ở rừng của
Nam Cao, Làng của Kim Lân, Thư nhà của Hồ Phương.... Về thơ
ca, có Sáng tháng năm của Tố Hữu, Tình sông núi của Trần
Mai Ninh, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đôi mắt người Sơn
Tây, Tây tiến, Đôi bờ của Quang Dũng, Dọn về làng của Nông Quốc
Chấn, Sáng mát trong như sáng năm xưa, Đêm mít tinh của Nguyễn
Đình Thi, Nhà tôi của Yên Thao, v.v… Riêng âm nhạc, đa số các nhạc sĩ đều
tham gia kháng chiến, các nhóm nhạc nổi tiếng đương thời như Myosotis (Hoa
lưu ly), Tricéa, Đồng Vọng, Tổng Hội Sinh Viên, Hoàng Mai Lưu… cũng
vào chiến khu. Họ là những nhạc sĩ thuộc nhiều xu hướng, trào lưu, nhiều dòng
nhạc khác nhau trước đây: nhạc hùng, nhạc đỏ, tình ca… đều hợp lưu về một mối:
dòng nhạc kháng chiến. Vì vậy, nhạc cách mạng được mùa với sự nở rộ của rất nhiều
ca khúc về đề tài dân tộc, kháng chiến, khẳng định tài năng của các nhạc
sĩ nổi danh trước đó, đồng thời nảy sinh nhiều tên tuổi mới cho nền âm nhạc dân
tộc. Có thể kể ra: Phạm Văn Nhượng, Trần Dư, Vũ Khánh, Văn
Chung, Lê Yên, Doãn Mẫn, Hoàng Quý, Phạm Ngữ, Đỗ
Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Canh Thân, Hoàng Phủ (tức Tô
Vũ), Hoàng Vân, Nguyễn Văn Thương, Trần Hoàn, Phan Huỳnh Điểu, Dương
Minh Viên, Ngô Huỳnh, Hoàng Việt, Nguyễn Hữu Trí, Trần Kiết Tường, Phạm
Duy, Hùng Lân, Đoàn Chuẩn, Hoàng Thi Thơ, Hoàng Giác, Võ Đức Thu, Văn Phụng,
Trần Văn Khê, v.v…
Sự được mùa của ca khúc kháng chiến đánh dấu sự thực sự trưởng
thành của nhạc cách mạng, hay "nhạc đỏ". Tuy vậy, ngay trong số những
nhạc sĩ kháng chiến, nhiều người vẫn tiếp tục viết các ca khúc lãng mạn
và được xếp vào dòng nhạc tiền chiến như các nhạc sĩ: Trần Hoàn, Phạm Duy,
Nguyễn Văn Tý, Hoàng Giác, Tô Hải, Tô Vũ, Ngô Huỳnh, Nguyễn Đức
Toàn, Huy Du, Việt Lang, Trần Văn Khê, Tử Phác, Văn
Cao, Hoàng Việt, Đoàn Chuẩn, Nguyễn Đình Phúc,…
Trong giai đoạn này, tại Pháp trong những năm 1949 tới 1951,
hãng đĩa Oria đã thu một số đĩa nhựa 78 vòng tiếng hát của các
ca sĩ Hải Minh, Bích Thuận, Hoàng Lan, Văn Lý những ca khúc Hội nghị Diên
Hồng của Lưu Hữu Phước, Chiến sĩ vô danh của Phạm Duy, Tiếng
thùy dương, Hòa bình 48 của Lê Thương, Trách người đi của Đan Trường...
Rồi mùa sáng tác “vô tư” cũng qua đi. Từ đầu thập
niên 50, do ảnh hưởng của Cách mạng Trung Quốc (thành công năm 1949) và
chủ nghĩa tư tưởng mới xuất hiện của cách mạng Trung Quốc, đường lối văn học -
nghệ thuật trong vùng kháng chiến Việt Nam có nhiều thay đổi,
trong đó có cuộc kiểm thảo chống tư tưởng lãng mạn tiểu tư sản trong sáng
tác. Trong văn nghệ (văn chương, hội họa, sân khấu, âm nhạc…),
các trào lưu sáng tác cổ điển, hiện thực, lãng mạn, siêu thực... bị hạn
chế, và chính phủ động viên, ưu tiên văn nghệ sĩ sáng tác theo
phương pháp mới - chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Âm nhạc cũng theo xu thế
văn nghệ chung đó.
Do đó, sự phân cực âm nhạc bắt đầu: Trong vùng kháng chiến, từ
thập niên 1950, các dòng nhạc khác (không phải nhạc đỏ) bị nghiêm cấm sáng
tác và trình diễn, khi mượn khái niệm niệm “nhạc vàng" du nhập từ
phong trào "Bài nhạc mảu vàng" (huangse yinyue: hoàng sắc âm nhạc) thời
Mao Trạch Đông ở Trung Hoa để quy chụp lên chúng. Theo
đó, chúng bị coi "là thứ âm nhạc lãng mạn bi quan, hoặc
khêu gợi tình dục và những khát vọng thấp kém của xác thịt", "ủy mị",
“thiếu tinh thần đấu tranh cách mạng".
Rồi chuyện đau buồn đã xảy ra mà thực tình không muốn kể dài
dòng ra đây. Nhiều VNS theo chủ nghĩa dân tộc thuần túy tham gia kháng chiến
đã dao động; một số không viết nữa hoặc viết cầm chừng; có người do hoàn
cảnh riêng, do bị Pháp bắt, hoặc không chịu được gian khổ kháng chiến
đã bỏ “về tề" - về vùng Pháp chiếm đóng. Về văn học có Tô Kiều Ngân,
Đinh Hùng, Chu Tử, Vũ Hoàng Chương, Sao Mai (Tần Khải Minh), Thanh Hữu (Lê
Trung Hậu)… Về âm nhạc có Hoàng Thi Thơ, Hùng Lân, Đoàn Chuẩn, Hoàng Giác,
Phạm Duy (sau khi viết Bên cầu biên giới được coi mang tư tưởng lãng
mạn tiểu tư sản của dòng “nhạc đục" không phù hợp với
dòng “nhạc trong" của Kháng chiến), v.v...
Còn ở vùng đô thị, sự phân cực giữa hai dòng nhạc sớm hơn. Từ
cuối năm 1946, khi Pháp tái chiếm Việt Nam, dòng nhạc cách mang bị xếp vào nhạc
cấm. Nhưng ngoài nhạc hùng và nhạc tiền chiến 1930-1945, chính quyền Pháp vẫn
cho lưu hành các ca khúc trữ tình được sáng tác trong giai đoạn này của các nhạc
sĩ đang tham gia kháng chiến, như: Văn Cao, Tô Vũ, Trần Hoàn, Nguyễn
Văn Tý, Việt Lang, Tử Phác, Tô Hải, Ngô Huỳnh, Nguyễn
Đức Toàn, Huy Du, Trần Văn Khê, Hoàng Việt, Nguyễn Đình Phúc…
Ngoài ra, còn có những ca khúc trữ tình mới, viết theo phong cách nhạc tiền chiến
của các nhạc sĩ ở lại thành, không vào chiến khu ngay từ đầu, như: Lê
Thương, Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Lâm Tuyền, Thông Đạt, Lê Hữu
Mục, Cung Tiến, Lê Mộng Nguyên, Phạm Mạnh Cương, Trần Trịnh, Y Vân,
Lam Phương, Nguyễn Hữu Ba… Hay của các nhạc sĩ đi kháng chiến hoặc tản cư rồi
“về thành” như: Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Hùng Lân, Đoàn Chuẩn, Hoàng Thi
Thơ, Hoàng Giác, Văn Phụng…
3. Trong giai đoạn 1954-1975 ở Miền Bắc
và vùng Giải phóng Miền Nam:
Do nhiều nguyên nhân có thể giải thích được, người ta
đã xếp loại tất cả những dòng nhạc không phải nhạc Cách mạng (nhạc
đỏ) như tình khúc, nhạc xanh, nhạc tiền chiến, du ca, hay nhạc "tâm
lý chiến"... đang lưu hành ở vùng đô thị Miền Nam
đương thời đều là nhạc vàng cả. Nguyên nhân sâu xa là: lý
luận phân cực thô sơ mà các giới chính trị, trí thức và bình dân gặp nhau:
không tốt thì xấu, không ta thì là địch; phe ta thì phải tốt, phe địch
thì phải xấu; điệp viên ta thì phải thông minh tài trí, bọn gián điệp thì
dữ dằn ngu dốt; Tấm thì phải thiện, ngoan hiền, cuối cùng gặp sung sướng,
còn Cám và bà dì ghẻ thì phải ác, xấu xa, cuối cùng bị trừng phạt. Nên
không nhạc đỏ thì phải nhạc vàng, không có chuyện lưng chừng lôi
thôi.
Giai đoạn âm nhạc này ở Miền Bắc và vùng Giải phóng Miền
Nam, nhạc Cách mạng chiếm vị trí độc tôn (và một số nhạc đấu tranh được
sáng tác trong vùng đô thị Miền Nam), được phát trên đài, trong sinh hoạt,
trong các cuộc hội diễn, biễu diễn và các dòng nhạc khác bị xếp loại nhạc vàng
cả. Nhưng có một thực tiễn đáng ngạc nhiên và đáng quý là nhà nước cho
phép và hỗ trợ việc lưu hành nhiều bản tình ca của Nga và Xô viết (dạng như
tình khúc Việt bấy giờ đang bị cấm đoán ở các vùng miền trên) như một dòng “nhạc
xanh” tồn tại song song với “nhạc đỏ” với sự yêu thích của công chúng Việt. Có
thể kể ra một số ca khúc nổi tiếng trong số đó: Cachiusa (thơ Mikhail
Isakovski) của Matvei Blanter; Chiều ngoại ô Matxcơva của Soloviov
Sedoi; Đôi bờ (lời Grigorii Mikhailovich Pozhenyan, nhạc phim Cơn
khát) của Andrey Yakovlevich; Thời thanh niên sôi nổi (thơ L.
Oshanin, nhạc phim Về phía đằng kia) của Aleksandra Pakhmu-tova; Cây
thùy dương (thơ Mikhain Pilipenko) của Evgenhi Podygin; Triệu bông hồng (thơ
Andrey Voznesensky) của Raimond Pauls; Đàn sếu (thơ Rasul Gamzatov) của
Yan Frenkel; Tình ca du mục (thơ Konstantin Podrevsky) của Boris
Fomin; Chiều hải cảng của V. Solovyov- Sedoi; Kalinka của Ivan
Petrovich Larionov…
Trong số các ca khúc Nga kể trên, nhiều ca khúc do NSND Trung
Kiên viết lời Việt, trong đó có ca khúc nổi tiếng Triệu bông hồng do
nhạc sĩ Raimonds Pauls phổ thơ của nhà thơ lớn Andrey Voznesensky. Sau này
nó gắn liền với tên tuổi của ca sĩ Ái Vân trong thập niên 1980. Theo ca sĩ Ái
Vân, nhiều ca khúc nhạc Nga được đặt lời Việt đã giúp cho dòng nhạc nhẹ vẫn
tiếp tục chảy tại miền Bắc sau năm 1954. Trong hồi ký Để gió cuốn đi, chị
viết: “Sau năm 1954, các ca sĩ miền Bắc như Vũ Dậu, Thúy Hà, Mạnh Hà, Vân
Khánh đã hát những bài hát của Liên Xô như Kachiusa, Chiều hải cảng,
Cây bạch dương, Kalinka, Cuộc sống ơi, ta mến yêu người... với phong cách
tươi trẻ không khác gì nhạc nhẹ sau này. Dòng nhạc nhẹ vẫn âm thầm chảy với cái
áo khoác che chắn của nhạc đỏ”.
4. Trong giai đoạn 1954-1975 ở đô thị Miền Nam:
Sự phân chia ca khúc ở vùng đô thị miền Nam lúc này thành 6
dòng nhạc như trên chỉ là đễ dễ tiếp cận thôi. Thực ra, ở đây lúc đó, sáng tác
ca khúc đa dạng và phong phú hơn nhiều, còn có các dòng nhạc khác như: hùng ca,
dân ca, tình ca quê hương, nhạc tôn giáo… trong vườn hoa âm nhạc nhiều hương sắc.
Tuy nhiên, đương thời, có sự phân cực giữa các dòng nhạc
mà phổ biến nhất là sự đối lập giữa hai loại nhạc đang hiện hữu: nhạc sang và nhạc
vàng, là phân định theo chất lượng nhạc và giai tầng người tiếp thụ: nhạc sang
(tình khúc, nhạc tiền chiến, phản chiến…) được giới có học: sinh viên, trí thức…
yêu thích và nhạc vàng (còn gọi là nhạc trữ tình bình dân) được giới
bình dân như: nông dân, thợ thuyền, lính, người làm thuê… mê
say.
Nhưng không chỉ thế. Chẳng hạn, trong nhạc trữ tình
bình dân có sự phân biệt giữa nhạc vàng và nhạc sến. Điểm
khác biệt chính giữa "nhạc vàng" và "nhạc sến" là "nhạc
vàng" thường theo nhiều thể điệu Slow, SlowRock, Rhumba, Ballade,
Bolero… chịu ảnh hưởng của Thánh ca Công giáo, chậm buồn, đều đều và mang phong
cách thính phòng, hát bằng giọng Bắc chuẩn, còn "nhạc sến"
thường chỉ theo điệu Bolero, âm hưởng dân ca, hát bằng giọng Bắc pha hay giọng
địa phương (tùy theo điệu dân ca, nhưng chủ yếu của Nam Bộ), về sau thường hay
được hát bằng giọng Nam, hợp hơn với tầng lớp bình dân ở Nam bộ. "Nhạc
vàng" thường phối nhạc phương Tây sang trọng hơn, có thể nói đến chia ly,
cô đơn, nhưng cách thể hiện không sướt mướt, sến sẩm, ủy mị, quằn quại, khổ
đau, bi lụy, sầu thương, rên rỉ…, ca từ cũng dung dị, dễ hiểu, mà không dễ dãi,
ước lệ, sáo rỗng… và nội dung không nói về đồng quê, nghèo khó, hay kể một câu
chuyện… như "nhạc sến”. Hoặc một dòng nhạc được giới chuyên môn tách
ra thành nhánh Tình ca quê hương, do chủ đề rộng về quê hương đất nước
hoặc về làng quê, đậm chất dân ca cả ba miền, không có chất sến, hát theo giọng
địa phương, như nhạc của Hoàng Thi Thơ, Thanh Sơn…, nhưng thường được thể hiện
bởi các giọng hát “nhạc vàng”, "nhạc sến" nên được gộp chung
vào nhạc vàng, có khi là nhạc sến. Và ngay cả trong loại nhạc sang cũng
có sự phân biệt giữa nhạc phong trào (nhạc phản chiến, du ca…) với nhạc
thời thượng bấy giờ (nhạc trẻ, tình khúc, nhạc tiền chiến…).
Và cũng là nhạc của giới trẻ, được giới trẻ say mê trong
thập niên 60, nhưng khác với dòng nhạc trẻ phổ biến nói ở trên, "kích
động nhạc" là loại nhạc "giật gân", sôi động như
twist hay rock and roll, thường thường viết về người lính cộng hòa, nó gần với
nhạc tâm lý chiến hơn, chứ không “vô tư” như nhạc trẻ. Nhưng vài dòng
nhạc (không phải tất cả) có sự gặp nhau tạo nên phần giao chung. Trong đó,
có phần giao giữa nhạc vàng và nhạc tâm lý chiến. Như đã
nói, đề tài chủ yếu phổ biến của nhạc vàng là: Tình - Lính và Quê
hương, nên mảng nhạc về lính của nhạc vàng và mảng tình ca về lính của
nhạc tâm lý chiến là rất gần nhau, tuy không phải là trùng khớp
nhau.
Các nhạc sĩ được xếp chung vào dòng nhạc phản chiến có
phần giao là chống chiến tranh, mong muốn hòa bình cho dân tộc, nhưng xét cho
cùng, có một sự phân cực giữa các dòng nhạc này, nhất là quan niệm về chiến
tranh và mục đích chống chiến tranh không phải giống nhau. Các nhạc sĩ là
các chiến sĩ cách mạng “nằm vùng” như Trần Long Ẩn, Tôn Thất Lập, Trương
Quốc Khánh, Nguyễn Văn Sanh… là chống chiến tranh xâm lược, đấu tranh cho
hòa bình thống nhất Tổ quốc. Các nhạc sĩ theo chủ nghĩa dân tộc thuần túy (yêu
nước không đảng phái chính trị) như Trịnh Công Sơn, Lê Hựu Hà, Nguyễn Phú
Yên… là chống chiến tranh gây tang tóc cho quê hương, đau khổ cho đồng bào. Còn
một số nhạc sĩ có quan điểm chính trị phức tạp như Phạm Duy thì đối cực rõ
ràng với hai nhóm nhạc sĩ trên: vừa viết ca khúc phảnchiến, nhưng lại vừa
viết những bài hát ca ngợi chế độ, ca ngợi hình ảnh và chiến công của người
lính cộng hòa. Phạm Thế Mỹ, nhạc sĩ được hâm mộ trong dòng nhạc vàng
lại viết cả nhạc phản chiến lẫn nhạc ca ngợi hình ảnh oai hùng, phong sương của
anh lính chiến.
Còn phần giao giữa nhạc phản chiến và nhạc du ca cũng rất lớn,
có khi gần như trùng nhau, chồng khít lên nhau, bởi dù đứng ở góc độ
khác nhau nhưng đều muốn “dùng tiếng hát chung của cộng đồng để xây
đắp một quê hương hòa bình, tươi sáng" (trích Tôn chỉ của
Phong trào du ca). Phong trào phản chiến của sinh viên, học sinh thường
hát những ca khúc du ca, trong khi các đoàn du ca lại có những bài ca sinh hoạt
là nhạc phản chiến. Hai dòng nhạc này, nhất là nhạc phản chiến vào cuối giai đoạn,
đã hòa nhập với dòng nhạc giải phóng, cách mạng góp phần động viên, cổ vũ quần
chúng tham gia vào công cuộc thống nhất đất nước. Nhiều NS tiêu biểu
như Trần Long Ẩn, Tôn Thất Lập… lại thành công ở cả bốn dòng nhạc: tình
ca, du ca, phản chiến và cách mạng. Trịnh Công Sơn viết rất nhiều thể loại: nhạc
phản chiến, du ca, tình khúc và sau này là nhạc trẻ… Riêng Phạm Duy lại có nhiều
thành tựu trong hầu hết các dòng nhạc, các thể tài âm nhạc VN hiện đại: nhạc tiền
chiến, nhạc đỏ, nhạc phản chiến, nhạc trẻ, nhạc lính, du ca, tình ca, bình ca,
tâm ca, nữ ca, nhi đồng ca, sau này là đạo ca…
Một điều thú vị: Hai dòng nhạc trữ tình - tình khúc và nhạc
vàng, “đối cực” về thính giả, nhưng có khi “đồng nhất” về tác giả. Một số
NS chuyên sáng tác nhạc vàng nhưng cũng có những ca khúc được xếp
vào tình khúc, như một số bài hát của các NS Hoàng Thi Thơ, Y
Vân, Nguyễn Văn Đông, Phạm Thế Mỹ, Song Ngọc, Lam
Phương, Anh Bằng,... Ngược lại, một số NS trước đã nổi tiếng với tình khúc
lại thành công trong nhiều bản nhạc vàng. Như Phạm Mạnh Cương của tình ca Thu
ca (1953) bất hủ, sau nầy viết Tình mùa phượng thắm (1961), Tháng
bảy mưa ngâu (1964)… Hoặc Trần Trịnh của tình khúc Lệ đá nổi
tiếng đã viết nhạc vàng cùng Nhật Ngân trong bút hiệu Trịnh Lâm Ngân: Mùa
xuân của mẹ, Xuân này con không về…
Một điều độc đáo: Bài thơ Màu tím hoa sim của Hữu
Loan được phổ thành khoảng 10 ca khúc thuộc các dòng nhạc bởi các nhạc sĩ: Phạm
Duy, Dzũng Chinh, Anh Bằng, Song Ngọc, Thu Hồ, Hồng Vân, Duy Khánh và Trọng
Khương... Trong đó, Anh Bằng phổ thành 2 bài hát: Chuyện hoa sim, Tím
cả chiều hoang, và 2 bản nổi trội nhất, được phổ biến rộng khắp ở 2 dòng
nhạc là: Áo anh sứt chỉ đường tà (tình khúc) của Phạm Duy và Những
đồi hoa sim (nhạc vàng) của Dzũng Chinh.
Một điều đáng mừng: Trình độ thẩm mỹ của công chúng ngày càng
cao. Nhiều tình khúc của Trần Quang Lộc như Về đây nghe em, Có phải em mùa
thu Hà Nội; của Đức Huy như Bay đi cánh chim biển; của Trịnh
Công Sơn như Nhìn những mùa thu đi; của Ngô Thụy Miên như Niệm khúc
cuối; của Đynh Trầm Ca như Ru con tình cũ; của Vũ Đức Sao
Biển như Thu hát cho người, Chiều mơ… được phổ biến rộng rãi, được nhiều
thế hệ, lứa tuổi, nhiều giới, kể cả giới tu sĩ trong nhiều thời say mê
hát. Ca khúc Thuyền em đi trong đêm của Nguyễn Phú Yên xếp vào
nhạc “trữ tình chiến đấu”, du ca, tình khúc đều hợp, thậm chí giới bình dân
chuyên hát nhạc vàng cũng thích bài hát này.
Một điều đáng mừng nữa: Có những bản nhạc bình dân nhưng
lại được nhiều giới yêu thích, chẳng hạn các bài Đường xưa lối cũ (Hoàng
Thi Thơ), Khúc ca ngày mùa (Lam Phương), Nửa đêm ngoài phố (Trúc
Phương), Thương hoài ngàn năm (Phạm Mạnh Cương), Nắng lên xóm
nghèo (Phạm Thế Mỹ), v.v… Cũng có bài nhạc bình dân nhưng có những câu rất
ý vị, nhân văn và xao động lòng người, chẳng hạn: “Nếu anh có về khi tàn
chinh chiến. Xin em cúi mặt giấu lệ mừng nghe em…” (Tạ từ
trong đêm - Trần Thiện Thanh).
5. Trong thời đoạn hậu chiến 1975-1985:
Sau thống nhất đất nước, do quan niệm về văn học - nghệ thuật
bị chi phối mạnh mẽ, hoàn toàn bởi định kiến chính trị, nên sự phân cực giữa
các dòng nhạc rất sâu sắc và phổ biến.
Lúc này, trong nước chỉ có nhạc cách mạng là dòng nhạc duy nhất
được coi là chính thống, được nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện để phát triển và
phổ biến rộng rãi. Các dòng nhạc không cách mạng (trừ một số bản nhạc
phản chiến, nhạc du ca và nhạc sinh hoạt) như nhạc tiền chiến, tình khúc, nhạc
vàng... đều bị xếp là nhạc vàng, thậm chí là nhạc đồi
trụy - phản động và bị cấm sáng tác, lưu hành, biểu diễn hoàn toàn vì không phù
hợp với chủ trương. Công chúng được giáo dục, tuyên truyền tránh xa các loại
hình văn hóa đồi trụy, phản động, trong đó có ca nhạc, là tàn dư độc hại do chế
độ cũ để lại và các ca sĩ cũ được khuyến khích chuyển sang hát nhạc truyền
thống cách mạng (nhạc đỏ).
Nhưng như đã phân tích ở trên, đất nước thống nhất đã hợp lưu
được nhiều nguồn sáng tác và hợp nhất nội dung, đề tài sáng tác của các ca
khúc.
Về nguồn sáng tác thì có một lực lượng nhạc sĩ
hùng hậu và đa dạng hơn bao giờ hết với nhiều thế hệ nhạc sĩ, trong đó có
lớp nhạc sĩ trẻ có tài năng, mới bắt đầu sáng tác sau ngày Thống nhất, với nhiều
nhạc sĩ thuộc các dòng nhạc khác nhau trước đó: nhạc vàng, nhạc du ca, nhạc tiền
chiến, nhạc phản chiến, nhạc trẻ, nhạc giải phóng, nhạc cách mạng… quy tụ về một
mối, đổ về một dòng lớn hơn, dòng sông ca nhạc thời hậu chiến.
Còn nội dung, đề tài của ca khúc được định hướng,
thống nhất nhưng mở rộng hơn. Ngoài những đề tài truyền thống của nhạc cách mạng
như người lính và chiến đấu, ca khúc thời đoạn này khai thác, phản ánh và biểu
hiện các đối tượng trữ tình phong phú hơn và gần gũi đời thường hơn của dân
chúng: tình yêu quê hương, đất nước; tình cảm gia đình, lứa đôi, bạn
bè, đồng đội…, đặc biệt ca khúc chính trị về hai đề tài xây dựng đất nước và bảo vệ
biên giới Tổ quốc vào cuối thập niên 70, được công chúng hân hoan và xúc động
đón nhận.
Tình cảm đằm thắm mà tha thiết của người Việt, không khí hừng
hực của tinh thần dựng xây quê hương và khí thế rực lửa của tinh thần chiến đấu
vì Tổ quốc đã tạo ra một công chúng đông đảo của ca khúc giai đoạn này, khi thỏa
mãn được nhu cầu tình cảm và đáp ứng được thị hiếu âm nhạc của họ.
Lúc này, dòng nhạc hải ngoại do những nhạc sĩ Việt lưu vong
sáng tác đã trở nên lạc lõng. Là sự tiếp nối vài dòng nhạc ở Miền Nam trước
1975 (nhạc vàng, nhạc trẻ, tình khúc…), ngoài đề tài cũ là tình yêu lứa đôi, đề
tài phổ biến là thân phận lưu vong, ngục tù, phản kháng… đã trở nên thành đối cực
với dòng nhạc chính thống trong nước. Đáng ghi nhận là thành công của một số ca
khúc biểu biện tâm trạng hoài nhớ quê hương của người Việt tha hương.
6. Trong thời đoạn đương thời - 1986 đến nay:
Sau Đổi mới, 1986, đất nước Việt Nam có những biến đổi sâu rộng
về cả mặt tinh thần, tư tưởng lẫn văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội. Âm nhạc
Việt “chuyển mình” theo thời cuộc mới và ca khúc đương thời đa dạng, phong phú
hơn cả về nội dung, đề tài, thể loại, lẫn phong cách thể hiện.
Về đội ngũ sáng tác, nhạc sĩ cũng đông đảo hơn thời đoạn trước. Có đến năm thế hệ nhạc sĩ cùng “nhập cuộc” sáng tác: Thế hệ nhạc
sĩ “lão làng” còn sống; thế hệ nhạc sĩ đã thành danh trước 1975; thế hệ
nhạc sĩ trưởng thành trong thời đoạn trước (thời đoạn hậu chiến) nay cũng đã nổi
tiếng với những phong cách riêng; thế hệ nhạc sĩ trẻ trưởng thành sau Đổi mới
và mới đây là một lớp nhạc sĩ trẻ hơn - thế hệ nhạc sĩ xuất hiện vào hai thập
niên đầu của thế kỷ XXI.
Đề tài, chủ đề của ca nhạc cũng sâu rộng hơn, đặc biệt là thể
hiện được bản chất của văn nghệ là phản ánh chủ nghĩa nhân bản vào trong tác phẩm.
Các ca khúc đường thời thường viết về thân phận con người, ngợi ca
tuổi trẻ, thiên nhiên, hướng tới những giá trị nhân văn và hầu hết tập
trung vào quê hương, đất nước và tình yêu đôi lứa.
Trong không khí “mở cửa” và “đổi mới” ngày càng thông thoáng
hơn, các dòng nhạc Việt trước 1975, và kể cả nhiều bản nhạc hải ngoại được sáng
tác sau 1975, đều được phổ biến, biểu diễn (Dĩ nhiên là trừ những ca khúc tâm
lý chiến chống Cộng trực tiếp). Điều này tạo ra một thị trường âm nhạc hội nhập,
giao hòa rất đa dạng, sôi động, nhưng cũng vô cùng phức tạp và hỗn độn.
Đồng thời với sự giao hòa đó, sự phân cực ca khúc trong nền
âm nhạc thị trường đương thời cũng đã hiện hữu và hiện hữu rất rõ rệt, nhưng
không phải chủ yếu do chính kiến khác nhau như trong các giai đoạn trước,
mà cơ bản do giai tầng, lứa tuổi, văn hóa và thị hiếu thẩm mỹ khác nhau của những
người viết nhạc và của các tầng lớp công chúng hưởng thụ âm nhạc. Ca khúc tân
nhạc đang lưu hành đương thời có thể quy về bốn dạng
sau:
Trước hết là dạng nhạc trẻ đương thời được
các nhạc sĩ, ca sĩ trẻ viết và được một bộ phận đông đảo lớp trẻ yêu thích. Loại
nhạc này thường khai thác các chủ đề thất tình, hờn giận, oán trách, mẫu chuyện
đời thường, có khi là vụn vặt…, ca từ thường đơn giản, dễ dãi, có khi thô thiển,
dung tục…, giai điệu chịu ảnh hưởng nhạc Hoa, Nhật, Hàn, Thái, hay nhạc Rock, Pop
ballad, Rap, Hip-hop, R&B, Dance remix… của phương Tây, và được
thể hiện bởi lối hát trẻ trung, hiện đại. Dạng nhạc được lớp trẻ ngày nay yêu
thích nầy có những vết chàm mà tác giả đã phân tích ở trên: nhạc “đạo”, nhạc
nhái, nhạc “nghe bằng mắt”, nhạc thông tục, nhạc lai căng “lợn cợn”…
Dạng nhạc thứ hai đang khống chế thị thường ca nhạc hiện nay
là nhạc vàng được công chúng bình dân lớn tuổi và một bộ phận không
ít trong giới trẻ mê say. Bài hát được biểu diễn trong các chương trình của
dòng nhạc này là những ca khúc trữ tình bình dân ở miền Nam trước 1975 và cả những
bài hát mới cũng lặp lại những giai điệu cũ kỹ và nội dung yêu đương sướt mướt
như thời xa xưa trong dòng ca khúc đó, do những người trẻ bây giờ viết, nhưng
theo kiểu “mì ăn liền” không có giá trị nghệ thuật.
Dạng nhạc thứ ba có thể gọi là dòng nhạc nhẹ chính thống
đương đại, do những nhạc sĩ tài năng thuộc nhiều thế hệ được đào tạo trường
lớp sáng tác, gồm những ca khúc giá trị đang được số đông công chúng có học
và một bộ phận giới trẻ yêu thích. Đó là những ca khúc ca ngợi tình yêu con người,
tình cảm lứa đôi, ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc quê hương. Các nhạc
sĩ chuyên nghiệp đã tiếp nhận và chuyển hóa các thể loại nhạc quốc tế trong
sáng tác và cả trong biểu diễn bằng cách tăng cường âm hưởng dân gian- dân tộc
trong giai điệu, hòa thanh và tiết tấu cho phù hợp với thói quen thẩm mỹ của
công chúng Việt Nam để sáng tạo nên những ca khúc có giá trị nghệ thuật -
nhân văn.
Sẽ là một thiếu sót lớn, nếu không nhắc tới một dạng nhạc
đang được lớp người có học yêu thích: trí thức cũ (ở Miền Nam ), trí thức
cách mạng (ở Miền Bắc), lớp trẻ có văn hóa thời nay và một lớp người thuộc
thành phần trung lưu am hiểu về âm nhạc... Đó là dạng thường được họ gọi
là “nhạc sang” tức là những ca khúc có giá trị nghệ thuật - tư tưởng
được viết từ thập niên 1930 đến 1975, vẫn còn tồn tại đến đương thời như "những
bài ca không bao giờ quên", thuộc nhiều dòng nhạc: tiền chiến, nhạc hùng,
tình khúc, nhạc trẻ, du ca, phản chiến, trữ tình cách mạng…
Sau Đổi mới, tình hình kinh tế chính trị xã hội trong nước đã
biến chuyển theo chiều hướng tích cực, vị trí, uy tín Việt Nam trên chính trường
quốc tế được khẳng định, kiều bào Việt ở nước ngoài, nhất là những người “tỵ nạn”
đã có thay đổi trong cái nhìn, tâm tư về Tổ quốc, đất nước và chán ngán lối
hô hào, khẩu hiệu rỗng của những kẻ cơ hội, đầu tư chính trị, nên giới nhạc sĩ
Việt kiều cũng “tự nhận thức” lại về mình và về đối tượng công chúng âm nhạc của
mình. Họ không còn viết về các đề tài ngục tù, phản kháng, chống Cộng… như
trong giai đoạn trước nữa mà quay trở về đề tài muôn thưở của ca khúc: quê
hương và tình yêu lứa đôi.
Từ khi Đổi mới, có sự giao lưu, nối kết giữa âm nhạc chính thống
trong nước và dòng nhạc hải ngoại và điều này thể hiện qua hoạt động sáng tác
và biểu diễn của các nhạc sĩ, ca sĩ trong và ngoài nước.
Trong lãnh vực sáng tác, nhiều nhạc sĩ nổi tiếng ở trong nước
đã tham gia thị trường âm nhạc hải ngoại bằng những tình ca mới và lúc đầu, gần
như các sáng tác mới của họ chỉ được hát tại hải ngoại. Có những ca khúc của họ
được trình bày và nổi tiếng tại nước ngoài trước khi trở thành ăn khách trong
nước. Thậm chí, có một số nhạc sĩ ở trong nước nhưng đã trở thành tên tuổi ở nước
ngoài, trước khi những nhạc sĩ này được biết đến trong nước. Nhiều nhạc
sĩ trẻ đã cộng tác thường xuyên và bán độc quyền các ca khúc của họ cho các
Trung tâm sản xuất ca nhạc ở hải ngoại. Một số khác trong thời gian du học cũng
sáng tác nhiều ca khúc cho thị trường âm nhạc tại hải ngoại. Nhiều nhạc sĩ đã nổi
tiếng từ trong nước, khi ra định cư tại nước ngoài vẫn tiếp tục sáng tác và trở
thành nhạc sĩ hải ngoại.
Từ đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, ngoài chủ đề tình yêu lứa
đôi, nhiều nhạc sĩ hải ngoại tiếp nối dòng tình ca quê hương với nhiều nhạc
phẩm rung động lòng người. Trong đó, đáng trân trọng là hòa cùng tiếng hát
vệ quốc trong nước, một số nhạc sĩ hải ngoại đã viết những ca khúc chống xâm lấn
biển Đông gây được tiếng vang trong công chúng yêu nhạc và yêu nước cả trong và
ngoài nước.
Từ năm 2000, một số ca khúc nhạc hải ngoại bắt đầu được phép
lưu hành chính thức trong nước. Một số nhạc sĩ hải ngoại sau này về thực hiện
nhiều dĩa nhạc, cũng như hòa âm phối khí cho các ca sĩ và tham gia các chương
trình văn nghệ trong nước.
Trong lĩnh vực biểu diễn, nhiều ca sĩ trong nước biễu diễn
các ca khúc hải ngoại trên sân khấu trong nước. Hầu hết các ca sĩ tình ca nổi
tiếng trong nước đều đã từng lưu diễn tại hải ngoại. Một số ca sĩ nổi tiếng sau
này định cư tại hải ngoại cũng tham gia sinh hoạt âm nhạc tại đây rồi trở thành
“sao” và rất được nhiều người mến mộ.
Trong các thập niên 1990, 2000, các Trung tâm sản xuất ca nhạc
ở hải ngoại đã phát hành tới ngàn tựa CD với các giọng ca quốc nội nổi tiếng
hát tình khúc và tình ca quê hương, trong đó có nhạc hải ngoại và khiến cho những
ca sĩ này rất nổi tiếng trong giới người Việt tại nước ngoài.
Ở chiều ngược lại, một số ca sĩ hải ngoại sau này về định
cư hẳn tại quê nhà hay thường xuyên hát trong nước, trong đó có những ca sĩ nổi
tiếng.
Có thể nói: Đó cũng là sự hợp lưu giữa các dòng nhạc Việt
Nam đương đại. Và dòng nhạc hải ngoại thực tế đã trở thành một bộ phận của nhạc
nhẹ Việt đương thời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét