“Nhạc đỏ” cùng với nhạc dân ca, truyền thống là những thể loại
âm nhạc được phát trên đài phát thanh, các phương tiện thông tin đại chúng, được
trình diễn trong các buổi sinh hoạt, hội diễn văn nghệ từ năm 1954 đến năm 1975
ở Miền Bắc và vùng giải phóng Miền Nam.
Trong giai đoạn 1954-1975, với quan điểm văn nghệ phục vụ
chính trị, âm nhạc ở Miền Bắc và vùng Giải phóng Miền Nam sáng tác theo phương
châm: Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng, với các
đề tài phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược lúc đó: chống Mỹ cứu nước ở hai miền và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, trong đó đề tài thứ nhất, âm nhạc có nhiều
ca khúc thành công hơn.
Vào thời đoạn đầu, trong 1955-1956, tiếp tục niềm tự hào, lạc quan
trong ca khúc 1954, là tiếng ca vui tự do khi miền Bắc được giải phóng được
ngân lên với cung bậc mới: Lời ca thống nhất (1955) của Trần Quý; Liên
khu Năm yêu dấu (1955), Tình trong lá thiếp (1955) của Phan Huỳnh
Điểu; Bài ca cách mạng tiến công (1956) của Đỗ Nhuận; Tiếng
hát biên thùy (1956) của Tô Hải; Ca mừng đời ta tươi đẹp (1955)
của La Thăng; Ca mừng chế độ ta tươi đẹp (1955) của của Xuân
Oánh; Hát mừng quê ta (1956) của Lê Lôi; Mẹ yêu con (1956)
của Nguyễn Văn Tý và Ánh sáng trên cầu Việt Trì (1956) của Hoàng Hà,
v.v...
Sau đó, khi Tổng tuyển cử thống nhất Tổ quốc theo Hiệp định
Genève không được thực hiện, đất nước bị chia cắt dài lâu, trong thời đoạn từ
cuối năm 1956 đến đầu năm 1958 nội dung ca khúc là tình cảm nhớ thương quê
hương Miền Nam, niềm tin, khát vọng cháy bỏng thống nhất đất nước, như
các ca khúc: của người con miền Nam ra Bắc tập kết như các ca khúc: Tình
ca (1957), Tình ca 2 (1958), Quê mẹ (1958) của Hoàng
Việt; Quê tôi (1957 - Lưu Cầu); Quê tôi miền Nam (1957 -
Phan Huỳnh Điểu); Câu hò bên bờ Hiền Lương (1957 - Hoàng Hiệp - Đằng
Giao); Bài ca hy vọng (1958 - Văn Ký), v.v...
Chuyển qua thời đoạn 1958-1960, Miền Bắc vừa
đã hoàn thành kế hoạch ba năm (1954-1957) khôi phục kinh tế thắng lợi và bước
vào thời kỳ mới: cải tạo XHCN, bước đầu phát triển kinh tế, phát triển văn hóa.
Những thành tựu đạt được trong kế hoạch 3 năm sau này (1958-1960) cùng với những
thay đổi lớn về văn hóa, kinh tế, xã hội của miền Bắc trong sáu năm
(1954-1960) đã tác động sâu sắc đến văn nghệ sĩ nói chung, nhạc sĩ nói
riêng. Hòa nhập với cuộc sống của nhân dân, họ đã viết nên nhiều ca khúc giá trị
phản ánh được cuộc sống mới và biểu hiện được tâm tư, tình cảm, khát vọng của
nhân dân. Không khí hồ hởi, niềm tin yêu, tinh thần lạc quan trong cuộc sống dựng
xây được các nhạc sĩ đưa vào các ca khúc sáng tác trong ba năm này. Năm 1958 là Mời
anh đến thăm quê tôi, Biết ơn Võ Thị Sáu của Nguyễn Đức Toàn; Tiến bước
dưới quốc kỳ của Doãn Nho; Tiếng hát trên tiền tiêu Tổ quốc của
Thái Quý; Nhớ đàn xe nước của Vân Đông; Lời
ca gởi Nọong của Nguyễn Tài Tuệ và Lướt sóng ra khơi của Thế
Dương trở thành bài hát chính thức của quân chủng Hải quân Việt Nam, v.v…
Sang năm 1959, không gian nghệ thuật trong ca khúc mở rộng
hơn: Từ trên đỉnh núi của Nguyên Nhung; Tiếng hát giữa rừng Pắc
Bó của Nguyễn Tài Tuệ; Kể chuyện người cộng sản của Trần
Hoàn; Trước ngày hội bắn của Trịnh Quý; Lướt sóng ra khơi của
Thế Dương; Dấu chân trong rừng của Vĩnh An; Đêm thao thức của
Kpa Pùi; Sao em chưa về của Lê Lan… Đến năm 1960 là: Xa
khơi của Nguyễn Tài Tuệ; Việt Nam ta đang mùa hoa của Vũ Trọng Hối; Việt
Nam quê hương tôi của Đỗ Nhuận; Cánh diều miền Bắc của Văn An,
v.v…
Trong thời đoạn này (1958-1960), các nhạc sĩ đã đi thực tế
sáng tác, sống, làm việc cùng nhân dân và viết lên những ca khúc về ngành nghề
của họ: Con trâu sắt (1958) của Trần Chương; Hò kiến thiết (1958)
của Thái Cơ; Tiếng còi thi đua (1959); Quà tháng năm (1960-
lời Thế Bảo) của Hồng Đăng, v.v…
Sau phong trào Đồng khởi (1959), nhất là từ năm
1960, khi Mặt trận Giải phóng Miền Nam chính thức thành lập, Miền Nam bước vào
cuộc kháng chiến chống Mỹ với sự chi viện của Miền Bắc, nhiệm vụ cổ vũ chiến đấu,
giải phóng Miền Nam là đề tài chính của âm nhạc thời đoạn
này. Nhiều ca khúc “đi cùng năm tháng" ra đời, biểu hiện tâm tình, khát vọng
của nhân dân và phản ánh những sự kiện anh hùng của thời đại. Với phương
châm văn nghệ phục vụ chính trị, mà quan trọng hơn tấm lòng vì nhân dân, dân tộc,
tự nguyện nhận trọng trách về mình, với một đội ngũ hùng hậu, nhiều thế hệ, nhiều
vùng miền, các nhạc sĩ Việt Nam đã bám sát nhiệm vụ chính trị của từng thời điểm
để sáng tác những ca khúc giá trị và kịp thời cho cách mạng giải phóng dân tộc.
Có thể thấy những cao trào của kháng chiến chống Mỹ cũng là những thời điểm ca
khúc cách mạng Việt Nam nở rộ, vút cao: 1960, 1965, 1972, 1973 và 1975.
Năm 1960, khi Miền Nam bắt đầu vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, bài hát Giải
phóng miền Nam (1960 - Huỳnh Minh Siêng) ra đời và trở thành ca khúc chính
thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt
Nam và Quốc ca Cộng hòa miền Nam Việt Nam, mở đầu cho hàng loạt
sáng tác về đề tài chống Mỹ cứu nước trong những năm đầu chống Mỹ.
Sau đó, cũng trong năm 1960 nhiều ca khúc được viết kịp thời: Bạn
ơi! Hãy nghe Bến Hải tâm tình của Vĩnh Cát; Cánh diều miền Bắc của
Vân An; Việt Nam đang mùa hoa của Vũ Trọng Hối; Việt Nam quê
hương tôi của Đỗ Nhuận… Sang năm 1961 là: Bài ca may áo của Xuân
Hồng; Hà Hội - Huế - Sài Gòn của Hoàng Vân; Trăng
sáng đôi miền của An Chung; Nhớ (thơ Thanh Hải) của Lê
Yên; Tổ quốc tôi trên 10 năm đã lớn của Hồng Đăng, v.v…
Năm 1962, ca khúc nở rộ hơn với Những ánh sao đêm của Phan
Huỳnh Điểu; Giờ hành động của Lưu Hữu Phước; Nắng ấm về trên Tổ
quốc của Trần Khánh; Tiếng hát Mơ Nông Tipri của Nhật Lai; Tình
em của Huy Du - Ngọc Sơn; Quê Hương ơi! Ta sẽ về của Trần Kiết
Tường; Nhớ về quê mẹ của Vân Đông; Trên đường ta đi tới của
Bửu Huyền; Khúc ca Hơ Rê của Văn Ngọc…
Sang năm 1963-1964, khi phong trào cách mạng lên cao thì ca
khúc cách mạng ở cả hai miền cũng bay bổng theo. Năm 1963 là: Hành khúc giải
phóng của Lưu Hữu Phước; Xuân chiến khu của Xuân Hồng; Lời
ca không tắt của Tô Hải; Qua sông của Phạm Minh Tuấn; Gởi
anh đi đầu quân của Nguyễn Đình Phúc; Nhớ (thơ Nguyễn Đình Thi)
của Hoàng Vân; Quê hương anh là biển cả của Tường Vi; Chiếc đàn
môi của Nguyên Nhung; Bài ca chiến thắng của Trần Kiết Tường; Ta
là chiến sĩ giải phóng quân của Văn Lưu - Triều Dâng; Chim
hót trên đồng đay; Dòng nước quê hương của Nguyễn Văn Tý, Bế
Văn Đàn sống mãi (thơ Trinh Đường) của Huy
Du, v.v…
Cao điểm của ca khúc thời đoạn năm năm này là năm 1964 với
nhiều ca khúc tỏa ra cả ba chủ đề: xây dựng đất nước, chống Mỹ cứu nước ở miền
Bắc và kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam. Về chủ đề xây dựng đất nước,
có các ca khúc: Từng bước đi vững chắc của Văn Chung; Tôi là người
thợ lò của Hoàng Vân; Những người con gái đồng chiêm, Bám biển quê
hương của Phạm Tuyên; Tiếng hò trên đất Nghệ An của Tân Huyền,
v.v…
Về chủ đề chống Mỹ cứu nước ở cả hai miền trong năm 1964 có: Tiễn
anh lên đường của Nguyễn Văn Tý; Chiếc khăn tay, Hành quân đêm (lời
Trí Thanh) của Xuân Hồng; Sẵn sàng chiến đấu, Thanh niên ba sẵn sàng của
Lưu Hữu Phước; Anh vẫn hành quân (thơ Trần Hữu Thung), Tôi
ca mãi đời anh của Huy Du; Miền Nam ơi! Chúng tôi đã sẵn sàng của
Lưu Cầu; Nhớ anh giải phóng quân của Nguyễn Đình Phúc; Vui mùa
chiến thắng của Văn Chừng - Lam Lương; Tiếp lương ra tiền tuyến của
Phương Giao, v.v…
Cũng trong năm 1964, vào ngày 5 tháng 8, sau sự kiện
vịnh Bắc bộ, Mỹ mở Chiến dịch Mũi Tên Xuyên (Opeation Pierce Arrow) không
kích phá hoại miền Bắc do Hải quân Mỹ thực hiện. Hòa cùng tiếng
nổ của hỏa tiễn, pháo phòng không, súng máy, trường bắn máy bay của bộ
đội, dân Mỹ quân là tiếng hát kịp thời động viên, ca ngợi chiến công của
họ: Đánh đích đáng của Ngô Sĩ Hiền; Phi đội ta xuất kích của
Tường Vi; Giữa biển trời Xô viết - Nghệ An của Hồ Bắc; Hành khúc không
quân Việt Nam của Văn Cao; Không cho chúng nó thoát của Hoàng
Vân; Bay trên bầu trời Tổ quốc của Xuân Giao…
Từ năm 1965, Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược, chuyển
sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân Mỹ và đồng minh vào tham
chiến ở miền Nam, đồng thời leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng các chương
trình quy mô và dài ngày hơn có các mật danh là Chiến dịch
Flaming Dart (Hỏa Tiêu - 07 đến 11.02.1965) và Rolling
Thunder (Sấm Rền - 02.3.1965 đến 31.10.1968) huy động
một lực lượng hải và không quân hùng hậu ném bom với ý đồ hủy hoại hoàn toàn miền
Bắc. Cùng với tiếng bom rền và đạn pháo phòng không nổ tung trên bầu trời miền
Bắc, âm nhạc cũng ngân lên điệu kèn xung trận vừa hùng tráng, vừa thiết tha.
Năm thứ hai miền Bắc trực tiếp đánh Mỹ (1965), nhiều ca khúc
ra đời trong ý chí “tiếng hát át tiếng bom” kiên cường: Quảng Bình chiến
thắng của Phạm Tuyên; Em bé Bảo Ninh (thơ Nguyễn Văn Dinh) của
Trần Hữu Pháp; Bài ca sông Nhật Lệ của Nhật Lai; Trên biển quê
hương của Đức Minh; Tiếng hát sông Lam của Đinh Quang Hợp; Thanh
Hóa anh hùng của Hoàng Đạm; Hà Tây quê lụa của Nhật Lai; Mỗi
bước đi thêm yêu Tổ quốc của Tân Huyền; Hai chị em, Bài ca giao
thông vận tải, Nổi trống lên đi núi rừng ơi của Hoàng Vân; Tên lửa
về bên sông Đà của Hoàng Tạo; Bài ca đảo Bạch Long
Vĩ của Vũ Ngọc Quang; Chào sông Mã anh hùng của Xuân Giao, Nhịp
cầu sông Mã của Lê Xuân Thọ, Chưa hết giặc ta chưa về, Thề quyết bảo
vệ Tổ quốc, Bạch Long Vĩ đảo quê hương của Huy Du, v.v…
Còn ở Miền Nam trong năm này (1965) cũng được mùa
ca khúc với nhiều bản nhạc “nổi tiếng một thời”: Cô
gái vót chông của Hoàng Hiệp; Ra tiền tuyến của Phan Huỳnh Điểu; Tôi
người lái xe của An Chung; Giết giặc Mỹ cứu nước của Hoàng Việt; Bài
hát giải phóng quân của Lưu Hữu Phước; Mỗi bước ta đi, Hát mừng quê
ta giải phóng của Thuận Yến…
Chiến tranh càng lan rộng, bài hát hay càng nhiều. Năm 1966, nhiều “bài ca không bao giờ quên” đã ra đời: Múa hát mừng chiến công của Nguyễn Văn Tý; Hành khúc binh đoàn gang thép, Rạch Gầm dậy sóng của Lưu Hữu Phước; Ngọn đèn đứng gác (thơ Chính Hữu) của Hoàng Hiệp; Đường ra mặt trận (thơ Chính Hữu) của Huy Du, Bài ca thanh niên miền Nam thành đồng của Hoàng Việt; Yêu biết mấy những con đường của Phạm Tuyên; Cô gái mở đường của Xuân Giao; Về đây với đường tàu của Lưu Cầu; Người Châu Yên em bắn máy bay của Trọng Loan; Những cô gái quan họ của Phó Đức Phương; Bài ca Hà Nội của Vũ Thanh; Biển gọi của Nguyễn Kim; Tiếng hát pháo binh của Huy Du; Vàm Cỏ Đông (thơ Hoài Vũ) của Trương Quang Lục, v.v…
Chiến tranh càng lan rộng, bài hát hay càng nhiều. Năm 1966, nhiều “bài ca không bao giờ quên” đã ra đời: Múa hát mừng chiến công của Nguyễn Văn Tý; Hành khúc binh đoàn gang thép, Rạch Gầm dậy sóng của Lưu Hữu Phước; Ngọn đèn đứng gác (thơ Chính Hữu) của Hoàng Hiệp; Đường ra mặt trận (thơ Chính Hữu) của Huy Du, Bài ca thanh niên miền Nam thành đồng của Hoàng Việt; Yêu biết mấy những con đường của Phạm Tuyên; Cô gái mở đường của Xuân Giao; Về đây với đường tàu của Lưu Cầu; Người Châu Yên em bắn máy bay của Trọng Loan; Những cô gái quan họ của Phó Đức Phương; Bài ca Hà Nội của Vũ Thanh; Biển gọi của Nguyễn Kim; Tiếng hát pháo binh của Huy Du; Vàm Cỏ Đông (thơ Hoài Vũ) của Trương Quang Lục, v.v…
Sang năm 1967, có thêm nhiều ca khúc nổi tiếng của các nhạc
sĩ nổi tiếng: Chiếc gậy Trường Sơn của Phạm Tuyên; Tiếng đàn Ta
Lư, Ơi dòng suối La La! của Huy Thục; Tiếng chày trên sóc Bom
Bo của Xuân Hồng; Bài ca năm tấn của Nguyễn Văn Tý; Tải đạn
ra chiến trường của Thanh Anh; Quân reo quê mẹ Quảng Trị anh
hùng của Trọng Loan; Rừng xanh vang tiếng Ta Lư của Phương Nam; Tiếng
nói Hà Nội (thơ Cảnh Trà) của Văn An; Cả nước hướng về Hà Nội của
Trọng Bằng, v.v...
Bước ngoặt mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ là cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Chiến dịch đã mang lại cho
quân và dân Việt Nam một xung lực mới, một khả năng mới và củng cố niềm tin vững
chắc vào thắng lợi cuối cùng ngay trong những ngày tháng cam go, ác liệt nhất.
Sự kiện này được các nhạc sĩ ghi lại bằng những ca khúc rất thời sự kịp
thời mà rất có gía trị về nghệ thuật - tư tưởng, trở thành những bài ca
truyền thống cách mạng sau này: Bão nổi lên rồi của Trọng Bằng; Chào
anh giải phóng quân, chào mùa xuân giải phóng, Tiếng còng giải phóng, tiếng
còng chiến thắng của Hoàng Vân; Sài Gòn quật khởi của Hồ Bắc; Cô
gái Sài Gòn đi tải đạn của Lư Nhất Vũ; Nổi lửa lên em (thơ Giang
Lam) của Huy Du; Đất quê ta mênh mông (thơ Bùi Minh Quốc) của Hoàng
Hiệp; Tây Nguyên mừng đón thơ Bác của Doãn Nho; Bài ca đường
9 của Huy Du; Bài ca thành Huế của Đào Việt Hưng; Bài ca
người nữ tự vệ Sài Gòn của Phạm Minh Tuấn; Người Đà Nẵng của
Phan Ngọc; Đưa anh đi hái măng rừng của Hoàng Tạo; Anh ở đầu
sông em cuối sông của Phan Huỳnh Điểu và Chia tay hoàng hôn (thơ
Hoài Vũ), một tình ca bất hủ của Thuận Yến,…
Những năm kế tiếp, chiến trường trở nên ác liệt hơn, ca khúc
càng hùng tráng hơn và đi sâu vào lòng người hơn. Chỉ kể ra vài bản hùng
ca trong từng năm này đã trở thành bất tử trong lòng người dân Việt Nam. Năm
1969 là: Tiến lên chiến sĩ đồng bào (thơ Hồ Chí Minh) của Huy Thục; Vui
mở đường của Đỗ Nhuận; Theo lời Bác gọi (lời Lê Kỳ Vân) của Nguyễn
Xuân Khoát…
Năm 1970 là Dáng đứng Việt Nam (thơ Lê Anh
Xuân); Trên đỉnh Trường Sơn ta hát của Huy Du; Tiếng hát
những đêm không ngủ của Phạm Tuyên; Bài ca phụ nữ Việt Nam, Huyền
diệu của Nguyễn Văn Tý; Như hoa hướng dương (thơ Hải Như) của Tô
Vũ; Thành phố hoa phượng đỏ (lời Hải Như) của Lương Vĩnh; Bến cảng
quê hương tôi của Hồ Bắc; Bác cùng chúng cháu hành quân của Huy
Thục; Cái dốc nó cao của Nguyễn Trọng Tạo,…
Rồi đến năm 1971 là: Tiến lên thanh niên thế hệ Hồ Chí
Minh của Văn Ký; Cùng hành quân giữa mùa xuân của Cẩm La
(Hoàng Hà); Đi tới những chân trời của Xuân Giao; Bài ca đường 9 (thơ
Xuân Sách) của Huy Du; Người con gái sông La (thơ Phương Thúy), Năm
anh em trên một chiếc xe tăng (thơ Hữu Thỉnh) của Doãn Nho; Màu áo
chú bộ đội, Em đi làm tín dụng của Nguyễn Văn Tý, v.v…
Đỉnh cao của cuộc chiến là Chiến dịch Xuân - Hè
1972 (Việt Nam Cộng hòa gọi là Mùa hè đỏ lửa, Mỹ gọi
là Easter Offensive) và sau đó là Chiến dịch Linebacker I (từ tháng 5
- 10.1972) và Chiến dịch Linebacker II (từ 18
- 30.12.1972) của Mỹ cho không quân và hải quân, phong tỏa, bắn phá,
oanh tạc không giới hạn toàn miền Bắc với ý đồ hủy diệt hòng làm tê liệt ý chí
chiến đấu và khả năng chi viện cho Miền Nam, mà thắng lợi hoàn toàn thuộc về Việt
Nam: Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”. Trong năm này,
1972, nhiều khúc ca vui vang lên ở cả hai miền Nam, Bắc hát mừng chiến thắng: Ca
hát mừng chiến công của Nguyễn Văn Tý; Hà Nội niềm tin yêu và hy vọng của
Phan Nhân; Hà Nội Điện Biên Phủ, Hà Nội những đêm không ngủ của Phạm
Tuyên; Cả nước hướng về Hà Nội của Trọng Bằng; Từ mặt đất thân
yêu của Tô Hải; Hành khúc ngày và đêm của Phan Huỳnh Điểu; Ta
tự hào lên đi, ôi Việt Nam (thơ Hoàng Trung Thông) của Chu Minh; Biết
mấy tự hào Tô quốc ta của Phạm Đình Sáu; Tây Nguyên chiến thắng của
Doãn Nho; Xóm làng theo bước chân anh của Trần Kiết Tường; Những
bước chân chiến thắng của Tân Huyền; Rừng núi Tây Nguyên chiến công
hoa nở của Chu Minh; Xe qua cầu Tùng Cốc của Nguyễn Trọng Tạo,
v.v…
Thắng lợi của Chiến dịch Xuân - Hè 1972 và Trận
Điện Biên Phủ trên không 1972 đã đưa đến Hiệp định Paris 27.01.1973 với
Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam được quốc tế chính thức công nhận và kiểm
soát hầu hết vùng nông thôn Miền Nam. Niềm vui quá lớn nên tràn đầy và kéo dài
suốt hai năm trong âm nhạc. Năm 1973 là: Cả Hà Nội hành quân của Lê
Lôi; Gẩy đàn lên hởi người bạn Mỹ, Thấy chăng anh cảng của chúng tôi của
Phạm Tuyên; Ta ra trận hôm nay của Văn An; Lời ru trên nương (thơ
Nguyễn Khoa Điềm) của Trần Hoàn; Em ở nơi đâu của Phan Nhân; Tiếng
đàn bầu (lời Lữ Giang) của Nguyễn Đình Phúc; Tôi lắng nghe sông Đà gọi
Thác Bà của Nguyễn Đình Tấn; Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa của
Nguyễn Văn Tý; Giải phóng quân, Nhớ của Phan Huỳnh Điểu, Tiếng
hát trên quê hương giải phóng của Phạm Đình
Sáu...
Năm sau, 1974, niềm vui lớn lắng đọng lại trong hành khúc và
lắng sâu trong cả tình ca: Chiến sĩ vô danh (lời Dân Thanh) của Trần
Kiết Tường; Tiếng người vang mãi trên đường hành quân của Phan Khắc
Vinh; Quảng Ngãi đất mẹ anh hùng của Trương Quang Lục; Chú lính đường
dây của Phạm Huy Thưởng; Tình em biển cả của Nguyễn Đức
Toàn; Đêm nay anh ở đâu của Phan Huỳnh Điểu; Đất nước Bác Hồ và
cuộc hành quân không nghỉ, tổ khúc ba bài của Nguyễn Trọng Tạo,
v.v…
Điểm đỉnh của ca khúc giai đoạn này là năm 1975. Trước, trong
và sau thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh, với một dàn hợp ca hát mừng đất
nước thống nhất: Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng của Phạm
Tuyên; Đất nước trọn niềm vui của Hoàng Hà; Trên đường hạnh phúc (thơ
Tạ Hữu Yên) của Vân An; Tiếng hát từ thành phố mang tên Người (thơ
Đăng Trung) của Cao Bách Việt; Bài ca thống nhất của Võ Văn Dị; Ngày
thống nhất Bác đi thăm của Phạm Tuyên; Mùa Xuân trên thành phố Hồ Chí
Minh của Xuân Hồng; Tổ quốc chưa đẹp thế bao giờ (thơ Tố Hữu) của
Nguyễn Văn Thương; Chiều nay biển hát của Hồng Đăng, liên khúc
hoành tráng Đường tàu thống nhất của Nguyễn Trọng Tạo và hai ca
khúc hợp của Nguyễn Văn Thương: Dân ta đánh giặc anh hùng, Tiến lên toàn
thắng ắt về ta, v.v…
Nhiều nhạc sĩ miền Nam tập kết ra Bắc rồi ở lại công tác hoặc
trở lại miền Nam, hoặc được phân công ở lại miền Nam rồi vào chiến khu đã
có đóng góp lớn cho ca khúc cách mạng Việt Nam thời chống Mỹ bởi những ca khúc
được công chúng say mê và nhớ đời. Và thời điểm gay gắt nhất nào của đất nước
cũng xuất hiện những sáng tác giá trị của họ: Phan Huỳnh Điểu, Ca Lê Thuần,
Xuân Hồng, Hoàng Hiệp, Trần Kiết Tường, Nguyễn Văn Tý, Lư Nhất
Vũ, Nguyễn Văn Thương, Trần Hoàn, Lưu Hữu Phước, Thuận Yến, Phạm
Minh Tuấn, Tôn Thất Lập, Trương Quang Lục, Lưu Cầu… Từ những năm đầu thập
niên 60, nhiều người trong họ vào chiến trường miền Nam sáng tác những
bài ca để đời với bút hiệu mới: Phan Huỳnh Điểu với bút danh Huy Quang, Trần
Hoàn với Hồ Thuận An, Hoàng Việt với Lê Quỳnh, Lưu Hữu Phước ký
tên Lưu Nguyễn - Long Hưng hoặc Huỳnh Minh Siêng đã viết nhiều ca khúc nổi tiếng,
đặc biệt bài Giải phóng Miền Nam (1960) mang đậm dấu ấn lịch sử.
Liên quan đến đề tài Chống Mỹ cứu nước và Xây dựng đất nước,
các nhạc sĩ viết nhiều ca khúc về đất nước và tâm hồn Việt Nam, trong đó
có một số ca khúc bất hủ như Quảng Bình quê ta ơi (1964) của Hoàng Vân; Tiếng hát sông Lam (1965) của Đinh Quang Hợp; Vàm Cỏ
Ðông của Trương Quang Lục; Tây Nguyên bất khuất của Văn
Ký; Bài ca Hà Nội của Vũ Thanh; Một khúc tâm tình của người Hà
Tĩnh (1974) của Nguyễn Văn Tý; Những cô gái đồng bằng sông Cửu
Long của Huỳnh Thơ; Cô gái Sài Gòn đi tải đạn của Lư
Nhất Vũ; Hà Nội - Niềm tin và hy vọng (1972) của Phan Nhân,
v.v…
Cũng do hoàn cảnh chiến tranh, một số nhạc sĩ có dịp tiếp xúc
với đồng bào các dân tộc thiểu số và đã viết các ca khúc nổi tiếng về đề tài
này, như Tiếng hát ban mai (1964-Thanh Anh); Tiếng cồng Plây
Gi-răng (1965-Hồ Bắc); Tiếng đàn ta lư (Huy Thục); Cô
gái cầm đàn lên đỉnh núi (Văn Ký); Bản Mèo đổi mới (Trịnh Lai); Em
là hoa Pơ Lang (1966-Ðức Minh); Tiếng cồng giải phóng, tiếng cồng
chiến thắng (1968-Hoàng Vân); Cánh chim báo tin vui (1969 -
Đàm Thanh); Bóng cây Kơ-nia (1971 - nhạc Phan Huỳnh Điểu - thơ Ngọc
Anh phỏng dịch dân ca Hơ-rê); Tháng ba Tây Nguyên (1974 - Văn Thắng -
Thân Như Thơ); Sông Dakkrong mùa xuân về (1975 - Tô Hải), v.v…
Chiến trường ác liệt, cam go nhất lúc bấy giờ là Trường Sơn,
nơi quân dân “xẻ dọc đi cứu nước” là đề tài cho nhiều ca khúc
lãng mạn cách mạng, tráng lệ “vượt thời gian”. Có thể kể ra không dưới 10 ca
khúc tiêu biểu nhất về đề tài Trường Sơn: Đường tôi đi dài theo đất nước (1966); Bước
chân dài trên đỉnh Trường Sơn (1966 - lời Tào Mạt) của Vũ Trọng Hối; Bài
ca Trường Sơn (1967 - lời Gia Dũng); Trên đỉnh Trường Sơn ta hát (1970)
của Huy Du; Gặp nhau trên đỉnh Trường Sơn (1970) của Hoàng Hà; Trường
Sơn Đông Trường Sơn Tây (1971 - thơ Phạm Tiến Duật) của Hoàng Hiệp; Đường
Trường Sơn xe anh qua (1972) của Văn Dung; Xe ta đi trong đêm Trường
Sơn (1972); Đêm Trường Sơn nhớ Bác (1975 - lời Nguyễn
Trung Thu) của Trần Chung; Lá đỏ (1975 - thơ Nguyễn Đình Thi) của
Hoàng Hiệp, v.v…
Tinh thần lạc quan cách mạng thấm tràn vào ca khúc cách mạng.
Nhiều bài hát hài hước, sôi nổi, yêu đời xuất hiện được bộ đội và nhân dân yêu
thích. Anh quân bưu của Đàm Thanh; Con cua đá của Phan Ngạn; Năm
anh em trên một chiếc xe tăng (thơ Hữu Thỉnh) của Doãn Nho; Nổi lửa
lên em của Huy Du… nằm trong loại nhạc này, trở thành những bài hát phổ biến
trong sinh hoạt, liên hoan, tiệc tùng của quân
dân.
Một đề tài nữa của ca khúc Việt Nam trong giai đoạn này là ca
ngợi hình ảnh lãnh tụ. Hình tượng Hồ Chí Minh trong ca khúc giai đoạn này được
nâng lên tầm cao hơn thông qua cảm nhận hoàn mỹ hơn của các nhạc sĩ về Người.
Có rất nhiều ca khúc chính thống: Việt Bắc nhớ Bác Hồ của Phạm
Tuyên; Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người (1962) của Trần Kiết Tường; Ðôi
dép Bác Hồ của Văn An; Nhớ ơn Hồ Chí Minh của Tô
Vũ; Lời ca dâng Bác của Trọng Loan; Trông cây lại nhớ đến
Người của Ðỗ Nhuận; Ca ngợi Hồ Chủ tịch của Văn
Cao (khác hai bài Ca ngợi Hồ Chủ tịch của Lưu Hữu Phước và của
Đỗ Nhuận viết trong giai đoạn trước); Tình Bác sáng đời ta của Lưu
Hữu Phước; Người chiến sĩ ấy (1970) của Hoàng Vân; Miền Nam nhớ
mãi ơn Người (1969 - thơ Trần Nhật Lam) của Lưu Cầu, Mỗi dòng thư Bác
sáng ngời niềm tin (1968) của Thuận Yến, v.v…
Tình khúc 1954 - 1975 ở miền Nam
Ở Miền Nam từ 1954-1975, một lớp nhạc sĩ trẻ hơn xuất hiện
với các bản tình ca mới. Khác với dòng nhạc tiền chiến thường mượn cảnh mùa
thu, mưa, sương, đêm khuya... để nói lên tình cảm của mình.
Những nhạc sĩ này có cách thể hiện trực tiếp hơn, ca từ lãng mạn vẫn là ngôn ngữ văn hóa nhưng mới mẻ hơn, trẻ trung hơn và sống động hơn, với nhiều cung bậc tình cảm hơn, khoắc khoải, nồng nàn, sâu lắng, say mê, man mác, hoài nhớ, tiếc thương... thường theo các thể điệu Slow Rock, Slow, Valse, Ballad, Boston… Gần với nhạc tiền chiến hơn, cung điệu cũng trau chuốt, nhưng khác nhạc tiền chiến là thường ít chậm hơn, biểu hiện tâm trạng cá nhân không có không gian cụ thể và có tính hiện đại hơn, và cũng xa rời nhạc cổ điển hơn so với nhạc tiền chiến, tình ca 1954-1975 là dòng nhạc được giới trí thức, trung lưu và sinh viên, học sinh (SVHS) ở miền Nam thưở ấy yêu thích.
Những nhạc sĩ này có cách thể hiện trực tiếp hơn, ca từ lãng mạn vẫn là ngôn ngữ văn hóa nhưng mới mẻ hơn, trẻ trung hơn và sống động hơn, với nhiều cung bậc tình cảm hơn, khoắc khoải, nồng nàn, sâu lắng, say mê, man mác, hoài nhớ, tiếc thương... thường theo các thể điệu Slow Rock, Slow, Valse, Ballad, Boston… Gần với nhạc tiền chiến hơn, cung điệu cũng trau chuốt, nhưng khác nhạc tiền chiến là thường ít chậm hơn, biểu hiện tâm trạng cá nhân không có không gian cụ thể và có tính hiện đại hơn, và cũng xa rời nhạc cổ điển hơn so với nhạc tiền chiến, tình ca 1954-1975 là dòng nhạc được giới trí thức, trung lưu và sinh viên, học sinh (SVHS) ở miền Nam thưở ấy yêu thích.
Giai đoạn này, bên cạnh nhạc sĩ tiền bối Phạm Duy vẫn sáng
tác đều đặn những ca khúc có giá trị nghệ thuật: Cỏ hồng, Trả lại em yêu,
Mùa thu chết, Nghìn trùng xa cách, Nha Trang ngày về…, còn xuất hiện
thêm những nhạc sĩ với phong cách riêng: Lê Uyên - Phương, Ngô Thụy
Miên, Trịnh Công Sơn, Hoàng Nguyên, Nguyễn Ánh 9,
Khánh Băng, Thanh Bình, Thanh Trang, Nguyễn Phú
Yên, Trần Trịnh, Nguyễn Văn Đông, Phạm Trọng Cầu, Từ Công
Phụng, Văn Phụng, Trần Quang Lộc, Vũ Thành An, Lê Hựu Hà, Cung Tiến, Lê
Trọng Nguyễn, Phạm Mạnh Cương, Đức Huy, Phạm Đình Chương, Quốc Dũng,
Hoàng Trọng, Nguyễn Hữu Thiết, Vũ Đức Sao Biển,
v.v…
Không thể kể hết những tình khúc nổi tiếng đương thời: Các Bài không
tên của Vũ Thành An; Tình lỡ, Đừng đến rồi đi, Tiếc một người của
Thanh Bình; Thuyền em đi trong đêm, Ngàn năm vẫn lạ, Tiếng chim
rừng hát mừng sông núi, Cô giáo trẻ trên bản làng xa của Nguyễn Phú
Yên; Chiều nay không có em, Niệm khúc cuối, Mắt biếc, Dấu
tình sầu, Bản tình cuối của Ngô Thụy Miên; Bài ca hạnh
ngộ, Còn nắng trên đồi, Dạ khúc cho tình nhân, Lời gọi chân mây, Vũng
lầy của chúng ta, Uống nước bên bờ suối, Cho lần cuối của Lê Uyên -
Phương; Phiên khúc mùa đông, Huyền thoại người con gái của Lê Hựu Hà; Suối
lệ xanh của Phạm Mạnh Cương; Bây giờ tháng mấy, Lời cuối, Giọt
lệ cho ngàn sau, Mắt lệ cho người, Tuổi xa người, Bài cho em của
Từ Công Phụng; Nụ cười thơ ngây, Nếu một ngày, Vọng ngày xanh của
Khánh Băng…. Đặc biệt là Vọng ngày xanh viết năm 1956 được nhiều ca
sĩ nổi tiếng đương thời như Minh Trang, Lệ Thu, Thái
Thanh... trình bày, trong đó thành công hơn cả phải kể đến danh ca Thái
Thanh. Bài hát này được nhà văn nữ nổi tiếng Françoise Sagan viết
lời Pháp và nhờ vậy, ông được Hội Tác quyền Thế giới mời
gia nhập…
Nhiều tình khúc nổi tiếng khác rất được ưa chuộng vào thời
gian này như Thanh Trang với Huyền, Tình khúc mùa đông, Duyên thề;
Hoàng Nguyên với Cho người tình lỡ; Tà áo tím; Quốc Dũng với Đường
xưa, Cơn gió thoảng; Nguyễn Ánh 9 với Không, Buồn ơi,
xin chào mi; Văn Phụng với Yêu, Tình, Suối tóc, Tôi
đi giữa hoàng hôn; Vũ Đức Sao Biển với Thu hát cho người; Y
Vân với Buồn, Ngăn cách, Ảo ảnh, Những bước chân âm thầm; Đức
Huy với Bay đi cánh chim biển, Cơn mưa phùn; Anh Bằng với Nỗi
lòng người đi; Nguyễn Hiền với Mái tóc dạ hương; Đan
Thọ với Chiều tím; Trần Trịnh với Lệ đá; Tuấn
Khanh với Hoa xoan bên thềm cũ, Chiếc lá cuối cùng; Nguyễn
Văn Đông với Hải ngoại thương ca. Phạm Trọng Cầu khi
du học ở nhạc viện Paris (Conser - vatoire Supérieur
de Musique de Paris) cũng đã viết Mùa thu không trở lại để
đời…
Hoàng Trọng thành công với các bài hát theo điệu tango: Ngỡ
ngàng, Lạnh lùng, Tiễn bước sang ngang…, đặc biệt
bài Ngàn thu áo tím (lời Vĩnh Phúc) điệu valse luôn được công
chúng trước nay ưa thích.
Cung Tiến nối tiếp dòng nhạc lãng mạn tiền chiến với những
tình khúc bất tử: Hương xưa, Hương xuân, Mùa hoa nở, Đêm hoa đăng, Mắt
biếc (khác bài Mắt biếc của Ngô Thụy Miên)…
Đặc biệt, Nguyễn Hữu Thiết với những tình
khúc đậm đà màu sắc âm nhạc dân gian, dân tộc, như: Giọt mưa chiều
hay nước mắt em, Lời nguyền cho một tình yêu, Chỉ có tình yêu, Cánh
hoa xuân, Mưa chiều nhớ nhau, Hoa nhớ thương ai,…
Phạm Duy, Trần Quang Lộc, Phạm Đình Chương, Vũ
Thành An, Từ Công Phụng, Trần Trịnh, Cung Tiến, Ngô Thụy
Miên… có nhiều tình khúc phổ thơ nổi tiếng. Với Phạm Duy
là: Còn chút gì để nhớ (thơ Vũ Hữu Định), Ngậm ngùi (thơ Huy
Cận), Áo anh sứt chỉ đường tà (thơ Hữu Loan), Tiếng sáo
Thiên thai (1959 - thơ Thế Lữ), Tiễn em, Mùa thu Paris (thơ Cung
Trầm Tưởng), Tỳ bà (thơ Bích Khê), Vần thơ sầu rụng (thơ
Lưu Trọng Lư), Tình cầm (thơ Hoàng Cầm); Em hiền như
masoeur, Thà như giọt mưa, Hai năm tình lận đận (thơ Nguyễn
Tất Nhiên), Ngày xưa Hoàng Thị, Đưa em tìm động hoa vàng (thơ Phạm
Thiên Thư), Chuyện tình buồn và 12 tháng anh đi (thơ Phạm Văn
Bình), Màu thời gian (1971- thơ Đoàn Phú Tứ)… Với Trần Quang Lộc
là: Về đây nghe em (thơ A Khuê), Em theo đoàn lưu dân (thơ
Phạm Hòa Việt), Có phải em mùa thu Hà Nội (thơ Tô Như
Châu)… Phạm Đình Chương là: Nửa hồn thương đau (thơ Thanh
Tâm Tuyền), Người đi qua đời tôi (thơ Trần Dạ Từ), Đôi mắt
người Sơn Tây (thơ Quang Dũng)… Vũ Thành An là Em
đến thăm anh đêm 30 và Tình khúc thứ nhất (thơ Nguyễn Đình Toàn)…
Từ Công Phụng là Trên ngọn tình sầu (thơ Du Tử Lê)… Trần Trịnh
là Lệ đá (thơ Hà Huyền Chi), Chiếc lá cuối cùng (thơ
Théophile Gauthier)…
Cung Tiến là: Đôi bờ (thơ Quang Dũng), Hoàng Hạc lâu (thơ Thôi Hiệu - Vũ Hoàng Chương dịch), Kẻ ở (Mai chị về - thơ Nguyễn Đình Tiên), Khói hồ bay (thơ Nguyễn Tường Giang), Nguyệt cầm (ý thơ Xuân Diệu), Thuở làm thơ yêu em (thơ Trần Dạ Từ), Vết chim bay (thơ Phạm Thiên Thư) và ba bài: Vang vang trời vào xuân, Đêm, Lệ đá xanh đều phổ thơ Thanh Tâm Tuyền…Và Ngô Thụy Miên là Tình khúc buồn (thơ Phạm Duy Quang) và nhiều ca khúc phổ từ các bài thơ nổi tiếng của Nguyên Sa: Áo Lụa Hà Đông, Paris có gì lạ không em, Tình khúc tháng sáu, Tuổi 13…
Cung Tiến là: Đôi bờ (thơ Quang Dũng), Hoàng Hạc lâu (thơ Thôi Hiệu - Vũ Hoàng Chương dịch), Kẻ ở (Mai chị về - thơ Nguyễn Đình Tiên), Khói hồ bay (thơ Nguyễn Tường Giang), Nguyệt cầm (ý thơ Xuân Diệu), Thuở làm thơ yêu em (thơ Trần Dạ Từ), Vết chim bay (thơ Phạm Thiên Thư) và ba bài: Vang vang trời vào xuân, Đêm, Lệ đá xanh đều phổ thơ Thanh Tâm Tuyền…Và Ngô Thụy Miên là Tình khúc buồn (thơ Phạm Duy Quang) và nhiều ca khúc phổ từ các bài thơ nổi tiếng của Nguyên Sa: Áo Lụa Hà Đông, Paris có gì lạ không em, Tình khúc tháng sáu, Tuổi 13…
Nổi bật nhất là Trịnh Công Sơn với hàng loạt tình
ca muôn thuở như: Tình nhớ, Tình xa, Phôi pha, Diễm
xưa, Nhìn những mùa thu đi, Hạ trắng, Biển nhớ, Cát bụi, Như cánh vạc bay, Còn
tuổi nào cho em, Tuổi đá buồn, Chiều một mình qua phố...
Các danh ca hát tình khúc giai đoạn này có: Khánh
Ly, Duy Trác, Thái Thanh, Lệ Thu, Thanh Lan, Hoàng
Oanh, cặp đôi Ngọc Cẩm - Nguyễn Hữu Thiết…
Tuy chỉ có 20 năm, nhưng giai đoạn này tại miền Nam
đã hình thành một số lượng tình khúc khổng lồ, trong đó có nhiều bản nhạc
nổi tiếng, được yêu thích và lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Nhạc vàng 1954 - 1975 ở miền Nam
Là dòng nhạc trữ tình bình dân, hình thành ở Miền Nam từ
sau 1954 với các bài hát được viết trên những giai điệu đơn giản, chậm buồn
đều đều, mang âm hưởng dân ca, nhẹ nhàng của boléro, rumba, ballade,
slow rock…, phổ biến nhất là bolero được hát bằng giọng thứ quãng âm
trung hoặc trầm chậm, ca từ bình dị, dễ nghe, dễ hiểu, chất chứa nỗi niềm
của một con người bình thường, nên dòng nhạc này đã thu hút một số lượng lớn
khán giả bình dân…
Ba đề tài chủ yếu phổ biến của “nhạc vàng” là: Tình - Lính và Quê hương, sắc thái tình cảm thường là buồn thương... và thường có giọng điệu tự sự, kể chuyện như các ca khúc: Hàn Mặc Tử (Trần Thiện Thanh), Những đồi hoa sim (Dzũng Chinh), Chuyện tình Lan và Điệp (Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng)…
Ba đề tài chủ yếu phổ biến của “nhạc vàng” là: Tình - Lính và Quê hương, sắc thái tình cảm thường là buồn thương... và thường có giọng điệu tự sự, kể chuyện như các ca khúc: Hàn Mặc Tử (Trần Thiện Thanh), Những đồi hoa sim (Dzũng Chinh), Chuyện tình Lan và Điệp (Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng)…
Ở miền Nam, nơi khai sinh và nuôi dưỡng dòng nhạc này, có khi
người ta dùng từ “nhạc sến”, hoặc tế nhị hơn thì gọi là “nhạc trữ tình bình
dân” để chỉ dòng nhạc này. Nhưng thực ra ở VN, vùng kháng chiến từ đầu thập
niên 1950 đã du nhập khái niệm "nhạc vàng" từ Trung Hoa dịch
từ "huangse yinyue" (hoàng sắc âm nhạc) là nhạc tình thời thượng lúc
đó đang phổ biến ở Thượng Hải.
Có lẽ người viết ca khúc đầu tiên theo điệu bolero là Lê
Trọng Nguyễn, Lam Phương rồi Trúc Phương. Lam Phương sáng tác Chiều
thu ấy từ 1952, lúc mới 15 tuổi, nhưng đến năm 1954 ông mới nổi danh
với hai bài Kiếp nghèo và Chuyến đò vĩ tuyến. Sau đó, trong
hơn 2 thập niên, ông viết gần 200 bài hát trữ tình được công chúng Miền Nam yêu
thích như: Thành phố buồn, Nhạc rừng khuya, Nắng đẹp miền
Nam, Bài Tango cho em, Tình bơ vơ, Duyên kiếp, Tình chết
theo mùa đông, Tình cố đô, Tình đau, Tình đầu muôn thuở, Tình đẹp như mơ, Tình
mẹ, Tình người viễn xứ, Tình nghĩa đôi mình chỉ thế thôi, Tình như mây khói,
Tình vẫn chưa yên, Tình thiên thu…
Còn Lê Trọng Nguyễn thành công ngay từ ca khúc bolero đầu
tiên là Nắng chiều cũng viết năm 1952, là một bản nhạc boléro
“kinh điển”, được viết với cung trưởng trẻ trung, buồn mà không bi lụy, rất hiếm
gặp trong thời kỳ đầu của dòng nhạc boléro và cả sau này. Nắng chiều còn
được biết đến ở Hồng Kông, Đài Loan và Nhật Bản. Ông
sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm của ông đều có giá trị nghệ thuật
cao, giai điệu và ca từ trau chuốt, hình ảnh đẹp như tranh: Chiều bên giáo
đường, Lá rơi bên thềm, Sóng Đà Giang, Sao đêm… thường được xếp vào dòng nhạc
tình khúc.
Trúc Phương cũng được biết đến trễ hơn, với hai sáng tác đầu
tay là Tình thương mái lá và Tình thắm duyên quê viết năm
1957, kế đến là Chiều làng em (1958) và Đò chiều (1959)...
đều được nhiều người thích. Bản nhạc nổi tiếng nhất của ông là Tàu
đêm năm cũ viết vào đầu thập niên 1960, Sau đó, là khoảng
70 ca khúc được phổ biến rộng rãi: Nửa đêm ngoài phố, Buồn trong kỷ
niệm, Thói đời, Hai lối mộng, Kẻ ở miền xa, Đêm gác trọ,
Đêm tâm sự, Đêm trên vùng đất lạ, Đêm Việt Nam, Đôi mắt người xưa, Đường chiều
cao nguyên, Hai chuyến tàu đêm, Hình bóng cũ…
Còn Hoàng Thi Thơ, người được xem là “khơi dòng Việt hóa
bolero”, sau Gạo trắng trăng thanh (1954), tiếp tục viết nhiều
tình ca quê hương nổi tiếng như Đường xưa lối cũ (1955), Duyên
quê, Ai nhớ chăng ai, Trăng rụng xuống cầu (1956)… Sau đó, dưới nhiều
bút danh như: Hoàng Thi Thơ, Tôn Nữ Trà Mi, Tôn Nữ Diễm Hồng, Bích
Khê, Triệu Phong, Tố Tâm…, ông viết rất nhiều bản nhạc vàng và tình khúc đậm
chất dân ca rất được phổ biến và ưa chuộng.
Nhưng người quảng bá tích cực nhất cho dòng nhạc này là nhạc
sĩ Phó Quốc Lân, tác giả các ca khúc: Xuân ly hương, Hương lúa miền
Nam, Mong ngày anh về, Vui khúc tương phùng... Năm 1955, ông tái lập
ban nhạc Lửa Hồng và sau đó cho ra
mắt ban Nhạc Vàng thuộc đài phát thanh rồi đài truyền hình Sài
Gòn để trình tấu định kỳ. Ngoài ra, các nhạc sĩ như Anh Bằng lập
ra các hãng Hương Giang, Dạ Lan; Ngọc Chánh lập ra hãng Shotguns để
phát hành băng và đĩa nhạc với nhãn hiệu "nhạc vàng”.
Trong hồi ký của mình, Phạm Duy viết: "Những bài hát
thông thường và chỉ được coi là nhạc thương phẩm - mệnh danh là nhạc vàng
- với những tình cảm dễ dãi phù hợp với tuổi choai choai, với em gái hậu phương
và lính đa tình, tuy không được coi trọng nhưng lại rất cần thiết cho vài
tầng lớp xã hội trong thời chiến".
Ngoài các tên tuổi trên, nhạc sĩ tiêu biểu cho dòng nhạc này
là: Trần Thiện Thanh, Châu Kỳ, Duy Khánh, Anh Chương, Đỗ Lễ, Hoài
Linh, Hoài An, Phạm Thế Mỹ, Mạnh Phát, Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh
Bằng, Hàn Châu, Y Vân, Vinh Sử, Thanh Sơn, Anh Việt
Thu, Anh Việt Thanh, Trịnh Lâm Ngân (bút hiệu ghép của Trần Trịnh,
Lâm Đệ, Nhật Ngân), v.v...
Giọng ca tiêu biểu của nhạc vàng: Duy Khánh, Chế
Linh, Thanh Thúy, Thanh Tuyền, Giao Linh, Hoàng Oanh, Anh
Chương, Anh Bằng, Nhật Trường, Trung Chỉnh, Giang Tử, Minh
Hiếu, Trúc Mai, Hà Thanh, Ngọc Minh, Phương Dung, Anh
Khoa, Phương Hồng Quế, Sơn Ca, Băng Châu, Thái Châu, Nhật
Trường (tức NS Trần Thiện Thanh)... Cùng với các nhạc sĩ, các ca sĩ này cũng
góp phần định hình dòng nhạc vàng với cách hát khác hẳn các ca sĩ của nhạc tiền
chiến hay tình khúc 1954-1975.
Hai dòng nhạc trữ tình - tình khúc và nhạc
vàng 1954-1975 “đối cực” về thính giả, nhưng có khi “đồng nhất” về tác giả. Một
số NS chuyên sáng tác nhạc vàng nhưng cũng có những ca khúc của họ được xếp vào
tình khúc, như một số bài hát của các NS Hoàng Thi Thơ, Y
Vân, Nguyễn Văn Đông, Phạm Thế Mỹ, Song Ngọc,
Lam Phương, Anh Bằng,... Ngược lại, một số NS trước đã nổi tiếng với tình
khúc lại thành công trong nhiều bản nhạc vàng. Như Phạm Mạnh Cương của tình ca Thu
ca (1953) bất hủ, sau nầy viết nhiều bản nhạc vàng được yêu thích: Tình
mùa phượng thắm (1961), Tháng bảy mưa ngâu (1964)… Hoặc Trần Trịnh
của tình khúc Lệ đá nổi tiếng đã viết nhạc vàng cùng Nhật Ngân trong
bút hiệu chung Trịnh Lâm Ngân được phổ biến rộng rãi: Mùa xuân của mẹ,
Xuân này con không về…
Đề tài nhạc vàng sẽ trở lại nhiều lần trong chuyên đề này ở
các giai đoạn âm nhạc khác, do sự tồn tại lâu dài của nó trong tầng lớp công
chúng bình dân nhiều thế hệ.
Nhạc trẻ 1960 - 1975 ở Miền Nam
Vào cuối thập niên 1950, nhạc kích động châu Âu và Mỹ bắt
đầu thâm nhập thị trường miền Nam. Đầu những năm 1960 thì nhạc trẻ (còn gọi
là nhạc xanh) trở thành một hiện tượng của âm nhạc Việt Nam, đó là
dòng “âm nhạc trẻ trung, tươi mới, tự do”, "trẻ" cả về
âm nhạc, nhạc sĩ (trừ Phạm Duy), nghệ sĩ biểu diễn lẫn công chúng.
Thực tế, nhạc trẻ bao gồm âm nhạc từ loại pop/rock nhẹ nhàng của Bread và The Carpenters, cho đến những bài hát yéyé của Pháp, và rock nặng (heavy rock) của Mỹ. Gọi là nhạc trẻ cũng để phân biệt với nhạc tiền chiến, nhạc vàng, tình khúc..., dù rằng nhiều bản nhạc trẻ của Phạm Duy, Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang, Khánh Băng... cũng được xếp vào dòng tình khúc, được cả giới trẻ lẫn giới trung lưu, trí thức ở Miền Nam thuở ấy say mê.
Thực tế, nhạc trẻ bao gồm âm nhạc từ loại pop/rock nhẹ nhàng của Bread và The Carpenters, cho đến những bài hát yéyé của Pháp, và rock nặng (heavy rock) của Mỹ. Gọi là nhạc trẻ cũng để phân biệt với nhạc tiền chiến, nhạc vàng, tình khúc..., dù rằng nhiều bản nhạc trẻ của Phạm Duy, Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang, Khánh Băng... cũng được xếp vào dòng tình khúc, được cả giới trẻ lẫn giới trung lưu, trí thức ở Miền Nam thuở ấy say mê.
Bắt đầu là nhiều bản nhạc ngoại quốc nổi tiếng được các nhạc
sĩ đặt lời Việt rất thành công và có những ca khúc để đời.
Mở đầu cho trào lưu “Việt hóa” các ca khúc Âu - Mỹ thời ấy có thể nói đến nhạc
sĩ Vũ Xuân Hùng, ông đã chuyển soạn lời Việt cho các ca khúc được nhiều người
yêu mến như: Búp bê không tình yêu (Poupée de cire, poupée de son), Gõ cửa
ba tiếng (Knock three times), Chuyện phim buồn (Sad movies), Lãng du
(L’Avventura), Anh thì không (Toi jamais), v.v... Sau đó nhiều nhạc sĩ
khác, nhiều ban nhạc, cũng đã soạn lời Việt cho nhiều ca khúc ngoại quốc khác: Phạm
Duy, Quốc Dũng, Trường Hải, Jo Marcel, Kỳ Phát, Lữ Liên, Khúc Lan,
Nam Lộc, Nguyễn Duy Biên, Tùng Giang, trong đó có cả nhà báo Trường Kỳ (cột
chèo với Vũ Xuân Hùng), v.v...
Nhạc sĩ Nam Lộc "Việt hóa" nhiều bản nhạc ngoại quốc
thịnh hành đương thời bằng cách đặt lời tiếng Việt: Trưng Vương khung cửa
mùa thu (Tell laura i love her), Mây lang thang (The cowboy's
work is never done), Dĩ vãng buồn (I’ll never fall in love again), Tình ca cho
em (Good bye to love), Như mùa thu lá bay (Ben), Chỉ là giấc
mơ qua (Yellow Bird), Một thời để yêu (Les amoureux qui passent), Phút bên em
(L’Amour avec toi), v.v...
Thành công hơn cả là Phạm Duy, với đa phần là nhạc
Pháp, với giọng hát bằng song ngữ điêu luyện của ca sĩ Thanh Lan, đã gây được ảnh
hưởng khá mạnh mẽ trong giới trẻ: Khi xưa ta bé (Bang bang), Tình cho
không biếu không (L'amour c'es pour rien), Hỡi người tình lara (Dr. Zhivago), Chuyện
tình (Love story), Người yêu nếu ra đi (If you go away), Cuộc tình tàn (Je
sais), Himalaya, Ngày tân hôn (The wedding), Em đẹp nhất đêm nay (La plus belle
pour aller danser), Những nụ tình xanh (Tous les garcons et toutes les
filles), Viễn du trong tưởng tượng (En partant), Trong nắng trong gió (Dans le
soleil et dans le vent), Nắng đã tắt (Il est mort le soleil), Ôi giàn thiên lý
đã xa (Chèvrefeuille que tu es loin), Tình yêu mùa đông (J'aime bien l'hiver),
Chàng (Lui), Nàng (Elle etait belle), Chỉ cần một giọt lệ (Rien qu'une larme),
Tiễn em nơi phi trường (Adieu jolie candy), Gọi tên người yêu (Aline), v.v…
Sau đó, không chỉ dừng lại ở việc hát nhạc ngoại quốc, nhiều nhạc sĩ tự sáng tác các bản nhạc trẻ với tiết điệu nhanh và lạ, lời ca dễ hiểu, gần gũi. Những người đầu tiên có thể kể tới là Phạm Duy, Khánh Băng, sau đó là các nhạc sĩ khác như Quốc Dũng, Lê Hựu Hà, Tùng Giang, Nguyễn Trung Cang, Ngọc Chánh, Jo Marcel, Trường Kỳ, v.v …
Sau đó, không chỉ dừng lại ở việc hát nhạc ngoại quốc, nhiều nhạc sĩ tự sáng tác các bản nhạc trẻ với tiết điệu nhanh và lạ, lời ca dễ hiểu, gần gũi. Những người đầu tiên có thể kể tới là Phạm Duy, Khánh Băng, sau đó là các nhạc sĩ khác như Quốc Dũng, Lê Hựu Hà, Tùng Giang, Nguyễn Trung Cang, Ngọc Chánh, Jo Marcel, Trường Kỳ, v.v …
Từ giữa thập niên 60, nhiều ban nhạc trẻ được thành lập,
như Les Fanatics của Công Thành, Spotlights của Tuấn Ngọc,
Les Vampires của Đức Huy, và nhạc sĩ Lê Hựu Hà với nhiều ban nhạc
trẻ nổi tiếng: Hải Âu (1965), Phượng Hoàng (cộng tác với nhạc
sĩ Nguyễn Trung Cang và ca sĩ Evis Phương - 1970) và sau đó là Mây
Trắng. Ông còn viết nhiều ca khúc nhạc trẻ rất được ưa chuộng như: Tôi muốn, Lời
người điên, Hãy nhìn xuống chân, Bài ca tuổi trẻ, Yêu người yêu
đời, Hãy ngước mặt nhìn đời, Đôi khi ta muốn khóc...
Nhưng trước đó, khoảng năm 1962, Khánh Băng đã
viết rất nhiều ca khúc có tiết tấu nhanh, sôi động, gần như thể loại nhạc
kích động sau nầy, được coi là những bài nhạc trẻ đầu tiên ở Việt
Nam: Sầu đông, Có nhớ đêm nào, Tiếng mưa rơi..., đặc biệt
bài Sầu đông có thêm lời tiếng Pháp và tiếng Anh, trong đó lời
tiếng Pháp do chính ông viết.
Tới năm 1971, Đại hội nhạc trẻ đầu tiên được tổ chức tại
sân Hoa Lư do Trường Kỳ, Tùng Giang và Nam Lộc đứng ra
chủ trì và sự hợp tác của nhạc sĩ Phạm Duy, với gần 20 ban nhạc quốc tế của
Mỹ, Phillippines và Việt Nam tham gia. Sự thành công của đại hội nhạc trẻ đầu
tiên ở Sài Gòn đã đẩy mạnh nhạc trẻ lên cao độ.
Tiếp theo đó nhiều đại nhạc hội khác được tiếp tục được tổ chức:
năm 1971 tại trường trung học Taberd với hơn 10.000 người nghe, năm 1974 tại Thảo
Cầm Viên với trên 20.000 khán giả.
Năm 1973, Phạm Duy, Ngọc Chánh và Thanh Lan đi dự Đại hội
âm nhạc quốc tế tại Tokyo, tại đây bản nhạc trẻ Tuổi biết
buồn của Phạm Duy được lọt vào chung kết.
Thuộc thế hệ nhạc sĩ đi trước từ rất lâu, nhưng Phạm Duy vẫn
được coi là người đứng đầu và có những đóng góp lớn cho phong trào nhạc trẻ với
những sáng tác nhạc trẻ Việt và đặc biệt ca khúc nhạc ngoại lời Việt của ông được
cho là nhiều nhất và thành công nhất thời bấy giờ.
Có người cũng xếp "Kích động nhạc” vào dòng nhạc
trẻ, nhưng thực chất 2 dòng nhạc nầy hoàn toàn khác nhau: "Kích động nhạc" là
loại nhạc "giật gân", sôi động như twist hay rock and roll thường
viết về đề tài người lính Việt Nam Cộng hòa, gần với nhạc tâm lý chiến hơn, chứ
không “vô tư” như nhạc trẻ mà hai ca sĩ nổi tiềng trở thành cặp bài
trùng của loại nhạc nầy là Hùng Cường - Mai Lệ Huyền.
Nhạc du ca 1966 - 1975 ở miền Nam
Nhạc du ca trong trào Du ca ra đời đúng lúc mọi người đang
đòi hỏi một nền văn nghệ sống động, thức tỉnh và mới lạ. Phong trào Du ca ra đời năm 1966 do hai nhạc sĩ Nguyễn Đức
Quang và Đinh Gia Lập thành lập, có khởi nguồn là một ban nhạc
sinh viên lúc bắt đầu hình thành chỉ có năm người: Nguyễn Đức Quang, Trần
Trọng Thào, Hoàng Kim Châu, Nguyễn Quốc Văn và Mai Thái Lĩnh (tức Hoàng Thái
Lĩnh), sau đó có thêm ca sĩ Phương Oanh và lấy tên chính thức là Ban Trầm
Ca, rồi cùng nhạc sĩ Phạm Duy lưu diễn nhiều nơ tại miền Nam Việt
Nam. Phong trào Du ca, là một đoàn thể hoạt động về văn hóa và văn nghệ phục vụ
cộng đồng, xuất hiện cùng lúc với phong trào làm công tác xã hội của sinh viên,
học sinh. Tôn chỉ của Phong trào là: "Dùng tiếng hát chung của cộng
đồng để tô điểm cho nền văn nghệ dân tộc một màu xanh đầy hy vọng, đưa mỗi người
đến gần nhau hơn để cùng lo xây đắp một quê hương tươi sáng".
Du ca quy tụ khá nhiều các nhạc sĩ tên tuổi, cũng như nhiều
nhạc sĩ trẻ xuất phát từ phong trào: Nguyễn Đức Quang, Trầm Tử Thiêng, Anh
Việt Thu, Trần Tú, Nguyễn Quyết Thắng, Phạm Duy, Ngô Mạnh
Thu, Giang Châu, Trần Đình Quân, Lý Văn Chương, Lê Quang Dũng, Nguyễn Văn
Phiên, Võ Thị Xuân Đào, Fa Thăng, Trần Trọng Thào, Hoàng Kim Châu, Nguyễn Quốc
Văn, Bùi Công Thuấn, Trần Quang Lộc, Mai Thái Lĩnh… Trong đó, ba nhạc sĩ
tiêu biểu nhất cho phong trào Du ca Việt Nam với nhiều ca khúc được phổ biến rộng
khắp là: Nguyễn Đức Quang, người sáng lập phong trào, Nguyễn Quyết Thắng và
Bùi Công Thuấn.
Những ca khúc trong phong trào du ca có mục đích kêu gọi
thanh niên hãy tự hào dân tộc, tin tưởng và hy vọng vào tương lai. Những loại
nhạc mà phong trào du ca thường sử dụng là Thanh niên ca, Thiếu nhi ca, Sinh hoạt
ca, Nhận thức ca, Sử ca, Dân ca, những bài hát phản ánh thân phận
quê hương và ca ngợi tình yêu con người, quê hương.
Nhiều bài hát của Du ca đã trở nên quen thuộc, được hát phổ
biến, thậm chí trở thành bài ca sinh hoạt trong học đường và các đoàn thể
thanh thiếu niên bấy giờ, như: Hướng đạo Việt Nam, CPS, Thanh sinh công,
Thanh niên Phụng sự Xã hội Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Thanh niên Caritas,
Thanh niên Hồng thập tự, Thiếu nhi thánh thể, Gia đình Phật tử… Có thể
kể ra những bài ca tiêu biểu có tác động lớn đối với lớp trẻ bấy giờ, ngoài những
ca khúc của Nguyễn Đức Quang, người sáng lập phong trào: Việt Nam, Việt
Nam của Phạm Duy; Đêm hồi động, Ta biết gì trên quê hương, Câu hát
tình quê, Hát gọi mặt trời lên, Lãng du ca của Trần Quang Lộc; Anh sẽ
về (thơ Khê Kinh Kha) của Nguyễn Hữu Nghĩa; Đến với quê
hương tôi, Những bước chân đi tới, Tình ca quê hương, Mãi mãi
bên nhau của Bùi Công Thuấn; Nước Việt Nam, Ta hát vang của Ngô
Mạnh Thu; Chiều trên quê hương, Tuổi trẻ chúng tôi của Giang
Châu; Hòa bình ơi! Hòa bình ơi! của Trầm Tử Thiêng; Đứa học
trò trở về, Lặng im, Nằm vắt tay lên trán, Gọi tên đất Mẹ, Quê hương
tôi của Nguyễn Quyết Thắng, v.v...
Trước năm 1975, phong trào Du ca có tác dụng sâu mạnh đối
với giới trẻ qua các đoàn, toán ca như: Du ca Con Sáo Huế, Áo Nâu, Lòng Mẹ,
Trùng Dương, Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông, Hồ Gươm, Sông Hậu, Vượt Sóng, Giao Chỉ,
Đà Nẵng, Kiên Giang, Sông Phố, Mùa Xuân, Đồng Vọng, Phù Sa, Ca đoàn
Trùng Dương, Trung Ương, Đuốc Việt, Tình Người, v.v... Họ trình diễn ở khắp nơi
ở miền Nam khi đó, trong trường học, ngoài sân cỏ, trên sân khấu, trong các
đoàn thể bạn… Khởi động phong trào hát cộng đồng, hát chung khắp mọi nơi, sau
này được lan truyền sang nhiều địa hạt và nhiều giới khác, kể cả tôn giáo.
Du ca cũng đã phát hành một số tuyển tập nhạc như: “Tuyển
tập Du ca 1, 2 và 3”, “Những bài ca khai phá”, “Ta đi trên dòng lịch sử”, “Những
điều trông thấy”, “Hát từ tim - hát bằng hơi thở”, “Những khuôn mặt Du ca”,
“Hát cho những người sống sót”, “Anh hùng ca”, “Sinh hoạt ca”… Đặc biệt, hai tập
ca khúc của người đứng đầu phong trào, NS Nguyễn Đức Quang để lại dấu ấn
không phai mờ trong nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam từ đó đến nay. Tập “Trầm
Ca” gồm 10 ca khúc cho thanh niên và thời cuộc, những thao thức lớn nhất về
con người, đất nước có các bài hát tiêu biểu: Nỗi buồn nhược tiểu, Người
anh Vĩnh Bình, Tiếng hát tự do, Chiều qua Tuy Hòa, Việt Nam quê hương ngạo nghễ…
Tập “Những bài ca khai phá” gồm trên 40 ca khúc sinh hoạt đặc biệt
cho đoàn thể, sinh viên, học sinh dùng trong các buổi họp mặt công tác xã hội,
các hoạt động đám đông, là tiếng kêu gọi tuổi trẻ đến với nhau cùng vun đắp niềm
tin và xây dựng quê hương, đất nước: Không phải là lúc, Về với mẹ
cha, Dưới ánh mặt trời, Chuyện quê ta, Hy vọng đã vươn lên, Xin chọn
nơi này làm quê hương (thơ Nguyễn Ngọc Thạch),…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét