Kỳ 1: Tân nhạc
Việt Nam và dòng nhạc Tiền Chiến
1. TÂN NHẠC VIỆT NAM
1. TÂN NHẠC VIỆT NAM
Ca khúc tân nhạc Việt Nam ra đời vào đầu thập niên 30 của thế kỷ
truớc do sự giao lưu với văn hóa phương Tây và sự hình thành một
lớp người trí thức mới. Nhưng người Việt tiếp xúc với nhạc Tây khá sớm: Đầu
tiên chính là những bài thánh ca của nhà thờ. Tiếp đó người dân được
làm quen với "nhạc nhà binh" qua các đội kèn đồng.
Tầng lớp giầu có ở thành phố được tiếp xúc với nhạc khiêu vũ, nhạc cổ điển phương Tây và người dân Việt bình thường được nghe các hãng đĩa của người Pháp như Odéon, Béka thu âm các bài hát ta theo điệu Tây. Rồi sau đó, là rất nhiều các bài hát của Pháp lời Việt như Marinella, C'est à Capri, Tant qu'il y aura des étoiles, Un jour loin de toi, Celle que j'aime éperdument, Les gars de la marine, L'Oncle de Pékin, Guitare d'amour, Créola, Signorina, Sous les ponts de Paris, Le plus beau tango du monde, Colombella...
Tầng lớp giầu có ở thành phố được tiếp xúc với nhạc khiêu vũ, nhạc cổ điển phương Tây và người dân Việt bình thường được nghe các hãng đĩa của người Pháp như Odéon, Béka thu âm các bài hát ta theo điệu Tây. Rồi sau đó, là rất nhiều các bài hát của Pháp lời Việt như Marinella, C'est à Capri, Tant qu'il y aura des étoiles, Un jour loin de toi, Celle que j'aime éperdument, Les gars de la marine, L'Oncle de Pékin, Guitare d'amour, Créola, Signorina, Sous les ponts de Paris, Le plus beau tango du monde, Colombella...
Thời ấy, các bài tân nhạc thường được đệm bằng các nhạc cụ
phương Tây: mandoline, guitare, violon, piano… Có người đặt tên
cho loại nhạc mới là "âm nhạc cải cách" (musiquerenovée).
Từ giữa thập niên 1930, nhiều nhóm thanh niên yêu âm nhạc ở
Hà Nội đã tập trung cùng sáng tác: Văn Chung, Lê Yên, Doãn Mẫn…
Tại Huế có Nguyễn Văn Thương... Tại Hải Phòng có Lê Thương… Tại
Sài Gòn có Nguyễn Văn Tuyên… Ca khúc lãng mạn, trữ tình của các nhạc sĩ nầy mở
ra một dòng nhạc gọi là Nhạc tiền chiếncòn được các nhạc sĩ tiếp tục sáng tác đến
năm 1975.
Tờ Ngày Nay của Nhất Linh, số 121 ra ngày 31
tháng 7 năm 1938 đã đăng lần đầu một bài hát tân nhạc, bài Bình minh (lời
Thế Lữ) của Nguyễn Xuân Khoát, và sau đó là các bản Một kiếp hoa của
Nguyễn Văn Tuyên, Bản đàn xuân của Lê Thương, Khúc yêu đương của Thẩm
Oánh, Đám mây hàng, Cám dỗ của Phạm Đăng Hinh, Đường
trường của Trần Quang Ngọc... ở các số tiếp theo.
Từ đầu năm 1939, nhiều ca khúc sáng tác từ trước được
các nhạc sĩ phát hành, các bản nhạc của được bán tại các hiệu sách. Tân nhạc Việt
Nam chính thức hình thành.
Nhiều băng nhạc tân thời được thành lập, trong đó những
băng đã có những ảnh hướng lớn tới tân nhạc Việt Nam như: Myosotis (Hoa
lưu ly) gồm các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Phạm Văn Nhượng,
Trần Dư, Vũ Khánh…; Tricéa gồm ba nhạc sĩ Văn Chung, Lê
Yên và Doãn Mẫn; Đồng Vọng được thành lập bởi nhạc
sĩ Hoàng Quý, gồm nhiều nhạc sĩ tên tuổi Phạm Ngữ, Đỗ Nhuận, Lưu
Hữu Phước, Văn Cao, Canh Thân và Hoàng Phủ (tức Tô Vũ);
băng Tổng Hội Sinh Viên được thành lập bởi nhạc sĩ Lưu Hữu Phước.
Cùng với Đồng Vọng, nhóm nhạc Tổng Hội Sinh Viên mở ra
dòng nhạc hùng trong tân nhạc Việt Nam với thể loại hành
khúc được tiếp nối sau nầy trong nhiều dòng nhạc. Tổng Hội Sinh Viên chú
trọng đặc biệt đến việc dùng tân nhạc trong việc đấu tranh chính trị chống Pháp và Nhật.
Lưu Hữu Phước cùng với nhóm Tổng Hội đã tung ra nhiều ca khúc giá trị
khơi dậy lòng yêu nước. Vào giai đoạn cuối, cùng với nhóm Hoàng Mai Lưu mà
Lưu Hữu Phước cũng là một sáng lập viên, nhóm Tổng Hội Sinh Viên đẩy
dòng nhạc cách mạng (nhac đỏ) Việt Nam lên cao trào với một loạt ca
khúc mới ra đời. Nhưng ca khúc được cho là bản tân nhạc đầu tiên của Việt
Nam ra đời rất sớm. Theo nhiều tư liệu, trong đó có nhận định của GS - TS âm nhạc
Trần Quang Hải và nhà nghiên cứu Dương Viết Á, trên văn bản “khai sinh”, ca
khúc tân nhạc được hình thành từ năm 1930 với bài Cùng nhau đi hồng binh theo
điệu March của tác giả Đinh Nhu, viết lúc mới 20 tuổi, khi bị tù ở
Côn Đảo (sau này được đưa vào ca khúc Hồi tưởng, chương 2 tổ khúc hợp
xướng Tổ quốc ta của NS Hoàng Vân).
Như vậy, tân nhạc Việt Nam là từ ngữ để chỉ chung 9 thập
niên âm nhạc VN hiện đại theo âm luật Tây phương phổ biến từ thập
niên 30 đến nay với nhiều giai đoạn phát triển: 1930 - 1945, 1946 - 1954,
1954 - 1975, 1975 - nay.
2. NHẠC TIỀN CHIẾN
Thực ra, thời tiền chiến (trước 1946), tồn tại 3 loại nhạc:
nhạc đỏ (nhạc cách mạng), nhạc hùng (hùng ca) và nhạc tiền
chiến (nhạc trữ tình). Nhưng người ta quen dùng cụm từ “nhạc tiền chiến” để
chỉ một dòng tân nhạc Việt Nam chiếm ưu thế trong giai đoạn nầy, mang
âm hưởng trữ tình lãng mạn với nội dung về tình yêu lứa đôi, quê hương và lời
ca giàu chất văn học xuất hiện vào nửa sau thập niên 1930, trước khi
nổ ra cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 -1954).
Về sau, khái niệm này mở rộng, bao gồm một số sáng tác trong
chiến tranh (1946 - 1954) và cả sau 1954 đối với một số nhạc phẩm ở
miền Nam có phong cách trữ tình lãng mạn và lời ca giàu chất văn học... như
dòng nhạc tiền chiến 1930 - 1945.
Đặc biệt, nhiều NS kháng chiến trong thời 9 năm vẫn tiếp tục
viết các ca khúc lãng mạng và được xếp vào dòng nhạc tiền chiến như: Lời
người ra đi, Sơn nữ ca của Trần Hoàn, Ngày về của
Hoàng Giác, Thiên thai, Suối mơ của Văn Cao, Dư âm của Nguyễn
Văn Tý, Tiếng hát quay tơ của Tử Phác, Nụ cười sơn cước của Tô
Hải, Tình quê hương của Việt Lang, Bên cầu biên giới, Thiên
thai, Cây đàn bỏ quên, Tình kỹ nữ, Tiếng thu (thơ Lưu Trọng
Lư) của Phạm Duy, Đoàn Chuẩn với Ánh trăng mùa thu(1947 - ca khúc đầu
tay), Tình nghệ sĩ (1947), Đường về Việt Bắc (1948), Lá
thư (1949)...
Cũng trong 9 năm, nhiều nhạc sĩ ở vùng đô thị cũng viết ca
khúc theo dòng nhạc tiền chiến như: Văn Giảng dưới bút danh Thông Đạt
viết Ai Về Sông Tương (1949). Võ Đức Thu với Mưa đêm thu, Nhớ
người xa vắng; Nguyễn Hữu Ba với Sám hối, Xuân xuân (1947); Văn
Phụng với Trăng sơn cước (1949 - lời Văn Khôi), Lam Phương với Chiều
thu ấy (1952 - lúc mới 15 tuổi); Lê Trọng Nguyễn với Nắng chiều (1952); Lê Hữu Mục với Hẹn một ngày về; Phạm Duy viết Đàn tôi, Nụ
tầm xuân (phổ ca dao), Tiếng
sáo thiên thai (thơ Thế Lữ), Tình ca, Tình hoài hương (1952), Thuyền
viễn xứ, Viễn du, Hẹn hò (1954); Hoàng Giác với Lỗi cung đàn, Quê
hương, Hương lúa đồng quê, Bóng ngày qua, Cô hái hoa, Quê
hương; Hùng Lân với Vườn xuân, Hận Trương Chi, Hè về, Cô gái Việt,
Mùa hợp tấu, Ca xuân hẹn ước, Luống cầy mạch sống, Nhớ rừng, Sầu lữ thứ, Tơ
vương, Xóm nghèo; Phạm Đình Chương với Khúc giao duyên, Được
mùa; Đoàn Chuẩn với Thu quyến rũ (1950), Chuyển bến (1952),Gửi gió
cho mây ngàn bay (1952), Cánh hoa duyên kiếp (hay Dạ lan
hương - 1953), Lá đổ muôn chiều (1954); Văn Phụng với Ô! Mê
ly (1948), Bóng người đi (lời Hoài Linh), Trăng sơn cước (1949-
lời Văn Khôi), Thuyền xưa bến cũ; Dương Thiệu Tước với Đêm tàn bến
Ngự (1946), Kiếp hoa, Áng mây chiều, Nhạc ngày xanh, Xuân mới,
Thuyền mơ; Hoàng Trọng với Nhạc sầu tương tư, Gió mùa xuân tới,
Dừng bước giang hồ (1953 - lời Quang Khải), Phạm Mạnh Cương với Nhạc
chiều quê, Màu thời gian (1951 - thơ Đoàn Phú Tứ), Thu ca (1953);
Cung Tiến với Hoài cảm (1952 - viết lúc mới 14 tuổi), Thu
vàng (1953 - 15 tuổi); Lâm Tuyền với Tơ sầu (ca khúc đầu
tay), Tiếng thời gian, Hình ảnh một buổi chiều, Khúc nhạc ly hương, Tiếng
thời gian (lời Dạ Chung, đạo diễn nổi tiếng Hoàng Vĩnh Lộc, anh
ruột của ông). Ở Huế, Lê Mộng Nguyên viết Mùa lúa mới, Vó ngựa
giang hồ (1948), Trăng mờ bên suối, Một chiều thương nhớ, Trọng
Thủy Mỵ Châu, Chiều thu, Mưa Huế (1949), Hoàng Hoa thôn, Bài thơ Huế,
Cô gái Huế, Về chơi thôn Vỹ Dạ, Đôi mắt nhung (1950). Qua Pháp, ông viết Mơ
Đà Lạt, Ly hương, Nhớ Huế (1950), Bên dòng sông Seine, Xuân tha
hương, Lá thư cho mẹ, Trời Âu (1951)…
Ở Miền Nam sau năm 1954, nhiều nhạc sĩ
như Hoàng Trọng, Lê Thương, Phạm Duy, Đoàn Chuẩn - Từ Linh... và
những nhạc sĩ trẻ hơn như Văn Phụng, Cung Tiến, Phạm Mạnh
Cương, Phạm Đình Chương... vẫn tiếp tục dòng nhạc tiền chiến. Có thể
kể đến những ca khúc của họ vẫn được xếp chung vào dòng nhạc tiền chiến
như: Ngànthu áo tím, Lạnh lùng, Bạn lòng, Mộng lành, Tiễn
bước sang ngang của Hoàng Trọng; Mộng dưới hoa, Trường ca Hội trùng
dương, Đôi mắt người Sơn Tây của Phạm Đình Chương; Hương
xưa, Hương xuân của Cung Tiến,
Các bản nhạc tiền chiến thường theo điệu Valse, Tango, Slow
Waltz, Boston, Blues, March, một số là các trường ca, hay phong cách bán cổ điển.
Hầu hết các ca khúc tiền chiến thuộc dòng thính phòng. Dòng nhạc tình khúc ở miền
Nam sau này cũng ảnh hưởng của dòng tiền chiến nhưng thường theo điệu Slow
Rock, Slow Ballad, Slow Fox, trong khi nhạc đỏ nhiều bài cũng ảnh hưởng
của nhạc tiền chiến về giai điệu.
Những nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc tiền chiến: Đặng
Thế Phong (mất lúc hơn 20 tuồi), Văn Cao, Lê Thương, Nguyễn Văn
Thương, Dương Thiệu Tước, Phạm Duy, Hoàng Quý, Doãn Mẫn, Nguyễn Đình
Phúc, Hoàng Trọng, Bùi Công Kỳ, Hoàng Giác, Lê Yên, Nguyễn Thiện
Tơ, Tô Vũ, Văn Chung, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Mỹ
Ca...
Các ca khúc tiêu biểu như Đêm thu (1937), Giọt
mưa thu (lúc đầu tên là Vạn Cổ sầu), Con thuyền không bến của
Đặng Thế Phong, Trên sông Hương (1936 - lúc 17 tuổi) Đêm
đông (1940), Bướm hoa (1942), Mưa thu của Nguyễn Văn
Thương, Cô hái mơ (thơ Nguyễn Bính - 1942 - ca khúc đầu
tay) của Phạm Duy, Xuân năm xưa (1936), Tiếng đàn âm thầm (1937), Trên
sông Dương Tử, Thu trên đảo Kinh Châu, Đêm tàn bến Ngự, Hòn Vọng Phu (1945) của
Lê Thương, Lời du tử (1943), Cô lái đò (thơ Nguyễn Bính) của
Nguyễn Đình Phúc, Ca khúc ban chiều, Trên thuyền hoa, Bóng ai qua thềm của
Văn Chung; Đêm trăng (1938 - ca khúc đầu tay - lúc 16 tuổi). Tiếng
đàn tôi, một trong những bản Tango VN đầu tiên, Một thuở yêu đàn của
Hoàng Trọng; Sao hoa chóng tàn, Tiếng hát đêm thu, Gió thu, Một buổi chiều
mơ, Bến yêu đương, Từ đâu tiếng tơ, Hương cố nhân, Nhạc chiều, Gió khơi xa, Biệt
ly (1939) của Doãn Mẫn, Con thuyền xa bến của Lưu Bách Thụ, Buồn
tàn thu (1939 - lúc 16 tuổi), Thiên thai (1941), Bến xuân, Về
đồng quê, Trương Chi của Văn Cao, Bẽ bàng, Xuân nghệ sĩ hành
khúc, Ngựa phi đường xa, Vườn xuân của Lê Yên, Bình minh (1938-
lời Thế Lữ), Mây trên cao, Hồn Xuân (thơ Thế Lữ), Màu thời gian (thơ Đoàn
Phú Tứ) của Nguyễn Xuân Khoát, Tiếng xưa, Đêm tàn bến ngự của
Dương Thiệu Tước, Dạ khúc (lời Hoàng Mai Lưu) của Nguyễn Mỹ Ca, Ngày
xưa của Tô Vũ, Trầu cau của Phan Huỳnh Điểu, Cô hàng
cà phê, Khúc ca mùa hè, Anh còn cây đàn của Canh Thân, Mơ
hoa của Hoàng Giác, Nhớ quê hương của Phạm Ngữ, Giáo đường
im bóng của Nguyễn Thiện Tơ, Tiếng còi trong sương đêm (viết năm
1944, khi đang làm nhạc công một phòng trà ở Vũng Tàu, và được tác giả trình
bày trong buổi lễ mit-tinh giành chính quyền ở Bà Rịa, sáng 25.8.1945 tại
Nhà Tròn, chứ không phải viết khi đã tham gia kháng chiến như thông tin từ nhiều
nhà nghiên cứu) của Lê Trực (tức Hoàng Việt sau nầy), Xuân và tuổi trẻ (lời
Thế Lữ), Xuân sắc quê hương của La Hối, Tú Uyên, Chùa Hương, Dưới
bóng thông xanh, Chiều xuân, Chiều quê, Nắng tươi và Cô
láng giềng, một ca khúc trữ tình bất hủ của Hoàng Quý…
Kỳ 2: Nhạc hùng và nhạc đỏ Tiền Chiến
3. NHẠC HÙNG TIỀN CHIẾN 1930 - 1945.
Thực ra, giới nghiên cứu có nói đến thể loại hành khúc xuất
hiện trong giai đoạn này, mà ít đề cập đến dòng nhạc hùng 1930-1945.
Nhưng thực tế đã tồn tại một dòng nhạc hùng tiền chiến với nội
dung kêu gọi lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, yêu lịch sử vẻ
vang dân tộc. Giai điệu là hành khúc với nhịp đi hùng tráng, phù hợp với nhịp
đi tập thể, bài hát cộng đồng.
Trong giai đoạn nầy, dòng nhạc hùng gần gũi với dòng nhạc đỏ (nhạc cách mạng) và giao hòa với nhau vào cuối giai đoạn.
Dòng nhạc hùng được đẩy lên cao trào bởi các nhóm nhạc gồm các nhạc sĩ tài hoa có xu hướng dân tộc: Đồng Vọng, Tổng Hội Sinh Viên, nhất là khi nhóm Hoàng Mai Lưu được thành lập (1941).
Trong giai đoạn nầy, dòng nhạc hùng gần gũi với dòng nhạc đỏ (nhạc cách mạng) và giao hòa với nhau vào cuối giai đoạn.
Dòng nhạc hùng được đẩy lên cao trào bởi các nhóm nhạc gồm các nhạc sĩ tài hoa có xu hướng dân tộc: Đồng Vọng, Tổng Hội Sinh Viên, nhất là khi nhóm Hoàng Mai Lưu được thành lập (1941).
Nhóm Đồng Vọng được Hoàng Quý thành lập vào năm
1939, với các nhạc sĩ tên tuổi:, Phạm Ngữ, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn
Cao, Canh Thân, Tô Vũ, trong 3 năm: 1943-1945 đã sáng tác và phát
hành hành 12 tập nhạc, mỗi tập có từ 8 đến 12 bài với khoảng 70 nhạc phẩm,
trong đó có nhiều tình ca, nhưng chủ yếu là nhạc hùng có nội dung ca ngợi đất
nước, ca ngợi truyền thống anh hùng của dân tộc. Trong đó, riêng Hoàng Quý viết
một loạt ca khúc: Trên sông Bạch Đằng, Nước non Lam Sơn, Tiếng
chim gọi đàn, Bóng cờ lau, Gọi bạn lên đường, Lời vọng ngàn xưa, Xuân
về, Đêm trong rừng …
So với Đồng Vọng thì nhóm Tổng Hội Sinh viên và
nhóm Hoàng Mai Lưu mang tính chính trị nhiều hơn. Nhóm Tổng Hội
Sinh Viên được thành lập bởi nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, khởi đầu là nhóm sinh
viên có khả năng văn nghệ ở Hà Nội trong đó nhiều sinh viên miền
Nam, nên sau đó ca khúc của nhóm lan tỏa ra khắp nơi. Trong một bài viết,
nhạc sĩ Lê Thương cho rằng: "...Từ 1943 đến 1945 thì
Tổng Hội Sinh Viên đã chế ngự phong trào Tân nhạc và gây những ảnh hưởng sâu đậm
chưa từng có”. Nhóm Tổng Hội Sinh Viên chú trọng đặc biệt đến việc
dùng Tân nhạc trong việc đấu tranh chính trị chống Pháp và Nhật.
Lưu Hữu Phước cùng với các sinh viên trong Tổng Hội đã tung ra nhiều
ca khúc giá trị khơi dậy lòng yêu nước trong dân chúng, đặc biệt là trong giới
học sinh, sinh viên. Những ca khúc đó thường lấy đề tài lịch sử ca ngợi những
chiến công, những anh hùng dân tộc, đặc biệt phải kể đến những bản nhạc của Lưu
Hữu Phước. Nhiều ca khúc như Tiếng gọi sinh viên, Hồn tử sĩ, Hờn sông
Gianh... của ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử tân nhạc Việt
Nam.
Góp công lớn trong nhạc hùng tiền chiến là nhóm văn nghệ yêu
nước Hoàng Mai Lưu gồm 15 người đủ các bộ môn nghệ thuật: thi ca, nhạc,
kịch họa mà mũi nhọn và có tiếng vang nhất là âm nhạc, nên ngày nay nhắc đến Hoàng
Mai Lưu công chúng thường nghĩ đến ca khúc của nhóm nầy. Hoàng Mai
Lưu là họ của ba sáng lập viên: Huỳnh (Hoàng) Văn Tiếng, Mai Văn Bộ
và Lưu Hữu Phước, gợi lên hình tượng bông mai vàng bay tỏa hương thơm, ra đời
vào mùa hè 1941 tại Sài Gòn. Trong giai đoạn nầy, nhiều ca khúc yêu nước và
cách mạng của nhóm được sáng tác, phát hành và lưu diễn khắp nơi. Có thể kể
thêm các ca khúc của họ, ngoài những nhạc phẩm nêu trên: Bạch Đằng
giang (1941), Ải Chi Lăng (1942), Bài hát của thiếu nữ
Việt Nam 1942), Việt nữ gọi đàn (Bài hát của phụ nữ Việt Nam
- 1942) của Lưu Hữu Phước với lời của Mai Văn Bộ; Bài hát suối Lồ Ồ (1943), Bài
hát của đoàn hùng (1943-1945), Bài hát suối Lồ Ồ (1943), Bài
hát của đoàn hùng (1943-1945), Xếp bút nghiên (1944) của Lưu Hữu
Phước với ca từ của Huỳnh Văn Tiếng; và những ca khúc khác với nhạc của Lưu Hữu
Phước và lời của cả nhóm: Hội nghị Diên Hồng (1942), Âu ca Việt
Nam (1944), Hờn sông Gianh (1944)… (Năm sáng tác
và tên của đồng tác giả với Lưu Hữu Phước trong các ca khúc trên dẫn
từ cuốn “Hoàng Mai Lưu & Các ca khúc trong phong trào âm nhạc
cách mạng” của Huỳnh Văn Tiếng & Bùi Đức Thịnh - NXB Trẻ, 2002). Như vậy, Lưu
Hữu Phước là thành viên chủ chốt của cả 3 nhóm nhạc yêu nước kể trên và
là sáng lập viên của 2 nhóm nhạc: Tổng Hội Sinh viên, Hoàng Mai Lưu, là
người có đóng góp lớn lao trong việc hình thành phát triển dòng nhạc hùng
Việt Nam.
Gắn bó cùng hai nhóm Tổng hội và Hoàng Mai Lưu,
ở Nam bộ có Nguyễn Mỹ Ca, cháu nội của Nguyễn Tri Phương, người được
xếp hạng thứ 953 trong Danh sách Nhạc sĩ nổi tiếng trên thế giới, ngoài
tình ca nổi tiếng Dạ khúc, đã sáng tác nhiều hùng ca yêu nước
như: Đến trường, Vui đi học, Chiêu hồn nước..., trong đó thành công và có
tiếng vang nhất là Chiêu hồn nước.
Nhạc sĩ Phạm Duy góp vào dòng nhạc hùng bài Gươm tráng
sĩ (1944), La Hối với Gió thiêng liêng, Võ Đức Thu với Quyết
tiến, Một ngày đã qua…
Đỗ Nhuận cũng đóng góp cho dòng nhạc nầy với Trưng Vương (1939 -
ca khúc đầu tay lúc tuổi 17) và liên ca khúc: Chim than, Lời cha già, Đường
lên ải Bắc của vở ca cảnh Nguyễn Trãi - Nguyễn Phi Khanh được
ông viết trong 2 năm 1940, 1941.
4. NHẠC ĐỎ TIỀN CHIẾN 1930-1945.
• NHẠC ĐỎ (NHẠC CÁCH MẠNG)
Ca khúc cách mạng hình thành và phát triển từ khi có phong
trào yêu nước do Đảng Cộng Sản lãnh đạo. Theo nhiều tư liệu, trên văn bản “khai
sinh”, ca khúc cách mạng được hình thành từ năm 1930, với bài Cùng nhau đi
hồng binh viết theo điệu March của tác giả Đinh Nhu, khi bị tù ở
Côn Đảo. Do biểu tượng của cách mạng trong quang phổ chính trị là màu đỏ, nên
người ta gọi nhạc cách mạng là nhạc đỏ.
Các ca khúc “nhạc đỏ” thường động viên tinh thần chiến đấu của
quân dân, phục vụ kháng chiến, khích lệ tình yêu lý tưởng dân tộc chủ nghỉa và
lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đồng thời có những ca khúc trữ tình cách mạng,
thể hiện tình yêu quê hương đất nước hoặc cổ vũ lao động cống hiến, tinh
thần lạc quan, yêu đời và có tính cộng đồng. Các ca khúc nhạc đỏ thường mang
tính lý tưởng hóa và lãng mạn hóa cao, nhưng khác với dòng nhạc tiền chiến có
tính lãng mạn tách rời đời sống, thường không có không gian hoặc thời gian cụ
thể, nhạc đỏ đặt tính lãng mạn, lý tưởng hóa gắn với cuộc sống xã hội, có không
gian và thời gian cụ thể, và thực tế hóa.
Từng bước đi của ca khúc cách mạng là sự phản ánh trung thực
những thành tựu của lịch sử cách mạng Việt Nam. Nhạc đỏ (nhạc kháng chiến,
nhạc cách mạng Việt Nam) đã tồn tại và phát triển qua 5 giai đoạn - thời
đoạn của Tân nhạc VN: Tiền chiến (1930 - 1945); Kháng chiến chống Pháp (1946 -
1954); Kháng chiến chống Mỹ (1954-1975); Hậu chiến (1975 - 1985); Đương thời (1986
- đến nay).
• NHẠC ĐỎ TIỀN CHIẾN.
Hình tượng người chiến sĩ cách mạng Việt Nam được phản ánh rõ
nét nhất trong các ca khúc cách mạng giai đoạn này. Họ sẵn sàng chiến đấu, hy
sinh cho độc lập của Tổ quốc, cho hạnh phúc của nhân dân.
Qua những hình tượng ấy, có thể thấy cách thức lựa chọn thể
hành khúc của những nhạc sĩ - chiến sĩ là hoàn toàn phù hợp và đúng đắn.
Bởi vì, hành khúc là phương tiện nghệ thuật hữu hiệu nhất để tuyên truyền cổ động
cho cách mạng. Do đó, thể hành khúc chiếm vị trí chủ đạo trong dòng ca khúc
cách mạng Việt Nam giai đoạn nầy.
Sáng tác âm nhạc dạng hành khúc có xuất xứ từ châu Âu, nhưng
khi vào Việt Nam, hành khúc đã nhanh chóng hòa nhập và trở nên quen thuộc trong
hoạt động văn hóa nghệ thuật của người dân Việt Nam. Có được điều đó là do những
người cộng sản làm văn nghệ đã ý thức được bản sắc văn hóa và sức mạnh tiềm
tàng của dân tộc, vậy nên trong tác phẩm, họ biết kết hợp những âm điệu gần
gũi, quen thuộc trong âm nhạc cổ truyền với những âm điệu mới hùng
tráng.
Ca khúc cách mạng đã thể hiện đúng bản chất văn hóa hai chiều
của con người Việt Nam: một chiều tiếp thụ từ văn hóa truyền thống, một chiều
tiếp nhận từ văn hóa âm nhạc nước ngoài.
Trong giai đoạn 1930-1945, những biến cố của lịch sử - xã hội
đất nước luôn là động lực thúc đẩy các nhạc sĩ viết nên những ca khúc cách mạng.
Khi Mặt trận Việt Minh chính thức thành lập (19.5. 1941), nhiều nhạc sĩ,
nhóm nhạc đã gia nhập Mặt trận, hoặc chịu ảnh hưởng của Mặt trận đã sáng tác
nhiều ca khúc cách mạng và yêu nước như: như: Không khuất phục, Cờ
Việt Minh, Hò la, Côn Lôn (Vương Gia Khương); Tam bình
(Trần Văn Út), Phất cờ Nam tiến (Hoàng Văn Thái); Thăng Long
hành khúc ca, Tiến quân ca (1944- Văn Cao); Tiếng gọi
thanh niên (Lưu Hữu Phước, lời: Hoàng Mai Lưu); Lên đàng (Lưu Hữu
Phước - Huỳnh Văn Tiểng); Hát giang trường hận (sau đổi tên là Hồn
tử sĩ) của Lưu Hữu Phước; Diệt phát xít (Nguyễn Đình Thi); Mười
chín tháng tám (Xuân Oanh); Sa trường hành khúc, Cảm tử quân (1944
- Hoàng Quý); Việt Nam phục quốc (Thẩm Oánh)… Trong đó, có những ca
khúc trở thành quốc ca, hội ca, đoàn thể ca, nghi lễ ca. Như Tiến quân ca
trở thành quốc ca của nước Việt Nam; Tiếng gọi thanh niên trở
thành Thanh niên hành khúc, bài hát chính thức của tổ chức Thanh niên Tiền
phong, sau này trở thành Tiếng gọi công dân, quốc ca của Việt
Nam Cộng hòa với lời được sửa lại; Lên đàng trở thành bài
hát chính thức của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam; Hồn tử sĩ được
dùng trong các lễ tang theo nghi thức nhà nước của Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và cũng được Quân
lực Việt Nam Cộng hòa sử dụng trong các nghi thức lễ tang quân đội.
Trừ Cùng nhau đi hồng binh (1930 - Đinh Nhu), các
ca khúc đỏ trên đều được sáng tác sau ngày 19 tháng 5 năm 1941, ngày Mặt
trận Việt Minh chính thức thành lập đến khi Cách mạng tháng Tám thành công. Điểm
chót của cao trào ở Bắc bộ là ca khúc Mười chín tháng tám (19.8.1945)
của Xuân Oanh và ở Nam bộ là Tám mươi năm (Bài hát của nông dân -
lời: Huỳnh Văn Tiếng) của Lưu Hữu Phước do một nhóm 3 người vừa đi vừa hát đã
lôi cuốn hàng ngàn người đi giành chính quyền trong ngày 25.8.45, ngày Tổng khởi
nghĩa ở Sài Gòn.
Từ năm 1943, trong gian trong bị tù ở nhà lao Hải Dương,
rồi đưa lên Hỏa Lò và sau bị đày lên Sơn La, Đỗ Nhuận đã viết
nhiều bài hát cách mạng như: Chiều tù, Côn Đảo, Hận Sơn La, Tiếng gọi tù
nhân, Viếng mồ tử sĩ, Du kích ca... và sau khi được trả tự do, ông tiếp tục
tiếp tục hoạt động cách mạng và sáng tác nhiều bài hát và được phổ biến khá rộng
biến khá rộng rãi thời bấy giờ: Quảng Châu công xã, Nhớ chiến
khu (1945)…
Những ca khúc đỏ nầy không những phản ánh hiện thực xã hội
lúc bấy giờ, mà còn khẳng định dấu son trên đường phát triển của dòng ca khúc
cách mạng VN.
5. PHÂN CỰC VÀ GIAO THOA GIỮA CÁC DÒNG NHẠC TIỀN CHIẾN
Trong quá trình hình thành, phát triển của 9 thập kỷ ca khúc
tân nhạc Việt Nam, tùy theo giai đoạn, các dòng nhạc, các xu hướng trào lưu âm
nhạc có khi cùng song song tồn tại, có khi đối lập nhau, có khi vừa phân cực vừa
giao thoa với nhau, bổ sung hỗ trợ lẫn nhau, có khi hòa nhập vào nhau, hợp lưu
lại với nhau… Trước hết là sự phân cực và giao thoa giữa 3 dòng nhạc Việt
trong giai đoạn tiền chiến 1930 - 1945:
Do sự khác biệt về nhân vật trữ tình, đối tượng trữ
tình, nội dung phản ánh và cả giai điệu của ca khúc mà phân định thành ba
dòng nhạc: nhạc hùng, nhạc đỏ, nhạc tiền chiến. Nhưng ba dòng nhạc khác
nhau nầy trong quá trình hình thành, đồng hành tồn tại và phát triển thường
giao thoa với nhau. Rõ rệt nhất là sự gần gũi nhau giữa dòng nhạc đỏ (cách mạng)
và dòng nhạc hùng (yêu nước). Hai dòng nhạc nầy về giai điệu chủ yếu là hành
khúc, về nội dung ca khúc, chúng gặp nhau ở 2 điểm là dân tộc và đấu tranh, nhất
là vào cuối giai đoạn, khi Mặt trận Viêt Minh ra đời (1941), nhiều nhạc sĩ nhạc
hùng tham gia vào phong trào Việt Minh và trở thành chiến sĩ Cách mạng hoặc
chịu ảnh hưởng của Mặt trận. Khi đó, dòng nhạc hùng gần như hòa nhập vào dòng
nhạc đỏ (Nên phải xác định chính xác thời điểm bản nhạc được viết, mới xếp loại
đúng dòng nhạc của nó, mà có rất nhiều ca khúc, các nhà nghiên cứu âm nhạc
không thống nhất về năm sáng tác!). Vì lúc nầy 2 dòng nhạc hòa vào nhau nên có
nhiều ca khúc xếp vào dòng nhạc nào trong 2 dòng nhạc đó, nhạc hùng và nhạc đỏ,
cũng được, như các bản nhạc của Lưu Hữu Phước và nhóm Hoàng Mai Lưu: Tiếng
gọi sinh viên, Hồn tử sĩ, Bạch Đằng giang, Ải Chi Lăng, Hội nghị Diên Hồng,
Hờn Sông Gianh... Còn nhạc hùng và nhạc tiền chiến dù khác nhau về giai điệu
(một bên là trữ tình, nhẹ nhàng và một bên là hành khúc) và nhân vật trữ tình
(một bên là cái ta - công dân và một bên là cái tôi - cá nhân), nhưng trong đối
tượng trữ tình có một nội dung giống nhau là đề tài quê hương. Trước 1946, có
những nhạc sĩ sáng tác cả 3 dòng nhạc: Tô Vũ (Hoàng Phủ), Văn Cao,
Hoàng Quý… Còn viết cả 2 dòng nhạc thì nhiều. Nhạc tiền chiến và nhạc hùng
có: Thẩm Oánh, Phạm Duy, Canh Thân, Phạm Ngữ, Nguyễn Mỹ Ca, La Hối…;
nhạc hùng và nhạc đỏ là có: Lưu Hữu Phước và nhóm Hoàng Mai Lưu… Đặc biệt là Đỗ
Nhuận có “bước chuyển” sáng tác 2 dòng nhạc nầy trong hai thời đoạn khác nhau của
cuộc đời mình (trước và trong - sau khi bị tù, 1943).
Lê Thiên Minh Khoa
Nguồn: Trích "9 THẬP KỶ
CA KHÚC TÂN NHẠC VIỆT NAM"
nghiên cứu và nhận định của Lê Thiên Minh
Khoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét