Trong những đêm gần sáng
Chỉ khi đã chớm vào tuổi già và lang thang qua nhiều vùng đất
trên thế gian này tôi mới lại lắng nghe tiếng gà gáy vào những đêm gần sáng. Và
cũng chỉ lúc đó, tiếng gà gáy mới lại mang đến cho tôi nhiều cảm xúc.
Tiếng gà gáy lúc đó cho dù ở đâu cũng mang tôi trở về một nơi
chốn vừa xa xôi vừa gần gũi: đó là làng tôi, là cố hương tôi.
Mỗi một người và có khi mỗi dân tộc có những âm thanh đầy biểu
tượng của mình. Có người mang theo suốt đời tiếng cừu kêu, tiếng lạc đà kêu, tiếng
ngựa hí, tiếng sóng biển vỗ vào ghềnh đá, tiếng thác đổ... Và người Việt Nam
mang theo tiếng gà gáy sáng.
Bởi thế mà trong văn chương, trong âm nhạc, trong hội họa mà
đặc biệt nhất là trong thơ ca của người Việt hầu như đều có ít nhất một lần
vang lên tiếng gà gáy. Hầu hết chúng ta đều sinh ra và lớn lên từ một ngôi
làng, bởi thế mà mỗi khi nghe tiếng gà gáy lúc gần sáng, chúng ta đều nhớ về
làng mình và có lúc tưởng mình đang ở làng.
Có một đêm từ xa xưa, khi đó tôi chừng ba bốn tuổi, lần đầu
tiên tiếng gà gáy thực sự bước vào tâm hồn tôi. Tiếng gà gáy trong cái đêm gần
sáng ấy thực sự vang lên như một tiếng sấm. Nó như làm rung cả bốn bức vách của
căn bếp nhà tôi. Đó là một đêm anh chị em tôi ngủ trong căn bếp nhỏ bé. Mùa
đông năm đó là một mùa đông rất lạnh. Sương giá phủ đầy trên cỏ và những vòm
cây. Những con trâu già cứng hết cả bốn vó không thể bước đi trong ruộng nước.
Có con đang kéo cày đã quỵ xuống.
Buổi tối, mẹ tôi trải rơm trong sàn bếp và đốt một đống gốc
tre khô cho các con ngủ vì lạnh quá. Ngày ấy ở thôn quê, nhà nào khá giả thì có
một chiếc chăn chiên mỏng. Và nơi ấm nhất trong ngôi nhà chính là căn bếp. Rơm
rạ, tro trấu và đống lửa đốt bằng những gốc tre già làm căn bếp trở nên ấm áp.
Vì thế không chỉ có lũ trẻ chúng tôi ngủ trong bếp mà cả chó, mèo và lũ gà cũng
ngủ đêm ở đó. Những con gà đậu ngay cạnh ổ rơm chúng tôi nằm ngủ.
Và khi chúng cất tiếng gáy, tôi cảm thấy tiếng đó là những tiếng
sấm rền vang. Tiếng đập cánh của những chú gà trống vang lên bầm bập, khỏe và
kiêu hãnh giống như tiếng đập gươm vào tấm khiêm của những hiệp sỹ thời trung cổ.
Ngày ấy, mỗi gia đình nuôi ít nhất một hai con gà trống để lấy giống. Những con
gà trống được chọn để truyền giống lựa kỹ lưỡng từ đàn gà và được chăm sóc kỹ
lưỡng nhất.
Còn những con gà trống khác thì bị thiến, nuôi béo để ăn thịt.
Những con gà trống để lấy giống luôn là những con gà lực lưỡng và đầy trải nhiệm.
Đôi chân chúng to với những lớp vảy đỏ thẫm như một lớp giáp bằng đồng, một cái
ức lớn và một cái mào uy nghi. Vì thế tiếng gáy của chúng dội vang như một tiếng
sấm. Khi một con gà trống gáy trong đêm cho dù lúc đó mới chỉ quá nửa đêm thì tất
cả những con gà trong xóm đều gáy theo. Rồi tiếng gáy từ xóm này lan sang xóm
khác.
Chỉ một lúc sau cả ngôi làng đang chìm trong bóng tối đã rộn
vang tiếng gà gáy. Nhưng hầu hết lũ gà gáy theo từng canh giờ. Những người thôn
quê thời đó không có đồng hồ. Họ chỉ nghe tiếng gà gáy là biết gà gáy canh hai,
canh ba hay canh bốn mà thức dậy làm các công việc buổi sáng của một ngày mới.
Những đêm mùa đông xa xôi ấy, tôi nằm co người như một con
tôm để lấy hơi ấm và ngủ mơ màng trong tiếng gà gáy ngay bên cạnh ổ rơm trong bếp.
Trong giấc ngủ chập chờn ấy, tôi vẫn nghe thấy tiếng mẹ tôi quét dọn ngoài sân.
Rồi bếp lửa bùng lên. Mẹ chuẩn bị ăn sáng cho cả nhà. Bữa ăn sáng ngày đó thường
là khoai lang, củ dong, củ hoành tinh, khoai mán luộc.
Vào ngày mùa thì mẹ thổi cơm. Bóng mẹ in trên bức tường bếp
im lặng. Có lẽ thế mà đến bây giờ, mỗi lần về quê nghe tiếng gà gáy sáng, tôi lại
thấy chập chờn bóng bé in trên bức tường. Trong những năm máy bay Mỹ ném bom miền
Bắc, thi thoảng lũ trẻ con phải học đêm và ngủ dưới hầm để tránh bom. Làng tôi
cách Hà Nội không xa và đã hai lần bị ném bom.
Trước khi đi ngủ, mẹ tôi mang cả bu gà xuống hầm vì sợ bom Mỹ
ném xuống thì mất tất cả đàn gà vừa sợ kẻ trộm lẻn vào ăn trộm. Có lần bom Mỹ
ném xuống làm tan xác cả con lợn mẹ và cả đàn hơn chục lợn con của một gia
đình. Từ đó, người làng tôi làm hầm rộng hơn để chứa cả người và cả gia súc. Có
đêm mới chín giờ máy bay Mỹ đã bay vào Hà Nội. Pháo và tên lửa phòng không bắn
lên sáng rực cả bầu trời. Lũ gà trống thấy ánh sáng gáy ran cả căn hầm. Lúc đó,
tiếng gà gáy át cả tiếng máy bay và tiếng pháo phòng không.
Khi tôi rời làng ra thành phố học thì tiếng gà gáy sáng cũng
rời xa. Ở phố thật khó mà nghe được tiếng gà gáy sáng. Những ngày nghỉ hè về
quê, buổi trưa tôi thường nghe tiếng gà gáy dưới bóng mát những lùm tre đầu
ngõ. Tiếng gà gáy trưa vang lên một âm hưởng khác. Nó làm buổi trưa mùa hạ xốn
xang và như rộng ra mãi. Những năm học ở CuBa hầu như tôi chẳng nghe được tiếng
gà gáy.
Một lần về ăn Tết ở một làng có tên là làng Nguyễn Văn Trỗi ở
ngoại thành Havana, gần sáng tôi nghe tiếng gà gáy từ một ngôi nhà người nông
dân gần đó. Nhưng không chỉ mình tôi nghe thấy mà tất cả những sinh viên Việt
Nam ngủ ở làng Nguyễn Văn Trỗi đều nghe thấy. Không ai bảo ai, tất cả đều tỉnh
giấc và ngồi dậy. Tiếng gà làm chúng tôi nhớ nhà da diết.
Hồi đó đi học ở CuBa, sinh viên học liền bốn, năm năm rồi về
chứ không được về nước trong dịp nghỉ hè. Có lẽ vì xa nước lâu quá mà tiếng gà
làm lòng chúng tôi bồn chồn thương nhớ cố hương. Những năm ở CuBa, chỉ có hai
thứ làm tôi nhớ cố hương vô cùng. Đó là lần nghe tiếng gà gáy ở làng Nguyễn Văn
Trỗi và một vài lần nhìn thấy khói đốt cỏ khô trên cánh đồng. Khói đốt cỏ khô của
những công nhân làm trong trang trại bò ở ngoại thành Havana gợi cho tôi nhớ về
khói đốt rạ trên cánh đồng sau vụ gặt của làng tôi.
Sau này, tôi có dịp đến nhiều nơi trên thế giới, nhưng chưa một
lần tôi nghe được tiếng gà gáy. Phần vì tôi ở thành phố là chính và nếu có ở một
vùng nông thôn thì cũng không nghe được tiếng gà bởi những gia đình nông dân ở
Mỹ, Anh, Úc, Thụy Điển hay Tây Ban Nha... không nuôi gà trong khu vực nhà ở của
họ mà họ hầu như chỉ nuôi tập trung trong trang trại. Mà nuôi gà trong trang trại
là nuôi theo công nghệ dây chuyền để lấy thịt nên hình như những chú gà trống
nuôi để lấy giống như kiểu nuôi của những người nông dân Việt Nam là không có.
Thế nhưng, có một lần tôi nghe được tiếng gà ở một thị trấn
miền đông Na-uy nhưng tiếng gà gáy ấy lại không gợi cho tôi một điều gì. Có lẽ
bởi những gì quanh tôi lúc đó như nhà cửa, cửa hiệu, đường xá, cây cối... chẳng
gợi cho tôi một chút gì thân thuộc như ở những làng quê hay thị trấn đặc trưng
kiểu Việt Nam. Bởi thế mà tiếng gà gáy bất ngờ vang lên nghe như tiếng gà giả
và nó chìm ngay vào những âm thanh khác.
Thuở nhỏ, một âm thanh quen thuộc và lấn át những âm thanh
khác ở làng quê là tiếng gà. Bây giờ, bước vào tuổi già thì tiếng gà xưa như
đang trở lại. Tiếng gà gáy vang lên trong một khoảnh khắc trong đem gần sáng. Một
thoáng ngỡ ngàng và tôi tự hỏi: “Nhà ai nuôi gà thế nhỉ?”.
Nhưng rồi bỗng nhận ra quanh khu hàng phố của mình chẳng có
ai nuôi gà. Tiếng gà ấy vang lên chỉ bởi một ô cửa nào đó của ký ức chợt mở ra.
Khi người ta đến một tuổi nào đó thì những ô cửa ký ức đôi lúc lại mở ra bất chợt
và một điều gì đó từ xa xưa chợt hiện về. Những lúc như thế, tôi không thể ngủ
lại được nữa. Mà nói cho đúng là không muốn ngủ nữa.
Tôi nhắm hờ mắt nằm im trên giường để cho lòng mình trôi về
những ngày xưa cũ. Có một lần về quê, đứa cháu biếu một đôi gà trống để mang ra
thành phố làm thịt. Sáng hôm sau tôi thức giấc bởi tiếng gà gáy vang trong chiếc
lồng để sau nhà. Thế là tôi không giết thịt hai con gà trống đó nữa mà nuôi để
nghe tiếng gà gáy vào những đêm gần sáng. Tôi nuôi hai con gà đó cho đến khi
chúng già và chết. Và lúc này, tôi lại tự hỏi: “Tôi có phải là người lẩn thẩn
không khi nuôi những con gà chỉ để nghe tiếng gáy của chúng trong những đêm gần
sáng?”.
NGUYỄN QUANG THIỀU
Nguồn: Kiến thức gia đình số Xuân 2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét