Quá trình hình thành và phát triển
dòng nhạc nhẹ đương đại Việt Nam
dòng nhạc nhẹ đương đại Việt Nam
Chín thập kỷ ca khúc tân nhạc Việt, tính từ năm 1930,
khi bản tân nhạc đầu tiên của Việt Nam “Cùng nhau đi Hồng binh” của Đinh
Nhu ra đời, được tác giả chia thành nhiều giai đoạn. Theo đó, quá trình
phát triển ca khúc tân nhạc Việt có 4 giai đoạn: GIAI ĐOẠN 1930-1945: GIAI ĐOẠN
1946-1954, GIAI ĐOẠN 1954-1975 và GIAI ĐOẠN ĐƯƠNG ĐẠI - từ 1975 đến nay.
Trong mỗi giai đoạn âm nhạc, lại tồn tại nhiều xu hướng, trào lưu âm nhạc được
gọi là dòng nhạc như cách gọi phổ biến hiện nay.
Riêng GIAI ĐOẠN CA KHÚC ĐƯƠNG ĐẠI - từ 1975 đến nay, lấy mốc
để phân ranh là năm 1986, năm bắt đầu thời Đổi mới, có hai thời đoạn: thời đoạn hậu
chiến - 10 năm sau Thống nhất 1975-1985; thời đoạn đương thời - sau Đổi mới
1986 đến nay và thực tế hiện hữu 2 dòng nhạc song song tồn tại: dòng nhạc
nhẹ chính thống và dòng nhạc thị trường bị thương mại hóa. Bài viết nầy đề cập
đến quá trình hình thành, phát triển dòng nhạc nhẹ đương đại và
chia thành 2 kỳ
Kỳ 1: Những bước “khởi đầu nan” của dòng nhạc nhẹ Việt trong
thời đoạn hậu chiến - 10 năm sau thống nhất (1975-1985).
NS Văn Cao và NS Hồng Đăng,1984
Nền ca nhạc đương đại đã có nhiều thành tựu đáng
kể, có những đóng góp chung cho nền văn hóa, văn nghệ hiện đại của dân tộc và
hiện nay dòng nhạc nhẹ đương thời đã được chính thức công nhận. Nhưng dòng nhạc
nhẹ đương thời được hình thành, phát triển không phải mới bắt đầu từ sau
Đổi mới (1986) mà đã có khởi nguồn từ giữa thập niên 70, sau Thống nhất đất nước,
với những bước “khởi đầu nan” của “cả quá trình diễn ra từ
từ và không thực sự dễ dàng, suôn sẻ” (NS Nguyễn Thị Minh Châu - “Âm
nhạc thời kinh tế thị trường và thời hội nhập - phần 1”) trong cả 2
thời đoạn: hậu chiến và đương thời.
Sau ngày thống nhất, nẩy sinh nhiều nhân tố mới: không khí
hòa bình, xây dựng đất nước, tâm lý vui tươi, lạc quan, xu thế phản ánh hiện thực
mới của văn nghệ, ảnh hưởng của trào lưu ca nhạc nhẹ thế giới, nhất là sự phát
triển nội tại tất yếu của phong trào ca nhạc nước nhà, nhu cầu thẩm mỹ ca nhạc
mới của công chúng… Những nhân tố khách quan và chủ quan đó đã thúc đẩy nền âm
nhạc Việt phải có chuyển hướng mới, nhất là sự chuyển hướng nội dung đề
tài ca khúc từ thời chiến sang thời bình đã làm cho hình thức biểu hiện nghệ
thuật của ca khúc cũng thay đổi để phù hợp với nội dung cần phản ánh đã
hình thành dần dần dòng ca nhạc nhẹ Việt.
NS Tuấn Giang trong cuốn “Thành tựu ca nhạc Việt Nam thời
kỳ đổi mới” (NXB Thanh Niên - 2007) đã viết về ca khúc thời đoạn nầy: “Bắt
đầu từ những ca khúc êm dịu đầu tiên mang hơi thở cảm xúc của một dòng âm nhạc
mới, dần dần tạo ra bước ngoặc ca nhạc phản ánh đời sống hòa bình của nhân
dân”.
Nhạc sĩ Tuấn Giang
Nhưng bước ngoặc ca nhạc đó không phải dễ dàng một
sớm một chiều mà có, mà phải trải qua bao khó khăn cản trở do những nhân tố
khách quan và chủ quan. NS Tuấn Giang (sách đã dẫn) cũng đã bàn
luận về điều nầy, xin hệ thống lại theo từng phương diện (nhân tố khách quan và
chủ quan) và phân tích, bổ sung thêm.
Về phía khách quan, do quan điểm nghệ thuật vốn bị ràng
buộc quá chặt, bị chi phối hoàn toàn bởi những định kiến chính trị đã kéo dài
trong 30 năm chiến tranh của giới lảnh đạo, giới quản lý văn nghệ và thói quen
thẩm mỹ âm nhạc cũ đã hằn sâu trong tâm trí một bộ phận công
chúng.
Ca khúc Gởi nắng cho em (1975 - thơ Bùi Văn
Dung) được Phạm Tuyên viết trong những ngày đầu tiên ông vào Sài Gòn. Khi bài
hát vang lên trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, đầu tiên là giọng ca mượt mà
của ca sĩ Kiều Hưng rồi sau đó là giọng ca trong sáng của ca sĩ Trung Kiên, được
đông đảo bạn nghe đài ưa thích, yêu cầu phát lại, nhiều đoàn nghệ thuật lấy làm
tiết mục biểu diễn, thì ngay lập tức bị một “lệnh cấm bất thành văn” truyền đến
tai các ca sĩ và các đơn vị nghệ thuật: “không được phổ biến bài hát "Gửi
nắng cho em" ở bất cứ đâu”. Vì một số người quản lý nghệ thuật
đã rỉ tai nhau lên án: “Mới giải phóng Sài Gòn chưa bao lâu mà Phạm Tuyên
đã ăn phải bả của chủ nghĩa thực dân mới rồi, chưa chi đã vội gửi nắng từ miền
Nam ra miền Bắc, chẳng hóa ra là ngoài này âm u lắm hay sao?!”. Thế là ca
khúc "Gửi nắng cho em" bị chết yểu, bị cấm trong một thời
gian khá dài! Sau cả chục năm bị cấm, đầu mùa xuân năm 1986, nhạc sĩ Bửu Huyền
phụ trách phòng ca nhạc Đài Truyền hình TP HCM quyết định cho ca sĩ Ngọc Tân
hát ca khúc "Gửi nắng cho em" đúng vào buổi giao thừa trên
sóng truyền hình thành phố.
Nhạc sĩ Văn Ký và nhạc sĩ Dương Thụ
Sau đó, Đài Truyền hình Trung ương cũng mạnh dạn
phát bài đó nhiều lần trên sóng và lại được người nghe hâm mộ. Từ đó “lệnh cấm
bất thành văn” kia đối với ca khúc "Gửi nắng cho em" mới
không còn hiệu lực nữa.
Ca khúc nổi tiếng Mùa xuân đầu tiên của Văn Cao được
sáng tác vào đầu năm 1976, được in trên báo Sài Gòn giải phóng số
Xuân 1976 và cũng trong năm ấy, được dịch lời Nga và in ở Liên Xô, ngày
nay đã trở nên quen thuộc với người Việt Nam, là một trong những bài hát hay nhất
về mùa xuân. Nhưng tuyệt phẩm này rất “cao số”, cũng có số phận long đong như
chính người tạo nên nó. Với giai điệu valse nhẹ nhàng, dìu dặt, mượt
mà, sâu lắng, với ca từ có ý nghĩa rất sâu sắc, bài hát khắc sâu vào tâm hồn
người Việt tình cảm chan chứa, khát khao yêu thương và niềm tự
hào khiến lòng người trở nên thư thái, ngẫm ngợi, rung lên những
cung bậc xúc cảm chân thành, dung dị về một “mùa xuân đầu tiên” của ngày
toàn thắng. Nhưng ca khúc bị coi là “lạc điệu” với hầu hết bài hát được
sáng tác cùng thời điểm đều mang âm hưởng hào hùng, ngợi ca với tiết tấu mạnh,
khỏe, hân hoan. Phải mất 20 năm sau khi ra đời, khi tác giả đã qua đời, nó
mới được dàn dựng, công diễn, phổ biến và mới thực sự “đóng đinh” vào đời sống
âm nhạc Việt Nam.
Trần Tiến có nhiều ca khúc nhạc nhẹ, nhạc trẻ được công chúng
say mê nhưng lại có nhiều “vấn đề” nhất. Ca khúc Những đôi mắt mang hình
viên đạn (1979) của Trần Tiến có nội dung động viên mọi người bảo vệ Tổ quốc
và vừa ra đời đã nhanh chóng đến với công chúng, được hân hoan đón
nhận và gây dư luận sóng gió trong và ngoài nước. Nhưng không ít người lại nói
đó là đôi mắt hận thù“phải gắp những viên đạn ra khỏi những đôi mắt
đó”… Nhiều ca khúc nữa của ông lại có “vấn đề”: Điệp khúc tình yêu bị
cấm vì có chữ “hôn” (Nhớ cái hôn đầu tiên anh chưa dành cho em), Thành phố
trẻ bị cấm vì có nói đến chuyện uống rượu (Anh đi đâu về/ Dầu máy đầy
tay/ Lưng trần gió bể/ Chung vài xị đế/ Nhậu cùng bạn bè), Rock đồng hồ bị
cho là “kích động bạo loạn”, mà sau nầy theo lời Trần Tiến thuật lại, khi gặp
ông, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh bảo: “Trần Tiến không kích động bạo loạn,
Trần Tiến kích động lòng yêu nước”, nhưng lúc đó bài hát đã khiến ông bị 6 chiến
sĩ công an đuổi bắt và trốn được nhờ một bà cụ già ở bên kênh Nhiêu Lộc (TP
HCM) giúp.
Trần Quang Lộc (phải) và tác giả
ở TP Bà Rịa, tháng 7.2018
Định kiến hẹp hòi, sai lầm của giới quản lý văn nghệ, một số
nhà chính trị, một bộ phận công chúng có ảnh hưởng đến sự phát triển của dòng
ca nhạc nhẹ. Nhiều ca khúc nổi tiếng của những nhạc sĩ nổi tiếng ở TP HCM bị
coi là “lập lờ hai mặt”: Nhớ mùa thu Hà Nội của Trịnh Công Sơn, Đi
qua vùng cỏ non của Tôn Thất Lập, Ngõ vắng xôn xao của Trần
Quang Huy…
Cũng do định kiến với khái niệm nhạc nhẹ, nên vào cuối thập
niên 70, khi một dòng nhạc nhẹ đã hình thành với hàng loạt ca khúc với giai điệu,
nội dung phản ánh và nhân vật trữ tình mang đặc trưng của nhạc nhẹ nhưng
được gọi là nhạc trẻ. Khái niệm nhạc trẻ là nhạc nói về tuổi trẻ, tình yêu của
họ và dành cho tuổi trẻ thưởng thức, mà thực sự công chúng nhiều lứa tuổi đều
yêu thích, nên cách gọi nhạc trẻ có hàm ý tế nhị trước một vấn đề nhạy cảm
là dòng nhạc nhẹ đã thực sự ra đời.
NS Trần Quang Huy
Năm 1979, khi chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, phong trào
ca khúc chính trị (CKCT) ra đời cùng với nhiều ca khúc của các nhạc sĩ nhiều thế
hệ và nhiều nhóm CKCT được thành lập, chủ yếu ở thành phố HCM. Nhóm CKCT đầu
tiên của âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam là Rạng Đông cũng ra đời tại
đây năm 1979 do nhạc sĩ Chánh Trực phụ trách. Về cấu trúc giai điệu, CKCT và nhạc
nhẹ có khác nhau đôi chút, đặc biệt là đoạn điệp khúc của CKCT nêu bật chủ đề
tư tưởng chính trị của bài hát, nhưng hai trào lưu nầy đều thể hiện cùng một nhịp
điệu âm nhạc, cùng là những bài hát viết ở thể một, hai hay ba đoạn đơn. Từ năm
1982, khi nhạc nhẹ được chấp nhận, thì các nhóm CKCT không còn tồn tại nữa,
CKCT đã hoàn thành nhiệm vụ cuả mình là động viên lòng yêu nước của toàn dân
vào công cuộc xây dựng đất nước, hai cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ
quốc, là bước đệm trong quá trình tiếp thu, chấp nhận ca nhạc nhẹ và hình
thành, phát triển nền ca nhạc nhẹ chuyên nghiệp ở nước ta.
NS
Hoàng Lương (trái) và tác giả ở TP Vũng Tàu, tháng 6, 1018
Về phía chủ quan tức ở giới sáng tác, ca khúc của họ dịch
chuyển theo động tử “chậm dần đều” từ dòng nhạc chính thống thời chiến từ từ
sang nhạc nhẹ chính hiệu, cả về nhân vật trữ tình, nội dung trữ tình lẫn giai
điệu thể hiện. Nhân vật trữ tình trong ca khúc đi từ cái ta chung,
qua cái ta có cái tôi ẩn mình, đến cái tôi hiện
rõ trong hài hòa với cái ta và cuối cùng là cái tôi chủ thể. Nội dung trữ
tinh đi từ đề tài lớn lao quê hương đất nước, qua cuộc sống thanh bình xây dựng,
rồi cuộc chiến đấu hy sinh trong chiến tranh biên giới của tuổi trẻ, đến nhiều
khía cạnh của tuổi trẻ, trong đó có tình yêu của họ. Giai điệu ca khúc đi từ
“nhẹ hóa” ca khúc trong các ca khúc có khuynh hướng nhạc nhẹ, qua nhạc trẻ, nhạc
xanh như ca khúc chính trị đến nhạc nhẹ chuyên nghiệp với nhịp điệu của Slow, Surf,
Disco… rồi Pop, Rock…
Bước đầu của ca nhạc nhẹ Việt là “nhẹ hóa” các ca khúc với ca
từ thơ mộng, lãng mạn, giai điệu trữ tình nhẹ nhàng, êm dịu hoặc bay bổng như
trong Tình em biển cả (1975) của Nguyễn Đức Toàn, Biển hát chiều
nay (1975) của Hồng Đăng… Đây là những ca khúc có phong cách nhạc dịu nhẹ, giai
điệu thiết tha trong sáng, nhưng tác giả còn đứng giữa cái ta để ca ngợi những
cảm nghĩ riêng chung. Bài Tình em biển cả của Nguyễn Đức Toàn giai điệu sâu
lắng phơi phới mênh mông, ẩn chứa niềm vui sướng tự hào với ca từ kiêu
hãnh: Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay/ Non nước mây trời lòng ta mê say/
Sóng nước trùng dương dài theo bờ cát/ Những dãy đảo xa nằm nghe biển hát.
NS Nguyễn Trọng Tạo
Bài Biển hát chiều nay của Hồng Đăng giai điệu
dịu dàng đằm thắm biểu hiện tâm trạng hạnh phúc, khoáng đãng với lời ca ngọt
ngào: Ơi biển Việt Nam ơi sóng Việt Nam/ Qua bao nhiêu thăng trầm mà chiều
nay vẫn dịu dàng/ Vùi sâu dưới đáy những gì đau thương/ Biển lại hát tình ca biển
kể chuyện quê hương…
Chỉ ba năm sau đó, ca khúc đã chuyển hướng sáng tác - lời ca,
giai điệu được viết theo hướng nhạc xanh: Chiều trên bến cảng (1978)
của Nguyễn Đức Toàn, Nha Trang mùa thu lại về (1978), Trời Hà Nội
xanh (1978) của Văn Ký, Làng quan họ quê tôi (thơ Nguyễn
Phan Hách - 1978) của Nguyễn Trọng Tạo, Một mùa xuân (thơ Thanh Hải -
1978) của Trần Hoàn, Tình ca Tây Nguyên (1978) của Hoàng Vân, Giai
điệu Tổ quốc (1978), Mùa xuân gọi (1978) của Trần Tiến, Em
chọn lối nầy (1978) của An Thuyên, Sợi nhớ sợi thương (thơ Thúy
Bắc - 1978) của Phan Huỳnh Điểu, Bài ca biên giới (1978) của Xuân
Giao… Nha Trang mùa thu lại về của Văn Ký mở đầu với chất suy tư
nhưng giấu cái tôi cá nhân trong cái ta rộng lớn: Ơi Nha Trang mùa thu lại
về/ Trong nụ cười và trong ánh mắt mê say/ Cờ đỏ tung bay cuộc đời mới/ Buồm
căng gió lộng thuyền ra khơi xa…
Sau đó, sang đoạn hai, là sự bay bổng niềm vui rộn rã,
cái tôi được bộc lộ để hát cùng cái ta quê hương đất
nước qua lời ca tự sự anh - em: Mùa thu sang anh cùng em lên đường/
Đi xây dựng mảnh đất quê hương/ Theo nhịp bước của đoàn quân chiến thắng/ Anh
ơi có nghe chăng mùa thu tới với muôn vàn yêu thương...
Trong Chiều trên bến cảng của Nguyễn Đức Toàn,
cái tôi cá nhân “chia tay nhau” với người yêu “trong
lòng bao lưu luyến” trên bến cảng nhưng cũng vì nhiệm vụ của cái ta công
dân“nghe đất nước đang gọi mình đi”:
Một chiều mùa hè gặp nhau trên bến cảng/ Ta gần nhau
hơn qua mỗi lần xa cách/ Trong những chuyến đi xa có biết bao nhiêu điều mới
lạ/ về đất nước về con người về cuộc sống và tình yêu…
NS Nguyễn Đức Toàn.
Ra đời chậm hơn sau đó vài năm, nhưng Điệp khúc tình
yêu của Trần Tiến với nhịp điệu slow dìu dặt, ca từ rạo rực, cháy bỏng
trong danh xưng anh - em với tình yêu của một thời trai trẻ “đã đi
qua chiến tranh” nhưng tình yêu ở đây là một tình yêu cao cả, tác giả vẫn
đứng trên cái ta để nói về thân phận con người sau chiến tranh và còn
lại sau chiến thắng là tình yêu, nên:
Hãy hát lời lửa cháy bằng trái tim tình yêu/ Hãy hát lời tình
yêu bằng trái tim lửa cháy/Hãy hát lời lửa cháy bằng trái tim yêu thương/ Hãy
hát lời yêu thương bằng lửa cháy trong ta…
Trước đó, cái tôi đã hòa nhập với cái ta sớm
hơn trong Gởi nắng cho em (1975 - thơ Bùi Văn Dung) của Phạm
Tuyên. Ở đây tình cảm riêng tư đã hòa vào tình cảm rộng lớn của cả dân tộc,
cái tôi “riêng” đã nhập vào cái ta “chung” một cách hài
hòa, chúng không đối lập nhau nhưng cũng không hòa tan lẫn nhau:
Khi hai miền cùng vào một vụ chiêm/ Hai vựa thóc cũng nặng
tình của đất/ Cùng vào mùa một ngày vui thống nhất/ Hơn lúc nào anh hiểu thấu
lòng em…
Những ca khúc “nhạc xanh” thời điểm nầy mang giai điệu nhẹ
nhàng, dịu êm, sâu lắng của nhạc nhẹ, nhưng ca từ có nội dung chính trị (giới
trí thức và sinh viên Sài Gòn thuở ấy gọi đùa là nhạc da cam, là màu do
màu đỏ chồng lên màu vàng tạo thành).
Những đại từ anh - em chỉ là cách xưng hô gần gũi,
thân mật trong sự phản ánh chủ đề tư tưởng của ca khúc là ngợi ca quê hương đất
nước, niềm tự hào dân tộc, niềm hân hoan của những con người đang xây dựng cuộc
sống mới…
NS Phạm Tuyên
Cái tôi của Văn Ký còn nặng về cái ta chung
là “đoàn quân chiến thắng”, cái tôi của Nguyễn Đức Toàn “là bản
hùng ca biển khơi… sáng chói chiến công”, cái tôi của Hồng Đăng là “tình
ca biển kể chuyện quê hương”… Nhưng đây là bước chuyển trong sáng tác, là
cầu nối giữa cái ta đến cái tôi, từ nhạc đỏ qua nhạc xanh đến nhạc nhẹ.
NS- NSND Trọng Bằng
Tiếp sau những nhạc sĩ đàn anh có nhiều sáng tác mang nhân tố
nhạc nhẹ như: Văn Cao, Nguyễn Đức Toàn, Văn Ký, Trọng Bằng, Phan Huỳnh Điểu,
Xuân Hồng, Phạm Minh Tuấn, Phạm Tuyên, Thế Song…, là các các ca khúc nhạc nhẹ
mà thuở ấy gọi là nhạc trẻ của các nhạc sĩ trẻ hơn: Trần Tiến, Thanh Tùng, Nguyễn
Trọng Tạo, Tôn Thất Lập, Hồng Đăng, Nguyễn Ngọc Thiện, Vũ Hoàng, Phạm Đăng
Khương, Nguyễn Long, Trần Quang Lộc, Quang Lộc, Quang Minh, Nguyễn Tôn Nghiêm,
Thập Nhất, Giáp Văn Thạch, Vũ Công Anh, Nguyễn Hải, Hoàng Lương (HN), Hoàng
Lương (BR-VT), Nguyễn Phú Yên, Bùi Công Thuấn, An Thuyên, Nguyễn Văn
Hiên, Lư Nhất Vũ, Trọng Vĩnh, Trần Tích, Văn Thành
Nho…
Mở màn cho nhạc trẻ, nhạc nhẹ ở phía Bắc là Trần Tiến. Sau những Giai
điệu Tổ quốc (1978), Mùa xuân gọi (1978), Điệp khúc tình
yêu…, nhiều ca khúc nhạc nhẹ chính hiệu ra đời: Tạm biệt chim én (1980), Vết
chân tròn trên cát (1981), Mặt trời bé con (1982), Chiếc vòng cầu hôn (1982), Ngọn
lửa cao nguyên (1983)… là những bài hát nổi tiếng do ca sĩ Lê Dung thể hiện
rất bốc lửa, nhiệt tình được công chúng vô cùng hâm mộ.
Còn ở phía Nam, người được coi là khởi đầu cho dòng nhạc
nhẹ qua đề tài tình yêu là nhạc sĩ Thanh Tùng. Lúc đầu anh nổi tiếng bằng những
bản phối khí nhạc nhẹ từ những bản nhạc nước ngoài, như Tình ca du mục,
Xương rồng… Sau đó, từ đầu thập niên 80, anh tiếp nhận và chuyển hóa thành
công ngôn ngữ âm nhạc cổ điển Âu châu vào các sáng tác ca khúc nhạc nhẹ sâu sắc
và hấp dẫn với một phong cách độc đáo, mới lạ làm xôn xao giới trẻ: Cảm
ơn mùa thu, Hát với chú ve con, Giọt Nắng Bên Thềm, Chuyện tình của biển, Nhịp
điệu Slow Surf, Lời tỏ tình mùa xuân, Hoa tím ngoài sân, Ngôi sao cô đơn,
Em và tôi, Lối cũ ta về, Mưa Ngâu… Những sáng tác sau nầy của
Thanh Tùng dù nói đến cái ta chung là Chuyện tình của biển nhưng
cái tôi chủ thể vẫn bao trùm cảm xúc lời ca:
Ôi tình yêu tình yêu, tình yêu... lỗi tại tình yêu!
Nếu em không biết gì về chuyện tình của biển
Nếu thật em không biết gì, tôi sẽ kể... em... nghe...
Nếu em không biết gì về chuyện tình của biển
Nếu thật em không biết gì, tôi sẽ kể... em... nghe...
Nhạc sĩ Trần Quang Lộc nổi tiếng với những tình khúc trước
1975, như Về đây nghe em (thơ A Khuê - 1968), Có phải em mùa Thu
Hà Nội (thơ Tô Như Châu -
1972), Em theo đoàn lưu dân (thơ Phạm Hòa Việt - 1973)…, sau Thống nhất,
im hơi lặng tiếng một hồi, anh bắt đầu sáng tác trở lại. Một trong những bài đầu
tiên anh viết lúc nầy, bản Băn khoăn về một tình yêu với giai
điệu Pop Ballad trữ tình sâu lắng, dịu ngọt, nhân vật trữ tình là anh -
chủ thể, đối tượng trữ tình là Em - “một vì sao” của anh,
không gian trữ tình là khung cảnh thiên nhiên thơ mộng:
NS Thanh Tùng
Sao trên trời hôm nào không mọc
Chỉ còn mưa mang ký ức mù sương…
… Mây trên trời lững lờ phiêu bạt
Và sương khuya từ chừng ấy dòng sông…
Hoa trên cành không hiểu được lá
Mây trôi hoài trăng không hiểu nổi
nhưng nội dung trữ tình của ca khúc vẫn là thuần tình yêu - một
tình yêu thủy chung, luôn hướng về nhau:
Nhưng bao giờ trong lòng anh cũng mọc
Một vì sao lóng lánh tựa mắt Em.
Như vậy, các nhạc sĩ đã từ cái ta để nói cái chung,
rồi cái ta có cái tôi ẩn mình để nói cái tôi trong
cái ta, sau đó chuyển sang anh - em để nói cái ta cùng
cái tôi và cuối cùng dù nói đến cái chung vẫn là cái tôi chủ thể.
Rồi cái tôi cá thể nầy lại được cá biệt hóa trong ca nhạc thành những
cái tôi cao thượng, cái tôi tội tình, cái tôi đời
thường…
Đến đầu thập niên 80, nhạc nhẹ phát triển rộng khắp từ phong
trào ca nhạc quần chúng ở các địa phương, đơn vị sản xuất đến các đoàn ca múa
nhạc chuyên nghiệp và được sự nhiệt tình ủng hộ nhiệt tình của công chúng là sự
đổi mới nhận thức về âm nhạc từ nhiều phía.
NS Văn Thành Nho (trái) và NSND Đinh Bằng Phi
Từng bước phát triển ca nhạc nhẹ trong nước có sự kết hợp
tuyên truyền thông tin giới thiệu của các cơ quan thông tấn báo chí, đặc biệt
các đài giới phát thanh, truyền hình thường xuyên giới thiệu những ca sĩ nhạc
nhẹ hàng đầu thế giới như (số lượng % sau là chỉ số người ủng hộ theo tư
liệu của Tạp chí âm nhạc- NXB Trẻ): Michall Jackson 90%, Madonna 84%, Beck
94%, Ma Riah Cary 53%, Tori Amos 91%, Stinh 22%, Alanis Morissette 54%... Đài
truyền hình còn giới thiệu những ban nhạc hay nhất thế kỷ: The Beatles,
The Jackson, The Doors, ABBA, Queen, Hanson, R.E.M, The Spieceairis, Aqua,
Backstreet Boys, Lauryn - Hill… Băng đĩa của các nhóm nhạc nầy và của các
ca sĩ nổi tiếng trên tràn ngập ở các cửahàng băng đĩa toàn quốc và tâm nhập vào
các gia đình.
Đầu thập niên 80, Đài truyền hình trung ương giới thiệu
chương trình ca nhạc nhẹ thế giới vào tối thứ bày hàng tuần được người xem nhiệt
tình chờ đón. Đầu năm 1982, nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam cử đoàn ca nhạc nhẹ gồm
có các ca sĩ nổi tiếng: Mạnh Hà, Vũ Dậu, Ái Vân, Lệ Quyên… sang Đức tập huấn.
Nhà nước mở cửa cho một số đoàn ca nhạc nhẹ sang biểu diễn tại Việt Nam như
nhóm ca khúc chính trị Đức sang Hà Nội năm 1983…
Tất cả các nhân trên cùng với xu thế phát triển có tính toàn
cầu hóa của phong trào ca nhạc nhẹ đã tác động sâu sắc đến các đoàn ca nhạc
chuyên nghiệp, đến các nhạc sĩ và đông đảo công chúng, mở ra một bước ngoặc có
tính lịch sử hình thành một hình thức âm nhạc mới ở nước
ta.
Gần cuối thời đoạn này, ca nhạc nhẹ dần dần được mặc nhiên chấp
nhận.
Chín thập kỷ ca khúc tân nhạc
Việt, tính từ năm 1930, khi bản tân nhạc đầu tiên của Việt Nam “Cùng nhau đi Hồng
binh” của Đinh Nhu ra đời, được tác giả chia thành nhiều giai đoạn. Theo đó,
quá trình phát triển ca khúc tân nhạc Việt có 4 giai đoạn: GIAI ĐOẠN 1930-1945:
GIAI ĐOẠN 1946-1954, GIAI ĐOẠN 1954-1975 và GIAI ĐOẠN ĐƯƠNG ĐẠI - từ
1975 đến nay. Trong mỗi giai đoạn âm nhạc, lại tồn tại nhiều xu hướng,
trào lưu âm nhạc được gọi là dòng nhạc như cách gọi phổ biến hiện nay.
Riêng GIAI ĐOẠN CA KHÚC ĐƯƠNG ĐẠI - từ 1975
đến
nay, lấy mốc để phân ranh là năm 1986, năm bắt đầu thời Đổi mớ,i
có hai thời đoạn: thời đoạn hậu chiến - 10 năm sau Thống nhất 1975-1985;
thời đoạn đương thời - sau Đổi mới 1986 đến nay và thực tế hiện hữu 2 dòng
nhạc song song tồn tại: dòng nhạc nhẹ chính thống và dòng nhạc thị trường
bị thương mại hóa. Bài viết nầy đề cập đến quá trình hình thành, phát triển
dòng nhạc nhẹ đương đại và chia thành 2 kỳ.
Bố con NS Hoàng Hà - Hoàng Lương
Từ năm 1986, sau Đại hội VI của đảng CS VN, với
chủ trương “đổi mới”, đất nước VN có những biến đổi sâu rộng về cả mặt tinh thần,
tư tưởng lẫn văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội. Cũng như giới văn nghệ
sĩ nói chung, các nhạc sĩ được “cởi trói”, rồi dần dần đi đến “tự cởi trói”,
“chuyển mình” theo thời cuộc mới và sáng tác ca khúc của họ đa dạng, phong phú
hơn cả về nội dung, đề tài, thể loại, lẫn phong cách thể hiện.
Điều ấn tượng và dễ thấy
nhất là khi bắt đầu thời kỳ Đổi mới thì các loại nhạc: tiền chiến, tình khúc, rồi
nhạc vàng … dần dần được chính quyền, chính xác là giới quản lý văn hóa-
nghệ thuật, xét lại và cho phổ biến một cách hạn chế tuỳ theo tác giả và tác phẩm.
Rồi sau đó, “mở cửa” thả giàn để các dòng nhạc nầy và dòng nhạc- thị- trường- mới
được sáng tác, quảng bá và trình diễn công khai, gần như thả lỏng, không định
hướng chặt chẽ, không kiểm soát, quản lý.
Theo nhạc sĩ Nguyễn Thị Minh
Châu, phó chủ tịch Hội nhạc sĩ Việt Nam trong chuyên đề “Âm nhạc thời kinh tế
thị trường và thời hội nhập (phần 1)” thì “yếu tố đầu tiên tác động đến đời
sống âm nhạc là những thay đổi thuộc về ý thức”. Theo bà, sự dịch chuyển của
đời sống âm nhạc lúc nầy “là cả quá trình diễn ra từ từ và không thực sự dễ
dàng, suôn sẻ với chủ thể sáng tạo cũng như với giới quản lý văn hóa nghệ thuật”,
khi từ quan điểm nghệ thuật vốn bị ràng buộc quá chặt, bị chi phối hoàn toàn bởinhững
định kiến chính trị đã kéo dài trong 30 năm chiến tranh và “hơn chục năm thời hậu
chiến (1975-1986) sang tinh thần chung là mở cửa, nhập cuộc và đổi mới”.
NS Nguyễn Thị Minh Châu
Cũng theo nhạc sĩ Nguyễn Thị Minh Châu (tài liệu đã dẫn)
trong quá trình nầy diễn ra các sự kiện âm nhạc tác động đến sự nhập cuộc
của âm nhạc thời Đổi mới. Xin nêu lại và bổ sung thêm.
Sự kiện khá đặc biệt
trong đời sống âm nhạc khá phẳng lặng của những năm giữa thập niên 80 là những
đêm tác giả của các nhạc sĩ “lão làng” như Văn Cao, Đỗ Nhuận, Huy Du. Điều được
cho là “mới” ở các chương trình này là ngoài hành khúc, ca khúc thuộc diện bài
hát truyền thống, lần đầu tiên lọt vào danh mục biểu diễn là những tình ca cũ
trong dòng “nhạc tiền chiến” như Bến xuân, Suối mơ, Thiên thai, Trương
Chi, Buồn tàn thu của Văn Cao; Chim than, Đường lên ải Bắc của Đỗ
Nhuận; Sóng nước Ngọc Tuyền, Ba Vì năm xưa, Sẽ về Thủ đô, Những gác
chuông giáo đường của Huy Du.
Sự kiện mở màn cho âm nhạc
nhập cuộc là chương trình Trần trụi 87 của nhạc sĩ Trần Tiến diễn ra
như một hiện tượng bất thường vào lúc những chương trình ca nhạc tuyên truyền
ngợi ca khô cứng giáo điều đã khiến người nghe mệt mỏi và dị ứng, và những
chương trình nhạc tiền chiến lãng mạn, trữ tình từng xoa dịu tâm lý căng
thẳng thời hậu chiến cũng bớt đi sức thu hút ban đầu.Sự bất thường khiến các
nhà quản lý thấy bất an, nhưng lại được công chúng hưởng ứng. Lần đầu tiên có một
chương trình mang dáng dấp một tùy bút âm nhạc, một phóng sự âm nhạc mang đậm
cái tôi. Với phong cách rock tác động trực diện vàhình thức biểu diễn gọn nhẹ -
có lúc chỉ cần tác giả hát với cây đàn guitare thùng, với những lời ca táo bạo
và xoáy vào tâm can (Ðồng hồ báo thức, Trắng đen, Ý nghĩ trong phòng hải quan,
Ðóa hoa tôi tìm, Trần trụi 87…), chương trình đã lôi cuốn người nghe, nhất là
giới trẻ vào câu chuyện tâm tình, suy tư về những nỗi đau rất đời thường mà trước
đó luôn bị tránh chạm tới như một điều cấm kỵ. Dù bị phê phán dữ dội, thì Trần
trụi 87 rút cục vẫn được nhìn nhận là sự hưởng ứng kịp thời cho tư duy đổi
mới, là lời khẳng định cho khả năng nhập cuộc của giới nhạc.
NS Phú Quang và ca sĩ Minh Chuyên. Ảnh: Hải Bá
Cuối thập niên 80, mặc dù đã bước vào giai đoạn Đổi
mới, nhưng quan niệm khắt khe cứng nhắc như một dư âm chiến tranh còn đè nặng
trong quản lý âm nhạc. Sự kiện đáng nhớ trong thời điểm là những tình ca giá trị
được tuổi trẻ yêu thích sau nầy trở nên nổi tiếng, chịu số phận lận đận, bị phê
phán, thậm chí bị cấm đoán, tác giả bị khiển trách, kể cả các nhạc sĩ có
uy tín nhưHoàng Hiệp và Xuân Hồng từng là lãnh đạo Hội Âm nhạc TP HCM. Trong
trường hợp này có thể thấy người sáng tác “nhập cuộc” nhanh hơn người quản
lý. Và sự nhập cuộc- theo nghĩa tác phẩm phản ánh được tâm trạng công chúng
đương thời và được tiếp nhận trong đời sống xã hội không hẳn lúc nào cũng thuận
buồm xuôi gió.
Rồi,
bốn đêm biểu diễn ca khúc tuyển chọn Nửa thế kỷ ca khúc Việt Nam vào
năm 1994 như một cuộc tổng kết thành tựu quá khứ, qua
Nhạc sĩ Dương Thụ. Ảnh: TTVH
đó thấy được sự nhìn nhận lại giá trị của những
bài hát lãng mạn thời đầu tân nhạc, cũng như sự khích lệ giới nhạc sĩ nhập cuộc
vào đời sống âm nhạc đương đại. Đó là thời điểm mà không khí “mở cửa” và
“đổi mới” có phần thông thoáng hơn..
Sự kiện âm nhạc được nhớ nữa là
sự ra đời của nhóm Những người bạn từ sáng kiến của nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn năm 1991, ngay vào lúc cơn sóng nhạc hải ngoại đang ở cao trào mạnh mẽ,
và âm nhạc Việt nhiều năm khủng hoảng thiếu tình ca. Những người bạn
Tam ca Ba Con Mèo (Phương Uyên - giữa)
gồm bảy nhạc sĩ TP HCM: Trịnh Công Sơn, Tôn Thất
Lập, Trần Long Ẩn, Từ Huy, Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Văn Hiên, Thanh Tùng đã
đem đến cho công chúng những món ăn tinh thần mới, những ca khúc trữ tình đầy sức
sống không chỉ đi vào đời sống xã hội lúc đó, mà còn được yêu thích cho tới
nay, như Sóng về đâu (Trịnh Công Sơn), Tình yêu mãi mãi
(Tôn Thất Lập), Xin làm người hát rong (Trần Long Ẩn)…
NS Phạm Đăng Khương
Có thể bổ sung thêm một sự kiện sau đó một năm trở thành một
hiện tượng âm nhạc ấn tượng bậc nhất của nhạc trẻ TP. HCM, và có tiếng
vang khắp cả nước, khi ban nhạc gia đình Tam ca Ba Con Mèo, gồm ba chị em
(Phương Uyên, Cẩm Tú và Ngọc Diệp, do Phương Uyên đứng đầu giành giải cao nhất
tại liên hoan Pop-Rock 1992. Nhiều khán giả đến nay vẫn nhớ phong cách rock cuồng
nhiệt cùng những bài hát đã trở thành “thương hiệu” 3 Con Mèo như Ngẫu hứng
ngựa ô (Trần Tiến), Cô bé u sầu (Nguyễn Ngọc Thiện)… và đặc biệt
bài hát có thể coinhư tác phẩm đầu tay của Phương Uyên, báo trước một tài năng
sáng tác nổi bật, ca khúc Đến với tình yêu. Giữa những năm 1990, đúng vào
cuộc thăng hoa của nhạc Việt, Phương Uyên nổi lên như một nhạc sĩ hàng đầu Việt
Nam, cả về số lượng, chất lượng bài hát và sự phong phú đề tài.
NS Từ Huy
Nhiều bài hát Phương Uyên viết cho Ba Con Mèo nhanh chóng trở
thành những bài hit bậc nhất như: Mẹ yêu, Sài Gòn cô tiên năm 2000, Yêu
yêu yêu, Bên nhau mùa đông, Tuổi mộng mơ…
NS Trọng Vĩnh (ngồi) và tác giả ở Vũng Tàu tháng 5.2018
Sau đó, Phương Uyên trở thành nhạc sĩ sáng tác nhạc quảng
cáo nhiều bậc nhất Việt Nam và cũng rất đặc biệt là nhiều ca khúc của Phương
Uyên vốn viết cho quảng cáo sau đó đã ra với thị trường ca nhạc và trở thành những
bài hit. Rồi Phương Uyên vào vai vừa ca sĩ, vừa nhạc sĩ trong đĩa nhạc Gia
đình tôi, với những bài hát được chính cô sáng tác từ những câu chuyện của bản thân
và gia đình, giàu tính riêng tư nhưng lại được đông đảo khán giả yêu thích, vì
cho thấy rõ nhất chân dung một Phương Uyên mạnh mẽ nhưng vẫn rất nữ tính, dữ dội
mà vẫn ngọt ngào. Có thể coi Phương Uyên là nữ nhạc sĩ thành công nhất của thị
trường nhạc Việt trong khoảng 25 năm trở lại đây với với phong cách rock cuồng
nhiệt, sôi động, trẻ trung nhưng không “sến” và thành công của cô tạo cảm hứng
cho rất nhiều nữ nhạc sĩ thế hệ sau, cũng như đã kích thích rất nhiều ca
sĩ tham gia sáng tác ca khúc, để ngày nay, khái niệm ca sĩ/ nhạc sĩ trở nên phổ
biến và quen thuộc trong nhạc Việt.
Nhiều ban nhạc, nhóm nhạc nhẹ
chuyên nghiệp được thành lập trên cả nước. Năm 1993, Liên hoan Các ban nhạc nhẹ
toàn quốc được tổ chức tại Đà Nẵng với thành phần ban giám khảo là các nhạc sĩ
tên tuổi bao gồm nhạc sĩ Thanh Tùng, nhạc sĩ Dương Thụ, nhạc
sĩ Nguyễn Cường cùng những nhạc sĩ khác.
NS Bảo Chấn
Ban nhạc Phương Đông, bao gồm ca sĩ Thanh Lam, nhạc
sĩ Quốc Trung (keyboard, hòa âm - phối khí chính), cùng "bộ sậu
anh tài của nhạc nhẹ Hà Nội" lúc bấy giờ là Ngọc Quân (trống), Vũ Hà
(bass), Lương Bình (guitar chính) và Trần Mạnh Tuấn (saxophone).
Ban nhạc đã đoạt giải nhất tại cuộc thi. Hạng nhì thuộc về Hoa Sữa, ban nhạc
của nhạc sĩ Vũ Quang Trung, giúp giọng ca 17 tuổi Mỹ Linh khi ấy
giành giải "Ca sĩ trẻ gây ấn tượng". Hạng ba của liên hoan đã thuộc về
nhóm nhạc rock Đen Trắng của cặp đôi Ngọc Lễ và Phương
Thảo.
Việt Nam thời đoạn
này giao lưu với âm nhạc thế giới ngày càng rộng rãi hơn với mật độ dày
hơn. Ấn tượng nhất là nhóm nhạc Rock Michall Learns To Rock (viết tắt
là MLTR) là một ban nhạc nổi tiếng Đan Mạch với các ca khúc bằng tiếng
Anh, gồm có các “thần tượng” của giới trẻ yêu âm nhạc: ca sĩ kiêm tay đánh
keyboard Jascha Richter, tay trống Kåre Wanscher, tay guitar Mikkel
Lentz, tay bass Søren Madsen. Họ sang biểu diễn tại Hà Nội và TPHCM vào
tháng 12 năm 1997 được sự nhiệt tình chào đón của truyền thông và người hâm mộ.
Sau nầy, họ còn sang Việt Nam đến lần thứ ba và lần nào nọ cũng được các
fan cuồng nhiệt tung hô ở sân bay, ở khách sạn và hân hoan đổ nhau về sàn diễn
để xem các thần tượng của mình biểu diễn.
Các sự kiện âm nhạc
trên hầu hết xảy ra ở TP HCM. Điều đó chứng tỏ rằng dòng nhạc nhẹ đương thời khởi
phát từ đây rồi tỏa ra cả nước.
Lúc này, quan niệm
về nhạc nhẹ lúc này đã thay đổi từ chỗ phủ nhận hoàn toàn đến tiếp nhận có chọn
lọc rồi mặc nhiên chấp nhận và cuối cùng là chính thức công nhận. Khái niệm
"nhạc nhẹ" đã chính thức xuất hiện, được xếp vào một trong ba
dòng nhạc chính
Tác giả giữa 2 NS Phan Thiết và Hồng Vân (phải)
(cùng với nhạc cổ điển thính phòng và nhạc dân
gian) và từ ngữ này được sử dụng hiều trong các báo chí, phương tiện đại
chúng và cả trong các cuộc thi, liên hoan… với những cụm từ: ca sĩ nhạc nhẹ,
phong cách nhạc nhẹ, ban nhạc nhẹ,… gần như đồng hóa với nhạc phổ thông. Đó là loại
nhạc nhẹ nhàng, êm dịu có chức năng chủ yếu là giải trí, có nội dung,
hình thức đơn giản, dễ nhớ và thường có tính chất vui tươi, yêu đời, dễ
dàng được đông đảo công chúng, nhất là giới trẻ tiếp nhận, yêu thích.
Nguồn ảnh: Các NS Trọng Vĩnh, Hồng Vân và Internet.
Nguồn ảnh: Các NS Trọng Vĩnh, Hồng Vân và Internet.
Lê Thiên Minh Khoa
Nguồn: Trích "9 THẬP KỶ CA KHÚC TÂN NHẠC VIỆT NAM"
nghiên cứu và nhận định của Lê Thiên Minh Khoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét