Bồ Đề Đạt Ma "Thiền Tổ đầu tiên"
‘Ý nghĩa cuộc đời là nhận biết’
Bồ Đề Đạt Ma; Phật thứ 28 thuộc
Thiền Phật giáo. Xưa nay không ai biết chính danh của người. Rứa thì danh xưng
Bồ Đề Đạt Ma có từ đâu? Dựa vào Phạn ngữ (Sanscrit) để tìm thấy nguồn gốc của vị
khai sáng Thiền phái: Bồ đề (Bodhi) là ánh sáng, hư không, đấng giác ngộ tồn hữu
(lit, sans, one enlightened in essence). Đạt ma (Dharma) là đạo pháp hay còn gọi
là định niệm (Dhyana) một hiện hữu tồn lưu (being, existence).Và; từ đó có tên là
Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma). Thực ra; do phân tách ngôn từ hoặc phiên bản từ một
cỗ ngữ để trở thành tên Phật, hoặc có thể là Pháp danh hay Phật danh (Thích Bồ
Đề Đạt Ma). Tổ là người đạt tới một luân lý tối thượng, một trí tuệ siêu đẳng
và được gọi là tâm như phật toàn trí, toàn lực - A patriarch who has achieved
great moral, spirit wisdom and is a potential Buddha. Nhưng nhớ cho Phật ở đây
chủ trương Tự tính (le soi/self) và Tự ngã (atman/itself) là điều vô minh, mê vọng
đầu tiên của chúng ta. Nhận biết của Bồ Đề Đạt Ma là niệm, là ý thức, là giác
ngộ về quá trình diễn biến của hiện tại, quá khứ, vị lai là một định luật nhân
duyên, vượt lên tuyệt đối vô điều kiện; cho nên chi vô chấp là giải thoát,
ngã chấp là vô minh.Ý thức của Bồ Đề Đạt Ma là ý thức phản tỉnh tư duy về sự vật
là tri thức về lẽ Không (Sunyata) là Bát Nhã (Prãjna) để đi tới Tính Không
trong Thiền Phật giáo. (Tính-Không đúng nghĩa của nó nằm trong ‘Tứ Cú’ nghĩa là
Có, Không, lại Có Không mà chẳng lại Có Không). Đó là luận đề mà Bồ Đề Đạt Ma muốn
đem vào giáo lý của mình trong một ý thức thức tỉnh như lẽ đạo là vậy.
Bồ Đề Đạt Ma là vị tổ sư đầu tiên của Thiền phái
- Bodhidharma: First Patriarch of Zen. Theo truyền thuyết Thiền: sư người Thiên
Trúc (Indian monk) râu tóc bù rối có tên là Bồ Đề Đạt Ma (ca.470-532) vào khoảng
đầu thế kỷ thứ 6; con thứ của vua Hương Chi (Brahmin) xứ Nam Vực Thiên Trúc
(Southern Indian). Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa như một người khách lạ: nửa thực,
nửa giả, nửa tỉnh, nửa say không phải là dáng dấp của một đạo sĩ, bởi; tướng mạo,
phong cách quái đản, đôi mắt trợn tròng như giận dữ, râu tóc bù rối như người
điên, thời đó gọi ngài là Bích Nhãn Hồ (Rợ mắt xanh). Thế nhưng; ngài là đấng
tuyệt thế, trí tuệ siêu đẳng; quyết tâm hoằng dương và mở ra con đường đốn ngộ
trong việc tu… Xuất hiện vào một ngày đẹp trời ở đất Phương Nam thuộc
thành phố bến cảng Quảng Châu (Canton) vào khoảng năm 520. Và; khởi hành từ đó
xuống đông bắc để tới Nam Kinh (Nankin) gần cửa khẩu dòng sông Giang Tử
(Yangtze River). Vũ Đế (Wei) đời nhà Lương (Liang Dynasty) là vị vua mộ đạo Phật. Sau
những lần vấn đáp nổi tiếng giữa sư và vua; mà trong câu chuyện chúa, tăng có vẻ
bất đồng, bất kính, bất tôn. Bồ Đề Đạt Ma lặng lẽ rời khỏi cung điện Vũ vương với
thái độ khoan dung, mỉm cười ra đi. Bồ Đề Đạt Ma quyết tâm hướng về miền bắc
trung tâm Phật giáo;người trú ở chùa Thiếu Lâm (Shao-Lin) trên ngọn Tung Sơn
(Mt. Sung) cho 9 năm tỉnh lự diện bích –for nine years of meditation staring at
a wall. Dâng hiến hết lòng vào con đường tỉnh lự, mang theo một số kinh kệ có
trước là những phẩm kinh được truyền thừa vào Trung Hoa. Về sau được tôn vinh
là cha đẻ Thiền phái của người Trung Hoa. Tỉnh lự; người Trung Hoa gọi là
‘Ch’an’ hay còn gọi là ‘Ch’an Na’ (Thiền Na) một lối phát âm trẹo chữ của Phạn
ngữ (Sanskrit).
Bồ Đề Đạt Ma lôi cuốn vào những tư duy trong sáng về Đạo
(Taoism) là tôn giáo cổ ở Trung Hoa. Đạo (Tao) là nằm dưới bóng của vũ trụ như
nhiên (underlies all nature), trong những năm người tòng sự tu học và được coi
là bước đầu biên niên thuộc lịch sử, ghi lại những lời rao giảng thành kinh, kệ;
vượt qua hằng trăm năm sau, một dữ kiện đơn thuần về phép thực hành tỉnh lự.
Và; đời đã thần thánh hóa cuộc đời ngài như một huyền thoại của Thiền Phật
giáo; cũng có thể những lời nói vô hình nhưng hữu hình, thâm hậu mà trở nên
công-án (Konan) (?). Chưa một ai nói đến Tâm/ Ch’an mà có một âm vang gần gũi với
người Hoa; dần dà thấm nhuần đạo lý của Bồ Đề Đạt Ma và được tôn vinh là đấng
sáng lập đầu tiên về phép tu Thiền và khai mở ở Trung Hoa như một giáo phái:
Thiền Phật giáo. Một tôn giáo không có kinh điển.
Bồ Đề Đạt Ma là con người với một trí tuệ tuyệt hảo, sáng ngời
và soi rọi khắp vũ trụ. Bồ Đề Đạt Ma ước vọng đưa giáo điều này vào trong
tinh thần Phật giáo Đại thừa (Mahayana), một tôn giáo đại chúng. Con người và thể
cách của một nhà sư thế tục, chỉ mong cầu đạo và gieo vào đó một hiện hữu thánh
ý Phật (holiness). Bồ Đề Đạt Ma thực hành phép tu chính niệm và một tâm thanh tịnh
trong nghệ thuật tu tập về Thiền. Ngài nhận ra được giá trị trung thực của những
gì quan trọng trong con đường tỉnh lự. Thấu triệt những gì trong và ngoài; nghệ
thuật tu học là đức hạnh tối thượng hơn cả mẫu thức vũ trụ giới-inside,
outside he was transpicuous, his virtures were more than a model to the world.
Ngài vận dụng trí tuệ để triệt hạ những gì chính thống đã làm hư hại đôi phần
Phật pháp. Sự cớ đó đã cấu thành cho một hành trình đi về Đông phương nơi chứa
chấp một tư duy sương mù và huyền ảo. Đó là điểm hẹn của Bồ Đề Đạt Ma.
Ra đi của Bồ Đề Đạt Ma là một ý niệm dứt khoát, bởi; suy vi
Phật giáo ở Ấn Độ vào thời ấy (khoảng 520). Đi là lối về của ý (Path) một tâm
như thánh thiện vị tha để hoàn thành sứ mạng của một ‘đệ tử Phật’ sứ mạng của
tâm niệm chính pháp, hành trang bằng một tâm thức; cái Tâm chính yếu của con
người, cái tâm vô trụ, hướng tới tâm như nhiên, tâm vô thức để kiến tánh (thành
Phật) là hướng chỉ đạo của Thiền.
Thiền của Bồ Đề Đạt Ma là tâm phóng khoáng không câu nệ, thiệt
hơn; một giáo lý huyết mạch qui tụ trong Kinh Lăng Già (Lankavatara Sutra). Có
nhiều lối về của ý, nhưng nói gọn hơn chỉ có hai lối. Một là ‘Nhập bởi Trí
năng’ (Entrance by Reason) và mặc khác là ‘Nhập bởi Hành đạo’ (Entrance by
Conduct).
Bước đầu cho lối về của ý là Nhập bởi Trí năng, một diễn tả
chính xác, nhận thức trong sáng, thấu triệt mọi sự vật. Lối về của ý gần như là
một hòa nhập giữa Phật giáo và Lão giáo, bởi; mỗi phẩm kinh thường được dùng
như truyền thừa đưa dẫn con người cho bước đầu vào tỉnh lự và rồi đi tới cái vô
văn tự (nonliterary) mà chỉ là trạng huống nhận thức trong tất cả những gì có
tính cách đối ngẫu (dualities). Mọi trạng huống đều thuộc cảm thức nhận biết tự
chính nó như một phần có từ thế giới đang sống; mà tất thảy đã được xóa bỏ chỉ
còn lại một tâm như nhiên mà thôi. Đấy là lời biện minh cho đối tượng của Thiền.
Bước hai cho lối về của ý là Nhập bởi Hành đạo; có nghĩa rằng
chúng ta thực hiện một tinh thần Phật tính gần như dựa vào kinh điển cổ để truyền
dạy cho một kinh nghiệm thiện xảo và nghệ thuật về Thiền. Để rồi chúng ta đạt đến
một niềm tin như nhiên đúng nghĩa; ấy là một cách duy nhất và giống như một tri
nhận hiện hữu We then come to have a deep faith in True Nature which is one
and the same in all sentient beings. Lý do đó không không có nghĩa là biện chứng
cho một biểu lộ, một điều không thể nghi hoặc hay lấy đó để chứng minh ở tự nó
là thích đáng cho cái vỏ bề ngoài của chiếc áo cà sa với một tư duy siêu lý để
đánh bạt những tư tưởng sai lầm (chưa hẳn kinh điển là thực chứng cho giáo điều).
Trong khi con người bỏ rơi sự sai lầm và ôm đầm vào sự thật cho một tư duy tầm
thường. Bồ Đề Đạt Ma thấu triệt lẽ tự nhiên , thấu triệt lẽ nhân duyên để đi tới
một tỉnh lự nguyên dạng thể hoặc tự vấn ở chính mình bằng đôi mắt không đóng lại
trước hư không ‘wall-gazing’. Người không dẫn chúng sinh đi vào những gì văn vẻ,
kinh điển, giáo điều mà hướng tới tính không. Răng rứa? là vì tính không là một
nhất thể của Tâm, cái tâm vô lượng đại bi, một giao thông trực tiếp giữa con
người và như nhiện để kiến tánh. Bồ Đề cho rằng trong cái sự truyền thông vắng
lặng đó là phép chính yếu tự nó; dẫu là gì trầm lắng trong tỉnh lự là cao qúy
hơn phải nói thành lời, một giải thoát để tới ‘tự do’ từ những ý niệm khác biệt.
Đó là những gì Bồ Đề Đạt Ma đòi hỏi tĩnh lặng và không hành động
- Bodhidharma is serene and not-acting. Bồ Đề đã cho một thách đố trong việc tu
bằng kiểu thức sáng tạo về cái việc ‘pi-kuan/diện-bích/wall-gazing’ nhưng thực
ra điều đó có nghĩa là dự đoán do người đời nghĩ thế. Pi-kuan đôi khi được hiểu
như một ẩn dụ (metaphor) dựa trên dự tưởng ngầm để có một đối đầu của trí tuệ
trước những rào cản gây ra từ những hiểu biết. Chính những rào cản đó đưa người
ta đạt tới giác ngộ. Một nẻo về khác (hoặc Tao/ Đạo) được miêu tả qua lối về ‘Nhập
bởi Hành đạo/ Entrance by Conduct’ là lối cầu khấn viện dẫn nguồn cơn Phật giáo
Ấn độ. Miêu tả về ‘Hành/Conduct’ được chia ra bốn phẩm mà mỗi phẩm đều liên hệ
lẫn nhau là bao gồm tất cả có thể coi đó như thể loại tu tập cho những người tu
Phật. Rứa thì bốn phẩm đó là gì? Gồm có:
1- là làm sao thay vào lòng ghen ghét
(tức vị tha).
2- là tuân phục định mệnh nghiệp báo.
3- là không tham, si.
4- hiện
hữu trong nhất tâm với Pháp.
Trong bốn phẩm trên người tu Thiền phải rốt ráo,
nhận thức qua trí năng, tiêu diệt uẩn khí đề có thanh khí cho một tinh thần
trong sáng; ấy là đạo tu, một đạo đòi hỏi cái tâm là chính yếu. Vai trò của Thiền
là lắng đọng để thấy được thân tâm đang đối diện trước ngoại giới không chi phối
nội giới; nội giới chính là tâm như nhiên không vướng đục. Vì rứa mà có những vấn
đáp cầu kỳ không để cho tâm động trước sự vật, dù là sự vật không có thực. Tâm
trong bóng của Thiền là thế đấy!
Thiền là tinh thần toa rập khoa Yoga Ấn Độ và khoa Đạo Dẫn
Trung Hoa. Khi đạo Phật tràn vào Phương Đông (vào khoảng đầu kỷ nguyên) đã đưa
triết lý của hai khí công để hoà hợp vào trong Thiền. Thiền là trạng huống cực
cao của ý thức, vì vậy mỗi khi nói tới Thiền tức thời có Định là Thiền Định,
một trạng thái trầm tư mặc tưởng để tinh thần và thể xác lắng đọng, hoàn toàn
tinh khiết không chút ô nhiễm, thể xác không còn đọng lại (cảm giác) mà hồn
phách chìm trong trạng thái thần hóa (mystique).
Giữa Thiền Định (Dhyana) và Tam Muội (Samadhi) là một hỗn hợp trong thuật Yoga. Thiền định là trầm tư. Tam muội là mặc-niệm nghĩa là hai phép tu này không làm cho tri thức minh bạch về điều gì trong tinh thần để phân tách thế này là thiền và thế kia là niệm; vì tất cả nội dung của hai phép tu chứa ít nhiều chất liệu của ảo giác; đã thế thì làm gì có thế giới ý niệm phản chiếu vào sự hiểu biết mà tập trung trong một ý thức thuần trực. Rứa cho nên con người giữa vũ trụ này chỉ để lại mê muội trong cuộc đời, bởi; mọi nơi, mọi chốn chúng ta nhận ra là bừng lên lòng ham muốn, tức còn dục, thời còn bụi bám - Men of the world remain unawakened for life; everywhere we find them bound by their craving and clinging. Điều này gọi là vướng tục, mắc dính vào nhau. Vượt ra khỏi những trạng huống đó thời tất tâm ta thanh tịnh đại hải, một cõi riêng tuyệt hảo. Những gì đã vận hành vào là những gì ray rức đau khổ mà luôn luôn ý thức về những gì thuộc KHÔNG, bất luận những gì thuộc hiện tượng luận mà trong những gì tìm thấy đều không được thỏa lòng, không thích thú say mê…Trong kinh sách có nói: ‘Tất cả đau đớn xuất xứ từ chỗ bám vào; niềm vui thực sự mọc lên từ chỗ cách xa không vướng tới’ (All sufferings spring from attachment; true joy arises from detachment). Nhận biết một cách trong sáng là hạnh phúc riêng mình là sự thật của nẻo về của ý của lẽ Đạo - To know clearly to bliss of detachment is truly to walk on the Path of the Tao. Giáo pháp không có gì khác hơn Trí năng/Reason mà đó là tính chất tinh lọc. Trí năng trong bóng là hình thức vô-thể của tất cả mọi thể; là thoát tục từ mọi ô nhiễm, mọi hệ lụy và được biết về cái không ‘ngã’ và cũng không ‘phải ngã’ - It knows of neither ‘self’ nor ‘other’. Cái sự cớ này nằm trong luật tắc của Hành đạo/Conduct. Đây là một hợp nhất của ngã vị với thế giới bên ngoài. Bồ Đề Đạt Ma gọi đây là tâm như nhiên hoặc là trí năng trong sáng/ pure reason. Theo biên niên ghi lại, có lẽ; Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa vào năm 520, người ta cảm nhận và ngợi ca phép tu tỉnh lự của ngài và coi danh nghĩa này như phép kinh mật-thể, cũng có thể đây là một thức tỉnh và có một ý nghĩa tối thượng của Phật giáo Trung Hoa. Đấy là một trong những thành quả thu nhận được trong sứ mệnh truyền giảng đạo pháp của Bồ Đề; ngoài những gì mà ngài nhận ra được, một hình ảnh trong sáng và phản chiếu. D.T. Suzuki tóm tắc về điều này: ‘Giữa lúc này không có gì đặc biệt hơn Thiền trong giáo lý của ngài về Hai Nhập và Bốn-hành’ là pháp quyết định. (While there was nothing specifically Zen in his doctrine of ‘Two Entrance and Four Acts’) .
Giữa Thiền Định (Dhyana) và Tam Muội (Samadhi) là một hỗn hợp trong thuật Yoga. Thiền định là trầm tư. Tam muội là mặc-niệm nghĩa là hai phép tu này không làm cho tri thức minh bạch về điều gì trong tinh thần để phân tách thế này là thiền và thế kia là niệm; vì tất cả nội dung của hai phép tu chứa ít nhiều chất liệu của ảo giác; đã thế thì làm gì có thế giới ý niệm phản chiếu vào sự hiểu biết mà tập trung trong một ý thức thuần trực. Rứa cho nên con người giữa vũ trụ này chỉ để lại mê muội trong cuộc đời, bởi; mọi nơi, mọi chốn chúng ta nhận ra là bừng lên lòng ham muốn, tức còn dục, thời còn bụi bám - Men of the world remain unawakened for life; everywhere we find them bound by their craving and clinging. Điều này gọi là vướng tục, mắc dính vào nhau. Vượt ra khỏi những trạng huống đó thời tất tâm ta thanh tịnh đại hải, một cõi riêng tuyệt hảo. Những gì đã vận hành vào là những gì ray rức đau khổ mà luôn luôn ý thức về những gì thuộc KHÔNG, bất luận những gì thuộc hiện tượng luận mà trong những gì tìm thấy đều không được thỏa lòng, không thích thú say mê…Trong kinh sách có nói: ‘Tất cả đau đớn xuất xứ từ chỗ bám vào; niềm vui thực sự mọc lên từ chỗ cách xa không vướng tới’ (All sufferings spring from attachment; true joy arises from detachment). Nhận biết một cách trong sáng là hạnh phúc riêng mình là sự thật của nẻo về của ý của lẽ Đạo - To know clearly to bliss of detachment is truly to walk on the Path of the Tao. Giáo pháp không có gì khác hơn Trí năng/Reason mà đó là tính chất tinh lọc. Trí năng trong bóng là hình thức vô-thể của tất cả mọi thể; là thoát tục từ mọi ô nhiễm, mọi hệ lụy và được biết về cái không ‘ngã’ và cũng không ‘phải ngã’ - It knows of neither ‘self’ nor ‘other’. Cái sự cớ này nằm trong luật tắc của Hành đạo/Conduct. Đây là một hợp nhất của ngã vị với thế giới bên ngoài. Bồ Đề Đạt Ma gọi đây là tâm như nhiên hoặc là trí năng trong sáng/ pure reason. Theo biên niên ghi lại, có lẽ; Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa vào năm 520, người ta cảm nhận và ngợi ca phép tu tỉnh lự của ngài và coi danh nghĩa này như phép kinh mật-thể, cũng có thể đây là một thức tỉnh và có một ý nghĩa tối thượng của Phật giáo Trung Hoa. Đấy là một trong những thành quả thu nhận được trong sứ mệnh truyền giảng đạo pháp của Bồ Đề; ngoài những gì mà ngài nhận ra được, một hình ảnh trong sáng và phản chiếu. D.T. Suzuki tóm tắc về điều này: ‘Giữa lúc này không có gì đặc biệt hơn Thiền trong giáo lý của ngài về Hai Nhập và Bốn-hành’ là pháp quyết định. (While there was nothing specifically Zen in his doctrine of ‘Two Entrance and Four Acts’) .
Phương thức ‘diện-bích/pi-kuan/wall-contemplation’ là phép tu
tiên khởi do Bồ Đề Đạt Ma lập ra, vị tổ sư đầu tiên của Thiền Phật giáo Trung
Hoa. Suzuki lý giải về cái sự đối diện bức tường là đưa cái tâm vào trạng huống
vô lự, mà trong tỉnh lự đã chất chứa lý lẽ trí tuệ để đạt tới một sự bừng dậy
toàn diện - Suzuki interprets pi-kuan as referring to the mind in a thoughtless
state, in which meditation has permitted the rational mind to be suppressed
entirely. Tỉnh lự là mục đích đi tới để thấy được cái tâm ở chính mình thay vì
phải phát triển những gì thuộc về huyền ảo. Thiền Na/Dhyana vốn đã có trước
đây, nhưng nay tìm thấy cái thâm hậu sâu sắc, một phép tu mới đem đến cho
Trung Hoa bởi Bồ Đề Đạt Ma. Và; từ đó lôi cuốn vô số đệ tử tu học theo phương
thức của ngài. Trong thời gian ở Trung Hoa Bồ Đề Đạt Ma đã đối chất và ngẫu hứng
trong lúc tu luyện; trong số đó có Huệ Khả (Hui-K’o) (487-593) để lại những lời
đối chất nổi tiếng như một giá trị chứng thực trong phép tu Thiền của Bồ Đề Đạt
Ma. Sự gặp gở giữa Huệ Khả và Bồ Đề Đạt Ma là một tri nhận, bởi; thái độ giữa
thầy trò là thái độ cùng cực, thái độ của bế tắc trước tình huống; cái khó của
hai tâm trạng không còn thấy lối về của ý mà đang dẫm chân trên lối mòn (path)
thế tục.
Một nhận và một khẩn cầu. Hoàn cảnh của tha nhân không vin vào sự tu mà vin vào giải thoát đó là thách đố trên đường về của ý, của hạnh nguyện lợi tha. Huệ Khả không đến để khẩn cầu hay tìm đến hiếu tri của một hiền giả mà tìm đến của con người tuyệt vọng cùng cực. Huệ Khả đến với tấm lòng vô hạn, một tâm như thoát tục hoàn toàn đang còn vất vơ giữa trần đời. Huệ Khả đại diện cho tha nhân như để ‘cứu chuộc’, kẻ đang đi trong đêm tối với ngạ qủy. Huệ Khả đứng suốt đêm dưới tuyết, chặt tay chờ Bồ Đề Đạt Ma an tâm. Huệ Khả ngộ chứng trong những câu vấn đáp ít ỏi đó mà chứa đựng cả một trời hư vô giữa thầy và trò. Chúng ta không cần phải đòi hỏi, lý giải cầu kỳ mà chứng thực từ câu chuyện huyền thoại đó để có một tri nhận qua tinh thần ‘tôn giáo’ Thiền. Khi nhận ra được tức ngộ là giải thoát ở chính mình không cần nhờ tới Phật. Cầu Phật ngay ở ta. Răng rứa? Vì; ‘đạo lý của Phật chỉ có thể cầu được là sau khi trải qua sức tinh cần nhiều kiếp, chịu đựng những gì bức xúc nhất và phải đương đầu trước hoàn cảnh chớ đem cái đức nhỏ nhen, kể lể với đầu óc cạn cợt để cầu đạo vô thượng thì nhọc công và chẳng được gì cả’ (lời dạy của Bồ Đề Đạt Ma) Thiền không vòng vo tam quốc. Rứa Thiền là cái gì? Là phát hiện trở lại tự tánh, một tự tánh siêu việt đã phủ lấp bởi vọng niệm. Rứa thì tu Thiền để làm gì? để thấy tâm thực, tâm như phật là lối về của ý tức thực hiện được sự trở về. Về trong ý niệm nhân tâm. Rứa thì Thiền đo cưa, đòi hỏi thì đâu còn gọi là tâm-nguyện (Ch’an)? Mục đích rốt ráo của Thiền là Thức-Tỉnh. Trí tuệ thức tỉnh là nhận thức đúng về một thực tại hóa thân (metamorphosis). Hóa thân là tội lỗi chất chứa (tham sân si, vọng huyễn) trong mỗi con người. Ấy là điều phải vượt thoát để tìm lối về của tâm-đại-bi (Mahakãruna). Thiền là dập tắt mọi vọng niệm, mọi hư ảo để đi tới Không. Chính cái lý đó là thâm hậu của Thiền mà Bồ Đề Đạt Ma đề xuất qua lời kinh rao giảng, truyền khẩu để đi vào thân tâm mà không qua kinh điển. Trong kinh Tượng Đầu Tinh Xá của Tỳ Ni Đa Lưu Chi: “Tất cả là KHÔNG chỉ lấy BÁT NHÃ làm nơi an trú”. Thực ra trong Thiền chẳng có gì nên mà cũng chẳng có gì không nên. Ngay cả Ngũ Uẩn là trống không và Tứ Đại là giả hợp. Đó là lý do tại sao Bồ Đề Đạt Ma chỉ có nói Không mà không nói Có. Vì Có, Không là một mà chỉ kêu gọi Đạo/ Tao (nhập vào Đạo của Trung Hoa) để có ‘tâm bình thường’. Đạo ở đây ngụ ý là vô thức, tác động thường trực trong ý thức chúng ta. Bình thường thì không có chấp trượt, chấp trượt là huyễn hóa. Thiền cần có một tâm thanh tịnh, quán chiếu để giác ngộ, giải thoát khỏi nghiệp chướng. Tối hậu của Thiền là thức tỉnh, là tuệ giác vô biên, lòng bi mẫn vô hạn và năng lực là cứu cánh là phương tiện; ấy là mục đích của Thiền. Thiền không nói nhiều, không văn tự mà chỉ cần niệm để mở ra con đường sáng tới chân như. Tánh không của Thiền nằm trong đó. Rứa thôi!
Một nhận và một khẩn cầu. Hoàn cảnh của tha nhân không vin vào sự tu mà vin vào giải thoát đó là thách đố trên đường về của ý, của hạnh nguyện lợi tha. Huệ Khả không đến để khẩn cầu hay tìm đến hiếu tri của một hiền giả mà tìm đến của con người tuyệt vọng cùng cực. Huệ Khả đến với tấm lòng vô hạn, một tâm như thoát tục hoàn toàn đang còn vất vơ giữa trần đời. Huệ Khả đại diện cho tha nhân như để ‘cứu chuộc’, kẻ đang đi trong đêm tối với ngạ qủy. Huệ Khả đứng suốt đêm dưới tuyết, chặt tay chờ Bồ Đề Đạt Ma an tâm. Huệ Khả ngộ chứng trong những câu vấn đáp ít ỏi đó mà chứa đựng cả một trời hư vô giữa thầy và trò. Chúng ta không cần phải đòi hỏi, lý giải cầu kỳ mà chứng thực từ câu chuyện huyền thoại đó để có một tri nhận qua tinh thần ‘tôn giáo’ Thiền. Khi nhận ra được tức ngộ là giải thoát ở chính mình không cần nhờ tới Phật. Cầu Phật ngay ở ta. Răng rứa? Vì; ‘đạo lý của Phật chỉ có thể cầu được là sau khi trải qua sức tinh cần nhiều kiếp, chịu đựng những gì bức xúc nhất và phải đương đầu trước hoàn cảnh chớ đem cái đức nhỏ nhen, kể lể với đầu óc cạn cợt để cầu đạo vô thượng thì nhọc công và chẳng được gì cả’ (lời dạy của Bồ Đề Đạt Ma) Thiền không vòng vo tam quốc. Rứa Thiền là cái gì? Là phát hiện trở lại tự tánh, một tự tánh siêu việt đã phủ lấp bởi vọng niệm. Rứa thì tu Thiền để làm gì? để thấy tâm thực, tâm như phật là lối về của ý tức thực hiện được sự trở về. Về trong ý niệm nhân tâm. Rứa thì Thiền đo cưa, đòi hỏi thì đâu còn gọi là tâm-nguyện (Ch’an)? Mục đích rốt ráo của Thiền là Thức-Tỉnh. Trí tuệ thức tỉnh là nhận thức đúng về một thực tại hóa thân (metamorphosis). Hóa thân là tội lỗi chất chứa (tham sân si, vọng huyễn) trong mỗi con người. Ấy là điều phải vượt thoát để tìm lối về của tâm-đại-bi (Mahakãruna). Thiền là dập tắt mọi vọng niệm, mọi hư ảo để đi tới Không. Chính cái lý đó là thâm hậu của Thiền mà Bồ Đề Đạt Ma đề xuất qua lời kinh rao giảng, truyền khẩu để đi vào thân tâm mà không qua kinh điển. Trong kinh Tượng Đầu Tinh Xá của Tỳ Ni Đa Lưu Chi: “Tất cả là KHÔNG chỉ lấy BÁT NHÃ làm nơi an trú”. Thực ra trong Thiền chẳng có gì nên mà cũng chẳng có gì không nên. Ngay cả Ngũ Uẩn là trống không và Tứ Đại là giả hợp. Đó là lý do tại sao Bồ Đề Đạt Ma chỉ có nói Không mà không nói Có. Vì Có, Không là một mà chỉ kêu gọi Đạo/ Tao (nhập vào Đạo của Trung Hoa) để có ‘tâm bình thường’. Đạo ở đây ngụ ý là vô thức, tác động thường trực trong ý thức chúng ta. Bình thường thì không có chấp trượt, chấp trượt là huyễn hóa. Thiền cần có một tâm thanh tịnh, quán chiếu để giác ngộ, giải thoát khỏi nghiệp chướng. Tối hậu của Thiền là thức tỉnh, là tuệ giác vô biên, lòng bi mẫn vô hạn và năng lực là cứu cánh là phương tiện; ấy là mục đích của Thiền. Thiền không nói nhiều, không văn tự mà chỉ cần niệm để mở ra con đường sáng tới chân như. Tánh không của Thiền nằm trong đó. Rứa thôi!
Để phù hợp với những huyền thoại khác nhau về Bồ Đề Đạt Ma.
Ngài chết vì trúng độc thọ 150 tuổi và được chôn cất dưới chân núi Hồ Nam
(Honan) không bao lâu được đổi thành tên là Tung Sơn (Mt. Sung). Có sách nói
ngài đã hồi hương (Ấn Độ) mang theo nhiều phẩm kinh. Có người lại gặp ngài trên
núi Tung Sơn ăn vận cẩu thả, râu tóc trắng phau đi chân trần, vát gậy trúc trên
vai với đôi dép cỏ. Sau những năm tháng vắng bóng, qua hằng thế kỷ người Trung
Hoa cũng như những nước cận Đông tu tập phép tu Thiền của Bồ Đề Đạt Ma như lẽ đạo.
Sơn Dương (Sun Yun) đệ tử của Bồ Đề tường thuật thêm rằng: trở lại viếng mộ thầy
thấy người ta đào mồ Bồ Đề Đạt Ma để biết thực hư chỉ thấy ở áo quan trống rỗng
với đôi giày vải… Rất nhiều câu chuyện kể về huyền thoại này. Đều tìm thấy câu
trả lời không thực vấn đề như đã nói; tợ nhau cả. Rứa thì làm răng? Có răng hay
không có răng như lời Bồ Đề nói: ‘Tất cả là Không/ Nothingness/ Néant’. Nếu như
Bồ Đề Đạt Ma không hiện hữu ở đời thì việc đó có thể là tối cần đối với người
sáng lập ra giáo phái này; dẫu là hư cấu (fiction) hay không hư cấu
(non-fiction), dẫu là huyền thoại hay lịch sử. Quan trọng là ta bước tới, luyện
tới, tu tới với một nhận biết về Thiền. Ấy là đạo vậy.
TRANH VẼ: ‘Bồ Đề Đạt Ma/ Bodhidharma’ Khổ 10’ x14’.
Trên giấy cứng. Acrylic+House-paint. Vcl#792015.
Võ Công Liêm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét