Từ trước tới nay đã có không ít định nghĩa về thơ nhưng
xem ra chưa có định nghĩa nào thỏa mãn người đọc. Đơn giản là do nội hàm khái
niệm thơ vô cùng phong phú.
Tùy từng thời đại, từng xu hướng, từng nhà thơ mà hiểu thơ
khác nhau, nhiều khi phủ định nhau. Thời cổ đại có khuynh hướng xem thơ thuộc
lĩnh vực thần bí. Nhà triết học, mỹ học Hy Lạp Platon (427-347 TCN) cho rằng
khi làm thơ thi sĩ bị thần linh chi phối. Nhà thi học Lục Cơ (261-303) của
Trung Quốc đã lý giải về sự sinh thành của thơ là do sự rung động của Đạo.
Quan niệm chính thống về thơ của Nho giáo là “thi ngôn chí”
(Thiên Thuấn điển trong Kinh Thư). Quan niệm này cũng đã thống
trị hàng ngàn năm thơ Trung đại Việt Nam. Phan Phu Tiên (1370- 1462, đời Trần)
đã viết trong lời tựa Việt âm thi tập tân san: “Trong lòng có điều gì tất
hình thành ở lời cho nên thơ để nói chí vậy” [9, tr.239].
Trong thơ Trung Quốc cổ còn có quan niệm “thi ngôn tình” xuất
hiện từ thế kỷ III (đời Tấn). Quan niệm “thi ngôn tình” đã ảnh hưởng
rõ nét đến trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong thơ Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII
- nửa đầu thế kỷ XIX mà tiêu biểu là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Quan
niệm “thi ngôn tình” gần với thuyết biểu hiện trong thơ phương Tây. Theo đó,
thơ là sự tuôn tràn, bột phát những tình cảm mãnh liệt.
Nếu nhà thơ lãng mạn Pháp A.Musset (1810 - 1857) cho thơ là cảm
xúc với luận điểm nổi tiếng “Hãy đập vào trái tim, thiên tài là ở đó”, thì nhà
thơ tượng trưng P.Valéry (1871 - 1945) cho thơ là sự nở hoa của trí tuệ.
Các nhà thơ phương Tây thời kỳ hiện đại có xu hướng xem thơ
là nghệ thuật ngôn từ. Làm thơ tức là làm cho ngôn ngữ trở thành tác phẩm nghệ
thuật.
Theo các nhà cấu trúc luận Pháp, thơ là một hệ thống ký hiệu.
Ý nghĩa của tác phẩm thơ tùy thuộc vào các quan hệ bên trong văn bản.
Phê bình mới Mỹ xem thơ là một hình thức ngôn ngữ có tính chất
tự quy chiếu và tự đầy đủ cho nó.
Còn có cách làm sáng tỏ đặc trưng của thơ bằng cách đối lập với
văn xuôi. Chức năng ngữ học của văn xuôi là định danh và biểu đạt. Chức năng ngữ
học của thơ là khơi gợi trí tưởng tượng sáng tạo.
Ở Việt Nam, trong mấy chục năm trở lại đây, đã có nhiều người
nỗ lực định nghĩa thơ. Hà Minh Đức trong công trình Thơ và mấy vấn đề
trong thơ Việt Nam hiện đại [2], Mã Giang Lân trong công trình Tìm hiểu
thơ [5] đã tổng hợp nhiều ý kiến về thơ của các nhà nghiên cứu, nhà thơ rất
thú vị.
Đáng chú ý, trên Tạp chí Văn học số 1 (1991), Nhà
nghiên cứu Phan Ngọc đã có bài viết Thơ là gì?. Trong bài này, ông cho rằng
định nghĩa thơ phải đáp ứng những yêu cầu sau:
“a, Có giá trị phổ quát, áp dụng cho mọi hiện tượng gọi
là thơ trên trái đất này, bất chấp mọi ngôn ngữ, thời gian, tập quán, trường
phái.
b, Mang tính hình thức giúp người ta nhận được ngay thơ,
không cần phải có kinh nghiệm và hiểu biết nghệ thuật.
c, Giúp người ta nắm được thực chất của thơ để làm thơ, đọc
thơ, giảng thơ có hiệu quả”.
Phan Ngọc đã định nghĩa: “Thơ là cách tổ chức ngôn ngữ hết sức
quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và phải suy nghĩ do
chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này” [6].
Có thể thấy, yêu cầu của Phan Ngọc đối với định nghĩa thơ là
quá cao, và chính định nghĩa của ông cũng còn có chỗ để bàn. Thơ được sáng tạo
theo quy luật của cái đẹp. Nếu “hết sức quái đản” thì đã ra ngoài địa
hạt thơ.
Chúng tôi chỉ mới dẫn ra một số ý kiến nhận diện thơ. Để có một
định nghĩa thơ được mọi người chấp nhận là một điều dường như bất khả. Chế Lan
Viên đã nói lên một tâm trạng rất thật: “Chả lẽ tôi hì hục làm thơ mấy chục năm
trời lại trả lời rằng thơ cũng khó định nghĩa như điện, như tình yêu ấy. Thế
thì điệu quá, làm bộ làm tịch quá. Nhưng thực ra tôi chưa hiểu hết thơ đâu. Tôi
cũng có định nghĩa nhiều lần đấy, nói hẳn hoi, viết hẳn hoi nhưng lần này định
nghĩa thì lần sau nắn lại. Chỗ này định nghĩa thì chỗ khác bổ sung. Vẫn còn
nghĩ tiếp…” [11, tr.96].
Mặc dù khó khăn vậy, chúng tôi xin đưa ra thêm một định nghĩa
thơ, góp phần mình vào thi học: Thơ là nghệ thuật ngôn từ, sáng tạo theo
các nguyên lý: Lạ hóa, có tính nhạc và sử dụng tối ưu các thủ pháp nghệ thuật, nhằm
chia sẻ với người đọc những cảm xúc, suy ngẫm trong một giá trị thẩm mỹ độc
đáo.
Sau đây chúng tôi xin làm sáng tỏ định nghĩa này.
1. Thơ là nghệ thuật ngôn từ
Điều đầu tiên chúng tôi muốn nhấn mạnh trong định nghĩa của
mình: Thơ là nghệ thuật ngôn từ.
Nhiều nhà nghiên cứu đã trích dẫn các định nghĩa thơ từ
phương diện nội dung trữ tình. Ví dụ như: “Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình,
tiếng nói đồng chí”…“Thơ là tiếng nói tri âm”… “Thơ là chuyện đồng điệu” (Tố
Hữu) [3, tr.423]. Điều này dễ dẫn đến ngộ nhận rằng bản chất của thơ là ở nội
dung trữ tình, nghệ thuật chỉ là phương tiện để thể hiện nội dung. Một số quan
niệm thơ từ xưa tới nay đã củng cố cách hiểu đó. Ví dụ như quan niệm “thi
ngôn chí” (thơ để nói chí) của Nho giáo.
Thơ có thể gắn với chính trị, triết học, đạo đức học… nhưng
phải biến tất cả thành như là vấn đề của nội tâm cá nhân nhà thơ. Nghĩa là thơ
phải xuất phát từ bộ máy cảm quan độc đáo, không lặp lại của chính người làm
thơ. Nhà thơ Nga nổi tiếng V.Mayacovsky (1893-1930) tâm niệm:
Chuyện cách mạng, chuyện đất nước vang lên
Hay chuyện chính con tim tôi đó.
Thông điệp mà nhà thơ gửi đến bạn đọc phải thấm đẫm chất thơ ở
nội dung trữ tình. Nhưng chỉ riêng điều đó thôi là chưa đủ. Nội dung ấy phải được
đồng thời thể hiện ra một độc đáo, có nghệ thuật. V. Mayacovsky đã nói lên lao
động sáng tạo thơ căng thẳng như thế nào:
Phải tốn hàng nghìn cân quặng chữ
Thi thánh đời Đường Đỗ Phủ (712 - 770) thì trăn trở: “Ngữ bất
kinh nhân tử bất hưu” (Lời thơ chưa làm cho người ta thán phục, đến chết chưa
ngơi nghỉ).
Thơ muốn mang bất cứ sứ mệnh lớn lao nào thì trước hết phải
có chất thơ. Bản chất thơ là nghệ thuật ngôn từ.
2. Nguyên lý lạ hóa của thơ
Lạ hoá không chỉ là thủ pháp mà còn là nguyên lý căn bản của
thơ. Nhà thơ là người không chịu nhìn cuộc sống theo quan niệm của số đông,
theo “lẽ phải thông thường” đã trở nên quen thuộc, sáo mòn. Đối tượng công phá
thường trực của thơ là sự rập khuôn, máy móc của tư duy, của cách cảm, cách
nghĩ, cách viết mà người ta sa vào một cách tự động, nhiều khi không tự biết.
Thơ phải gây được hiệu ứng tâm lý ngạc nhiên, thú vị và khâm phục ở người tiếp
nhận: Ngạc nhiên ở khả năng nhìn ra cái mới nơi thế giới quen thuộc, ngạc nhiên
ở tài năng sáng tạo của nhà thơ trong việc sử dụng ngôn từ và các thủ pháp nghệ
thuật.
Đã có hàng vạn câu thơ về mùa thu nhưng thơ Bích Khê trong
bài Tỳ bà vẫn ánh lên vẻ đẹp mới lạ:
Ô! hay! buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: thu mênh mông.
Sứ mệnh của thơ là sáng tạo cái mới. Thơ không chỉ bỏ qua cái
non yếu, cái lạc hậu mà còn bỏ qua cả cái đẹp, cái hay đã quen thuộc. Những người
làm thơ đều hiểu lao động sáng tạo căng thẳng như thế nào để tránh sự sáo mòn
trong cách cảm, cách nghĩ, cách thể hiện, để làm mới ngôn ngữ thơ.
Trong ý thức sáng tạo, nhà thơ chân chính luôn là người đi
trước tầm đón nhận của bạn đọc ít nhất “nửa vành bánh xe”. Mỗi tác phẩm thơ
chân chính là một phát minh và là một sự nới rộng đường biên thơ. Thơ không chỉ
là câu chuyện tri âm, nói những điều ai cũng cảm thấy thế nhưng không viết
thành thơ được; nhà thơ là người nói hộ, nói thay những điều đồng điệu ở bạn đọc.
Thơ còn khám phá những điều chưa biết, đặc biệt là những vùng mờ, vùng bí ẩn
trong thế giới tinh thần của con người như vô thức, tiềm thức, tâm linh. Vì vậy
ngôn ngữ thơ có khi không dễ hiểu. Đó là tinh thần sáng tạo của các trường phái
thơ theo chủ nghĩa hiện đại mà một thời đã bị không ít người nhân danh chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa để ra sức phủ nhận.
Với người làm thơ hồn nhiên, viết là để giải thoát suy tư, cảm
xúc. Với bạn đọc bình thường, thơ là một văn bản để nhập cảm, tri âm. Nhưng nếu
là nhà thơ chuyên nghiệp, phải hiểu thơ là một công trình nghệ thuật độc đáo, mới
lạ về cách cảm, cách nghĩ, cách thể hiện và nghệ thuật ngôn từ. Đối tượng hướng
tới của thơ hiện đại phải là bạn đọc hàng đầu. Mỗi bài thơ phải là một tác phẩm
nghệ thuật có tính sáng tạo, đem đến cho bạn đọc những điều mới lạ. Mới lạ
ngay từ đơn vị câu thơ:
– Anh yêu em như người thương binh yêu cái chân còn lại của
mình (V.Mayacovsky).
– Anh già hơn em một cuộc chiến tranh (Thu Bồn)
Làm sao quên những câu thơ như vậy?
Có thể thực tế sáng tác không theo kịp nhận thức lý luận,
nhưng khi đã ngộ ra nguyên lý của thơ là lạ hóa, nhà thơ sẽ không cho phép
mình viết những câu thường tình, đơn giản, lặp lại mình, lặp lại người khác.
Nguy cơ thường xuyên của thơ là sa vào sự thường tình, không gây nên một sự ngạc
nhiên thú vị nào.
3. Nguyên lý tính nhạc của thơ
Quan niệm thơ đã thay đổi rất nhiều theo thời gian, trường
phái, cá tính sáng tạo của nhà thơ…, nhưng có một nguyên lý bất di bất dịch:
Thơ phải có tính nhạc. Tính nhạc không chỉ phân biệt thơ với các loại hình nghệ
thuật ngôn từ khác mà còn làm cho mỗi bài thơ là một sinh thể nghệ thuật. Có thể
thấy mỗi bài thơ hay thật sự có một cấu trúc nhạc tính riêng.
Trong thơ cổ, tính nhạc có tính chất khuôn mẫu và đã được
đúc kết thành các thể thơ. Lao động sáng tác của nhà thơ gợi người ta nghĩ đến
công việc soạn lời cho các làn điệu dân ca.
Trong thơ hiện đại mỗi bài thơ phải có tính nhạc độc đáo. Ở mỗi
bài thơ hay ta thấy lời thơ được linh cảm về nhạc của thi sĩ dẫn dắt, nhịp điệu
vừa tự do, vừa liên hệ với kết cấu nhạc tính toàn bài, không vi phạm “luật pháp
của âm thanh”, cuốn hút người đọc. Thậm chí nhạc có thể đi trước ngữ nghĩa, ta
chưa kịp hiểu đã cảm thấy hay như trong thơ tượng trưng. Ví dụ tiêu biểu là
tính nhạc của bài thơ Màu thời gian (Đoàn Phú Tứ). Dù không hiểu, hoặc
hiểu rất ít, nhưng do nhạc tính độc đáo, bài thơ dễ được bạn đọc đồng tình xem
là một trong những tác phẩm hay nhất của phong trào Thơ Mới (1932 - 1945).
Một số bài thơ hiện đại có thể cảm thấy hay mà không cần sự
hiểu. Để cảm được, bài thơ phải có tính nhạc độc đáo. Mỗi bài thơ phải có một
nhạc điệu riêng, không lặp lại. Có một nguyên lý ai cũng biết là nội dung nào,
hình thức ấy. Hình thức thơ tự do không vần là rất thích hợp với việc tạo nên
tính nhạc độc đáo của từng bài thơ. Theo thống kê của chúng tôi “trong 1144 bài
thơ của tuyển tập Thơ Việt Nam 1975 - 2000 (Nxb Hội Nhà văn, 2001) có
645 bài (56%) được viết theo thể thơ tự do” [1, tr.185].
Để tạo nhạc tính đặc biệt, một số nhà thơ đã mô phỏng âm
thanh các hiện tượng đời sống bằng yếu tố ngữ âm. Trong bài Noel II, Dương
Tường đã mô phỏng âm thanh tiếng chuông đêm Noel:
Em
về phố lặng
lòng
đổ chuông
llềnh
llềnh nước
lli
lluang
lloang
llưng
Bài thơ có thể gây ấn tượng cầu kỳ, nhưng là một thể nghiệm
đáng được quan tâm.
Một số người lại cho rằng thơ hiện đại không phải để ngâm mà
là để đọc, nhạc điệu thơ không còn mấy ý nghĩa. Họ làm thơ mà không quan tâm đến
tính nhạc. Lời đã không hiểu, tính nhạc lại không có thì lấy gì để truyền cảm?
Đây là một trong những nguyên nhân làm cho thơ tự đánh mất độc giả.
4. Nguyên lý sử dụng tối ưu cácthủ pháp nghệ thuật
Thơ là một giá trị tổng hợp, nhưng trước hết là nghệ thuật
ngôn từ. Vì vậy các thủ pháp nghệ thuật có một vai trò rất quan trọng. Trường
phái Hình thức Nga có phần cực đoan khi cho nghệ thuật như là thủ pháp nhưng
luận điểm ấy có tác dụng nhấn mạnh bản chất nghệ thuật của thơ. Chất thơ thể hiện
không chỉ ở nội dung trữ tình mà còn ở chỗ nhà nghệ sĩ ngôn từ đã sáng tạo bằng
các thủ pháp nào.
Trên con đường phát triển, thơ vừa tích luỹ các thủ pháp nghệ
thuật truyền thống, vừa không ngừng sáng tạo các thủ pháp mới. Với phong trào
Thơ Mới, ngoài những thủ pháp nghệ thuật thơ truyền thống như nhân hóa, so
sánh, ẩn dụ…, thơ Việt Nam đã giàu có thêm các thủ pháp mới như: Miêu tả khách
thể thẩm mỹ một cách cụ thể, cảm tính (thơ “tả chân”), phức hợp (tương hợp) cảm
giác, kết hợp những từ xa nhau về trường ngữ nghĩa, kết cấu bài thơ bằng nhạc
tính…
Tất cả kinh nghiệm sáng tạo thi ca cổ, kim, đông, tây… đều có
ích, nhưng điều quan trọng là nhà thơ phải sáng tạo nên những thủ pháp nghệ thuật
mới mẻ, mang dấu ấn phong cách riêng. Tư duy thơ tương hợp gắn với tên tuổi của
nhà thơ tượng trưng Pháp Ch. Baudelaire. Hình thức thơ bậc thang gắn với nhà
thơ Nga V. Mayacovsky…
Các nhà Hình thức Nga đã vượt qua cách hiểu văn học gồm hai mặt
nội dung và hình thức. Họ đưa ra cặp phạm trù chất liệu và thủ
pháp nghệ thuật, đồng thời quan niệm nghệ thuật như là thủ
pháp. Cách hiểu này mở ra những chân trời tự do cho sáng tạo thơ.
5. Thơ chia sẻ với người đọc những cảm xúc, suy ngẫm trong một
giá trị thẩm mỹ độc đáo
Điều cuối cùng cần nói trong định nghĩa về thơ của chúng tôi
là: Thơ “nhằm chia sẻ với người đọc những cảm xúc, suy ngẫm trong một giá trị
thẩm mỹ độc đáo”.
Trong thời kỳ hiện đại, đã có những trường phái thơ ra sức
triệt tiêu ý nghĩa xã hội, chức năng giao tiếp của thơ. Sẽ sa vào cực đoan khi
xem thơ là lĩnh vực của hình thức thuần tuý, khép kín. Thơ không thể vô
nghĩa lý, không có một thông điệp gì đến người nghe, người đọc. Thông điệp ấy
có thể là một cảm xúc, một tâm trạng, một suy nghĩ có tính triết luận, chính luận
về cuộc sống và con người có chất thơ. Thông điệp ấy có thể là một kinh nghiệm
thẩm mỹ về cuộc sống, con người và về bản thân ngôn ngữ. Vấn đề là những
thông điệp ấy phải thực sự mới mẻ. Bài thơ dân gian Con cóc là biếm họa
điển hình về loại thơ dở, không có thông điệp gì đáng nói.
Vấn đề cần nhấn mạnh là những thông điệp trữ tình mới mẻ ấy
phải đến với người đọc trong một giá trị thẩm mỹ độc đáo. Thơ cần mới và hay. Mục
đích sáng tác của nhà thơ suy cho cùng là tạo ra những giá trị thẩm mỹ độc đáo.
Người đọc tìm đến thơ là để thưởng thức các giá trị ấy. Mới lạ trong thơ là để
hay chứ không phải để mới lạ như một mục đích tự thân. Nhiều người làm thơ hiện
nay đang chạy theo cái lạ mà chưa vươn tới được cái hay. Điều khó hơn nữa của
thơ là phải hay theo một cách riêng, độc đáo, không lặp lại.
Tài liệu tham khảo:
Phạm Quốc Ca, Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975 - 2000, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội, 2003.
Hà Minh Đức,Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974.
Tố Hữu, Xây dựng một nền văn nghệ lớn, xứng đáng với nhân dân
ta, với thời đại ta, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1973.
Đông La, Biên độ của trí tưởng tượng, Nxb Thanh niên, Hà Nội,
1997.
Mã Giang Lân, Tìm hiểu thơ, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1997.
Phan Ngọc, Thơ là gì?, Tạp chí Văn học, số 1, Hà Nội, 1991.
Huỳnh Như Phương, Trường phái hình thức Nga, Nxb Đại học
quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2007.
R.Jacobson, Questions de Poétique, Le Seuil, Paris, 1973.
Nguyễn Minh Tấn (Chủ biên), Từ trong di sản, Nxb Tác phẩm mới,
Hà Nội, 1987.
Đặng Tiến,Thơ, thi pháp và chân dung, Nxb Phụ nữ, Hà Nội,
2009.
Chế Lan Viên, Bay theo đường dân tộc đang bay, Nxb Văn học
Giải phóng, 1976.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét