Thi bá Nguyễn Du là bá chúng nhân gian, không còn ai để sánh.
Tiên Điền là nhà thơ như muôn triệu nhà thơ khác. Nhưng thi ca của người nói
lên cái tài, cái mệnh, cái đức, một ứng dụng thâm hậu không còn là biên giới thời
gian. Nguyễn Du một tư tưởng gia, lấy thơ để biến mình thành triết thuyết. Là một
tổng thể nhân sinh qua mọi thời đại, một triết lý tồn lưu muôn đời, sống thực với
đời để đi vào đời một cách hiện thực. Đó là cái lý sống hiện sinh vĩ đại và đa
dạng trong một nội thức siêu lý; đó là tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh tuyệt
xuất của ông. Nguyễn Du có mặt giữa cõi đời này, bất diệt. Ngày nay thi hào
Nguyễn Du là thi bá thế giới như Dante, Homer, Goethe, Shakespeare. Kể cả
Phương đông như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy. Nhưng chúng ta có một cái nhìn chủ
quan về Nguyễn Du; vì người là đỉnh cao trí tuệ của dân tộc, có một tính
chất ‘toàn năng’ trong ngôn ngữ, một ngữ thuật uyên thâm mới sáng tạo ra như vậy.
Thời gian «ba trăm năm sau» của Nguyễn Du được
đánh giá cái lý siêu nhiên không những cho dân tộc ta mà ngày nay Nguyễn
Du đã trở thành thi bá thế giới. Để hiểu chiều sâu triết lý của Nguyễn Du không
phải dễ và chưa có ai dám nhận rằng mình hiểu Nguyễn Du trọn vẹn ý nghĩa của
người, không ít thì nhiều, người ta chỉ cảm thức được cái hồn thơ của Nguyễn Du
là đủ lắm rồi, ngay cả người nước ngoài chỉ nhìn Nguyễn Du như một nhận thức
siêu nhiên của một nhà thơ. Nguyễn Du đã đưa ngôn ngữ đi vào cái ‘tính’;
đó là Việt tính siêu việt một liễu quán bao la diệu vợi, một triết lý đạo đức
và hiện sinh. Nội hai chữ «Tài Mệnh» là cả tính triết lý trong đó;
gồm dân tộc tính và thế giới tính.
Đó là cái nhìn từ bản thể mà ra. Một cái nhìn hiện hữu, một
hiện tượng của con người, một cái nhìn nhị nguyên: đó là thảm trạng cuộc
đời hạn hữu và thảm trạng khước từ cuộc đời hạn hữu. Chỉ 6 chữ mở đầu là đối tượng
của sự hiện sinh cho con người trong vũ trụ ngày nay, nó biến hình thành văn
chương bình dân cũng như văn chương bác học thể hiện trên đầu môi, trước lưỡi,
như câu nói bình thường và thực tế. Không có gì rườm rà cả. Một thứ triết lý
đơn thuần:
«Trăm năm trong cõi người ta»
Trăm năm là một đời người. Là một mệnh đề ta thán, một nhấn mạnh
của con người tại thế, một cái gì mang nặng tính nhân bản vừa ẩn dụ vừa hiện
hình được thể hiện qua từng câu thơ, sống thực, vượt thời gian qua mọi giới
trong kiếp người của cuộc đời này.
Lời và ý như nhắc nhở sự hứng chịu của định mệnh an bài, từ
khi sanh ra cho tới trăm tuổi đều nằm trong qui trình của ‘tương đố’. Ý
nghĩa chính yếu của thời gian trung thực là giới hạn, một thời gian tính;
đó là thể tính thời gian hiện sinh.
Nguyễn tiên sinh một thi bá lỗi lạc mới ý thức và bắt gặp
thảm trạng ấy của thân phận làm người trong một ý thức chiếm cứ và trong
một ý muốn hoài vọng; đó là lối mơ về cũng như lối thoát cuộc đời để đi tới
nếp sống hiện sinh, mà trong mỗi chúng ta đều mang nặng tâm tư ấy. Hiện sinh là
gì? là để vượt thoát ra khỏi tàn tích, ra khỏi mọi tình huống bí tỉ để
tìm thấy con đường giải thoát của hiện sinh, có nghĩa là trung thực trong con
người đầy sáng tạo của bản thể hiện sinh. Chiếm cứ đó không ai có thể làm ra,
không ai có thể có được; nó chỉ đòi hỏi một ý thức tuyệt đối trong
cuộc đời và trong ta, nó chỉ đến một lần như mỗi chiếm cứ của bản chất
tình người trong lẽ sống hiện sinh.
Bản thể và hiện tượng dung thông trong mọi kiếp của trần gian
này. Cho nên chi hiện sinh trong thơ Nguyễn Du là NGỘ như một nhận thức sâu sắc.
Tổ Đạt Ma và thi sĩ Vũ Hoàng Chương có cái nhìn tương tợ và gần như hổ tương từ
tương đối đi đến tuyệt đối. Tổ nói: «Khi mê thì thấy có thế
gian để thoát, khi ngộ thì không thấy thế gian để mà thoát» (Ngộ tánh luận)
Thi sĩ nói: «Khi chưa thấy ta hề thì đường đi
thênh thang. Đến khi thấy ta hề thì đường đi chông gai».
Trở lại với 6 câu đầu ‘Trăm năm trong cõi người ta’. Tiên
sinh đã nói đi nói lại nhiều lần, từ cái bình thường đến cái siêu lý, đó là sự
nhận thức thông thường của đời sống giữa không gian và thời gian hiện
sinh. Do đó không gian và thời gian có hai bề mặt hữu thể: một là thời
gian trăm năm và một là không gian cõi người. Chẳng thế; quan niệm này
đưa chúng ta vào ý niệm của thuyết nhị nguyên đối với tính thể hiện hữu và tính
thể hiện sinh trong văn chương của thi bá Nguyễn Du. ‘Trăm năm trong cõi người
ta’ là một mệnh đề có tính siêu thể vừa siêu nhiên hay có tính siêu hình-học;
nghĩa là cấu kết trong sự vận hành của triết học để đi tới triết thuyết;
đồng thời giải thoát toàn thể để đi tới thể tính hiện sinh của con người.
«Trăm năm trong cõi người ta»
Và:
«Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi»
Cuộc đời trôi chảy không thể vượt được thời gian, hay chính
thời gian lôi cuốn cuộc đời trôi chảy. Thời gian là yếu tố phát sinh và hủy
diệt. Cho nên không có thi ca hiện hữu vì hiện hữu chỉ là đối tượng; mà
thơ là hình ảnh, có thể là hình ảnh tượng trưng hay siêu thực mà ở đây
thơ của Nguyễn tiên sinh là thể tính nhân sinh tức nhân bản chủ nghiã. Thi ca
trong biến dịch thời gian có thể xem là một lối quay về quá khứ để có một dự
phóng tương lai ‘cõi người ta’; chính là cõi mơ về rêver/ dreaming day trước
một hiện hữu truân chuyên, chính cái đó là vai trò của hiện sinh là thời gian của
thân phận.
Thử đưa 4 câu thơ mở đầu cho một giòng đời mà Nguyễn Du
đã nhận ra thế nào là con người và thời gian, một vận hành như dấn thân của định
mệnh đã trút xuống cho con người:
«Trăm
năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng»
Đó là một liên trình biện chứng, thể hiện được tất cả kinh
nghiệm của con người, của cuộc đời qua con người hiện hữu, bao hàm cả một thời
gian hiện sinh. Sở dĩ như vậy vì sống có nghĩa là chuyển vần, theo sau nhịp thở
của vũ trụ ngoại giới, đó là niềm đau của con người cũng như nỗi bi đát của
thân phận vì con người là vật thể mang nặng tính thời gian. Kéo dài và không dứt
của vũ trụ giới mà con người nằm trong qũi đạo ấy:
«Trải qua một cuộc bể dâu
Những
điều trông thấy mà đau đớn lòng»
Đoạn Trường Tân Thanh mở đầu như thế đó. Nguyễn Du báo trước
cái hiện hữu tính không của thời gian biến dịch vào cái ‘Không’ của vũ trụ
bao la; bởi sự xê dịch thời gian vô hình nhưng hữu hình và vô phương để
chận đứng sự hiện hữu của thời gian. Đời thường nói ‘thời gian thật là
tàn nhẫn’ khi nói như thế tức thời gian hiện hữu mà thời gian hiện hữu là mơ hồ
chỉ còn lại con người hiện hữu với thời gian và ở trong chúng ta, cũng
như trong mọi thực thể khác. Ý thức hay vô thức đều có một biến trình động tác
đổi thay.Thời gian là bản chất của đời người, thân phận làm người đồng hóa với
thời gian. Thời gian chuyển vần trong Đoạn Trường Tân Thanh được hiện hữu
qua ba nhân vật chính (Thúy Kiều, Thúy Vân và Kim Trọng) là chức năng hiện
sinh mà Tố Như diễn đạt một cách sống thực tài tình cái bản ngã như nhiên của
con người. Mỗi nhân vật đại diện cho thời gian, kể cả nếp sống hiện sinh đi qua
từng giai đoạn cuộc đời, một gắn bó dài lâu, một thôi thúc, một đoạn trường;
đó là trọng điểm để được giải phóng cho sự mơ về.
Trở lại với ý thức siêu lý của Nguyễn Du để thấy cái dân tộc
tính đầy sáng tạo của thi ca mà ít ai nhận ra từ những chất liệu đơn sơ;
một khả tính thời gian và tâm lý trong thi tứ của Tố Như, nó chứa đựng hai bề mặt;
thời gian hiện sinh và thời gian của hố thẳm, quấn vào những câu thơ đượm màu
triết lý thi ca tư tưởng:
«Tưởng bây giờ là bao giờ
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao»
Rồi:
«Mai sau dầu có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phiếm đàn»
Cả hai câu lục bát trên Nguyễn Du đã đưa chúng ta vào mê hồn
trận của thời gian; ’bây giờ là bao giờ’ và ‘mai sau dầu có bao giờ’ đó
là một quần thể của thời gian, Nguyễn Du nhắc đi nhở lại cái hiện hữu của thời
gian, tuy vô hình nhưng một đụng chạm trực tiếp với con người. Kiều đụng độ
chính là đụng độ với thời gian hiện sinh, vì rằng; lẽ sống của Kiều là đại
diện một tâm thể bức xúc, một trầm thống mà tiên sinh muốn đặc nó như ‘cái mệnh’
mà con người phải gánh chịu không ta thán. Cho nên ngân nga từng thơ khúc của
Nguyễn Du để thấy được thể tính hiện sinh ‘bây giờ là bao giờ’ một câu hỏi
tự tại, đó là cái gì thâm hậu của thời gian, mà cứ ngỡ ‘còn là chiêm bao’ cái
thực thể dân tộc tính có cái gì sâu hoáy trong những vần thơ vi diệu của Nguyễn
Du. Ẩn dụ hay trừu tượng? Không! tất cả là sự thật của đời người
trong những biến trình va chạm thực tế. Có lẽ những tương quan này về sau
như: Jaspers, Hoederlin, Heidegger, Kiekegaard hay Nietzsche nhận ra giá
trị thời gian và thân phận con người trước vũ trụ biến dịch; cái sự ấy dẫu
sao cũng đi sau thi bá Nguyễn Du cả ngàn dặm…
Cái ý thức vô biên đó chính là cái ‘ba trăm năm sau’ của Nguyễn
Du. Một hiện diện thường hằng của thời gian tính. Cứ cho như là ‘rapprochement
des extrêmes. Participation total et solitude’ để rồi giữa chúng ta đồng cảm với
Thúy Kiều như một tha nhân hiện hữu, thời gian sống của Kiều giữa ba thì của cuộc
đời là thời gian của Nguyễn tiên sinh gắn bó với đời; đó là ý
thức sâu xa sự chuyển vần phi lý của thời gian. Cho nên nhận thức đó của Kiều
là tri giác tình cảm, một thứ tình cảm lo lắng đưa tới bóng thời gian, bóng chiều
của buổi Thanh minh, Kiều bừng dậy trong ý thức rằng cái sự lý đó là chuỗi
thời gian tàn tạ trước mắt cũng như về sau:
«Bóng chiều đã ngã, dặm về còn xa»
‘Dặm về’ một hoài cố của Kiều về với Kim Trọng chính là hoài
Lê của Nguyễn Du. ‘dặm về’ là cứ điểm của thời gian, Kiều cũng như tiên sinh sống
trong nỗi nhớ của thời gian. Đó là sự vận dụng tài tình trong phút giây siêu
hình để cưỡng lại tiền đề của thời gian hiện sinh là sự chuyển vần giữa hiện tại
và tương lai. Cuối cùng lời thơ như an ủi thân phận, chấp nhận truân chuyên và
giữ một lòng trung quân để được sống hiện thực và coi đó như thử thách của ‘tài
mệnh’:
«Bắt phong trần, phải phong trần
Cho
thanh cao, mới được phần thanh cao»
Đó là một nhận thức xúc cảm và một ý thức bản năng của nhà
nho bởi vì Nguyễn Du là con người có cái nhìn tiếp giáp vào hiện sinh, không
nhìn liên trình của thời gian ngoại tại như hình thái của sức mạnh siêu hình mà
thời gian siêu hình chỉ thoáng hiện rồi vụt đi mà chỉ để lại cho con người
một giòng thời gian liên tục qua ý thức về cuộc sống. Cho nên thời gian siêu
hình không tương hợp với nhịp sống hiện sinh.
Căn bản sâu xa của hiện hữu có lẽ là tri giác không gian, tri
giác nội tại, tri giác đối tượng, tri giác bản ngã; tất cả được qui định như
tính cách hiện hữu thời gian tính và hiện sinh tính. Suôt một ‘hành trình’ 15
năm của Kiều, bất cứ ở đâu Kiều cũng minh định được hiện hữu của mình; vào ra cửa
Khổng sân Trình cũng là sinh mệnh tức định mệnh theo đuổi thời gian của Nguyễn
Du. Đó là tất cả biến dịch của hiện hữu và thời gian. Kiều tài sắc vẹn toàn
nhưng phải nhận những bi thương của cuộc đời, đó là ‘Tài Mệnh» đó là ‘Bỉ
sắc’:
«Lại
tìm những chốn đoạn trường mà đi
Hết nạn nọ đến nạn kia
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần
Trong vòng giáo dựng, gươm trần
Kề lưng hùm sói gửi thân tôi đòi”
Đấy là ý thức sâu xa của Kiều về cuộc đời và chính là ý thức
sâu xa của người hiện sinh trước sự biến dịch của thời gian, một cuộc đời mang
nặng hai tâm tư. Một hiện hữu dân tộc tính và một hiện hữu thế giới tính.
Trạng thái của tài mệnh và bỉ sắc là thế, vì hai cái thứ đó
thuộc về mệnh lệnh, có tài thì mệnh yểu, bỉ sắc tư phong thì coi như thua kém
cái gì thì được bù lại cái khác. Nhưng tất cả là mệnh lệnh của thiên ý. Kiều
là hiện hữu thực thể cho nên bi đát và trầm trọng hơn bao giờ:
“Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ”
Thành thử qua sự chuyển vần ngoại tại và qua ý thức hiện hữu
của con người, thời gian hiện sinh đã qui về trong hai đặc tính: thời gian và ý
thức.
- Thời gian tâm lý của hiện sinh vẫn luôn luôn là thời gian
hướng đến bao nhiêu hiện hữu mới mẻ giữa đời, nhưng đồng thời cũng hướng đến những
biến trình thời gian. Đấy là sự bắt gặp giữa hiện hữu qua thời gian mơ về của
Thúy Kiều.
- Ý thức của con người vừa chấp nhận đổi thay, vừa quan sát đổi
thay, cho nên ý thức khách thể là một hiện tượng biến dịch, thì ý thức chủ thể
là ý thức duy nhất để nhận ra mình giữa cuộc sống đó là ý thức hiện sinh của
Nguyễn Du:
“Giật mình, mình lại thương mình xót xa”
Đấy là ý thức chủ thể (mình lại) và ý thức khách thể (thương
mình) vì khách thể đang chịu tác dụng của cuộc đời như một hiện tượng, trong
khi đó ý thức chủ thể lại đứng ngoài. Cho nên chi, ngoài thời gian hiện sinh
bao hàm hiện hữu tính của con người nằm trong lãnh vực đó.
Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du đã nêu cao giá trị
vô tri ntính và vô vi tính trong hiện hữu tính về thời gian hiện hữu và thời
gian hiện sinh, xem hiện hữu như một hình thái quyết định vô tri vì đã đồng nhất
hoá thời gian khi quy về cùng một bản thể. Cũng từ giòng tâm lý của con người,
chúng ta thấy xuất hiện thêm một trạng thái khác không kém phần quan trọng: ấy
là sự chán chường, lao lý đẩy con người vào một tâm trạng khó khăn để rồi biến
mình vào con đường tu thân như cái đạo tự nhiên để giữ tính tâm hư tức một tâm
hồn thanh cao không bị vướng đục.
Nguyễn tiên sinh đưa đạo vào đời, thừa nhận sự hiệp nhất
Thiên Điạ-Nhân, đó là quan niệm nhân sinh quan mà con người phải tuân phục như
Đạo lý. Đạo ấy đạt được do từ Tâm thì gọi là Đức, những thứ đó hoà nhập vào
nhau như hiện hữu tính và thời gian tính thì gọi là cái thế của Đạo; là Hư vô và
là cái dụng Vô vi. Cuối cùng Nguyễn Du nhận ra cái cõi Hư và Vô, Nguyễn tiên
sinh âm thầm đi vào cõi lặng, giả từ mọi thứ phồn vinh, giả từ chốn lầu son gác
tiá, giả từ hết thảy để được trở về trong cái tự tại an nhiên, nhập tâm để lắng
đọng trong lẽ tự nhiên. Tịnh làm chủ cái Động, không là chủ cái Có “Hữu sinh ư
vô” để rồi Thúy Kiều thối thác, trả lại cho đời những gì Kiều đã đi qua, để trở
về với hiện thể sống động của VÔ VI, vô vi ở đây không có nghĩa là ‘không làm’
mà có nghĩa là huyền nhiệm; Nguyễn Du cho đây là một siêu lý giữa hiện hữu và
thời gian được ghi dấu: “Đạo thường vô vi, nhi vô bất vi” (Đạo dường như bất động,
không làm gì cả nhưng thật sự không việc gì là không làm) (Đạo Đức Kinh).
Nhưng đôi khi hiện hữu thời gian trở nên một hiện hữu phi lý.
Pascal cho rằng: sở dĩ như vậy vì con người ở trong một trạng thái TỊNH, không
còn hoạt động. rồi từ đó trở nên cô đơn, thấy lạc lõng và trống trải mà cứ thấy
hiện hữu và thời gian kéo dài thêm ra. Đó là trạng thái mơ về của Thúy Kiều cái
sự cố đó là hiện hữu thời gian vây phủ quanh cuộc sống hiện sinh của Kim Trọng
và Thúy Kiều mà cả hai mong cất bước ra đi để xa cái hiện hữu thời gian
dày xéo, đó là mộng trở về sum họp không đạt, mộng hoài Lê không đạt, chỉ còn lại
thương mong:
“Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người
Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi”
‘Dời chân đi’ là một động từ của dời và đi, nhưng hoàn toàn bất
động trước một tình huống trống không, vô vị đó. Vì bản thân bất động sẽ làm
cho con người của mình trở thành một hiện hữu bi thảm, để bung mình ra khỏi chạm
trán của đời thường, để sống thực với hiện sinh, vượt ra khỏi những va chạm
nghiệt ngã với chính thân phận vô nghĩa trên đời. Cho nên chi những nhân vật thường
trực quanh đời Thúy Kiều từ Kim Trọng, Đạm Tiên, sông Tiền Đường, Bạc Bà, Bạc Hạnh
, Mã Giám Sinh, Từ Hải, Thúc Sinh, Sở Khanh,Tú Bà Lầu xanh… tất cả không có thực
chất, tất cả giả dối và vô nghĩa, tất cả là hiện hữu vô lý và hành động lừa bịp
để che đậy bản ngã của mình.
Pascal và Vladimir Jankélévitch phân tích luận cứ đó là biện
chứng siêu hình về con người hiện hữu qua mọi thời gian hiện sinh, đó là niềm
xao xuyến phức tạp, vô vọng trước một hiện tại phi lý. Dự phóng như thế, con
người tự nhiên biểu lộ nỗi sợ hãi thảm thương về đời người và cuộc sống, về thời
gian hiện sinh trong trạng thái tâm lý mà mình phải chịu nhận. Dự phóng nầy của
Kiều do từ bất mãn, chán chường của hiện hữu phi lý mà ra, chỉ còn lại tiếng
vang nội tại, một thoáng mơ về đồng vọng tương lai qua nhận thức của tri giác để
rồi cảm xúc hóa mà ngậm ngùi:
“Buồng riêng, riêng những sụt sùi
Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân”
Cho nên chi Kiều đang sống với thời gian hiện hữu, đối đầu với
chán chường, cô đơn, lẻ bóng, vô lý, vô nghĩa đó là ý thức bất mãn nội tại của
Kiều mà nàng không chịu được những giới hạn của phút giây đang hiện có và phút
sống bấy giờ. Elle n’accepte pas les limites du ici et du maintenant.
Thời gian ngoại tại cứ tuần tự theo sự chuyển vần tạo nên mối
tương khắc sâu xa với thời gian tâm lý. Kiều cũng vọng lại, nhưng vọng lại cái
chết; phải chăng cái nợ tiền kiếp mà Kiều phải nhận trả, đó có là cái nhận lãnh
với nhà Nguyễn của Nguyễn tiên sinh?. Thành ra vọng lại cái chết trên cái trục
vô cực thời gian, một sự chờ đợi bao la vô vọng mà Kiều đã bằng lòng chấp nhận
như hai chữ tài mệnh chuốt vào thân và mong sao trả hết nợ cho xong cuộc
đời này:
“Lấy thân mà trả nợ đời cho xong”
Từ cái ngày trầm mình ở Tiền Đường được cứu sống hai lần chết
là một ý thức đưa lại tuyệt vọng cho Kiều. Cái chọn lựa đó cũng do từ sức ép của
nội tại và ngoại tại mở ra, rồi liệng vào trong tuyệt vọng để ngậm đắng với đời.
Con người Chánh Huệ đã bị Tà Huệ vùi dập và đẩy vào không biết bao nhiêu khổ lụy,
phiền não mà đời dành cho Kiều. Cuối cùng chỉ còn than thân, trách phận, bèo giạt
hoa trôi:
“Thân sao thân đến thế nầy
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi”
Những giòng thơ trong Đoạn Trường Tân Thanh là một luận chứng
luân lý, một triết thuyết nhân bản chứa đựng cái thể tính hiện sinh và thời
gian vây quanh giữa hai hoàn cảnh nội tại và vũ trụ ngoại giới . Do đấy chúng
ta chỉ nên xem con người hiện sinh như là con người đứng ra chấp nhận lẽ sống,
dù lẽ sống đó đi ngược với hiện hữu thời gian; nói đến đây cho ta liên tưởng
cái qui trình thời gian hiện sinh của thi sĩ Bùi Giáng năm xưa, người đã biến
mình thành tha nhân của con người hiện sinh, có nghĩa rằng chấp nhận bi thương
để hoàn thành chức năng nhiệm vụ của thiên mệnh trao trút, một trao trút hẩm
hiu như Kiều :
“Đoạn trường cho hết kiếp nầy mới thôi”
Vũ trụ con người ở đây không phải chỉ dành cho trăng sao, đêm
ngày, mưa nắng bốn mùa. Vũ trụ con người chính là thời gian nội giới với sự
chuyển vần của giòng tâm thức đang hướng đến một bản thể tự tại của thể tính hiện
sinh mà mình đang dung thân. Kiều là nạn nhận dung thân hiện thực, trải dài và
đại diện cả giòng đời cho dù giòng đời trôi chảy mà hiện hữu thời gian không
trôi chảy.
Khi viết lên Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du đặc trọng tâm
vào Tài Mệnh vừa luân lý vừa triết lý một định lý muôn đời đã nói đến. Kinh Thi
cũng nói đến cái sinh mệnh bất biến đó; “Cổ lai tài mệnh lưỡng tương
phương” (Xưa nay Tài, Mệnh chẳng hòa nhau). Đó là biện chứng vận dụng con người
mang một thời gian tính.
Nguyễn Tiên Điền đã vận dụng tài tình hai chữ tài mệnh qua mối
liên hệ giữa thời gian nội tại và thời gian ngoại giới liên kết trong một thể
tính hiện sinh.
Đi từ một nhận định khái quát, để phối hợp giữa hai vũ trụ nội
giới và ngoại giới tạo nên một thời gian tính của đời và thời gian tính xã hội.
Kiều sống trong hai trạng thái thời gian đó, một vũ trụ riêng biệt dưới mọi
hình thái khác nhau của Thực và Ảo, đồng thời xâm nhập cả giáo lý để lý giải
cái chân như tối thượng của triết thuyết nhân bản, một sự vượt thoát, một cuộc
cách mạng toàn diện từ vô thể đến hữu thể, biến đổi con người đi đến vô nhiễm,
nâng cao tấm lòng ‘thanh cao’ đó là thực tướng trong tác phẩm vĩ đại của nhân
loại ngày nay. Nguyễn Du đã dành cho chúng sanh một học thuyết đạo đức luân lý
làm người. ‘Trăm năm trong cõi người ta’ là thế đó!
Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn. Đó là bản thể hiện ra dưới hình
thái của sắc nước khuynh thành, nhưng không phải đó là thăng hoa; Nguyễn
Du cho rằng đó là tài mệnh tương đố. Thời gian hiện hữu là nhân chứng. Thể
tính hiện sinh là chấp nhận thương đau. Để rồi dấn thân, để rồi mơ về, để rồi lụy
rồi khổ. Bản thể trở nên ngây ngô, vô tư trước cuộc đời, không còn biết mình là
hiện hữu thời gian đang ngự trị, biến mình như kẻ vô tội phải đương đầu, đó là
nỗi lòng ai oán. Không còn nhận ra mình thuộc về hình thái nào ngưòi hay vật.”
Dans l’innocence, l’homme n’était pas animal et n’était pas advantage homme”
(S. Kierkegaard).
Nỗi lòng đó là thời gian hiện hữu trong chúng ta. Ngay trong
thời đại mà chúng ta đang sống của một thời hiện sinh.
TRANH VẼ: ’Đêm Tinh Tú/ Blue-Galaxy’ Khổ 9’x12’ Giấy bìa.
Acrylics+ Mixed Media. vcl 2012.Vcl#24122012 ĐÊM TINH TÚ/ BLUE GALAXY
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét