Sơn mài - Chất liệu đặc sắc
Sơn mài là một trong các chất liệu hội họa ở Việt Nam. Nó là
sự tìm tòi và phát triển kỹ thuật của nghề sơn (nghề sơn ta) thủ công truyền thống
của Việt Nam thành kỹ thuật sơn mài. Tuy nhiên, từ dùng để gọi sơn mài thường
được hiểu sang các đồ dùng sơn mỹ nghệ của Nhật, Trung Quốc. Thật ra, kỹ thuật
mài là điểm khác biệt lớn giữa đồ thủ công mỹ nghệ nước ngoài và tranh sơn mài
Việt Nam.
Chùa Thầy. Tranh sơn Mài của Phạm Hậu, 1934.
Lịch sử phát triển của nghề sơn mài
Năm 1925, trong một buổi làm việc tại Văn Miếu - Quốc Tử
Giám, họa sỹ Josehp Inguimberty đã sửng sốt trước các hoành phi câu đối sơn son
thếp vàng lâu đời. Ông đề xuất ngay với thầy Victor Tardieu, Hiệu trưởng trường
Cao đẳng Mỹ Thuật Đông Dương nay là trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam để đưa sơn
ta vào chương trình nghiên cứu và thực tập. Từ đó, chất liệu sơn mài liên tục
được sáng tạo từ hai màu truyền thống là cánh gián đỏ và đen, sau này có thêm
các vật liệu màu như vàng, bạc, son, then, vỏ trứng, vỏ trai…
Sơn ta truyền thống - chất liệu chỉ sử dụng trong trang trí,
đã trở thành một chất liệu hội họa. Có thể nhắc đến bức tranh sơn mài đầu tiên
của Trần Quang Chân trên bình phong Cành tre bóng nước năm 1934. Nhưng phải kể
đến họa sĩ Nguyễn Gia Trí, người dẫn đầu thời kỳ cực thịnh của tranh sơn mài
(1938-1944) với những tác phẩm tiêu biểu như Cảnh nông thôn (1939), Thiếu nữ
bên cây phù dung (1944). Ông cùng một số họa sỹ khác như Nguyễn Sáng, Nguyễn Đỗ
Cung, Phan Kế An, Nguyễn Tư Nghiêm, Lê Quốc Lộc đã phát triển tranh sơn mài
nhưng mới chỉ thuần gam màu nóng.
Hội xuân miền Bắc. Tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí.
Tranh sơn mài sử dụng các vật liệu màu truyền thống của nghề
sơn như sơn then, sơn cánh gián làm chất kết dính, cùng các loại son, bạc thếp,
vàng thếp, vỏ trai, v.v. vẽ trên nền vóc màu đen. Những họa sĩ Việt Nam đầu
tiên học tại trường Mỹ thuật Đông Dương đã tìm tòi phát hiện thêm các vật liệu
màu khác như vỏ trứng, ốc, cật tre, v.v. và đặc biệt đưa kỹ thuật mài vào tạo
nên kỹ thuật sơn mài độc đáo để sáng tác những bức tranh sơn mài thực sự. Thuật
ngữ sơn mài và tranh sơn mài cũng xuất hiện từ đó. Tranh có thể được vẽ rồi mài
nhiều lần tới khi đạt hiệu quả mà họa sĩ mong muốn. Sau cùng là đánh bóng
tranh.
Sơn mài có những điểm “ngược đời”: muốn lớp sơn vừa vẽ khô,
tranh phải ủ trong tủ ủ kín gió và có độ ẩm cao. Muốn nhìn thấy tranh lại phải
mài mòn đi mới thấy hình.
Hầu hết họa sĩ đồng ý rằng kỹ thuật vẽ sơn mài khó và có tính
ngẫu nhiên nên nhiều khi các họa sĩ dày dặn kinh nghiệm cũng bất ngờ trước một
hiệu quả đạt được sau khi mài tranh.
Cũng như nhiều nghề khác, nghề làm tranh sơn mài phát triển ở
các làng quê như làng Thái Hạ, Thanh Trì, Hà nội, Làng Tương Bình Hiệp ở Chánh
Nghĩa, Phú Cường, Tương Bình Hiệp, Tân An, Định Hòa, Bình Dương, Tiên Sơn - Bắc
Ninh…
Trích đoạn tranh sơn mài Vườn
xuân
Trung Nam Bắc của Nguyễn Gia Trí.
Các công đoạn chính của sơn mài
Có thể nói công nghệ sơn mài chỉ có nguyên lý chung nhưng
khác biệt trong kinh nghiệm, kỹ thuật của từng cá nhân, từng gia đình. Ngoài ra
nó được biến đổi kỹ thuật để phục vụ cho các mục đích khác nhau: làm tranh, làm
tượng, làm trang trí đồ vật, sơn phủ hoàng kim… Có thể chia sơn mài làm một số
công đoạn chính sau: bó hom vóc, trang trí, mài và đánh bóng.
Bó hom vóc: Việc hom bó cốt gỗ đồ vật cần sơn ngày xưa
thường được người làm sử dụng giấy bả, loại giấy chế từ gỗ dó nên rất dai, có độ
bền vững hơn vải. Cách bó hom vóc được tiến hành như sau: dùng đất phù sa -
ngày nay người thợ có thể dùng bột đá trộn sơn - giã nhuyễn cùng giấy bản rồi
hom, chít các vết rạn nứt của tấm gỗ. Mỗi lớp sơn lại lót một lớp giấy hoặc vải
màn. Sau đó phải phải đục mộng mang cá để cài và gắn sơn cho các nẹp gỗ ngang ở
sau tấm vóc (ván gỗ) để chống vết rạn xé dọc tấm vải.
Sau đó để gỗ khô kiệt mới hom sơn kín cả mặt trước, mặt sau. Công đoạn này nhằm bảo vệ tấm vóc không thể thấm nước, không bị mối mọt, không phụ thuộc môi trường làm gỗ co ngót. Xử lý tấm vóc càng kỹ, càng kéo dài tuổi thọ cho đồ vật cần sơn, mỗi tác phẩm sơn mài có tuổi thọ 400-500 năm.
Sau đó để gỗ khô kiệt mới hom sơn kín cả mặt trước, mặt sau. Công đoạn này nhằm bảo vệ tấm vóc không thể thấm nước, không bị mối mọt, không phụ thuộc môi trường làm gỗ co ngót. Xử lý tấm vóc càng kỹ, càng kéo dài tuổi thọ cho đồ vật cần sơn, mỗi tác phẩm sơn mài có tuổi thọ 400-500 năm.
Trang trí: Khi có được tấm vóc nói trên hoặc các mô hình
chạm khắc bình hoa, hay các bộ đồ khác, người chế các món đồ phải làm các công
đoạn gắn, dán các chất liệu tạo màu cho tác phẩm trước tiên như: vỏ trứng, mảnh
xà cừ, vàng, bạc…sau đó phủ sơn rồi lại mài phẳng, tiếp đến dùng màu.
Với kỹ thuật sơn phủ tượng và đồ nội thất như: hương án,
hoành phi, câu đối… người thợ phải làm trong phòng kín và quây màn xung quanh để
tránh gió thổi các nguyên liệu: quỳ vàng, quỳ bạc, tránh bụi bám vào nước sơn
còn ướt.
Mài và đánh bóng: Vì dầu bóng đã pha màu để vẽ nên độ
bóng chìm trong cốt màu tạo thành độ sâu thẳm của tranh, do đó sau mỗi lần vẽ
phải mài. Người xưa sử dụng lá chuối khô làm giấy nháp. Đến nay, nguyên tắc
đánh bóng tranh lần cuối chưa có gì thay thế phương pháp thủ công vì loại tranh
này không được phép phủ dầu bóng. Đó chính là điểm độc đáo của tranh sơn mài. Sự
thành công của một bức tranh sơn mài phụ thuộc rất lớn vào công đoạn sau cùng.
Có một số thứ để mài và đánh bóng như: than củi xoan nghiền nhỏ, tóc rối, đá
gan gà v.v...
Gió mùa hạ. Tranh sơn mài của Phạm Hậu, 1940.
Sáng tạo hay rời xa truyền thống
Công chúng yêu hội họa ai cũng mừng khi thấy dòng tranh sơn
mài truyền thống của dân tộc có những nét mới hứa hẹn sự khởi sắc trước sự sáng
tạo không ngừng của lớp họa sĩ trẻ. Nhưng không ít người trong số đó nhanh
chóng cảm thấy ái ngại khi biết có họa sĩ chỉ trong vòng 2-3 năm sáng tác ra
vài chục bức sơn mài. Con số ấy đã ít nhiều cho thấy chất lượng của tranh thế
nào. Bởi theo cách làm sơn mài truyền thống thì để hoàn thành một bức tranh người
họa sĩ phải mất đến hàng tháng, thậm chí hàng năm.
Để chạy theo số lượng, nhiều họa sĩ đã sử dụng các hóa chất
nhập ngoại như sơn điều, sơn Nhật Bản để vẽ, các công đoạn khác cũng ứng dụng
máy móc công nghiệp chứ không hoàn toàn là thủ công như trước. Có người nói, thế
thì đâu còn là tranh sơn mài nữa mà có lẽ nên gọi là tranh sơn Nhật thì đúng hơn.
Người làm tranh sơn mài truyền thống đích thực phải là người tuân thủ và phát
huy những truyền thống quý của nghệ thuật dân tộc, chỉ dùng sơn ta chứ không
dùng sơn công nghiệp để vẽ.
Lại có những họa sĩ đương đại vẽ tranh sơn mài nhưng lại bỏ
qua khâu mài, và thay vì làm nhẵn thì họ lại làm sần sùi đi hoặc dùng thêm các
chất liệu khác để phủ, đắp, gắn lên tranh sơn mài. Tuy cách làm đó vẫn chưa đến
được những tạo hình có nghệ thuật, có thẩm mỹ và tương đối mới lạ, song đã đi
khá xa so với nghệ thuật truyền thống. Theo ông Lê Huy Tiếp - Chủ tịch Hội đồng
nghệ thuật Hội Mỹ thuật Việt Nam thì thế giới vẫn gọi chung “sơn mài” là
“lacquer” (vẽ bằng chất liệu sơn) - tức là có mài hay không cũng không quá quan
trọng, còn ở Việt Nam, sơn mài có nghĩa là sơn và mài. Như vậy nếu chỉ còn phần
sơn mà bỏ đi phần mài thì không thể gọi là sơn mài được.
Nhiều người không phản đối việc dùng các chất liệu sơn khác
nhau trong dòng tranh sơn mài kể cả việc không mài trong tranh. Điều mà họ quan
tâm là bức tranh đó có đẹp không, có chứa đựng sự sáng tạo nào không? Thậm chí
họ còn cho rằng đó là những cách để thổi hơi hướng hiện đại vào nghệ thuật truyền
thống, đó mới là sự sáng tạo thực thụ của người nghệ sĩ đương đại…
Vậy nhưng, có một điều cần phải nhắc lại là: Thế giới quan
tâm đến hội họa Việt Nam chính bởi Việt Nam có chất liệu sơn mài. Những họa sĩ
làm tranh sơn mài được thế giới thừa nhận cho đến nay vẫn chỉ là những người
trung thành với kỹ thuật truyền thống. Dù những tìm tòi sáng tạo của các họa sĩ
có phong phú đa dạng đến thế nào thì tranh sơn mài của Việt Nam chỉ thực sự có
giá trị độc đáo khi giữ được chất liệu truyền thống và quy trình sáng tác hoàn
toàn thủ công.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét