Giảng thơ có nhiều lối. Chữ
trinh kia cũng còn ba bảy đường, huống nữa chữ thơ.
Thơ có thể gợi tả, hoặc tố cáo thực trạng xã hội như tiểu
thuyết; thơ có thể phản ánh hoàn cảnh tâm lý như kịch; thi nhân
cũng có thể suy tưởng như triết nhân; thơ có thể giảng dạy luân lý như Nhị
Thập Tứ Hiếu, hay lịch sử như Đại Nam Quốc Sử diễn ca. Tất cả các thi loại đó,
nếu được gọi là thơ, phải có một thừa số chung, là chất thơ, ngày nay gọi là
thi pháp.
Ba bảy đường trong địa bàn của thơ, cuối cùng, đều quay về một
hướng. Cảm thơ, là nhận ngay ra được mặt trời; giảng thơ, là dò hỏi từng
đóa hướng dương. Những cành hướng dương vô tội.
Giảng thơ có nhiều lối, nghĩa là có nhiều giai đoạn, nhưng
không phải là những trường đình hay đoản đình tiễn đưa người biệt xứ, mà là, xa
xa, những cụm mây vàng nơi Tần Lĩnh hay ngọn mây bạc trên đỉnh Thái Hàng, và gần
gần, là mái tranh, là gốc khế, những cái mốc lắng đợi người về.
Truyện Kiều là một rừng thơ nhiều nẻo, là một vườn hồng nhiều
màu; các cụ dùng cái gương «lấy hiếu làm trinh» để dạy dỗ con
em, cũng như người dùng chất hoa hồng làm thuốc trị ho; bậc tân học
Trương Tửu đã từng dùng phân tâm học, giải Kiều bằng bệnh trạng của Nguyễn Du,
cũng như vị kỹ sư canh nông giải thích hương hoa hồng bằng mùi phân bón. Gần
đây hơn, tại miền Nam, các vị giáo sư uyên bác đem thuyết hiện sinh để giảng Kiều,
và trong lúc đó, tại miền Bắc, nền văn nghệ hiện thực xem truyện Kiều như một
cáo trạng xã hội, cũng như người xem giọt sương hoa như những giọt mồ hôi của
nhân dân. Lối giải thích nào cũng có cái lý của nó, có ích lợi của nó, tùy hoàn
cảnh. Tôi nói những cành hướng dương vô tội là vì vậy.
Lối kiến giải ý nghĩa của thơ có ích ở chỗ nó cho ta cái cớ đầu
tiên để yêu thơ. Yêu, có cái duyên và cái cớ. Chàng trai mười tám tuổi về thưa
với mẹ xin cưới một cô gái làm bếp khéo, bà mẹ hiểu ngay là con mình mê nhan sắc;
nếu cậu ta xin cưới một cô gái vì đức hạnh, người mẹ sẽ hiểu con mình phải lòng
một người đàn bà có gia cảnh hay nhan sắc chỉ trung bình. Mượn lời ví von của
ca dao ta có thể nói: yêu thơ, một là duyên, hai là nợ, ba là tình.
Trong bài này chúng ta sẽ xét lại một số phương pháp vẫn thường
dùng để giảng thơ. Cách phân tích hình thức theo hình dung. Đây là lối giải
thích đắc dụng ở nhà trường, thường được học sinh hưởng ứng. Ta thường quan niệm
thơ phải diễn tả cái gì; và khi hình thức câu thơ rập khuôn với đối tượng,
ta cho là tinh vi, là ý nhị. Ví dụ câu đầu của bản dịch Tỳ bà hành của Phan Huy
Thực:
Bến Tầm dương canh khuya đưa khách
Hai chữ đầu và cuối vần trắc cao như hai bờ sông, ở giữa là mặt
nước thấp, rộng, bằng phẳng như năm thanh bằng liên tiếp. Có người kể lại rằng
Chế Lan Viên nói ra điều đó. Xuân Diệu rất thích âm điệu câu thơ này, và chúng
ta biết trong thể thất ngôn, Xuân Diệu sử dụng thanh bằng liên tiếp rất tài,
như trong câu:
Mây vẩn từng không, chim bay đi
(Đây mùa thu tới)
Nguyễn Hiến Lê, trong một cuốn sách Luyện văn, giải
thích: năm thanh bằng liên tiếp gợi hình ảnh đàn chim xếp hàng ngang bay
tới. Ông khen câu thơ Bàng Bá Lân:
Êm đềm sóng lụa trôi trên lúa
Nhạc điệu gợi lên hình ảnh cánh đồng lượn sóng, tôi không nhớ
Nguyễn Hiến Lê giải thích ra sao. Theo tôi trên bảy từ đã có sáu điệp âm (êm+đềm,
lụa+lúa, trôi+trên) thật ra câu này mượn cả ý lẫn nhạc điệu một câu thơ
Pháp :
Une ondulation majestueuse et lente
(Midi, Leconte de Lisle)
Câu thơ cũng gợn sóng nhờ những nguyên âm dài, phải đọc chậm
và những nguyên âm đôi (diphtongue). Bản thân tôi có lần, trên báo Văn - cách
đây đã lâu - đã dùng lối «tượng hình» để giảng thơ bà Huyện Thanh
Quan (ngày nay được xem như của Hồ Xuân Hương):
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.
Câu trên những nguyên âm tròn: o, ô, u gợi
hình tròn của tàn cây; còn âm ang bằng phẳng, là mặt sông bao
la. Hai câu thơ, mười bốn chữ dùng toàn hai nguyên âm o và a.
(nguyên âm ở đây phải hiểu là những nguyên âm trong tiếng
nói, chứ không phải là trong chữ viết. Thời đó tác giả viết bằng chữ nôm. Bạn đọc
giỏi chữ Nôm hay chữ Hán có thể phân tích vẻ đẹp của thơ xưa một cách sâu rộng
hơn. Vì chữ Hán, chữ Nôm là những hình ảnh vừa của thị giác vừa của thính giác,
còn mẫu tự la tinh chỉ là những ký hiệu ngữ âm, theo quy ước độc đoán. Thơ Hán
nôm và thơ quốc ngữ, cái hay có phần khác nhau).
Trong Xuân Diệu, ta thường bắt gặp những âm thanh tượng hình
như trong bài Đây Mùa Thu Tới đã dẫn:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.
Những âm cong, do nguyên âm đôi, i, u, và nhất là ba lần uôn vẽ
ra dáng cây thùy liễu (cái chữ!) rũ cành xuống thấp.
Đến như câu:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Thì dụng công của tác giả lộ liễu quá, câu thơ kém thi vị. Độc
giả chuộng câu này hơn:
Cành biếc run run chân ý nhi
Cũng niềm mong manh, mà kín đáo hơn.
Âm điệu tượng hình, chúng ta chỉ mới xem xét âm thanh, nhưng
còn tiết điệu nữa:
Nửa chừng xuân/ thoắt gẫy cành thiên hương (Kiều)
Ai cũng biết câu Kiều này, nhịp ngắt phải thất thường, so
le, 3-5, thì mới có nghĩa; nhịp điệu gãy đổ của câu lục bát gợi được
hình ảnh của cành cây bất ngờ bị gãy một cách tàn nhẫn. Như vậy, nhịp cũng có nội
dung của nó, đề này cần đào sâu thêm.
Bài Tống biệt của Tản Đà, dùng thể từ khúc tạo được nhịp thơ
lạ:
Đá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời
Nhịp thơ đang ngắt quãng, bỗng dưng câu sau kéo dài, phải đọc
nhanh, vẽ lên không trung một đường bay hun hút.
Câu sau đây của Bàng Bá Lân, nhịp bình thường của thất ngôn
nhưng đắc dụng, vì cô lập được cánh diều lặng đứng trong không gian:
Đứng lặng trong mây/ một cánh diều
Cũng như thơ Xuân Diệu:
Đã vắng người sang/ những chuyến đò
Nhịp 4-3 cổ điển, nhưng tạo được khoảng im lặng giữa câu thơ
gợi nên bến đò vắng lặng.
Comme on voit sur la branche/ au mois de mai/ la rose
Như tríu cành xuân một đóa hồng
Chữ rose (hoa hồng) bị nhịp thất thường cô lập ở cuối câu
thơ, lơ lửng như một đóa hoa đầu nhánh. Chỉ nhịp thơ thôi cũng báo hiệu nội
dung toàn bài thơ tả kiếp phù du của một đóa hồng.
Nếu vó câu khệp khễnh bánh xe gập ghềnh của Nguyễn
Du có những âm thanh tượng hình, tạo được cái lắc lư của chuyến xe, thì trong
câu hò Huế dưới đây, nguyên gốc là của Ưng Bình Thúc Giạ Thị, nhịp điệu
đong đưa như con đò trên sóng nhẹ:
Chiều chiều…
Trước bến/ Vân Lâu/
Ai ngồi/ ai câu/
Ai sầu/ ai thảm/
Ai thương/ ai cảm/
Ai nhớ/ ai mong.
Rồi một chiếc đò khác vụt qua, chợt biến trong sương, chỉ để
lại chút mơ màng trên sông nước:
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy/ chạnh lòng nước non
Đó là cảm giác chủ quan của người đọc; về phần người
sáng tác hò mái nhì, mái đẩy, thì nhịp câu trước ngắn, nhịp đôi, cho ăn khớp với
tay chèo, nhịp sau dài là lúc dừng chèo. Đây là nhịp dài ngắn thường thấy trong
dân ca Bình trị Thiên. Nhưng về mặt thi pháp, thì nhịp điệu phục vụ ý tưởng. Ta
có thể chọn nhiều ví dụ khác, vẫn của Ưng Bình:
Một giải nước trong
Mười dòng/ nước đục
Một trăm người tục
Một chục/ người thanh
Biết ai tâm sự như mình
Mùa tơ thêu lấy tượng Bình Nguyên Quân
Trong Bài Ca Vỡ Đất, Hoàng Trung Thông tạo được những
nhát cuốc đều đặn, hăm hở, khỏe mạnh:
Giữ chiều nắng gió
Chặt cây, cuốc cỏ,
Tỉa đổ, trồng khoai
Ngày còn dài
Còn dai sức trẻ
Cuốc càng khỏe
Càng dễ cày sâu
Hát lên ta cuốc cho mau
Nhanh tay ta cuốc ta đào đất lên.
Thơ Việt Nam, nhịp thường có vần lưng yểm trợ. Hoặc, nhìn xa
hơn, vần là một cách nhịp câu nói, câu thơ. Đây là một đề tài cần nghiên cứu
thêm.
Trong tiếng Pháp hay tiếng Anh, vần và nhịp cùng một từ
nguyên. Giới biên khảo Phương tây đang lưu tâm đến tầm quan trọng của nhịp
trong câu nói, câu thơ.
Ngoài nhạc điệu tượng hình, nhẽ ra, phải kể thêm nhạc điệu tượng
thanh, thì thùng trống trận, rập rình nhạc quân như trong Kiều, hoặc chát chúa
như trong thơ Tú Xương: Mụ nọ chanh chua/ vợ chửi chồng.
Nhưng chúng ta không nên dài dòng, vì đây là một sắc thái của
ngôn ngữ hàng ngày, chứ không phải là đặc tính của ngôn ngữ thi ca. Nhất là tiếng
Việt nhiều nhạc điệu, nên lắm tiếng tượng thanh; ngược lại tiếng Pháp, mệnh
danh là duy lý, nên quý những âm điệu tượng thanh (harmonie imitative) trong
thơ, mà họ phân biệt với tiếng tượng thanh trong ngôn ngữ (onomatopée).
Apollinaire gợi tiếng gió trên sông Rhin bằng nhiều âm S vàZ lẫn
với âm mũi, trong lối ngắt câu bất thường:
Et le vent du Rhin/ secoue sur le bord/ les osiers
Et les roseaux jaseurs/ et les fleurs nues/ des vignes.
Gió lay động sậy bên bờ xào xạc
Lau rì rào hoa mướp xác xơ bay
Tinh tế hơn hai lối tượng thanh tượng hình, là lối tượng ý,
thơ Tản Đà:
Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non.
Khi lời thề gắn bó, thì non nước quấn quít lấy nhau ở đầu câu
trước: khi cách biệt nhau đằng đẵng thì nước ở đầu câu, mòn mỏi trông chờ
non ở mãi tận cuối câu. Đến giữa bài thơ, nước non vẫn ngàn trùng xa biệt, non
vẫn kiên trinh ôm ấp trong tim lời thề róch rách:
Non cao tuổi vẫn chưa già
Non thời nhớ nước, nước mà quên non
Mãi đến cuối bài thơ, nước non mới tái hợp, xoắn xuýt lấy
nhau, như đôi vợ chồng son:
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi lời thề.
Những ví dụ như thế, không hiếm, miễn là ta tinh ý và chịu
khó tưởng tượng. Trong Kiều, đoạn Thúc Sinh gặp lại Kiều làm hoa nô cho vợ cả:
Bây giờ đất thấp trời cao
Ăn làm sao, nói làm sao bây giờ
Vì không biết phải ăn nói làm sao nên phải ấp a ấp úng, cuối
câu lặp lại đầu câu.
Có người lưu ý đến nhịp vừa tượng thanh vừa tượng ý trong câu
ca dao đơn giản:
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Hai câu trên nhịp ngắt phập phồng như những lo âu dồn dập hơi
thở và trái tim, hai câu sau nhịp dài, thanh thản như tiếng thở dài trút sạch
ưu tư ra khỏi buồng phổi, trái tim của người đi cấy. Gần đây, tại Pháp, tôi có
«bịa đặt» ra một cách giảng thơ Apollinaire để dạy học trò:
Le mai, le joli mai, en barque sur le Rhin
Les Dames regardaient du haut de la montagne
Vous êtes si jolies, mais la barque s’éloigne
Qui donc a fait pleurer les saules riverains
(Mai, Alcools)
Tạm dịch:
Xuôi sông Ranh tháng Năm ngày ngát lộng
Nương tử nhìn theo từ ngọn đỉnh trời
Nàng tuyệt diễm nhưng thuyền lìa bến mộng
Liễu ven bờ thùy lệ hỏi vì ai
Trong câu đầu hai chữ «joli mai» quyến lấy nhau,
đến câu ba, lúc thuyền qua không buộc chặt, phải lìa xa bến, thì ý cách biệt
tách rời hai chữ «jolies/ mais» như vầng trăng ai xẻ
làm đôi vậy.
Lối kiến giải theo cách hình dung đó, tuy hấp dẫn nhưng đặt
ra một số vấn đề.
Trước tiên, người ta tự hỏi: tác giả có cố tình, hoặc
có ý thức, vẽ ra những hình tượng đó không? Câu hỏi tự nhiên nhưng chỉ là
một «giả vấn đề»: thơ là quán tha hồ muôn khách đến, là
một cánh hoa gửi hương cho gió, muốn cảm thụ thế nào tùy thích, mà không cần
biết đến cái dụng tâm của tác giả. Người mình thường nói: thơ có hồn - nghĩa
là có đời sống riêng, chiếu tỏa ra một thứ ánh sáng riêng, chính tác giả cũng
khó ngờ được. Thơ hay như ngọc quý, mỗi lúc lung linh một tia sáng khác nhau.
Thứ đến, là câu hỏi thực tế: những câu gợi hình, gợi ý
như vậy, chỉ là số ít. Còn bao nhiêu câu thơ khác, tuyệt diệu mà không thể suy
diễn ra được thành những sơ đồ, thì sao? Từ đó nảy ra vấn nạn cuối cùng,
là một nguyên tắc. Chúng ta đã từng quan niệm thơ không miêu tả như văn xuôi,
thì không nên đòi hỏi thơ phải lược họa một ngoại vật, hay minh họa một ý tưởng.
Giảng giải bằng cách họa hình, như ta đã làm trong bài này, chỉ hữu hiệu trong
phương diện mô phạm, để gợi sự chú ý của những bạn trẻ không sành thơ. Qua lối
kiến giải đó, bạn đọc thấy là người giảng thơ tinh tế, chứ không thấy thơ
hay: luật giảng thơ, không nên để lời bình giảng của mình lấn át tiếng
thơ. Không nên đặt cây đàn vĩ cầm của mình cao hơn nghệ thuật âm nhạc. Cây vĩ cầm
phục vụ âm nhạc chứ không phải ngược lại.
Ngày nay, người sành điệu không ai đòi hỏi một họa phẩm phải
vẽ lại trung thực, những đường nét, màu sắc của tạo vật; thì người yêu
thơ lại càng không nên tìm ở thơ những tương quan sẵn có của ngoại giới. Thơ phải
có khả năng tạo ra một vũ trụ mới, với những kích thước, những quan hệ, những định
luật riêng, bằng cách khai thác đặc tính của ngôn ngữ, mà ta sẽ xét trong một dịp
khác.
Đặng Tiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét