1- Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) quê làng Uy Viễn, nay là xã Xuân Giang huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Đường khoa cử khá lận đận năm 1820 khi đã 42 tuổi, ông mới đỗ Giải nguyên ra làm quan dưới các triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, đến chức phủ doãn Thừa Thiên thì nghỉ hưu... Trong 28 năm quan trường, bị giáng chức 5 lần. Vốn là quan văn vâng mệnh vua, nhiều lần ông đã cầm quân đi đánh dẹp một số cuộc khởi nghĩa của nông dân lập công lớn, khi đã vào tuổi tám mươi, nghe tin Pháp tấn công Đà Nẵng, ông vẫn xin nhà vua cho đi đánh giặc... Đặc biệt vào những năm cuối thập niên 1820, ông có sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp, khai sinh các huyện Kim Sơn, Tiền Hải (thuộc hai tỉnh Thái Bình, Ninh Bình ngày nay), đề xuất lập nhà học, xã thương ở nông thôn nhằm nâng cao dân trí và lưu thông hàng hóa. Những hoạt động của ông trong lĩnh vực khẩn hoang được nhân dân các vùng ghi nhớ, hiện còn rất nhiều từ đường thờ cúng ông ở hai huyện nói trên .
Xét về hành trạng, ngay từ thuở còn hàn vi ông đã nuôi lý tưởng giúp đời, lập công danh, sự nghiệp: Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông. Trên phương diện tư tưởng và tâm lý Nguyễn Công Trứ là một khối mâu thuẫn lớn! Ông không phủ nhận các nguyên lý tư tưởng Nho giáo (quân - thần - phụ - tử), nhưng ở một vài phương diện đạo lý, lối sống, ông vượt qua những lề thói bảo thủ, giả dối, tỏ một thái độ “phóng dật” bất cần, thách thức công nhiên dư luận. Nguyễn Công Trứ có một nhân sinh quan tuy căn bản vẫn nằm trong phép xuất xử Nho gia nhưng có nhiều khía cạnh tích cực đổi mới vượt ra khỏi những chuẩn tắc thời bấy giờ, lại được người đời ngầm chấp nhận. Hiểu được tính hai mặt này trong mối quan hệ giữa tính cách của Nguyễn và công luận là một điều cần thiết để đánh giá con người và sự nghiệp ông.
2- Nguyễn Công Trứ là người đa tài, nhưng ở ông tài và phận nhiều khi không song hành. Đời ông trải nhiều thăng trầm, vinh nhục, nên hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời. Phép xuất xử, luôn gợi ý cho các nhà nho khi nào nhập thế khi nào xuất thế, khi nào ra làm quan khi nào về vườn. Có vị “về” khi đường hoạn lộ đương thênh thang để giữ lòng trong sạch, có vị không ra làm quan “chỉ tìm nơi vắng vẻ” dưỡng thân nhàn. Nguyễn Công Trứ không hẳn như vậy.
Thực tại ông sống, là một xã hội đầy nghịch lý, ông vừa khinh bỉ và ngán ngẩm vừa phải chấp nhận nó.
Ra trường danh lợi vinh liền nhục
Vào cuộc trần ai khóc trước cười.
Hoặc: Tiền tài hai chữ son khuyên ngược
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi!
Chán chường với chốn quan trường, thấy những nghịch lý trong xã hội nhưng ông vốn là con người hành động nên hai phần đời đã nhập cuộc, cho đến khi về hưu. Cuối đời, nhiều lúc chua chát nhìn lại đời mình, ông muốn phủi tay thoát ly ra ngoài:
Ngồi buồn mà trách ông xanh,
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Nguyễn Công Trứ, với hình tượng “thông” là tâm trạng của một bậc hiền tài chua xót trước thời cuộc, đượm buồn nhưng không bi quan, yếm thế; vẫn thể hiện bản lĩnh của một bậc đạt nhân quân tử luôn tuỳ ngộ nhi an trước mọi thử thách. Ông trách cái xã hội oái oăm nhiều ngang trái, nhưng không đủ bản lĩnh để phủ định nó. Bởi vậy mà sinh mâu thuẫn trong tư tưởng, dằn vặt buồn lo vì xã hộị nhiêù nghịch lý, đưa đến tâm trạng bất như ý và đốí nghịch Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười. Trong cái thẳm sâu của ý tưởng Kiếp sau xin chớ làm người/ Làm cây thông đứng giữa trời mà reo có cái chân ngộ "muốn vượt thoát” ra ngoài vòng tục luỵ mà tôn giáo thường nhắc đến. Tuy nhiên ở Nguyễn, muốn tách khỏi nhưng vẫn gắn bó. Ông, trong sự lẩn tránh cái xã hội lắm điêù tiếng vẫn mong có bạn tri âm, sưởi ấm tình người!
Giữa trời vách đá cheo leo,
Ai mà chịu rét thì trèo với thông.
Ai mà chịu rét thì trèo với thông.
Người ta hay nói đến cái thú “chơi” của Nguyễn, thú cô đầu, ưa hát xách, kết bạn ca nương…, đó cũng chỉ là một biểu hiện của cái tâm thức vượt thoát của ông, không nên dừng lại chỗ ham mê sắc dục như có người lầm tưởng. Cặp đôi danh sĩ - giai nhân là một ám chỉ tương tri phần hồn hơn là cặp kè phần xác.
3- Là một nhà quản trị giàu năng lực, ông còn là một nhà thơ, một nghệ sĩ lớn. Ông để lại nhiều sáng tác thơ Nôm theo thể thơ đường luật và ca trù. Thơ ông là tâm trạng vị quan thanh liêm, tận tuỵ với triều đình, nhưng lại bị gièm pha nên thăng giáng thất thường. Nội dung thơ phong phú, đa dạng, từ than cảnh nghèo, vạch trần nhân tình thế thái, đề cao chí nam nhi, đến ca ngợi thú cầm kỳ thi tửu… Những bài cuối đời tố cáo những khía cạnh lọc lừa, bạc bẽo của xã hội đương thời. Với sự phong phú đa dạng trong các sáng tác Nguyễn Công Trứ là người đưa ca trù từ một lối hát nhỏ lẻ thành thể thơ thuần Việt ( hát nói) phổ biến dùng cho nhiều loại đề tài.
Vị quan nhà Nguyễn, người nghệ sĩ lớn tài danh mà hai phần ba cuộc đời sống gần với người dân thường, thấm nhuần những triết lý sống dân dã. Thơ ông cũng mang phẩm chất đó, dẫu thỉnh thoảng đôi nét đượm buồn, phẩn nộ nhưng cái mạch chìm hòa khắp là sinh động, hoan lạc và tranh đấu, đó là chất thơ có được từ đời sống, lấy đời sống làm cốt tính. Sự gắn bó đời sống làm nó không cạn kiệt theo thời gian, nhiều câu thơ về nhân tình thế cố như được xuất ra từ cuộc sống hôm nay vậy!.
Mùa Xuân và những khúc hoan ca trong thơ Xuân Diệu thời thơ mới
Chủ nghĩa lãng mạn được xây dựng trên cái nền tư tưởng không bằng lòng với thực tại và hiện tại, cái thực tại mà con người bị tha hóa trong nỗi đau thương xa rời bản thể và nhân tính. Văn chương lãng mạn Việt Nam đầu thế kỷ XX khá gần gũi với văn chương lãng mạn Pháp, dẫu vậy do phát triển trong bối cảnh xã hội thuộc địa nó có những sắc thái riêng. Các nhà thơ lãng mạn Pháp tự hào: không gì làm cho người ta lớn lao bằng một niềm đau thương lớn (A.Muyxê). Các nhà thơ lãng mạn Việt Nam cũng thổ lộ là con một “người mẹ hay sầu”và “mắt thường đẫm lệ” (Huy Cận). Xuân Diệu bước vào Thơ Mơi muộn nhưng gây ấn tượng mạnh vì ông không khóc, không buồn mà trên môi nở nụ cười nồng ấm, tươi trẻ khao khát yêu thương, khao khát giao cảm với đời.
Hồn thơ ông giao cảm với đời bằng một sự hòa quyện vừa truyền thống vừa tân kỳ. Nó mới mẻ trong sự khám phá các cảm giác cá nhân từ phương Tây dội đến bên cạnh sự mơ mộng với sinh cảnh thiên nhiên đầy màu sắc truyền thống của thi ca Á Đông. Nguyễn Đăng Mạnh nói ông là nhà thơ “giao cảm với đời” là muốn ám chỉ cái sắc thái pha trộn, vừa song hành, vừa tích hợp đó. Cái đóng góp, cái nét riêng của thơ ông trong phong trào Thơ Mới là đóng góp của một cá thể giàu tình yêu và niềm vui ham sống, là cảm quan mùa xuân pha vài yếu tố nhục thể vào một dòng chảy giải phóng con người khỏi sự ràng buộc các lề luật trói buộc của một ý thức hệ bảo thủ. Trong phong trào Thơ mới Xuân Diệu là người đến muộn. Tuy nhiên, bằng một cảm quan mới mẻ và một nghệ thuật cao diệu ông nhanh chóng trở thành đỉnh cao, trụ cột của cả phong trào, với hai tập thơ tiêu biểu là “Thơ Thơ“ và ”Gửi hương cho gió”.
Đối tượng phổ biến trong thơ ông là tuổi trẻ, tình yêu và mùa xuân.
Thơ Xuân Diệu là thơ của tuổi trẻ. Đó là tiếng nói của thanh niên, của cái tôi cá nhân thấy mình có sức mạnh, có quyền vui sống. Với ông vũ trụ, đất trời đẹp là đẹp ở sự tươi nguyên mới mẻ, trẻ trung: “Son sẽ trời như mười sáu tuổi - má hồng phơn phớt mắt long lanh“ (Rạo rực).
Tuổi trẻ, đó là nơi bắt đầu, là mùa xuân của đời người. Tuổi trẻ là căn nguyên khơi gợi niềm cảm xúc đắm say của ông. Nó làm ông ”xôn xao như một vạn cây rừng” và nao lòng “bằng muôn cánh yêu đương”…
Đặc trưng của tuổi trẻ là tình yêu! Thơ tình là đặc sản của Xuân Diệu. Ông là người dõng dạc tuyên ngôn ngay từ khi đặt bước chân vào thi đàn: ”Làm sao sống được mà không yêu” (Vì sao). Tình yêu là trung tâm, đỉnh điểm của sự giao cảm. Trong tình yêu, Xuân Diệu bao giờ cũng nồng nàn, sôi nổi. Ông là người nói được đầy đủ nhất mọi cấp độ của tình yêu, từ những kỷ niệm thoáng qua nhỏ nhất: một tà áo, một làn mi, đến những khao khát nồng đượm rộng lớn, sâu xa “mùa hoa thơm ngát của hồn tôi”:
Tà áo mới cũng say mùi gió nước
Rặng mi dài xao động ánh dương vui
(Xuân đầu)
Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi
(Nguyên đán)
Trong tình yêu thời gian luôn là nỗi băn khoăn, ám ảnh da diết, ông sợ thời gian qua mau nên luôn giục giã “Em ơi em, tình non sắp già rồi”. Để đạt được tận cùng, vô biên trong sự giao cảm với đời, Xuân Diệu đã mở rộng tối đa phạm vi các giác quan. Thơ ông tràn đầy ấn tượng tươi mới về sự vật, có thể gọi Xuân Diệu là nhà thơ của chủ nghĩa cảm giác.
Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực!
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài!
Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai!
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt!
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài!
Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai!
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt!
(Xa cách)
Xuân Diệu như muốn tranh đoạt quyền của tạo hoá để “ôm”, “riết”, “say”,”cắn”,” hút”, “ăn”... để kéo cả thế giới vào trong tâm hồn đầy xúc cảm của mình:
“Ta uống mê man hơi thở con người/ Ta bấu vào da thịt của đời/ Ngoạm sự sống để làm êm đói khát” (Thanh niên). Ngay cái việc dùng nhiều từ thuộc lĩnh vực khẩu ngữ thông tục gắn với sinh hoạt đời thường mà ta gặp nhiều ở hai tập thơ của Xuân Diệu thời kỳ này cũng nói rõ sự gắn bó với thực tại, sự ham sống, ham thụ hưởng của ông tạo nét riêng khác nhiều tác giả lãng mạn thời bấy giờ, nó cũng góp phần làm phong phú Thơ mới trong chu trình gắn bó với đời sống, với cộng đồng.
Trong tình yêu vô hạn với cuộc đời ông dành nhiều tình cảm cho mùa Xuân. Nhà thơ có nói đến mùa hạ, mùa thu và cả mùa đông nhưng với mùa xuân, điệu thơ luôn đưa đến cho người đọc một xúc cảm hân hoan, tràn đầy. Thơ vừa tả thực cảnh xuân lại vừa tượng trưng biểu cảm tình xuân lai láng. Mùa xuân tươi tắn đầy màu sắc và âm thanh “Giữa vườn ánh ỏi tiếng chim vui”, rồi ”Gió thơm phơ phất bay vô ý, Đem đụng cành mai sát nhánh đào” (Nụ cười xuân). Mùa xuân của ông cũng mơn man cảm giác nhục thể. Xuân đẹp, xuân qua mau nên nhà thơ luôn giục giã “mau với chứ”, ”vội vàng lên với chứ”, chung qui như muốn hưởng tận cùng những sắc điệu tình yêu - mùa xuân:
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
- Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi
(Vội vàng)
Cảm xúc cao độ với mùa xuân - tình yêu, Xuân Diệu thể hiện cái tôi cá nhân một cách mãnh liệt và tròn đầy, khẳng định cái đẹp của cuộc đời trần thế, của hiện tại và kêu gọi tuổi trẻ phải tận hưởng những “miếng ngon nhất“, những “Vàng son đang lộng lẫy buổi chiều xanh” của cuộc đời luôn biến đổi. Với Xuân Diệu “Sự thật ngày nay không thật đến ngày mai“ (Phải nói).
Quan niệm về thế giới đổi thay - một cái nhìn đầy tính triết lý đã chi phối thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu. Một khi ý thức về sự đổi thay của vạn vật thì khẳng định hiện tại, khẳng định cuộc đời trần thế với niềm vui là có ý nghĩa nhiều nhất. Khác với các nhà thơ mới khác, bất hoà trước thực tại, họ tìm về quá khứ, thoát lên tiên hoặc bay tới tương lai, Xuân Diệu lại bám vào hiện tại, khao khát hoà với cuộc đời bằng một tâm thế “muốn ở mãi giữa vườn trần, chân hoá rễ để hút mùa dưới đất“. Có lúc Xuân Diệu muốn gọi những năm tháng đã qua trở về với hiện tại ”Hỡi năm tháng vội đi làm quá khứ! Hãy trở về đây! và đem trở về đây!”. Trở về đây có nghĩa là về với thực tại, với những “giây, phút” tràn đầy cảm xúc nhạy bén của ông:
Một phút gặp thôi là muôn buổi nhớ
Vài giây trông khơi mối vạn ngày theo
Cảm xúc cao độ với mùa xuân - tình yêu hiện tại của ông thể hiện rất rõ trong bài thơ “Lời kỹ nữ”. Nếu trong “Tiếng hát Sông Hương” (Tố Hữu) cô gái sống nhiều với tương lai qua lời nhắn gửi của tác giả thì người kỹ nữ trong “Lời kỹ nữ” mong được sống tròn đầy trong hiện tại.
Trong sự nghiệp văn học của ông, phần thơ ca thời trước cách mạng rất có ý nghĩa, nó đã góp phần khẳng định sự thắng lợi của phong trào Thơ mới và góp phần không nhỏ cho sự nghiệp thơ ca mà ông khẳng định vững chãi sau này. Ông rất xứng đáng với danh hiệu “người mới nhất trong các nhà thơ mới“ (Hoài Thanh), “Là người mang đến cho thơ mới nhiều cái mới nhất“ (Vũ Ngọc Phan).
Xuân Diệu cũng như một vài nhà thơ xứ Nghệ khác mang trong mình dòng máu lai pha giữa đằng ngoài và đằng trong, có sẵn cái kiên cường, chí tiến thủ cuả cha kết hợp với cái phong khoáng chân chất của mẹ. Ông đưa vào thơ mình hai nguồn sữa đó, vừa nồng nàn vừa mơ mộng, có sự chân chất nồng nàn của tâm hồn ông đồ vùng đồng bằng Hà Tĩnh kết hợp sự phóng khoáng hồn nhiên của tấm lòng người phu nữ miền biển Quy nhơn. Ông đi vào cách mạng bằng sự hòa hợp tiếp nối nhanh chóng khác các nhà thơ cùng thế hệ mang cái buồn đau chán chường theo Cách mạng mong đổi đời. Thi nhân Hà Tĩnh với sự có mặt của các nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Thái Can, Quỳnh Dao đã góp phần tạo nên một dấu ấn ở dòng thơ này. Trong chừng mực nào đó có thể xem Xuân Diệu là ngọn cờ đầu của phong trào Thơ mới Việt Nam 32- 45, nơi lưu giữ phần nào tâm hồn một thế hệ công dân Việt Nam trong chặng đầu của thế kỷ XX.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét