Thứ Bảy, 29 tháng 2, 2020

Khảo sát những phương tiện tu từ từ ngữ trong ca dao dân ca Nam Bộ 2

Khảo sát những phương tiện tu từ 
từ ngữ trong ca dao dân ca Nam Bộ 2
2.2.2.2. Nhân hóa 
Nhân hóa là một biến thể của ẩn dụ, lấy những từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của người để biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của đối tượng không phải con người, nhằm làm cho đối tượng được miêu tả trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn, đồng thời làm cho người nói có khả năng bày tỏ kín đáo tâm tư, thái độ của mình [39, tr.63]. 
Khảo sát trong ca dao Nam Bộ, chúng tôi thấy có 97/2816 bài ca dao dùng phép nhân hóa, chiếm 3,4%. 
Phép nhân hóa có các cách thể hiện như sau: 
a) Lấy thuộc tính, hoạt động của con người biểu thị những thuộc tính, hoạt động của đối tượng không phải là người 
Nhằm biểu đạt những cung bậc, sắc thái tình cảm phong phú và phức tạp, người dân Nam Bộ đã lựa chọn và sử dụng những hình ảnh trong thế giới động - thực vật hay thế giới tự nhiên, xã hội rồi cảm xúc hóa, tâm trạng hóa, nhân cách hóa các sự vật, hiện tượng đó mang những tâm tư, tình cảm như con người. 
- Nhân cách hóa những con vật trong thế giới động vật 
Theo khảo sát của chúng tôi, trong ca dao Nam Bộ, thế giới động vật được nhân cách hóa chiếm 47 bài (1,7%). 
Những con vật như: nhạn, tôm, hạc, đỉa, chim, ong, con cò, loan phụng… rất quen thuộc với truyền thống, thị hiếu thẩm mỹ của cư dân phương Nam, tương đồng với đời sống tình cảm của con người. 
+ Hoạt động: bướm đậu cheo leo, bướm dạo vườn bông, bướm dật dờ, cá bống đi tu, cá thu khóc, cá lóc rầu, cá tham ăn… 
Cá bống đi tu 
Cá thu nó khóc 
Cá lóc nó rầu 
Phải chi anh có phép mầu 
Hóa ra con cá trắng lội hầu bên em. 
+ Thuộc tính: phụng hoàng sầu tư, bướm lụy, bướm buồn, bướm già, bướm giỡn, cá dại, cá lý ngư sầu tư, con én rũ, chim khôn… 
Ai làm cho dạ em buồn 
Cho con bướm lụy, chuồn chuồn bay theo. 
Bướm mà biết lụy, biết đau, biết khổ như con người sao? Tất cả những thuộc tính trên là của riêng con người, chỉ có con người mới có tâm trạng, cảm xúc nhưng khi mượn hình ảnh của bướm, chuồn chuồn cho mang các thuộc tính của con người càng khiến nội dung của bài ca dao thêm sâu sắc. Hình ảnh bướm, chuồn chuồn luôn quấn quýt bên nhau, không xa rời trong tình yêu là một hình ảnh đẹp, hạnh phúc. Vậy mà “bướm lụy, chuồn chuồn bay theo” chứng tỏ tình duyên đang gặp trắc trở, người con gái trong bài đang mang một nỗi sầu chất ngất. Sự đớn đau của nàng đã được thể hiện rõ hơn, tự nhiên hơn, xúc động hơn nhưng cũng ý nhị, kín đáo nhờ phương tiện nhân hóa. 
Đưa loài vật vào thế giới của con người đặc biệt vào những khung cảnh say sưa, tình tứ của đôi lứa trong mùa tình duyên, lúc đó, những vật vô tri, vô giác ấy sẽ được truyền linh hồn, tâm trạng như người với một sự tươi trẻ, tràn đầy sức sống hay cũng buồn thương, nhớ nhung, đau đớn, dằn vặt, hẹn hò, ấp ủ… 
Ba năm hạc đáo về đình 
Không cho hạc đậu, tức mình hạc bay. 
Hạc chỉ là loài chim trong tưởng tượng, nhưng ở đây lại được nhân cách hóa như con người (tức mình). Với cái nhìn phát hiện, sự lựa chọn hình ảnh giàu sức khái quát, giàu ý nghĩa biểu tượng: hạc cũng biết bực mình, cũng biết giận dỗi như con người. 
Hình ảnh đó được khắc họa thật sống động, chân thật giàu sức khơi gợi, liên tưởng đến tâm trạng buồn bã, bực bội của con người: ba năm dài đằng đẵng vậy mà khi trở về lại không được chào đón, còn nỗi khổ nào đau đớn hơn nữa không, hình ảnh “tức mình hạc bay” nhằm diễn tả sự dỗi hờn của nhân vật trữ tình khi duyên tình không như ý nguyện. 
+ Nhân cách hóa cỏ cây, hoa lá trong thế giới thực vật 
Nếu so sánh với thế giới động vật thì cỏ cây, hoa lá được nhân cách hóa ít hơn, cụ thể, có 35 bài (1,24%). 
Đó là thế giới thực vật gắn liền với vùng đất Nam Bộ: trầu cau, mai, đào, lựu, hoa, bưởi, bông sậy, cúc… 
Những loại cây này gắn bó với cuộc sống của những người nông dân sông nước Cửu Long vốn khắc nghiệt nhưng tận sâu thẳm trong trái tim vẫn rất dạt dào tình cảm. Những loại cỏ cây, hoa lá này đã biểu hiện rõ đời sống nội tâm vô cùng phong phú, phức tạp, tế nhị trong duyên tình đôi lứa hay bộc lộ niềm say mê phong cảnh quê hương mình. 
Khế với chanh một lòng chua xót 
Mật với gừng một ngọt một cay. 
Hình ảnh khế, chanh thường rất chua, giống như đôi tình nhân đang trong một tâm trạng đớn đau vì tình duyên không trọn vẹn. Khế, chanh như cùng có tâm trạng chơi vơi, sầu đau, khổ sở.
Còn hình ảnh mật, gừng lại trái ngược nhau hoàn toàn: mật thì ngọt như tình duyên đôi lứa đang say đắm, nồng nàn nhất; gừng cay thì đại diện cho sự chung thủy, sắt son của tình nghĩa non sâu. Bài ca dao trên đã mượn bốn hình ảnh của tự nhiên, nhân hóa chúng để chúng mang tâm trạng, tình cảm, cảm xúc như con người. 
Trong tình duyên, nhân vật trữ tình luôn muốn gửi gắm, ký thác nỗi lòng, xúc cảm của mình vào những hình ảnh, những vật tưởng như vô tri, vô giác: 
Vóc bồ liễu gặp cơn gió bụi 
Đóa hoa đào sợ hãi nắng sương 
Biết đâu là khách đài gương 
Ngãi nhân giữ được bậc thường vậy chăng? 
Cây bồ liễu, đóa hoa đào vốn là những vật vô tri, vô giác được đặt vào trong một văn cảnh thấm đẫm chất trữ tình lại được gán cho những phẩm chất, hành vi, tâm trạng của con người. Trong tình duyên, không phải lúc nào cũng gặp được nhân duyên như ý. Ta bắt gặp sự lo lắng, trăn trở cho thân phận của người con gái khi đối mặt với sóng gió trong cuộc đời. Thân con gái mười hai bến nước, biết bến nào đục, bến nào trong mà gởi gắm, nương tựa. Những trăn trở, suy tư, băn khoăn đó được thể hiện rõ ràng thông qua những hình ảnh tự nhiên được nhân cách hóa mang tính cách như con người. 
- Nhân cách hóa những sự vật, hiện tượng tự nhiên 
Những sự vật, hiện tượng trong tự nhiên như: mây, gió, trăng, sao, sông, nước, cù lao, gành, thuyền… cũng được nhân hóa, được nhuốm màu sắc tâm trạng và nỗi niềm cảm xúc như đời sống của con người. 
Biển cạn láng khô, thuyền vô không đặng 
Có năm sáu nàng thuyền lặng đi luôn. 
Trong ca dao nhất là ca dao yêu thương tình nghĩa, hình ảnh thuyền tượng trưng cho người con trai, rày đây mai đó không ổn định. Thuyền đi không biết bến bờ, không nơi neo đậu. Bài ca dao trên, diễn tả xúc cảm của thuyền hay của chàng trai khi hoàn cảnh khắc nghiệt không cho phép thuyền gắn bó với một nơi có quá nhiều bến đỗ. 
Thiên nhiên cũng có cảm xúc, cũng giao hòa, cũng biết tỏ tình, cũng biết yêu thương, sầu đau hay khao khát chung tình như con người: Bồn xa bông, bồn khô bông héo 
Lựu xa đào lựu ngã, đào nghiêng 
Vàng trên tay rớt xuống khôn phiền 
Buồn vì một nỗi nợ duyên không thành. 
Lối nói nhân hóa ở đây làm cho cảnh vật tự nhiên như sống trong một không khí đầy chất tình tứ, lãng mạn: không có hình ảnh nào đẹp, hạnh phúc bằng hình ảnh đôi lứa bên nhau cũng giống như bồn - bông, lựu - đào; nhưng ở đây, bồn lại xa bông, lựu lại xa đào khiến mọi thứ trở nên héo rũ, tàn phai. 
Thông qua các hình ảnh này, ta nhận thấy tác giả dân gian đã rất tinh tế khi thể hiện tình cảm ẩn sâu trong tâm hồn. Nhờ phép nhân hóa, những vật vô tri, vô giác cũng biết thổn thức, cũng cựa quậy, sầu héo hay phai tàn vì tình duyên không trọn vẹn hoặc e ấp, nồng nàn khi bày tỏ lời yêu. 
Việc đưa thế giới tự nhiên vào trong ca dao nhằm đề cập tình yêu đôi lứa là một nét độc đáo rất riêng của người dân Nam Bộ. Những vật vô tri, vô giác được truyền linh hồn như con người với những hoạt động tràn đầy sức sống. Lúc này, người và vật cùng giao hòa, giao cảm với nhau, tạo nên một điệu nhạc mê đắm, cuồng nhiệt. Ca dao Nam Bộ luôn dùng hình ảnh tự nhiên rồi gieo vào đó thế giới cảm xúc của nội tâm, phô bày tình cảm một cách kín đáo nhằm bộc lộ tâm trạng của thế giới con người, tạo hiệu quả tác động tích cực đến người đọc. 
2.2.2.3. Phóng đại 
Theo Đinh Trọng Lạc - Nguyễn Thái Hòa, "phóng đại còn có tên gọi là ngoa dụ, khoa trương, thậm xưng tức là phương thức cường điệu một mức độ, tính chất hay đặc điểm nào đó của sự vật. Phóng đại là dùng từ ngữ hoặc cách diễn đạt để nhân lên gấp nhiều lần những thuộc tính của khách thể hoặc hiện tượng nhằm mục đích làm nổi bật bản chất của đối tượng cần miêu tả nhằm gây ấn tượng đặc biệt mạnh mẽ" [39, tr.46]. 
Phóng đại là một phương tiện đắc dụng trong thơ ca hài hước, trào lộng. Trong ca dao, phóng đại tuy xuất hiện không nhiều, nhưng thường gây ấn tượng mạnh cho người đọc. 
Phóng đại không phải là thổi phồng sự thật hay xuyên tạc sự thật để lừa dối, nó không làm người ta tin vào điều nói ra mà chỉ cốt hướng cho ta hiểu được điều nói lên. Cơ sở của phóng đại là tâm lý của người nói muốn điều mình nói gây được sự chú ý và tác động cao nhất làm người nhận hiểu được nội dung và ý nghĩa của người nói đến mức tối đa. 
Qua việc khảo sát 2816 bài ca dao Nam Bộ, chúng tôi thống kê được 189 bài sử dụng phóng đại, chiếm 6,71%. Căn cứ vào mức độ phóng đại, chúng tôi có thể chia phóng đại trong ca dao Nam Bộ ra làm hai loại: 
a) Phóng đại ở mức độ thấp 
Là cách nói nhấn mạnh, nói quá hơn so với cái có thật trong thực tế nhưng chưa đến mức phi lí, vẫn có thể chấp nhận được. Phóng đại ở mức độ này thường dùng trong các sinh hoạt hằng ngày không có hoặc ít có giá trị tu từ. Loại này có 56/ 189 bài, chiếm 29,6%. Chẳng hạn: 
Anh than một tiếng nát miếu xiêu đình 
Cây huệ kia đang xanh lại héo, cá ở ao quỳnh vội xếp vi. 
Phóng đại trạng thái tâm lý bằng hình ảnh: đó là những trạng thái tâm lý rất đỗi bình thường của con người 
- Vui: ba năm tượng rách còn thờ, đắp lũy bồi thành, bắc cây cầu mời tám ván - lập quán mười chín tầng - bán buôn nuôi mẹ, cầm chừng đợi anh… 
- Buồn lo: nhà nhỏ - nợ nhiều, bãi cỏ lau khô sầu ai rã rượi, đá nổi vông chìm - muối chua chanh mặn tìm đặng em, cầu oằn cầu oại, cất mái chèo ruột thắt từng cơn, ruộng sâu sầu tấc dạ - cho sông cạn nước… 
- Tương tư: thương - để trong túi áo, thương em từ thuở tóc bỏ lòng thòng, anh móc mồi con chim phụng câu rồng trên mây… 
Chẳng hạn: 
Chờ em cho mãn kiếp chờ 
Cho rau muống vượt lên bờ trổ bông. 
Chờ đợi tình duyên đã được cụ thể hóa bằng hình ảnh gắn bó mật thiết với người dân Nam Bộ: rau muống lên bờ trổ bông. Trong sự chờ đợi đó, ta còn bắt gặp cả nỗi buồn nhớ vô hình được chất chứa trong lòng, có hình dáng, có trọng lượng. Lối nói phóng đại đã nhấn mạnh nỗi buồn, nhớ, sự trông chờ nặng trĩu trong lòng, đồng thời còn khẳng định tình yêu chung thủy, kiên định mà chàng trai đã dành cho cô gái. 
Một bài ca dao khác: 
Ngó lên trời thấy sao giăng phụng vẽ 
Ngó xuống phàm trần thấy một lẽ anh gần em 
Anh về cậy mối cậy mai 
Chớ đừng có liếc mắt xem, họ đồn. 
Hình ảnh sao giăng phụng vẽ gợi lên sự lãng mạn, tình tứ khi thể hiện tình cảm. Chẳng phải là hình ảnh sao giăng cho phụng vẽ thật mà đó chính là tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình đã tưởng tượng rồi vẽ nên. Lấy hình ảnh sao giăng phụng vẽ để diễn tả sự tha thiết của tình cảm là cách nói phóng đại rất nhẹ nhàng và ý nhị nhưng tạo hiệu quả rất cao. Bài ca dao trở nên thú vị, gây cảm giác bất ngờ, xúc động cho đối tượng mà nhân vật trữ tình muốn thổ lộ. 
- Nhấn mạnh khát vọng, sự chung tình, son sắt bất chấp cả điều kiện khó khăn, thiếu thốn: khó nghèo cùng chịu - chớ hoài bỏ nhau, dầu thương áo rách vá quàng cũng thương, thương anh đến thác cũng còn thương anh, lòng tôi chuộng ngãi chẳng nài giàu sang…Ví dụ: Thiếp đứng gần chàng hơn vàng chín nén 
Chàng đứng gần thiếp hơn chén thuốc tiên. 
Vàng hay ngọc ngà châu báu rất quý giá, quan trọng với cuộc sống của con người. Còn “tiên” là vị thần xuất hiện trong sự tưởng tượng của con người, thuộc về thế giới tâm linh, thế giới của sự trường sinh bất tử, là niềm mơ ước của mọi vật trên thế gian. Với đôi lứa đang yêu nhau, tình yêu còn quan trọng hơn mọi thứ quí giá, quan trọng hơn cả sự bất tử của cuộc đời. Với con người, tình nghĩa hay tình duyên là quan trọng nhất. Tác giả dân gian hiểu được tâm lý đó nên đã phóng đại chúng lên rồi so sánh với những thứ quí giá nhất. Phóng đại trong trường hợp này vẫn đạt được hiệu quả nghệ thuật, tạo ấn sâu sắc trong tâm tưởng người đọc. 
b) Phóng đại ở mức độ cao 
Là cách nói cường điệu hóa đến độ phi lí không thể tin được. Phóng đại ở mức độ này thường xuất hiện nhiều trong ngôn ngữ nghệ thuật, sáng tạo nên những hình ảnh, biểu tượng đặc sắc. Loại này có 133/ 189 bài, chiếm 70,4%. Ví dụ: 
Anh ơi, quần áo rách tả tơi mỗi nơi một miếng 
Đứt chín đoạn lòng nghe một tiếng anh than. 
Phóng đại bao giờ cũng gắn với hình ảnh. Hình ảnh phóng đại trong ca dao Nam Bộ khá phong phú. 
- Phóng đại mức độ phi lý 
Là mức độ phóng đại các thuộc tính, đặc điểm, tính chất của đối tượng đến mức phi thường để làm nổi bật bản chất của đối tượng, nhằm khắc sâu cảm giác đối với vấn đề được nói đến. 
+ Phóng đại tính chất phi lý các hiện tượng tự nhiên 
Bao giờ cạn lạch Đồng Nai 
Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền. 
Sông Đồng Nai là tên con sông lớn thứ nhì đất Nam Bộ, chiếm gần đại bộ phận miền Đông Nam Bộ. Chùa Thiên Mụ (còn gọi chùa Linh Mụ) là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương - ngôi chùa cổ nhất ở Huế. Với bài ca dao trên, tác giả dân gian đã lấy cái vô hạn của thiên nhiên - dòng chảy triền miên của sông Đồng Nai và di sản văn hóa đất nước được bảo tồn - chùa Thiên Mụ để nêu lên một giả định “cạn lạch Đồng Nai/ nát chùa Thiên Mụ” thì mới “sai lời nguyền” nhằm khẳng định một chân lý: tình yêu giữa đôi lứa mãi mãi trường tồn, bền vững như sông Đồng Nai, mãi mãi vĩnh hằng như chùa Thiên Mụ. 
Cũng có khi phóng đại được sử dụng theo khuynh hướng phủ định: Bao giờ đá nổi vông chìm 
Muối chua chanh mặn mới tìm đặng em. 
Lối nói phóng đại ở đây: nêu lên giả định trái với quy luật của đời sống: đá - nổi, vông - chìm, muối - chua, chanh - mặn nhằm khẳng định một sự thật khá phũ phàng, ẩn sâu tận trong tâm khảm: cô gái chưa bao giờ yêu chàng trai. Kết hợp với cách điệp kiểu nói, điệp cấu trúc và cách nói tương phản, lối nói phóng đại đến mức trái với quy luật ở đây có tác dụng phơi bày bản chất của vấn đề và thái độ cự tuyệt, quyết liệt, dứt khoát trong sự lựa chọn của người con gái. 
+ Phóng đại các yếu tố tâm lý 
Trong lối suy nghĩ về cuộc sống, nhất là trong tình yêu, con người luôn có những trạng thái tâm lý rất khác thường. Nghệ thuật phóng đại rất phù hợp để những con người đang yêu có thể diễn tả các cung bậc, sắc thái tình cảm lúc nồng nàn, lúc say đắm; đến những khổ đau, hụt hẫng, bi kịch, hay trạng thái quyết liệt sắt đá, bảo vệ cho tình yêu của chính mình. 
Thương nhau chẳng biết làm sao 
Đổ nước vào dĩa làm ao trầm mình. 
Phép phóng đại giúp chàng trai, cô gái Nam Bộ thể hiện tình yêu thương của mình: lấy cái nhỏ bé, quen thuộc nhất với cuộc sống là cái dĩa đựng đồ ăn; phóng đại lên thành cái ao nước để trầm mình nhằm thể hiện sự hài hước. Yêu nhau thì không thể chết được, chết rồi làm sao có thể yêu nhau. Điều này hoàn toàn trái ngược với những chàng trai cô gái thất tình mượn cái chết để giải thoát bi kịch. Ca dao còn có lối phô diễn về trạng thái tâm lý khác thường khi xa vắng nhau. Kinh Thi - quyển sách cổ xưa của Trung Quốc - có câu Nhất nhật bất kiến như tam thu hề tức là Một ngày không gặp tưởng dài như ba năm. Việc cường điệu thời gian tâm tưởng để nhấn mạnh tình cảm nhớ thương dồn nén trong lòng và khao khát được gặp gỡ cũng được thể hiện trong ca dao Nam Bộ. 
Vắng em một bữa chau mày 
Cũng bằng cha mẹ đem đày biển Đông. 
Chỉ vắng người mình thương có một bữa (chứ chưa được một ngày) thôi mà chàng trai cảm nhận cuộc sống xung quanh là vô nghĩa, có cảm tưởng bản thân bị đem đày ra tận biển Đông vô tận. Sự kết hợp giữa lối nói tương phản và lối nói phóng đại khiến sự đau khổ khi phải xa cách người mình thương càng được nhân lên nhiều lần, đồng thời có tác dụng khơi gợi nỗi đau giằng xé trong nội tâm. 
Ca dao Nam Bộ cũng vận dụng lối nói cường điệu bằng hình ảnh thể hiện nỗi đau khổ về thể xác và tâm hồn khi tình yêu tan vỡ. 
Anh có vợ rồi sao anh còn gian còn giấu 
Em vạch mây hồng kêu thấu ông trời xanh 
Anh đừng lấy vải thưa che mắt thánh, nói gái nữ thanh đui mù. 
Tác giả dân gian diễn tả nỗi đau của người con gái khi biết một sự thật phũ phàng: người con trai mình hết dạ yêu thương đã có người nâng khăn sửa túi. Cái cảm giác bị lừa dối vì quá cả tin mà đau khổ đến choáng váng. Hình ảnh phóng đại nỗi đau đó được diễn tả một cách tài tình. Cô gái trong trắng, ngây thơ bị phụ tình, bị lừa gạt. Cô gái đau đớn đến độ phải kêu thấu tới tận ông trời, mong ông thấu hiểu cho tình cảnh của cô: vạch mây hồng kêu thấu ông trời xanh, một hành động quyết liệt, mạnh mẽ. Ban đầu, cô gái tin yêu, hy vọng, khát khao về một tương lai tươi sáng. Sau cùng, cô gái lại thất vọng bởi sự gian dối của người yêu. Nỗi đau đó được thể hiện bằng hình ảnh phóng đại, và chỉ có phép phóng đại mới đủ sức khơi gợi ngọn nguồn xúc cảm trong tâm hồn của chủ thể trữ tình.
Đôi lứa dù đói nghèo, sống chết nhưng vẫn giữ trọn niềm tin yêu, chung thủy dành cho nhau. Lối nói cường điệu đã thể hiện bản lĩnh phi thường và sức mạnh của tình yêu đích thực: 
Mải mê hò, mê hát 
Chiều về nhà phụ mẫu 
đánh thịt nát xương tan 
Đau bao nhiêu tôi cũng chịu, 
bấm gan chờ chàng. 
Phép tu từ phóng đại đã khắc họa sắc nét tính chất thiêng liêng của lời thề: cho dù có thịt nát xương tan thì thiếp vẫn bền gan chờ đợi chàng. Cách nói phóng đại rất nhẹ nhàng nhưng mạnh mẽ diễn tả khát vọng xây đắp một tình yêu vĩnh hằng, vượt lên tất cả mọi quyền uy, lễ giáo, vượt ra khỏi vòng sinh tử của kiếp người. Lời thề nguyền thủy chung đó đã khắc vào thời gian, không gian, khắc tạc đá vàng, gửi hậu thế muôn đời quyền được sống cho tình yêu, vì tình yêu; dù có chết cũng cam lòng. Họ sẵn sàng chết cùng nhau ở cõi vĩnh hằng thì tình yêu của họ sẽ trở thành bất tử. 
Tóm lại, phóng đại là một biện pháp nghệ thuật mà các tác giả dân gian Nam Bộ rất ưa dùng, xuất hiện khá nhiều trong các sáng tác ca dao, đặc biệt ở chủ đề tình cảm nam nữ. Đặc sắc của phép tu từ này là cường điệu bằng hình ảnh ở mức độ phi thường: những hiện tượng tự nhiên trái quy luật, những yếu tố tâm lý ở trạng thái đỉnh điểm, những mê say, những hụt hẫng, bi kịch khổ đau, những trạng thái quyết liệt bảo vệ tình yêu chung thủy, những nỗi sầu muộn lúc chia ly, tan vỡ. Lối nói cường điệu bằng hình ảnh có tác dụng vừa khắc họa đậm nét hình tượng vừa thể hiện sáng tỏ bản chất đối tượng vừa có sức dồn nén dung lượng xúc cảm nên có sức lay động, làm xúc động lòng người. 
Phép tu từ phóng đại giúp người Nam Bộ thể hiện tình cảm rất thẳng thắn của họ: yêu ghét rạch ròi, thương hết mình, ghét tận xương tủy, yêu thương, mơ mộng, đau khổ một cách hồn nhiên, bộc bạch. Qua phép tu từ phóng đại, chúng ta có thể thấy người dân Nam Bộ dù được mệnh danh là “ruột để ngoài da”, ăn ngay nói thẳng nhưng vẫn có trí tưởng tượng bay bổng, óc liên tưởng phong phú, tâm hồn nhạy cảm, hài hước có duyên và rất lãng mạn. 
Tiểu kết chương 2 
Trong chương 2, luận văn đã tập trung nghiên cứu các phương tiện tu từ trong ca dao Nam Bộ. Ở phương tiện tu từ từ vựng, luận văn đi sâu tìm hiểu từ thi ca, từ thông tục, từ Hán Việt, từ nghề nghiệp, từ địa phương, từ láy. Ở phương tiện tu từ ngữ nghĩa, ẩn dụ, nhân hóa, phóng đại là những vấn đề đã được khảo sát, tìm hiểu. Khi nghiên cứu bất cứ phương tiện tu từ nào, chúng tôi đều nhất quán tuân thủ thao tác khảo sát định lượng, phân tích giá trị sử dụng trong các bài ca dao tiêu biểu, từ đó đánh giá khái quát về mặt định tính. Qua sự phân tích các dẫn chứng ở các phương tiện tu từ cụ thể, chúng tôi luôn cố gắng chỉ ra những nét đặc sắc nghệ thuật của ca dao Nam Bộ, đồng thời bước đầu nêu lên những nhận xét về đặc điểm văn hóa của con người vùng đất này.
Chương 3 
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TU TỪ TRONG CA DAO NAM BỘ 
3.1. Khái niệm biện pháp tu từ 
Bên cạnh khái niệm phương tiện tu từ, còn tồn tại khái niệm biện pháp tu từ. Biện pháp tu từ là những cách phối hợp sử dụng trong hoạt động lời nói các phương tiện ngôn ngữ không kể là có màu sắc tu từ hay không, trong một ngữ cảnh rộng để tạo ra hiệu quả tu từ (tức tác dụng gây ấn tượng về hình ảnh cảm xúc, thái độ, hoàn cảnh). 
Biện pháp tu từ là những cách kết hợp ngôn ngữ đặc biệt trong một hoàn cảnh cụ thể, nhằm một mục đích tu từ nhất định. Nó đối lập với biện pháp sử dụng ngôn ngữ thông thường trong mọi hoàn cảnh nhằm mục đích diễn đạt lí trí [39, tr.142]. 
Việc tìm hiểu các biện pháp tu từ là rất cần thiết trong nghiên cứu thơ ca, nghệ thuật. Về tác dụng, các biện pháp tu từ sẽ làm cho những tâm tư, nguyện vọng lẫn cảm xúc của những người dân Nam Bộ được biểu hiện một cách rõ nét. Cùng với những phương diện khác của hình thức nghệ thuật, các biện pháp tu từ cũng cho thấy rõ sức sáng tạo của nhân dân lao động vùng đất Nam Bộ ở bộ phận thơ ca dân gian. Mặt khác, từ những biện pháp tu từ, ta có thể nhận ra những nét đặc sắc riêng của thơ ca dân gian Nam Bộ so với thơ ca những vùng miền khác trên đất nước Việt Nam. Xét đến cùng đây cũng là một trong những chứng tích bản sắc văn hóa của một vùng miền. Những điều ấy được thể hiện cụ thể qua các bài ca dao đặc sắc. 
Căn cứ vào cấp độ ngôn ngữ của các phương tiện ngôn ngữ được phối hợp sử dụng, các biện pháp tu từ được chia ra: biện pháp tu từ từ vựng, biện pháp tu từ ngữ nghĩa, biện pháp tu từ cú pháp, biện pháp tu từ văn bản, biện pháp tu từ ngữ âm - văn tự.  
3.2. Một số biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ 
Trong các biện pháp tu từ của tiếng Việt, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát biện pháp tu từ ngữ nghĩa và biện pháp tu từ cú pháp trong ca dao Nam Bộ. 
3.2.1. Biện pháp tu từ ngữ nghĩa trong ca dao Nam Bộ 
3.2.1.1. So sánh 
a) Khái niệm So sánh là "phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác miễn là giữa hai sự vật có một nét tương đồng nào đó để gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mỹ trong nhận thức của người đọc, người nghe" [39, 188]. 
So sánh tu từ là một biện pháp nghệ thuật được sử dụng khá đa dạng trong ca dao Việt Nam với mật độ khá cao trong một số kết cấu phổ biến. Nhờ biện pháp so sánh mà giá trị nhận thức, giá trị tạo hình và giá trị biểu cảm của ca dao trở nên sâu sắc hơn. 
Trong bài báo Từ so sánh đến ẩn dụ, Nguyễn Thế Lịch đã đề cập mô hình cấu trúc hoàn chỉnh của so sánh gồm 4 yếu tố sau đây: 
a. Yếu tố cần so sánh, gọi là yếu tố được hay bị so sánh tùy theo việc so sánh tích cực hay tiêu cực (YTĐ/ BSS). 
b. Yếu tố biểu thị tính chất của sự vật hay trạng thái của hành động có vai trò nêu rõ phương diện so sánh (YTPD). 
c. Yếu tố thể hiện quan hệ so sánh (YTQH). 
d. Yếu tố nêu ra làm chuẩn để so sánh (YTSS). 
Bốn yếu tố đó được cấu trúc trong mô hình như sau: 
 a
 b
 c
 d
 YTĐ/BSS
 YTPD 
  YTQH 
  YTSS 
 Mặt 
 tươi 
như 
 hoa
Xuất phát từ mô hình cấu trúc so sánh hoàn chỉnh này, muốn đánh giá những thành công về nghệ thuật so sánh trong văn học (kể cả văn học dân gian và văn học viết), chúng ta sẽ xem xét hai phương diện. 
Thứ nhất: hình ảnh so sánh được đưa ra (yếu tố d) có gì mới mẻ đặc sắc? 
Thứ hai: từ mô hình chung, tác giả có những cải biến như thế nào trong từng trường hợp cụ thể làm cho cách so sánh trở nên linh hoạt, hấp dẫn? 
Bất cứ một sự so sánh có giá trị nào cũng không nằm ngoài thước đo của hai phương diện ấy. 
Trong ca dao Nam Bộ, sự biểu hiện khá đa dạng của hình thức so sánh nghệ thuật không chỉ làm phong phú thêm những hình thức biểu hiện và giá trị biểu đạt mà còn mang ý nghĩa biểu cảm lớn, góp phần thể hiện đậm nét sắc thái địa phương. Bảng thống kê sau đây sẽ cho ta một cái nhìn về số lượng của biện pháp so sánh được sử dụng trong ca dao Nam Bộ. 
Bảng 3.1. Thống kê biện pháp so sánh 
trong một số bài ca dao Nam Bộ
TT  
 BÀI CA DAO/ TRANG 
  TỔNG SỐ CÂU
 SỐ CÂU SỬ DỤNG S0 SÁNH 
 CÂU CA DAO 
DÙNG SO SÁNH
1
Bài 44/134 
2
Ngó về Thị Đội, ruột đau như dần
 2
Bài 74/139 
2
 2 
Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh. Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân
 3
Bài 102/143 
2
1
 Thấy buồm anh chạy như dao cắt lòng
 4
Bài 112//149 
2
1
Chim kêu như hát bội, cá lội vàng tợ mắm nêm
 5
Bài 151/153 
2
Xứ nào bằng xứ Cạnh Đền, Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội dền như bánh canh
6
Bài 199/161 
4
2
Để em khô héo như nhành mai khô. Em đây lẻ bạn cũng như phụng hoàng
 7
Bài 285/173
2
1
Em là con tép nhỏ lộn rong khó tìm
 8
Bài 411/190
15
Giả như cây vải nhuộm chàm mau bay
 9
Bài 542/208  
 2
1
Bao nnhiêu lá rụng thương mình bấy nhiêu 
 10
Câu 573/212 
3
2
Em là con cá liệt ở khơi, Anh là lưới bên bủa nơi dọc gành
 11
Bài 748/237 
Bài 748/237 2 1 Con cò trắng tợ như vôi
 12
Bài 805/244 
4
1
Em đây giữ tiết như nàng Nguyệt Nga
 13
Bài 825/246 
2
1
Sóng bao nhiêu gợn dạ buồn bấy nhiêu
 14
Bài 870/253 
6
2
Đèn nào cao bằng đèn ông Chánh, Bánh nào trắng bằng bánh bò bông. 
 15
Bài 957/265
2
1
Khác nào nh ạn chích lạc loài kêu sương
 16
Bài 963/266 
2
1
Đôi ta như thể đôi t ằm
 17
Bài 1012/273
4
1
Một nàng vừa đẹp vừa sang như mình
 18
Bài 1044/277 
2
2
Em như nút, anh như khuy; Như Thúy Kiều - Kim Trọng biệt ly sao đành
 19
Bài 1071/281 
4
1
 Trai chưa vợ ruột tợ trái chanh
 20
Bài 1679/358
2
2
Qua như chim nọ đương bay. Em như cá nọ mắc rày lưới giăng
 21
Bài 1684/359 
2
1
Qua tỉ như chùm gửi đáp nhờ
 22
Bài 1724/364 
2
1
Rách mà khéo vá hơn lành vụn may
 23
Bài 1756/369 
2
1
Chị Thúy Kiều sầu anh Kim Trọng tỉ như em sầu chàng
 24
Bài 1821/376 
3
1
Thân em giả tỉ như chiếc thuyền tình
 25
Bài 1836/378 
8
2
 Thân em xét kỹ, Cũng tỉ như đồng bạc đầu hình. Thân anh xét chắc, Như tủ sắt để hờ
 26
Bài 1871/383
4
3
Thiếp tợ thiên biên nguyệt, Quân như lãnh thượng vân. Cũng như biển Sở non Tần cách xa
 27
Bài 2036/404 
2
2
Trắng như tiên không phải duyên anh không tiếc. Đen như cục than hầm, duyên hợp anh ưng
 28
Bài 2053/406 
6
4
 Trời cao hơn trán, Trăng sáng hơn đèn, Kèn kêu hơn quyển, Biển rộng hơn sông
 29
Bài 2056/406 
2
1
 Anh tìm em như thể khiến vàng tìm cây
 30
Bài 2217/428 
7
1
 Đôi ta như quế với gừng 
Bài 2246/431 
Chồng như anh, vợ đặng như nàng, Giả như tô g ấm đũa vàng để bôn  
 31
Bài 2269/435 
4
1
Ng ỡi nhơn như bát nước đầy
 32
Bài 2271/435 
4
2
 Đ ạo cang thường khó l ắm b ạn ơi, Ch ẳng như ong bướm đậu r ồi l ại bay
 33
Bài 2278/436 
4
1
 G ối l ụa không m ềm b ằng g ối tay em
 34
Bài 2281/437 
2
1
Gánh gạo đưa chồng nước mắt như mưa
 35
Bài 2297/439 
2
1
Làm trai hai vợ như dây buộc mình
 36
Bài 2392/452 
2
2
 Tiếc con gái khôn lấy thằng chồng dại, Tỷ như đóa hoa lài cắm bãi cứt trâu
 37
Bài 2409/454 
4
2
Trầu nào cay bằng trầu xà lẹt, Thịt nào khét bằng thịt kên kên
 38
Bài 2438/457 
4
4
Vợ như nàng, chồng đặng như anh, Giả như đờn bầu đờn tranh hợp hòa. Chồng như anh, vợ đặng như nàng. Giả như tô gấm đũa vàng gác trên
 39
Bài 2455/460 
2
1
Cha mẹ tôi già như đèn cháy nhấp nhem
 40
Bài 2466/461 
4
1
Con cò trắng tợ như vôi
 41
Bài 2476/462  
2
2
 Còn cha gót đỏ như son, Một mai cha chết gót con như bùn
 42
Bài 2489/464 
2
1
 Mẹ dữ như hùm, ai dám làm dâu
 43
Bài 2513/467 
2
2
 Mẹ già như chuối già hương, Như xôi nếp mật như đường mía lau
 44
Bài 2531/469 
4
2
 Ơn hoài thai như biển, Ngãi dưỡng dục tợ sông
 45
Bài 2543/ 470 
5
2
Công cha như núi ngất trời, Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông
 46
Bài 2543/471 
3
2
Trầu ăn là nghĩa, 
Thuốc xỉa là tình
 47
Bài 2707/492 
2
1
 Thấy gái thì thèm hư chửa thèm   chua
 48
Bài 2727/494 
2
2
 Mặt rổ như tổ ong bầu, Cái răng khấp khểnh như cầu rửa chân
 49
Bài 2753/497 
2
1
Tôi nay khác thể chiếc nem lột trần
 50
 Bài 2780/500  
2
1
 Mấy đời tơ nhện được như tơ tằm. 
Ví dụ: yếu tố so sánh là từ địa phương và yếu tố được so sánh là từ toàn dân 
Bứt đi thì dạ không đành 
Cách xa nhân ngãi như chỉ mành thắt gan. 
Bài ca dao là sự kết hợp tài tình giữa lối so sánh với lối nói ngoa dụ nhằm làm nổi bật sự đau xót khi lìa xa người mình yêu thương. Ví tình yêu như sợi chỉ mành mong manh, khi xa cách nhau tưởng chừng như sợi chỉ mảnh đó thắt đến đau đớn ruột gan nhưng bứt nó, cắt đứt nó thì không đành lòng. 
Một trường hợp khác: 
Kiểng xa bồn kiểng rũ héo queo 
Anh xa người ngãi như đèn treo hết dầu. 
Trong bài ca dao này, hình ảnh so sánh không chỉ mang tính chất tạo hình mà còn mang ý nghĩa biểu cảm rất đậm nét. Hình ảnh anh xa người ngãi được so sánh như đèn treo hết dầu là một lối so sánh cụ thể, gần gũi nhưng độc đáo thể hiện cái chân chất, mộc mạc của người dân Nam Bộ. 
Những hình ảnh so sánh và được so sánh trong hai bài ca dao trên là những hình ảnh rất giản dị mà sâu sắc, chân thực bởi sự hồn hậu của những con người nơi đây; đồng thời còn bộc lộ rõ tính cách đẹp đáng trân trọng đáng được đề cao, đó là tính chung thủy, son sắt của người dân Nam Bộ.
Với biện pháp so sánh, việc lựa chọn hình ảnh trong ca dao Nam Bộ cũng giống các vùng miền khác, nhưng nét độc đáo của các hình ảnh được so sánh trong ca dao Nam Bộ là những hình ảnh được xuất phát từ thực tế của một vùng đất vốn gắn bó với sông nước, miệt vườn và thói quen như: bông hường, cá lia thia, cầu rầu… 
Một hình ảnh mang tính độc đáo nhất là hình ảnh trái bần. Bần là một loại cây to mọc dọc theo bờ sông có rễ nhọn, xốp; quả tròn, dẹt, ăn chua và chát. 
Trong ca dao của người dân Nam Bộ, hình ảnh trái bần lại đồng âm với tính “bần” nghĩa là nghèo tạo nên sự cộng hưởng về nét nghĩa biểu hiện. 
Bần gie, bần ngã, bất khả viễn vông 
Anh với em như sợi chỉ lộn vòng 
Kiếm sao đặng mối bá tòng mới vui. 
Về từ so sánh, ngoài cách dùng quen thuộc từ so sánh: như, trong ca dao Nam Bộ còn sử dụng các từ so sánh khác: tỉ như, giả như, tợ… Cách dùng từ như vậy làm cho ca dao Nam Bộ có nét đặc thù so với ca dao các vùng miền khác. Chẳng hạn: 
- Biểu em đừng thấy giàu có mà ham 
Giả như cây vải nhuộm chàm mau bay. 
- Ở đâu bằng xứ Lung Tràm 
Chim kêu như hát bội, cá lội vàng tợ mắm nêm. 
Các từ so sánh: giả như, tợ rất quen thuộc với người dân Nam Bộ. Ngày nay, các từ so sánh ấy được dùng thông dụng trong lời ăn tiếng nói hằng ngày mộc mạc, tự nhiên. 
b) Cách thể hiện phép so sánh tu từ trong ca dao Nam Bộ 
- Cái so sánh - vật mẫu, ví như là những cái cụ thể, vật thể để biểu hiện cái được so sánh là những cái trừu tượng: số lượng 120 bài/ 2816, chiếm 4,26 %. 
- Cái so sánh - vật mẫu ví như là cái cụ thể biểu hiện cái trừu tượng: số lượng 94 bài/120, chiếm 78,3%. Ví dụ: 
Anh ơi, thương thời thương chứ chẳng đặng ăn nằm 
Cũng như trái lựu chín còn nằm trên cây. 
- Cái so sánh là cái cụ thể biểu hiện cái cụ thể: số lượng là 26 bài/ 120, chiếm 21,6%. Ví dụ: 
Em như nút, anh như khuy 
Như Thúy Kiều - Kim Trọng biệt ly sao đành. 
Lối ví von dùng cái cụ thể để biểu hiện cái trừu tượng chứng tỏ người dân Nam Bộ thích dùng lối diễn đạt so sánh bằng hình ảnh vật thể làm cho hiện tượng, sự vật được nói đến trở nên sáng rõ và đậm nét hơn, đồng thời ta còn thấy được cả thái độ, tính cách và cảm xúc của họ. 
Vật mẫu là những sự vật cụ thể, quen thuộc trong cuộc sống có khả năng diễn tả đời sống nội tâm phong phú, sâu sắc, phức tạp với nhiều sắc thái, cung bậc khác nhau. Cho nên, phép so sánh tu từ là một phương tiện sắc bén để khám phá, nhận thức và biểu hiện đời sống tinh thần của người dân Nam Bộ. Qua vật mẫu được so sánh, ta thấy cái nhìn, quan niệm của người dân Nam Bộ về cuộc sống, nhân sinh. 
Người dân Nam Bộ thường lấy hình ảnh rất gần gũi, quen thuộc trong môi trường sống vùng sông nước, trong thế giới vật thể nhân tạo để thể hiện quan niệm về lẽ sống, vẻ đẹp của con người nhất là trong tình yêu cả ở mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực của nó. 
Những vật mẫu gợi liên tưởng vẻ đẹp, hạnh phúc lẫn bất hạnh của cuộc sống nhân sinh: 
+ Hiện tượng tự nhiên: đẹp như sao mai, sao mọc như giăng, chờ anh như sao chờ trăng, gắn bó như sơn cùng thủy tận… 
Bởi thương nên ốm nên gầy 
Cơm ăn không đặng gần đầy ba trăng 
Ngó lên sao mọc như giăng 
Thấy em có nghĩa mấy trăng cũng chờ. 
Vùng đất Nam Bộ bao la sông nước, bao phủ bởi bạt ngàn rừng tràm, rừng đước. Thiên nhiên nơi đây gắn bó mật thiết, hài hòa với con người, các hiện tượng tự nhiên cũng vậy. Với cư dân sông nước, cái ăn, cái mặc đều nhờ tự nhiên mà có, nên các hiện tượng tự nhiên: sao, trăng, gió mây… cũng là một phần của cuộc sống. 
Lối so sánh ví von niềm thương, nỗi nhớ bằng hình ảnh sao mọc, chờ trăng càng làm cho tình cảm đôi lứa trở nên nồng nàn, thi vị thấm đẫm cảm xúc, giàu tính biểu cảm. 
+ Thế giới thực vật: trong trắng như bông gòn, ngọt lịm như chè đậu xanh, như cánh bèo trôi, như trái lựu chín, như dưa… 
Gái chưa chồng trong lòng hớn hở 
Trai chưa vợ ruột tợ trái chanh 
Ngó ra biển rộng trời xanh 
Ở đâu cũng vậy, ưng anh cho rồi. 
Trai chưa vợ ruột tợ trái chanh là lối so sánh lạ, hiếm gặp, khiến người đọc mới nghe lần đầu khó hình dung và cảm nhận hết được ý nghĩa mà tác giả dân gian muốn thể hiện. Phải chăng chàng trai muốn thể hiện sự son sắt, bền chặt như từng múi chanh quyện chặt vào nhau không rời. Hình ảnh so sánh này làm rõ sự thủy chung, vững bền, một lòng trong tình yêu của nhân vật trữ tình. 
Phải duyên túc đế 
Như cây cỏ để ngoài Huế anh cũng tìm 
Không phải lương duyên 
Như cây cúc mọc dựa thềm anh cũng không. 
Lối nói này cũng khẳng định một niềm tin tưởng sắt đá vào lương duyên thiên định. Người dân nơi đây gói trọn niềm tin yêu, ý thức nhân phẩm và mong mỏi một tình yêu đích thực. Tất cả những ý tứ đó thể hiện rõ nét qua một hình thức so sánh. 
+ Thế giới động vật: sầu tư như phụng hoàng, như cá biển hồ, tỷ như con cá, giả như châu chấu, như chim về cội, như con thỏ, con cò trắng tợ như vôi, như loan với phụn, như ong bướm… 
Bậu không biết nghĩ, bậu tỷ như vầy:
Chim oanh ương còn biết kết bầy 
Cá bỉ mục còn vầy đôi bạn 
Chẳng qua vận hạn 
Anh mới xa nàng 
Chớ ai có muốn bạn vàng lẻ loi. 
Ta bắt gặp hình ảnh của động vật xuất hiện rất nhiều trong ca dao Nam Bộ ở hầu hết các phương tiện hay biện pháp tu từ. Thế giới động vật cũng xuất hiện khá nhiều trong so sánh tu từ như: chim, cá, tằm, nhện… Trong ca dao nói về tình yêu đôi lứa, tỉ lệ so sánh càng cao. Chim oanh ương, cá bỉ mục mãi mãi không lìa xa, mãi mãi có đôi, có cặp được mượn để ví von cho tình cảm đang trong giai đoạn gặp trắc trở, khó khăn chứ lòng nhân vật trữ tình luôn mong muốn được hạnh phúc bên nhau trọn đời. 
+ Thế giới vật thể nhân tạo: như là gấm thêu, như sợi chỉ, như nút với khuy, như tơ với nguyệt, như guộng chỉ tơ, như dao cắt, như dầu đượm, như người dệt lụa, như bình nước, như cái võ môn, giả như cây vải nhuộm chàm, như chiếc thuyền, như cung nỏ, như đũa trong kho… 
Bây giờ anh kiếm đặng em rồi 
Tỷ như cây kim đi tầm sợi chỉ 
Sao em không biết nghĩ, biết suy
 Em ham nơi quyền quý, không nghĩ gì tới anh. 
Trong thơ ca xưa và nay, ta thường thấy tình yêu được so sánh với hoa, bướm, thiên nhiên nhưng so sánh duyên tình đôi lứa với cây kim, sợi chỉ là một lối so sánh khá lạ, độc đáo. Kim, chỉ là hai vật dụng luôn đi liền với nhau, không thể tách rời cũng như trong tình duyên phải có đủ đôi lứa. Vậy mà, chàng trai trong bài ca dao trên đang thầm khóc thương cho duyên tình hẩm hiu của mình.
Vật mẫu được dùng để so sánh gần gũi, quen thuộc với người dân Nam Bộ nhưng cũng có giá trị nghệ thuật, biểu cảm rất cao. Nó biểu trưng cho sự gắn kết nồng nàn, vững bền của đôi lứa. 
Mẫu vật được so sánh lấy từ những vật dụng của đời sống có giá trị biểu đạt rất phong phú. Không chỉ phù hợp với sắc thái trữ tình, nhiều lúc, chúng tỏ ra thật đắc dụng với tiếng cười trào lộng: 
Cô kia cứ hát ghẹo trai 
Cái mồm méo xệch như quai chèo đò. 
Lối ví von hài hước làm nổi rõ tính chất phê phán thói hư, tật xấu của cô con gái thiếu nết na. Với bản chất bộc trực, người dân thường phê phán những việc trái tai, gai mắt bằng những hình ảnh so sánh rất đắt. 
Một bài ca dao khác cũng cho thẩy cách sử dụng so sánh của người Nam Bộ: 
Trắng như bông lòng anh không chuộng 
Đen như cục than hầm lòng muốn dạ thương. 
Trắng như bông, đen như cục than hầm hoàn toàn đối lập nhau. Hai hình ảnh này được mượn để so sánh với cái vẻ bề ngoài của người con gái. Xưa nay, cái đẹp ngoại hình của phái nữ vẫn có sức thu hút đặc biệt đối với các chàng trai. Nhưng nhân vật trữ tình trong bài ca này có "lập trường" riêng của mình. Phải chăng điều mà chàng trai ngưỡng mộ là cái "duyên ngầm", là cái đẹp trong tâm hồn của người con gái? 
Qua khảo sát và thống kê, chúng tôi nhận thấy phép so sánh tu từ xuất hiện trong ca dao Nam Bộ nhiều thứ hai sau phép ẩn dụ. Từ so sánh “như” được dùng nhiều nhất. Vật mẫu được dùng để so sánh chủ yếu là những cái cụ thể; bản thân vật thể vốn là những hình ảnh quen thuộc, thân thương trong thế giới tự nhiên hay cuộc sống của con người vùng đồng bằng sông nước Nam Bộ. 
Xu hướng chính của so sánh là hướng về cảnh sắc và cuộc sống nông nghiệp, đánh bắt, chăn thả. Trong đó, tỉ lệ vật mẫu so sánh là cái cụ thể biểu hiện cái trừu tượng xuất hiện nhiều. Bởi vì, người dân Nam Bộ thích so sánh bằng hình ảnh cụ thể để diễn đạt tình ý của mình cũng rất cụ thể, ít mơ hồ, trừu tượng. Ngoài ra, người Nam Bộ còn mượn vật mẫu so sánh trong môi trường sống của mình nhằm thẩm mỹ hóa, tâm trạng hóa hoặc thổi linh hồn vào tạo vật, nhào nặn lại ngoại giới để phô diễn cái nhìn mới mẻ, giàu chất trữ tình và bộc lộ thái độ, cảm xúc đậm nét. 
Qua phép so sánh, ta thấy được một quan niệm, một lý tưởng về một cuộc sống nhân sinh tràn đầy niềm tin yêu với mọi cung bậc: nồng cháy, mãnh liệt, gắn bó, thủy chung, đau khổ, bất hạnh... So sánh thể hiện nhận thức qua cách đối chiếu hai sự vật có nét tương đồng, thể hiện một cách cảm thụ đời sống cũng như lối tư duy của người dân Nam Bộ. Đó là cái nhìn nghệ thuật có khả năng phát hiện chính xác bất ngờ những điều tinh vi trong cuộc sống. 
3.2.1.2. Chơi chữ 
a) Khái niệm 
Trong giáo trình Phong cách học tiếng Việt, Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa định nghĩa: "Chơi chữ là phương thức dùng âm thanh, từ ngữ, hàm ý để tạo ra lượng nghĩa bất ngờ, thú vị" [39, tr.219]. 
Theo Từ điển tiếng Việt, "Chơi chữ là lợi dụng các hiện tượng đồng âm, đa nghĩa, v.v... trong ngôn ngữ nhằm gây một tác dụng nhất định (như bóng gió, châm biếm, hài hước,...) trong lời nói" [58, tr.166] 
Từ điển thuật ngữ văn học gọi chơi chữ là “lộng ngữ“ và giải thích: "Một biện pháp tu từ có đặc điểm: người sáng tác sử dụng những chỗ giống nhau về ngữ âm, ngữ nghĩa, văn tự, văn cảnh để tạo ra sự bất ngờ thú vị trong cách hiểu, trong dòng liên tưởng của người đọc, người nghe" [21, tr.128]. Các hình thức của lộng ngữ rất phong phú: nói lái, dùng từ đồng âm hoặc gần âm, dùng từ đồng nghĩa, tách một từ thành các từ khác nhau. Theo các tác giả từ điển này, nhìn chung các lộng ngữ đều mang tính hài hước, thường được sử dụng trong văn thơ trào phúng. 
Hữu Đạt xem chơi chữ là một đặc điểm độc đáo của ngôn ngữ thơ Việt Nam: "Chơi chữ là một biện pháp tu từ nghệ thuật dựa vào những khả năng tiềm tàng của ngôn ngữ, vận dụng linh hoạt đơn vị cơ bản của tu từ học (là chữ hoặc tiếng) đặt nó trong mối quan hệ nhiều chiều, nhiều phía với các đơn vị cùng bậc và khác bậc, nhằm khai thác triệt để tính chất nước đôi của các đơn vị ngôn ngữ dựa vào sự hiện diện của văn cảnh". 
Trong các cách hiểu trên về chơi chữ, có mấy điểm chung: 
Thứ nhất, chơi chữ là một biện pháp tu từ được dùng trong ngôn ngữ nghệ thuật (văn thơ); 
Thứ hai, biện pháp chơi chữ được thực hiện dựa trên các tiềm năng về chất liệu ngôn ngữ dân tộc. Các tiềm năng về âm thanh, chữ viết, từ đồng âm, đồng nghĩa,... càng phong phú càng tạo điều kiện cho chơi chữ phát triển. 
Thứ ba, chơi chữ tạo ra những liên tưởng bất ngờ, lý thú về nhận thức, đồng thời có tác dụng châm biếm, hài hước, thư giãn bằng chữ nghĩa, v.v... 
Trong các tài liệu về Tu từ học hoặc Nghiên cứu văn học, chưa có sự đồng thuận cao về phạm vi sử dụng và về kết quả phân loại các kiểu chơi chữ. 
a) Về phạm vi sử dụng, nếu Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng chơi chữ “chỉ dùng phổ biến trong văn thơ trào phúng", thì Hữu Đạt xem đó là một đặc điểm độc đáo của ngôn ngữ thơ Việt Nam, tức là xem chơi chữ như một biện pháp tu từ nghệ thuật được dùng phổ biến trong thơ ca Việt Nam. 
Qua khảo sát ngữ liệu về hiện tượng này, chúng tôi thấy: chơi chữ là một thói quen sử dụng ngôn ngữ có tính nghệ thuật của người Việt. Thói quen này có từ xa xưa, được dùng rộng rãi không chỉ trong văn chương bác học mà còn cả trong văn chương truyền miệng (như ca dao, câu đố, câu đối,...) và trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của người Việt.
Đây là một trong những truyền thống ngữ văn quý báu của người Việt. Truyền thống này cho thấy sự thông minh, sắc sảo và hóm hỉnh, v.v... của người Việt. Trong khi sử dụng ngôn ngữ, người Việt đã tận dụng tối đa các ưu thế về chất liệu của ngôn ngữ dân tộc để đồng thời đạt đến nhiều mục đích khác nhau. 
b) Chơi chữ trong ca dao Nam Bộ 
Chơi chữ cũng gắn liền với lời nói và cung cách sinh hoạt hằng ngày của người dân Nam Bộ và trở thành một thành tố nghệ thuật không thể thiếu trong ca dao. Theo khảo sát của chúng tôi, trong cuốn Ca dao Nam Bộ [27], có 58 bài ca dao sử dụng hình thức chơi chữ, thể hiện trong bảng thống kê sau: 
Bảng 3.2. Thống kê biện pháp chơi chữ 
trong một số bài ca dao Nam Bộ  
 TT  
 BÀI CA DAO/ TRANG 
  TỔNG SỐ CÂU
 SỐ CÂU CHƠI CHỮ
 CÂU CA DAO 
CHƠI CHỮ
1
Bài 61/167 
2
2
Đầu gàng có con ba ba, 
Kẻ kêu con trạnh, người la con rùa
 2
Bài 65/138 
4
 2 
Rô, trê, sặt, dầy dầy, 
Ròng ròng, hủng hỉnh, lộn bầy lia thia
 3
Bài 80/140 
4
2
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng, 
 Về bưng ăn cá về đồng ăn cua
 4
Bài 92/142 
2
2
Le le, vịt nước, bồng bồng, 
Con cua, con rạm, con còng sáu con
 5
Bài 211//163 
2
 1 
Anh đừng môi miếng, miếng môi
6
Bài 508/203 
6
4
Canh chua lét sao rằng canh ngọt? Cá không chân sao gọi là cá leo. Này em ơi, bánh nhiều lắm sao gọi là bánh ít. Chuối non èo sao gọi là chuối “già”
 7
Bài 682/227 
2
2
Chuối khoe mình chuối lòng trinh, 
Chuối ở một mình sao chuối có con?
 8
Bài 694/228 
4
2
Chữ phú nằm trên chữ quý, Kim ngọc đối với kim lang
 9
Bài 723/232 
6
4
Con cá đối nằm trên cối đá, Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo, Con mỏ kiến nằm trong miếng cỏ, 
Con chim vàng lông đáp dự vòng lang
 10
Bài 731/233 
5
2
Nó kêu lăng lăng líu líu, 
Đôi đứa ta lận đận lịu địu, sao nỡ dứt tình
 11
Bài 759/238 
2
1
Con quạ đen lông kêu bằng ô thước
 12
Bài 768/240 
2
2
Con xe kia đang đứng bơ thờ, 
 Anh quyết lòng vọt pháo, ai ngờ sĩ ngăn
 13
Bài 797/243
2
1
Cửa song loan sớm mở, tối gài
 14
Bài 908/259 
3
1
Thương yêu quá bộ, quên đường tử sanh
 15
 Bài 917/260 
2
1
Đem nằm tơ tưởng tưởng tơ
 16
Bài 951/264
4
2
Đố ai tầm được vảy con cá trê vàng, 
Tầm được gan con tép bạc, bạn vàng theo không
 17
Bài 957/265  
2
2
Đôi ta chẳng được xum vầy, 
Khác nào nhạn chích lạc bầy kêu sương
 18
Bài 979/268
2
1
Đũa bếp có đôi, chìa vôi lẻ bạn
 19
Bài 1041/276 
4
1
Sóng ba đào mưa nắng chẳng nao 
 20
Bài 1083/283
2
1
Ướm lời hỏi bạn, nghèo giàu chuộng ai?
 21
Bài 1162/292 
4
1
Hạc giao đầu, phụng lại giao đuôi
 22
Bài 1185/294 
2
1
Dầu ai câu trạnh câu rùa mặc ai
 23
Bài 1219/300 
4
2
Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, 
Vô duyên đối diện bất tương phùng
 24
Bài 1239/302  
3
2
Khó giúp nhau mới thảo, Giàu tương trợ ai màng
 25
Bài 1330/314  
2
2
Lựu, lê, bình bát, mãng cầu 
Bốn cây tứ quý anh sầu một cây
 26
Bài 1580/346 
3
1
Nước chảy linh binh, lục bình trôi lỉnh bỉnh 
 27
 Bài 1582/346 
2
1
   Nước chảy liu riu, lục bình trôi riu ríu
 28
Bài 2024/402 
11
4
Một trăm thứ dầu, dầu nhị thiên đường là dầu không thắp, Một trăm thứ bắp, bắp chuối là bắp không rang, Một trăm thứ than, thang leo là thang không quạt không quạt? Một trăm thứ bạc, bạc ngãi là bạc không mua
 29
Bài 2130/415 
4
2
Ví dầu cá bống hai mang 
Cá trê hai ngạnh, tôm càng hai râu
 30
Bài 2200/425 
4
4
Bảng treo tại chợ Mỹ Lồng, Chữ đề tên bbậu có chồng hay chưa? Có chồng năm ngoái năm xưa, Năm nay chồng để như chưa có chồng
 31
Bài 2258/433 
2
2
Cóc nhái ếch xào lộn với tương, 
 Gá vô vòng chồng vợ ba Khương ở đời
 32
Bài 2576/475 
2
2
Bấy lâu sao chẳng nói năng, 
Bây giờ năng nói thì trăng xế tà
 33
Bài 2601/478 
2
1
Chèo ghe đi bán lòng tong, 
Nước chảy ròng ròng chẳng thấy ai mua
 34
Bài 2652/484 
2
2
 Con mèo không rách sao kêu mèo vá, 
Con cá không thờ sao gọi cá linh?
 35
Bài 2773/499 
4
2
Rượu kia nào có say người 
Hỡi người say rượu chớ cười rượu say
Trong ca dao Nam Bộ, thường gặp các kiểu chơi chữ sau đây: 
- Chơi chữ bằng các phương tiện ngữ âm 
+ Hình thức chơi chữ theo cách điệp một âm tiết, ví dụ: 
Nước chảy linh binh, lục bình trôi lỉnh bỉnh Bảy, 
Tám ơi, đi cấy chi có một mình 
Phải chi ở đặng, bạn mình cày chung. 
Một bài ca dao khác: 
Nước chảy liu riu, lục bình trôi riu ríu 
Anh ở một mình khi đau yếu ai nuôi? 
Các từ linh binh, lỉnh bỉnh, mình và liu riu, riu ríu là điệp một bộ phận của âm tiết. Đó là các vần: inh, iu thể hiện sự nhỏ nhắn của nhân vật được nói tới. 
Trong bài ca dao trước, việc điệp lại từ inh cho thấy sự cô độc đáng thương của người được nói tới, khiến chủ thể trữ tình bộc lộ sự xúc động lẫn niềm mong mỏi có thể chia sẻ nỗi niềm cô đơn đó. Đây là bài ca dao gửi lời ngỏ với đối tượng mà chủ thể trữ tình đang nói tới - lời nhắn nhủ thiết tha, mong mỏi được bên nhau, san sẻ vui buồn, san sẻ công việc. 
Còn ở bài sau, việc điệp từ iu lại cho thấy một tình cảm thật chân thật, nhẹ nhàng nhưng vô cùng ý nhị mà cô gái muốn gửi tới chàng trai. Thông qua hình ảnh nước chảy liu riu, lục bình trôi riu ríu, cô gái cũng bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc, vô bờ khi hiểu về hoàn cảnh côi cút của chàng trai. 
+ Chơi chữ bằng cách dùng từ trái nghĩa 
Trong ca dao Nam Bộ, bên cạnh việc sử dụng các từ cùng nghĩa thì tác giả dân gian còn sử dụng những từ trái nghĩa nhằm mục đích chơi chữ hay là sử dụng hình thức khai thác yếu tố đồng âm nhưng trái nghĩa để tạo nên một hình thức nghệ thuật độc đáo, riêng biệt: 
- Canh chua lét sao rằng canh ngọt? 
Cá không chân sao gọi cá leo? 
Trai nam nhi anh đối đặng dẫu nghèo em cũng ưng. 
- Này em ơi, bánh nhiều lắm sao gọi là bánh ít 
Chuối non èo sao gọi là chuối “già” 
Đối như anh vậy chắc là xứng đôi. 
Ca dao được lưu truyền cho đến ngày nay là nhờ các hình thức sinh hoạt dân gian trong lao động, lúc nghỉ ngơi hoặc trong các hội hè, đình đám của nhân dân. Trong các hình thức sinh hoạt dân gian thì hình thức đối đáp giao duyên giữ một vai trò rất quan trọng. Việc đối đáp nhằm bộc lộ tình cảm giữa người con trai với người con gái. Hình thức này rất phổ biến và được ưa chuộng, trai gái mến nhau và yêu nhau qua tài ứng đối nhanh nhẹn; đồng thời cảm hóa nhau về đức hạnh, tính nết và sự cần cù. Người Nam Bộ dùng từ bình dị, không chải chuốt. Họ đưa những gì gần gũi nhất với họ vào trong lối đối đáp giao duyên. 
Trong bài ca dao trên, tác giả dân gian vừa sử dụng hình thức chơi chữ vừa dùng các từ trái nghĩa như: chua lét - ngọt, không chân - leo, nhiều - ít, non èo - già. Cô gái muốn thử tài của chàng trai nhưng chàng trai ứng đối cũng rất nhanh nhạy, chàng khẳng định: tài ứng đối của mình đủ sức kết nghĩa ngãi nhân với cô gái. 
+ Chơi chữ theo cách tập hợp các từ cùng trường sự vật với nhau Đây cũng là một hình thức chơi chữ rất độc đáo trong ca dao Nam Bộ, góp phần tạo nên sự đa dạng của nghệ thuật, ví dụ: 
Đầu gành có con ba ba 
Kẻ kêu con trạnh, người la con rùa. 
Bài ca dao trên vừa sử dụng cặp từ đồng nghĩa kêu - la vừa tập hợp tên gọi các loại rùa: ba ba, trạnh (loại rùa sống ở biển), rùa, đó là các từ địa phương có nghĩa tương tự với nhau. Chỉ cùng một loại động vật nhưng có rất nhiều tên gọi khác nhau, đây cũng là một nét riêng trong nền văn hóa của người dân Nam Bộ. 
Một trường hợp khác: 
Đố anh mấy thứ cá đồng 
Một câu nói trọn mới hồng đáng khen 
Rô, trê, sặt, dầy dầy 
Ròng ròng, hủng hỉnh lộn bầy lia thia. 
Vùng sông nước Nam Bộ là nơi sinh sống của rất nhiều các loại cá, tôm, ếch, lươn, rắn, rùa... Đây là những sinh vật nước có thể bắt gặp bất cứ nơi đâu ở vùng đồng bằng sông nước. Nam Bộ - vùng sông nước mênh mông, sông ngòi chằng chịt là điều kiện thuận lợi để cá tôm phát triển. 
Với bài ca dao này, ta bắt gặp rất nhiều tên gọi của các loại cá ở dưới nước như: rô, trê, sặt (cá mình dẹt, sống ở các mương, ao), dầy dầy (loại cá mỏ dài có thân sẫm nâu), ròng ròng (loại cá lóc con), hủng hỉnh (loại cá nhỏ sống ở mương, rạch có dạng như cá lia thia), lia thia (loại cá nước ngọt thân nhỏ, có màu xanh đậm hoặc đen, có vây ngũ sắc). 
Chỉ một bài ca dao, chúng ta đã bắt gặp 5 loại cá trong vô vàn các loại cá khác nhau của vùng đất Nam Bộ. Đó là niềm tự hào của người dân Nam Bộ về sự phong phú của những sản vật mà thiên nhiên đã ban tặng cũng như nói lên sự gắn bó đối với quê hương xứ sở bằng một cuộc sống vô cùng giản dị. Chẳng hạn: 
Le le, vịt nước, bồng bồng 
Con cua, con rạm, con còng sáu con. 
Bài ca dao này có hai loại động vật xuất hiện: thứ nhất là tên gọi của các loại vịt: le le, vịt nước, bồng bồng (chim cùng loại với vịt trời, le le), thứ hai là tên gọi của các giống cua: con cua, con rạm, con còng. Với ba bài ca dao trên, chúng tôi thấy hình thức chơi chữ tập hợp các từ cùng trường sự vật với nhau là một hình thức chơi chữ đặc biệt chỉ xuất hiện nhiều trong ca dao Nam Bộ. Chính điều này đã tạo một nét đặc trưng rất riêng, là một nét khu biệt lớn nếu đem so sánh ca dao Nam Bộ với ca dao, dân ca các vùng miền khác. 
+ Chơi chữ bằng cách nói lái 
Đây là một hình thức chơi chữ rất đặc biệt của tiếng Việt, được sử dụng nhiều trong ca dao, dân ca, hát ví… Trong ca dao Nam Bộ, ta cũng bắt gặp hình thức chơi chữ này. 
- Con cá đối nằm trên cối đá 
Con mèo cụt đuôi nằm mút đuôi kèo 
Anh mà đối được dẫu nghèo cũng ưng 
- Con mỏ kiến nằm trong miếng cỏ 
Con chim vàng lông đáp dựa vồng lang 
Đây anh đã đối được, vậy nàng ưng chưa? 
Nói lái là cách đánh tráo vần, thanh điệu giữa hai hoặc ba tiếng, trong một từ, ngữ, câu với nhau được dân gian sử dụng để đố vui và tạo thêm những nghĩa mới phù hợp với mục đích giao tiếp. Hình thức “nói lái” có những nét độc đáo thường được người nói, viết chú ý. 
Trong văn học dân gian, người ta nói lái trong những lúc vui vẻ hoặc trong những hoàn cảnh khó xử, khó nói. Trong ca dao, có những đôi trai gái khéo léo dùng hình thức nói lái gởi gắm tình cảm cho nhau, bài ca dao trên cũng mượn nói lái trong đối đáp để trao đổi duyên tình. 
Nhìn chung, chơi chữ không phải là biện pháp tu từ được sử dụng nhiều trong ca dao Nam Bộ. Tuy nhiên, cùng với các phương tiện và biện pháp tu từ khác, nó góp phần làm cho nghệ thuật biểu đạt của thể loại văn học dân gian này thêm phong phú. Hình thức chơi chữ cũng cho thấy sắc thái địa phương rất đặc trưng của con người Nam Bộ, với nét tính cách chân thành, thẳng thắn, bộc trực, ít khi nói vòng vo, đố chữ. 
3.2.2. Biện pháp tu từ cú pháp trong ca dao Nam Bộ 
Biện pháp tu từ cú pháp là "những cách phối hợp sử dụng các kiểu câu trong một ngữ cảnh rộng(trong chỉnh thể trên câu, trong đoạn văn và trong văn bản trọn vẹn) nhằm đem lại ý nghĩa biểu cảm và cảm xúc cho những mảnh đoạn của lời nói do chúng cấu tạo nên" [39, tr.183]. 
Căn cứ vào tính chất của các mối quan hệ giữa các kiểu câu, vào các phương thức chuyển đổi ý nghĩa của các kiểu câu và vào tính chất của mối liên hệ giữa các thành tố của những kiểu câu này, biện pháp tu từ cú pháp được chia thành ba nhóm: 
Nhóm 1: các biện pháp tu từ dựa trên những tác động qua lại về hình thái và nghĩa giữa một số kiến trúc cú pháp hoặc một số câu trong một số ngữ cảnh nhất định. Đó là các biện pháp tu từ: sóng đôi, đảo đối, lặp đầu, lặp cuối. 
Nhóm 2: các biện pháp tu từ dựa trên sự chuyển đổi ý nghĩa của cấu trúc cú pháp hoặc của kiểu câu trong một ngữ cảnh nhất định. Đó là các biện pháp tu từ làm nên sự chuyển dịch ngữ nghĩa trong những câu có cấu trúc bề mặt là: cấu trúc nghi vấn, cấu trúc cảm thán, cấu trúc khẳng định, cấu trúc phủ định. 
Nhóm 3: các biện pháp tu từ dựa trên sự chuyển đổi ý nghĩa của phương thức liên hệ ngữ pháp, giữa các thành tố của các câu hoặc giữa các câu. Đó là các biện pháp tu từ: tách biệt, dùng đẳng lập thay cho chính phụ và ngược lại. 
Các biện pháp tu từ về mặt cú pháp thường tập trung vào ba dụng ý sau đây: 
- Người nói muốn nhấn mạnh ý nghĩa một thông báo; 
- Người nói muốn nhấn mạnh một phần trong thông báo; 
- Người nói muốn thể hiện các tình thái khác nhau. 
Người Việt sử dụng rất nhiều dụng ý trong các sáng tác nghệ thuật của mình. Khi nghiên cứu biện pháp tu từ cú pháp trong ca dao Nam Bộ, chúng tôi chọn nhóm 1 để khảo sát nhằm thấy rõ hơn cái hay, cái đặc sắc của một nét nghệ thuật rất riêng trong các loại hình nghệ thuật của vùng đất phương Nam. 
3.2.2.1. Sóng đôi 
"Sóng đôi là biện pháp tu từ cú pháp dựa trên sự cấu tạo giống nhau giữa hai hay nhiều câu hoặc hai hay nhiều bộ phận của câu. 
Sóng đôi có thể đầy đủ hoặc không đầy đủ hoặc là bộ phận" [39, tr.184]. 
Sóng đôi còn được gọi là phép điệp cú pháp, được dùng khi người nói muốn nhấn mạnh ý nghĩa một thông báo và để triển khai theo hướng đối lập hay bổ sung thì thường dùng biện pháp này. 
Trong ca dao Nam Bộ, sóng đôi được thể hiện qua mối quan hệ về nghĩa giữa các từ với nhau vừa tránh sự trùng lặp vừa tạo nên sự đa dạng trong cách biểu hiện. Việc xuất hiện của cấu trúc sóng đôi trong ca dao cũng góp phần làm cho câu thơ vừa có sự nhịp nhàng, cân đối tạo nên sự liên kết bền vững trong các bài ca dao vừa mang giá trị khái quát và tạo nên giá trị thẩm mĩ nhất định. 
Căn cứ vào sự đổ đầy từ vựng của các yếu tố trong cấu trúc song hành, sóng đôi có thể diễn đạt sự đối chiếu hoặc sự đối lập. 
Phải gặp ông tơ hỏi sơ cho biết 
Phải gặp bà nguyệt gạn thiệt cho rành 
Vì đâu hoa nọ lìa nhành 
Nợ duyên sao sớm dứt, chẳng đành dạ em? 
Ông tơ, bà nguyệt là một hình tượng độc đáo trong tín ngưỡng của người bình dân. Hình tượng ấy đã đi vào đời sống tâm hồn của người dân Việt vừa trở nên gần gũi thân thiết qua những vần ca dao nói về tình duyên. 
Có khi sóng đôi được thể hiện thành hai vế trong một dòng thơ: 
Non cao vòi vọi, biển lớn mênh mông 
Thương thay cho phận quần hồng 
Vì duyên vì nợ nặng lòng tương tư. 
Hai hình ảnh: non cao vòi vọi, biển lớn mênh mông luôn đi cùng, sóng đôi không thể tách rời, thể hiện sự vô cùng vô tận của trời đất. Tình cảm của đôi lứa cũng mênh mông, vô bờ, vô bến được thể hiện qua hai chữ nợ duyên - phải nợ, phải duyên mới nên cầm sắt. Tác giả dân gian rất tinh tế khi dùng cấu trúc sóng đôi để thể hiện mối lương duyên do trời đất xếp đặt. Với cấu trúc sóng đôi, bài ca dao trở nên sâu sắc, nhẹ nhàng, mang nhiều ý vị, đậm đà cảm xúc. 
Phép sóng đôi cũng thường được sử dụng để biểu đạt sự đối lập, chẳng hạn: 
Nước chảy xuôi, làn sóng ngược 
Sông đầy không được, dồn xuống biển Ba Tri 
Em ơi đừng sợ chuyện đó làm chi 
Anh đây chưa vợ, nhu mì nết na. 
Thuở ban đầu của tình yêu, chúng ta gặp khó khăn trong việc bày tỏ nỗi lòng với người mình yêu. Khi đã thương nhau thì có gặp gian khổ chúng ta cũng quyết tâm vượt qua. Hai câu ca dao đã lột tả được sự quyết tâm rất dễ thương đó: Nước chảy xuôi, làn sóng ngược/ Sông đầy không được, dồn xuống biển Ba Tri. Trong ca dao Nam Bộ những hình ảnh: nước, làn sóng để nói lên tình cảm chân thật, sâu đậm của người dân vùng đồng bằng sông nước mênh mông. 
Tìm hiểu ca dao Nam Bộ, chúng tôi phát hiện thêm một nét độc đáo nữa trong cấu trúc sóng đôi, ví dụ: 
Anh mất cây hộp quẹt, bực đà quá bực 
Dang tay đấm ngực, căm đà quá căm 
Đũa so le đôi chiếc khó cầm 
Liệu sao em liệu, thương thầm khó thương. 
Hay: 
Bậu nói với qua bậu không bẻ lựu hái đào 
Lựu đâu bậu bọc, đào nào cầm tay. 
Ở hai bài ca dao trên đây, chúng tôi nhận thấy cấu trúc sóng đôi có thể là giữa từ địa phương với từ toàn dân: bực, căm, liệu, thương hoặc sóng đôi từ địa phương với nhau: bậu, qua. Chỉ có cấu trúc sóng đôi mới có thể lột tả được hết ý niệm, tâm tư, suy nghĩ mà tác giả dân gian muốn thể hiện trong những tình huống cụ thể. 
Phổ biến nhất trong ca dao Nam Bộ ở loại hình này là dùng từ địa phương đồng nghĩa với từ toàn dân, ví dụ như: 
Bánh canh cọng vắn, cọng dài 
Bánh tầm xe cọng dài, cọng vắn. 
Hoặc như: 
- Tới đây xứ sở lạ lùng 
Chim kêu phải sợ, cá vùng phải kinh. 
- Cá lưỡi trâu sầu ai méo miệng 
Cá trèn bầu nhiều chuyện trớt môi. 
Trong ca dao Nam Bộ, các tác giả dân gian đã sử dụng những cặp biểu tượng có từ địa phương nhằm thể hiện nét đặc trưng riêng biệt trong việc sử dụng các hình ảnh quen thuộc trong đời sống. Có lúc, xuất hiện một chuỗi hình ảnh, xếp thành từng cặp sóng đôi để nói về tình cảm của con người trong quan hệ tình yêu đôi lứa hay quan hệ gia đình: 
Anh thương em 
Thương lún thương lụn 
Thương lột da cóc 
Thương tróc da đầu 
Ngủ quên thời nhớ 
Thức dậy thời thương 
Giục ngựa bươn cương 
Trên đường hoạn lộ 
Trời hỡi trời! 
Sao nỡ xa nhau? 
Tóm lại, sóng đôi cú pháp bao gồm cấu trúc và biểu tượng sóng đôi trong các sáng tác ca dao luôn có khả năng tạo nghĩa, kết hợp đa dạng, uyển chuyển và đóng vai trò rất quan trọng trong việc thể hiện nội dung, đồng thời có thể đáp ứng trọn vẹn nhu cầu biểu đạt tâm tư, tình cảm, của người dân Nam Bộ. 
3.2.2.2. Biện pháp lặp 
a) Khái niệm 
Phép lặp (phép điệp) là lặp lại có ý thức những từ ngữ nhằm mục đích nhấn mạnh ý, mở rộng ý, gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra những xúc cảm trong lòng người đọc, người nghe [37, tr.93]. 
Trong giáo trình Phong cách học tiếng Việt, Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa định nghĩa: "Điệp ngữ là biện pháp lặp một hay nhiều lần những từ, ngữ v.v… nhằm mục đích mở rộng nghĩa, gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra những xúc cảm trong lòng người đọc, người nghe" [39, tr.209]. 
Phép lặp trong câu có tác dụng kích thích tâm lý của người tiếp nhận: một yếu tố nào đó xuất hiện nhiều lần sẽ khiến người ta chú ý, gây ấn tượng mạnh hoặc gợi xúc cảm trong lòng người đọc, người nghe. Về phía người viết, phép điệp có tác dụng tô đậm, khắc sâu một ấn tượng, một cảm xúc, một nhận xét, và trong nhiều trường hợp, nó tạo nên một nét nhấn trong âm điệu lời văn. 
b) Phân loại 
Có nhiều cách phân chia phép lặp: 
- Theo các yếu tố: lặp từ, lặp ngữ, đoạn câu… 
- Theo vị trí: lặp đầu cuối câu, giữa câu, cách quãng, lặp liên tiếp, lặp vòng tròn. 
- Theo tính chất: lặp đơn giản và lặp phức hợp. 
c) Phép lặp trong ca dao Nam Bộ 
Người dân Nam Bộ sử dụng phép lặp với tần số khá cao và đặc biệt phong phú về hình thức. Có khi phép lặp lại một từ, một ngữ nào đó trong một câu, một bài ca dao.Theo khảo sát của chúng tôi, trong cuốn Ca dao Nam Bộ [18], có 387/2816 bài ca dao sử dụng phép lặp, chiếm tỉ lệ 13,4%.
Bảng 3.3. Thống kê biện pháp lặp 
trong một số bài ca dao Nam Bộ
 TT  
 BÀI CA DAO/ TRANG 
  TỔNG SỐ CÂU
 SỐ CÂU DÙNG BIỆN PHÁP LẶP
 CÂU CA DAO 
DÙNG BIỆN PHÁP LẶP
1
Bài 49/134 
2
2
Chiều chiều ra đứng gốc cây, Trông trời trời quạnh, trông mây mây buồn
 2
Bài 156/154 
2
 2 
Ai đem con sáo sang sông, 
Để cho con sáo sổ lồng sáo bay
 3
Bài 194/160 
2
2
Anh đi em một ngó chừng, Ngó sông sông rộng, ngó rừng rừng cao
 4
Bài 196/161 
4
2
Bởi anh thua bạc nên nghèo, nợ treo, 
Nợ treo mặc kệ nợ treo
 5
Bài 228/165 
17
 4 
Cần câu nhơn, Cần câu ngãi. 
Cần câu phải, Cần câu khôn
6
Bài 267/171 
9
3
Thương lún, thương lụn, 
Thương lột da óc, Thương tróc da đầu
 7
Bài 405/189 
2
2
Biển đông sóng dợn ba đào, 
Ngãi nhơn khác thể sóng trào biển đông
 8
Bài 406/190 
6
Chữ gì chôn dưới đất, Chữ gì cất trên thang, Chữ gì mang không nổi,
 Chữ gì thổi không bay
 9
Bài 419/191
 4
2
Bồn xa bông, bồn khô bông héo,
 Lựu xa đào, lựu ngả đào nghiêng
 10
Bài 453/195 
2
2
 Bước lên cầu, cầu oằn, cầu oại, 
Bước xuống tàu, tàu chạy, tàu nghiêng
 11
Bài 475/198 
2
 Thấy bông vừa nở cắm đầu bướm châm, Bướm châm mà bướm lại lầm
 12
Bài 532/266 
1
Oán căn, oán nợ, xin đừng oán em
 13
Bài 552/209 
2
2
Cây khô chết đứng rừng xanh, 
Em đây chết đứng vì anh phân trần
 14
Bài 566/211
4
3
Bớ người nhân nghĩa có buồn hát chơi, Hát chơi cũng chịu hát chơi, 
Có chồng mà lại hát chơi nỗi gì
 15
Bài 581/213 
14
2
Chỉ điều bốn mối xe lơi, 
Chỉ điều bốn mối xe săn
 16
Bài 616/218 
2
1
 Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
 17
Bài 663/224 
5
2
Bấy lâu con cá nọ ở đìa, 
Bây giờ con cá nọ đã lìa ao sâu
 18
Bài 747/237 
4
4
Con cò núp bụi lúa xanh, Chờ con cá đến như anh chờ nàng, Con cò núp bụi lúa vàng, Chờ con cá đến như nàng chờ anh
 19
Bài 828/247 
4
1
 Để em thương, em nhớ, em chờ, em đợi, nước mắt sa vắn dài
 20
Bài 920/260 
4
4
Đêm qua gió bấc mưa dầm, 
Đèn lầm với bóng, bóng lầm với ai? 
Đêm qua gió bấc mưa dầm, 
Đèn lầm với bóng, bóng lầm với anh
 21
Bài 1040/276 
2
1
Em khuyên anh đừng lại lại qua qua
 22
Bài 1181/294 
2
2
Hai tay xách nước tưới trầu, 
Trầu bao nhiêu lá dạ sầu bấy nhiêu
 23
Bài 1196/296 
4
2
Họa hổ, họa bì, nan họa cốt, 
 Tri nhơn, tri diện, bất tri tâm
 24
Bài 1255/304 
2
1
Không xong đã biết không xong
 25
Bài 1279/307 
2
2
Làm thơ trái ấu, gởi thấu cho mưa, 
Mưa đưa cho gió, gió đưa cho chàng
 26
Bài1904/387  
4
4
 Thương cha thương mẹ có khi, Thương em lúc đứng, lúc đi, lúc ngồi. Thương cha thương mẹ có hồi, Thương em lúc đứng, lúc ngồi cũng thương
 27
Bài 1938/391 
2
2
Tiếc tiền mua cá, cá ươn, 
Mua rau, rau héo, mua nường, nường hư
 28
Bài 1998/399 
2
1
Khi thương thương vội, khi lìa lìa xa
 29
Bài 2031/403 
2
2
Trăng trăng, nước nước, trời trời, Người thương chẳng thấy, thấy trời nước trăng
 30
Bài 2032/403  
2
2
Trăng tròn thì mặc trăng tròn, 
 Bậu xinh mặc bậu, bậu xằng anh chê
 31
Bài 2064/407 
2
2
Trời mưa ướt bãi ướt bờ, 
Ướt cây ướt lá ai ngờ ướt em
 32
Bài 2071/408 
2
2
 Trông anh trông đứng trông ngồi, 
Trông từ canh một trông hồi canh năm
 33
Bài 2077/409 
2
2
 Trồng hường bẻ lá che hường, Hường bao nhiêu lá thương nàng bấy nhiêu
 34
Bài 2107/412 
2
1
Uu minh minh thực phỉ chi tình
 35
Bài 2136/416 
4
3
Muốn đi nói vợ sợ nhiều miệng ăn. Nhiều miệng ăn rằng anh không sợ. Sợ duyên nợ không tròn gieo khổ cho nhau
 36
Bài 2180/423 
4
2
Bắt em sàng gạo cho mòn móng tay, Móng tay móng vắn, móng dài
 37
Bài 2182/423 
2
2
Anh đừng thấy đó bỏ đăng, 
Thấy lê quên lựu, thấy trăng quên đèn
 38
Bài 2263/434 
2
1
Dây bìm bìm lá cũng bìm bìm
 39
Bài 2278/436 
4
4
 Đêm nằm gối gấm không êm, Gối lụa không mềm bằng gối tay em. 
Tay em tay trắng tay tròn, 
Không cho anh gối sợ mòn tay em
 40
Bài 2281/437 
2
1
Đi đâu gánh gánh gồng gồng
 41
Bài 2298/439 
2
2
Hai tay cầm bốn trái dưa, 
Trái ăn, trái để, trái đưa cho chàng
 42
Bài 2380/450 
3
3
Tay tôi lần theo đám cỏ bấc, 
 Tay tôi cắt mấy cọng bàng, Cực khổ tôi tôi chịu, để cho chàng phong lưu
 43
Bài 2566/474 
4
3
Áo trắng không vắn không dài, 
 Sao anh không mặc, mặc hoài áo đen? 
Áo trắng xếp cất, áo đen đi làm
 44
Bài 2567/474 
2
2
Ba cô đi cúng chùa ngoài, 
Cúng cam, cúng quýt, cúng xoài cà lăm
 45
Bài 2568/475 
2
2
Ba năm hạc đáo về đình, 
Không cho hạc đậu tức mình hạc bay
 46
Bài 2580/476 
2
2
Bông liên, bông lý, bông lài, 
 Phù dung, vạn thọ, nở ngày bông trang
 47
Bài 2597/478 
2
2
 Chanh chua thì khế cũng chua, 
Chanh bán có mùa, khế bán tư niên
 48
Bài 2907/479 
2
2
Chiều chiều bắt nhái cắm câu, 
 Nhái kêu cái ẹo, thảm sầu nhái ơi. 
Trong ca dao Nam Bộ, chúng ta thường gặp các kiểu lặp sau đây: 
- Lặp đầu câu bằng các từ, ngữ, cụm từ. Lặp đầu là biện pháp tu từ cốt ở việc lặp lại một vài yếu tố ở đầu câu trong một số câu tiếp theo. Số bài sử dụng hình thức lặp đầu là 87/387 bài, chiếm tỷ lệ 22,4%. Ví dụ: 
- Anh đi thuyền gạo Gò Công, 
Anh về Bao Ngược bị giông rách buồm, 
Rách buồm nước chảy có cuồn, 
Anh đi về đó dựng buồm chạy luôn 
- Thấy dừa thì nhớ Bến Tre, 
Thấy bông lúa đẹp thương về Hậu Giang. 
- Cần câu nhơn, 
Cần câu ngãi, 
Cần câu phải, 
Cần câu khôn. 
Ân ai các đảng cô hồn, 
Đuổi con cá nọ chạy dồn ăn câu 
Lặp đầu "Anh đi", "Thấy", "Cần câu", được sử dụng trong các bài ca trên nhằm nhấn mạnh đối tượng được đề cập cũng như thái độ, nỗi niềm của chủ thể trữ tình trước đối tượng đó. 
- Lặp cuối là biện pháp tu từ cốt ở việc lặp lại một vài yếu tố ở cuối câu trong một số câu tiếp theo.
Trong cuốn Ca dao Nam Bộ, lặp cuối có số lượng là 11/387 bài, chiếm tỷ lệ 2,8%.Ví dụ: 
- Anh đi ghe rổi chín chèo, 
Bởi anh thua bạc nên nghèo, nợ treo. 
Nợ treo mặc kệ nợ treo, 
Em bán bánh bèo trả nợ nuôi anh. 
- Anh đến đây đàng cũng xa đàng, 
Hai bên lạ hết, có mình nàng anh quen. 
Anh muốn quen, lên xuống thời quen, 
Muốn gần qua lại đôi phen thời gần. 
Ở bài ca dao trên, dù biết nhân vật anh nghèo, đang mắc nợ “nợ treo” nhưng em thuyết phục anh hãy chấp nhận em, em sẽ cố gắng bán buôn để kiếm tiền trả nợ thay anh. Ở bài ca dao dưới, từ “quen” ở câu trước chỉ sự để ý của chàng trai, lặp lại từ “quen” ở câu sau nhằm nhấn mạnh mức độ gần gũi thân mặt theo chiều hướng tình cảm tốt đẹp hơn trước. 
Ngoài ra có những trường hợp từ ngữ ở đầu câu, đầu bài được lặp lại ở cuối câu, hay cuối bài ca dao. Trường hợp lặp này có 9/387 bài, chiếm 2,3%: 
- Choàng tay qua cổ, nước mắt đổ ướt mình, 
Anh thương, em chẳng nghĩ tình anh thương 
- Ăn sao cho được mà mời, 
Thương sao cho được vợ người mà thương. 
- Biển đông sóng dợn ba đào, 
Ngãi nhơn khác thể sóng trào biển đông. 
- Lặp cách quãng: là dạng lặp trong đó những từ ngữ được lặp lại đứng cách xa nhau. Theo khảo sát của chúng tôi, đây là hình thức lặp phổ biến nhất trong quyển Ca dao dân ca Nam Bộ, với số lượng 241/387 bài, chiếm tỷ lệ 62,3%. 
- Bánh canh cọng vắn, cọng dài, 
Bánh tầm xe cọng dài, cọng vắn. 
- Hỏi cô gánh nước đường xa, 
Còn bao gánh nữa để qua gánh dùm. 
- Đến đây anh mở miệng ngỡ ngàng, 
Lạ người, lạ mặt, lạ làng khó phân. 
Ở các bài ca dao trên, hình thức lặp đứng xa nhau từ “gánh” ở câu trước diễn tả cô gái đang làm công việc nặng nhọc là gánh nước về nhà để dùng. Từ “gánh” lặp lại lần 2 ở giữa câu sau, người con trai hỏi số lượng gánh nước còn lại mà cô gái phải làm. Từ “gánh” lặp lại lần thứ 3 ở cuối câu sau, chàng trai muốn chia sẻ với cô gái công việc nặng nhọc là gánh nước. Thật là một anh chàng rất "ga lăng". 
- Lặp liên tiếp: là dạng lặp trong đó những từ ngữ được lặp lại trực tiếp đứng bên nhau nhằm tạo nên ấn tượng mới mẻ có tính chất tăng tiến. Dạng lặp này chỉ có 26/387 bài, chiếm 6,8%. Ví dụ: 
- Em khuyên anh đừng lại lại qua qua, 
Mẹ cha biết đặng, đánh la tụi mình. 
- Không ai hôm sớm bạn cùng, 
Nương mai mai ngã, dựa tùng tùng xiêu. 
- Muốn người ta, người ta không muốn, 
Xách cây dù đi xuống, đi lên. 
- Tiếc tiền mua cá, cá ươn, 
Mua rau, rau héo, mua nường, nường hư. 
Việc lặp lại từ “người ta” phía trước là ý chàng trai thương thầm cô gái ấy, nhưng “người ta” lặp lại kề bên là cô gái ấy không thích chàng trai. Do vậy, trai phải nhiều lần nhọc công “đi xuống, đi lên” để tạo ấn tượng cho cô gái ấy, hy vọng rằng, sự kiên trì của mình sẽ làm cho cô gái đổi ý trong tương lai. Bài ca dao kế tiếp, diễn tả sự thất vọng, đau khổ của nhân vật anh trữ tình - anh ấy bỏ tiền ra để mua cá, mua rau về ăn nhưng thất vọng vì bị lừa mua nhằm cá thì ươn, rau thì héo… những thức ăn không tươi nên anh ấy tiếc tiền. Sự tiếc nuối, thất vọng ấy ngày càng tăng lên khi cuối bài anh ấy lại thất vọng não nề khi bỏ tiền ra để cưới vợ hiền về chăm lo cho gia đình, nhưng kết quả là cưới nhằm một người vợ không ra gì. 
- Lặp vòng tròn: là một dạng lặp có tác dụng tu từ lớn. Chữ cuối câu trước được láy lại thành chữ đầu câu sau và cứ thế, làm cho câu văn, câu thơ liền nhau như đợt sóng. Người ta thường dùng nó trong thơ trữ tình để diễn tả một cảm giác triền miên. Có 13/387 bài sử dụng cách lặp vòng tròn, chiếm tỷ lệ 3,4%. Ví dụ: 
- Đường xa thì thiệt là xa, 
Mượn mình làm mối cho ta một nàng. 
Một nàng ở đất Mỹ An, 
Một nàng vừa đẹp vừa sang như mình. 
- Ví dầu nhà dột cột xiêu, 
Muốn đi nói vợ sợ nhiều miệng ăn. 
Nhiều miệng ăn rằng anh không sợ. 
Sợ duyên nợ không tròn gieo khổ cho nhau. 
Ở bài ca dao đầu, từ “một nàng” ở cuối câu là nhân vật anh nhờ nhân vật em - nhân vật là “mình” làm mai cho anh một người con gái khác. Nhưng “một nàng” lặp lại ở đầu câu sau phải ở đất Mỹ An, phải đẹp, phải sang như bà mối - nhân vật đang trò chuyện cùng anh. Anh chàng này tỏ tình rất khéo léo, nhờ người ta làm mai cho mình một người con gái phải hội đủ những ngoại hình, tính cách như “bà mai” đang đứng trước mặt mình. Nếu “bà mai” không giúp được anh tìm cô gái giống như anh yêu cầu thì “bà mai” phải nhận lời lấy anh. Có chút tinh quái trong sự tính toán của chàng trai. 
Tóm lại, phép lặp được sử dụng trong ca dao dân ca rất đa dạng và phong phú, phép lặp giúp ca dao có khả năng tạo hình, mô phỏng âm thanh, diễn tả nhiều sắc thái khác nhau của tình cảm người dân Nam Bộ: vui mừng, cảm động, thiết tha, trìu mến, đau thương, thâm trầm, mỉa mai, hài hước. 
3.2.2.3. Câu hỏi tu từ 
Câu hỏi tu từ "là câu hỏi mà về thực chất là câu khẳng định hoặc phủ định có cảm xúc. Nó có dạng không đòi hỏi câu trả lời mà chỉ nhằm tăng cường tính diễn cảm của phát ngôn" [39, tr.194]. 
Câu hỏi tu từ là loại câu hỏi được dùng nhiều trong văn học - nghệ thuật. Câu hỏi tu từ không nhằm mục đích tìm hiểu, làm rõ vấn đề, không cần câu trả lời, mà nhằm mục đích khẳng định lại, nhấn mạnh hơn nội dung mà tác giả muốn gửi gắm. Về chủ thể, người nêu câu hỏi có thể xác định được, nhưng không xác định rõ ràng người được hỏi là ai. 
Trong ca dao Nam Bộ, câu hỏi tu từ được sử dụng với số lượng đáng kể. Xin quan sát bảng thống kê sau đây: 
Bảng 3.4. Thống kê câu hỏi tu từ 
trong một số bài ca dao Nam Bộ 
 TT  
 BÀI CA DAO/ TRANG 
  TỔNG SỐ CÂU
 SỐ CÂU HỎI TU TỪ
 CÂU CA DAO 
DÙNG CÂU HỎI TU TỪ
1
Bài 21/130 
5
Anh đây nói thiệt sao em còn so đo?
2
Bài 27/ 131 
6
Làm trai Thanh Phú cưới nàng được chăng?
3
Bài 44/ 134 
2
2
Cầu nào cao bằng cầu Cái Cối, 
Gái nào giỏi bằng gái Bến Tre
 4
Bài 105/ 144 
3
1
Bánh phồng, bánh tráng đất này đâu ngon?
 5
Bài 134/ 150 
18
3
Kinh nào chạy thẳng nối liền hai nơi? 
Đèn nào cao nhất tiếng đời đều nghe? 
Hồ nào với biển cặp kè bên nhau? 
6
Bài 154/154 
2
1
Ai che con mắt bậu đi?
 7
Bài 162/155 
8
1
Anh đây đối đặng má hồng tính sao? 
 8
Bài 166/156 
2
1
Ăn cơm không đũa, ăn trầu không vôi? 
 9
Bài 217/163 
4
2
Phụ mẫu ở nhà mạnh giỏi hay không? 
Em xin hỏi lại: phụ mẫu của bạn lang như thế nào?
 10
Bài 250/168 
2
1
Em bước vô nhà thấy ai nằm đó?
 11
Bài 274/172 
3
1
Biết chừng nào anh cưới đưoợc em?
 12
Bài 295/175 
2
1
Anh xót ngọc tiếc hương sao ngoài sương không che đậy?
 13
Bài 304/176 
2
1
Ai đơm cho bậu hay là bậu đơm?
 14
Bài 375/185
2
1
Để coi cây quế ngả tàn về đâu? 
 15
Bài 385/186 
2
1
Tình xưa nghĩa cũ, nhớ chút nào hay không? 
 16
Bài 390/187 
3
1
Phụ mẫu hay đặng, không lẽ đánh mình, giết em?
 17
Bài 395/188  
2
1
Hai đứa mình kết vợ chồng nghen? 
 18
Bài 408/190 
2
1
Lòng em thương ai biết, dạ em chờ ai hay? 
 19
Bài 441/194 
2
2
Buổi chợ đông em em chẳng bán hàng, 
Để tan buổi chợ dạo làng bán chuyên?
 20
Bài 460/196 
2
1
Tại sao rơi lụy ướt đầm gối hoa?
 21
Bài 495/201 
2
1
Chuyện khôn, chuyện dại ai bày cho em?
 22
Bài 508/203
6
2
Canh chua lét sao rằng canh ngọt? 
Cá không chân sao gọi cá leo? 
 23
Bài 527/206   
4
1
Hay là em có tư tình với ai? 

Bài 539/207 
6 2
Con cá chi dưới biển không xương? 
Trai nam nhi đối đặng, thiếp lường tính sao?
 24
Bài 524/219 
8
2
 Người nào là vợ Vân Tiên? 
Người nào người ngỡi tôi đâu?
 25
Bài 654/223 
5
1
 Cơm ăn chẳng đặng, bạn vàng biết chăng?
 26
Bài 666/225 
4
1
Hay là em có nơi nào phụ anh?
 27
Bài 675/226 
4
1
Ai biểu anh chờ, anh kể công ơn?
 28
Bài 682/227 
2
1
Chuối ở một mình sao chuối có con?
 29
Bài 692/228 
2
1
Đêm nằm nghĩ lại coi ai bạc tình? 
 30
Bài 712/230
2
1
Qua về xứ sở, hỏi bậu vấn vương nơi nào?
 31
Bài 723/232 
6
1
Đây anh đã đối được, vậy nàng đã ưng chưa? 
 32
Bài 731/233 
5
1
Kết duyên rồi lại bạc tình sao nên? 
 33
Bài 1885/385 
2
2
Thông thổ mồ tổ anh ở đâu? 
Anh tới đây, anh bủa lưới giăng câu một mình? 
 34
Bài 1944/392 
4
1
Lại đây em hỏi khăn lông mấy đường?
 35
 Bài 1951/393 
7
1
  Hỏi thăm duyên nợ đổi dời về đâu? 
 36
Bài 1968/396 
2
1
Chồng em còn thuốc, theo anh làm gì?
 37
Bài 1995/399 
4
1
Xuân thu anh đáng mấy, hường nhan anh thế nào?
 38
 Bài 2024/402  
11
4
Trăm thứ dầu, dầu gì không thắp? Trăm thứ bắp, bắp gì không rang? Trăm thứ than, than gì không quạt? Trăm thứ bạc, bạc gì không mua? 
 39
Bài 2045/405 
4
1
Thiếu gì loan phụng sao anh tìm quạ khoang?
 40
Bài 2095/411 
2
1
Còn chút xíu nữa tại sao không thành?
 41
Bài 2114/413 
2
1
Mình xa tôi nhớ, sao tôi xa mình, mình quên?
 42
Bài 2161/420
2
1
Hỏi thăm lê, lựu, mãng cầu chín chưa?
 43
 Bài 2170/421  
3
1
 Miệng thời nói vậy, nào hay tấc lòng?
 44
Bài 2184/423 
4
1
Để coi vợ ruột phụng thờ ra sao?
 45
Bài 2208/426 
5
1
Muốn vô chắp nối, em có bằng lòng hay không?
 46
Bài 2216/427 
4
1
Cái nghĩ tao khang sao chàng vội đứt? 
 47
Bài 2285/437 
2
1
 Về làm dâu, cha mẹ chồng dằn mâm đập chén,
 anh có đau lòng không? 
 48
Bài 2341/444 
2
1
Vợ xa chồng biết tính kế nào đây?
 49
Bài 2371/448 
2
1
Vợ chồng xa cách hỏi ai không buồn?
50
Bài 2377/449 
11
1
Ối Mười ơi! Sao em để vậy còn gì áo anh?
 51
Bài 2388/451 
4
1
Chỉ con vùa rưỡi hỏi mình tính sao?
 52
Bài 2411/454 
2
1
Bên tình bên nghĩa bên nào nặng hơn? 
Theo sự khảo sát của chúng tôi, trong ca dao Nam Bộ, hình thức câu hỏi tu từ cú pháp thường hay đi kèm với lối nói có chút phô trương, cường điệu, có chút phóng đại, khoa ngôn nhưng chỉ có hình thức kết hợp này thì tính đề cao nội dung biểu đạt mới được phát huy tối đa tác dụng. Ví dụ: 
- Cầu nào cao bằng cầu Cái Cối? 
Gái nào giỏi bằng gái Bến Tre? 
- Đèn nào cao bằng đèn Thủ Ngữ? 
Gió nào dữ bằng gió Đồng Nai? 
Trai nào khôn bằng trai Cao Lãnh? 
Gái nào bảnh bằng gái Ba Tri? 
Nhưng ít ai nghĩ, từ cách nói ấy mà tác giả dân gian đã có một sự liên tưởng hết sức bất ngờ. Cái cao, cái đẹp, cái giỏi, cái khôn, cái bảnh… ít nhiều đều lộ ra bên ngoài và dễ nhận thấy; mà nhận thấy được thì mới đáng được đề cao - là một niềm tự hào vô biên. Sự sáng tạo của tác giả dân gian thật giản dị, thô sơ, mộc mạc mà vô cùng thâm thúy. 
Người Nam Bộ đôi khi dùng lối nói quanh co, không đi ngay vào đề tài chính, chủ yếu là để tranh thủ thời gian tìm ý nhằm diễn tả điều muốn bày tỏ: 
Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc 
Đất nào dốc bằng đất Nam Vang 
Một tiếng anh than hai hàng lụy nhỏ 
Em có chút mẹ già biết bỏ ai nuôi? 
Cô gái trong bài ca dao muốn từ chối lời tỏ tình của chàng trai nên cô không nói thẳng vào vấn đề, mà xa xôi bóng gió, là cái cớ nêu ra để từ chối nhưng khi đã vào đề, cô lại nói rất thẳng thắn, sở dĩ cô từ chối lời tỏ tình của chàng trai vì còn phải lo phụng dưỡng mẹ già. Lời từ chối nhẹ nhàng này đã được câu hỏi tu từ cú pháp diễn đạt rất thi vị, đạt được ý nguyện mà cô gái muốn gửi gắm. 
Nam Bộ là một vùng sông nước có hệ thống sông ngòi chằng chịt, cho nên từ lâu hình ảnh chiếc ghe, con đò, dòng sông, chiếc cầu... là hình ảnh hết sức quen thuộc với người dân nơi đây. Ngay từ thuở lọt lòng, họ đã được tắm gội bằng dòng nước trong xanh. Khi lớn lên, họ lại đi trên những chiếc cầu tre nối nhịp đôi bờ; những khi buông câu, thả lưới, lúc chở hàng ra chợ bán... họ đều gắn chặt cuộc đời mình với dòng nước mênh mông. Vì vậy, trong những câu ca dao, ít nhiều hình ảnh dòng sông, chiếc ghe, con đò cũng hiện hữu trong đó. 
Ghe ai đỏ mũi xanh lườn, 
Phải ghe Gia Định xuống vườn thăm em? 
Từ phải là một từ để hỏi nhưng ở đây là dạng hỏi tu từ. Không cần người đáp, hỏi để rào trước đón sau mà thôi. Có phải thì hãy đến nơi hẹn, hãy thẳng nơi mà đến còn không phải thì chỉ việc đi ngang qua. Trong bài ca dao, người con gái nhận dạng chiếc ghe của người yêu mình - chiếc ghe của người yêu cô có đặc điểm: "đỏ mũi, xanh lườn", nên khi thấy chiếc ghe có đặc điểm này thì cô gái mừng thầm, đinh ninh là ghe của người yêu xuống thăm mình. Nhưng cô gái ở đây vẫn cẩn trọng, không hấp tấp vội vã.
Vì cả vùng sông nước này có biết bao chiếc ghe có cùng đặc điểm đó, không khéo sẽ bị hớ, nên cô gái mới đặt lời ướm hỏi. Người Nam Bộ thường có thói quen dùng lối nói ví von, mượn các hình ảnh quen thuộc, gần gũi của đời thường để nêu lên ý mình định nói. Các hình ảnh quen thuộc được lặp đi lặp lại trong cách nói của họ cho đến khi thành tiềm thức, để khi có dịp thì tự động bật ra. 
Người dân Nam Bộ hay dùng câu hỏi tu từ để ngợi ca cái hay, cái đẹp về con người và vùng đất họ đang sinh sống. 
- Xoài nào ngon bằng xoài Cao Lãnh 
Vú sữa nào ngọt bằng vú sữa Cần Thơ? 
- Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh 
Gái nào bảnh bằng gái Cần Thơ 
Làm chi nay đợi mai chờ 
Linh đinh Phong Mỹ, dật dờ Hòa An. 
Các câu hỏi trong hai bài ca dao trên chỉ yếu để khẳng định cái hay, cái đẹp của quê hương, xứ sở, đồng thời còn là sự bày tỏ tình yêu tha thiết của tác giả dân gian với quê hương Nam Bộ bao quanh sông nước, nơi đất lành chim đậu, quanh năm cây trái tốt tươi. 
Câu hỏi tu từ không thực sự là câu hỏi, nó không được hỏi để chờ câu trả lời, chúng chỉ là lời khẳng định bằng cách hỏi. Tác giả dân gian thường dùng câu hỏi tu từ như một cách thức bộc lộ niềm tự hào, mến thương với những gì gắn bó: 
Bước xuống cầu, cầu oằn cầu oại 
Bước xuống thuyền, thuyền chích thuyền nghiêng 
Cả tiếng kêu người nghĩa phong điền 
Người nghĩa ơi, duyên đây không kết, còn tìm nơi đâu? 
Ca dao đọng lại trong tâm hồn con người bằng cái tình quê dung dị, hiền hòa, nhất là tình nghĩa con người sâu nặng: người nghĩa ơi, duyên đây không kết, còn tìm nơi đâu? Câu hỏi được đặt ra không nhất thiết phải có người trả lời vì làm sao trả lời được câu hỏi thấm đẫm nghĩa tình của xứ sở “muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lềnh tợ bánh canh”. Người dân Nam Bộ đã góp nhặt những tiếng nói ân tình cho tâm hồn người Việt bằng những hình ảnh quen thuộc mang tính biểu trưng của vùng sông nước Cửu Long. Vùng đồng bằng sông Cửu Long có hình ảnh cây bần, một loại cây rất gần gũi với bà con Nam Bộ. 
Thân em như trái bần trôi 
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu? 
Cây bần là loại cây đặc thù ở vùng đất bồi lắng phù sa. Cây bần còn gọi là cây thủy liễu, thường mọc ven các kênh rạch hay xen lẫn trong những đám lá dừa nước. Là loại cây sống trong môi trường bùn nước, bần có rễ phụ mọc nhô lên khỏi mặt bùn. Bà con Nam Bộ đã dành cho cây bần một tâm tình ưu ái. Trong các câu ca dao, họ mượn hình ảnh cây bần để thổ lộ tấm lòng của mình với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, từ đó tạo nên nhận thức thẩm mỹ khá mới lạ về loài cây này. 
Bài ca dao trên, tác giả bình dân đã mượn trái bần để nói lên số phận hẩm hiu của người phụ nữ: hình ảnh gió dập sóng dồi cộng thêm câu hỏi tu từ biết tấp vào đâu? thật sắc sảo vì cây bần cho trái chín vào mùa nước nổi. Khi nước tràn về các con sông, kênh, rạch, lung, đìa… làm cho trái bần trôi dạt theo dòng nước mà không biết sẽ về đâu. 
Có khi câu hỏi tu từ của ca dao Nam bộ gắn với hình ảnh bèo khá gần gũi, thân thuộc, từng có mặt trong ca dao của nhiều miền đất nước: 
Thân em như thể bèo trôi 
Sóng dập gió dồi biết dựa vào đâu? 
Bài ca dao miêu tả thân phận, cuộc đời của người phụ nữ, có số kiếp hẩm hiu, bạc bẽo. Các câu ca dao này đã thể hiện nỗi cảm thông sâu sắc đối với thân phận người phụ nữ. Cuộc đời người phụ nữ xưa kia bị lệ thuộc, ràng buộc bằng nhiều sợi dây, hữu hình và vô hình, khiến họ không thể vươn lên: 
Thân em như cá ở trong lờ 
Hết phương vùng vẫy, không biết nhờ nơi đâu? 
Dân gian thường dùng những từ ngữ rất mang tính địa phương: lờ hay từ láy: vùng vẫy. Từ những sự vật, hình ảnh cụ thể, người xưa đã thổi hồn vào nó, mang đến cho người đọc những ý nghĩa rất sâu sắc, nhân văn, thể hiện tâm hồn nghĩa tình của người dân Việt. Ngoài ra, các câu ca dao dạng câu hỏi tu từ thường kết hợp với biện pháp tu từ so sánh bằng các hình ảnh: cá vô lờ, trái bần... là những hình ảnh rất quen thuộc với đời sống nông thôn, giúp người đọc dễ nhận biết. 
Tình yêu nam nữ là phạm trù mang tính đa dạng, đầy màu sắc và mang nhiều cung bậc tình cảm khác nhau: buồn vui, thương nhớ, tương tư, hờn dỗi… Trong quá trình khảo sát câu hỏi tu từ trong ca dao Nam Bộ, chúng tôi nhận thấy cách thức bày tỏ tình cảm giữa nam và nữ trong ca dao cũng được các tác giả dùng rất nhiều trong các sáng tác của mình. Hay nói cách khác họ xem đó là hình thức "tỏ tình".
Tóc ngang vai vừa tay em bới 
Em để chi dài bối rối dạ anh? 
Cách nói hồn nhiên, thành thật và dễ thương của chàng trai. Anh nói như van xin, khẩn cầu cô gái hãy búi tóc lên cao đừng để tóc chấm ngang vai khiến lòng anh khổ não, bối rối nhưng thật ra đó lại là một lời trách rất đáng yêu, đáng quý, một cách trách khôn khéo, trách để mà khen và để thổ lộ tình yêu, để giãi bày tâm sự cùng cô gái. Chàng trai xao xuyến làm vì hình dáng của người con gái có duyên. Quả đúng như Hoài Thanh nhận xét: "Nhiều câu có lối nói tưởng như không biết gì mà vẫn thấy hay… đâu phải là chuyện yêu cầu bối tóc vì tóc khi đã được bối lên, chắc gì đã khiến anh hết bối rối, bâng khuâng". 
Mảnh đất Nam Bộ luôn chứa trong mình những câu ca dao nói về tình yêu đầy dấu ấn. Con người Nam Bộ vốn dĩ rất mộc mạc, chân thành, hồn nhiên, giản dị và điều đó thể hiện thật đậm nét trong những vần ca dao của họ.
Chính yếu tố bình dị, mộc mạc, dễ hiểu đã làm cho ca dao Nam Bộ có sức sống mãnh liệt. 
Tình yêu trong ca dao Nam Bộ là những tiếng hát thầm kín, chân thành nhất. Các chàng trai, cô gái khi hát lên những tiếng hát về tình yêu - chính là những khát vọng, ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc, đồng thời nói lên quan niệm của mình về cái đẹp lý tưởng của con người. 
Hỏi mà không có lời đáp và chắc cũng chẳng cần ai trả lời, bởi đó là cách nói khó, chỉ có câu hỏi tu từ cú pháp mới thể hiện được ý nghĩa của hình thức nghệ thuật này. Vấn đề là người nghe, cụ thể hơn là đối tượng hướng đến của giao tiếp có hiểu hay không mà thôi. 
Nước không chân sao kêu nước đứng 
Con cá không trèo sao nói cá leo? 
Ai mà đối đặng giàu nghèo em cũng ưng. 
Nhiều lúc câu hỏi tu từ cú pháp lại được sử dụng để bày tỏ nỗi lòng chua chát, trách móc của nhân vật trữ tình: 
Áo bà ba cái ngắn cái dài 
Sao anh không bận, bận hoài chiếc áo bành tô? 
Cô gái sử dụng câu hỏi tu từ để trách móc nhẹ nhàng chàng trai, trách người ấy đã làm việc lẽ ra không nên làm để làm buồn lòng, sầu khổ cho cô. 
Câu hỏi tu từ còn có tác dụng thể hiện nỗi niềm xót xa cho thân phận lỡ duyên của nhân vật trữ tình. Có nhiều người ế muộn vì hoàn cảnh, có người ế muộn vì quá kén chọn lúc còn trẻ, hãy nghe tâm tư của cô gái lỡ thì, ế chồng. 
Buổi chợ đông sao em chẳng bán hàng 
Để tan buổi chợ dạo làng bán chuyên? 
Tóm lại, câu hỏi tu từ cú pháp trong ca dao Nam Bộ có tính hình tượng rất cao vì qua cách hỏi nhằm giải bày tình cảm, có thể thấy được chân dung cảnh vật hay con người. Ngoài ra, phép tu từ này còn sử dụng các từ ngữ gần gũi với đời sống, dễ hiểu, có tính đa nghĩa và hàm súc, tăng khả năng khơi gợi, liên tưởng, lời ít mà hàm ý sâu xa. 
Câu hỏi tu từ cú pháp mang tính truyền cảm vì nó có khả năng gợi cảm xúc, tạo nên những hiệu ứng, sự giao cảm của văn bản với người đọc. Tính truyền cảm được thể hiện trực tiếp bằng ngôn từ, giọng điệu, thể hiện được nét riêng, cá tính sáng tạo của tác giả dân gian trong các sáng tác của mình. 
Tiểu kết chương 3 
Toàn bộ chương 3 đã được dành để khảo sát, phân tích cách sử dụng các biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ. Luận văn đã đi sâu và hai nội dung cơ bản: một số biện pháp tu từ ngữ nghĩa và một số biện pháp tu từ cú pháp. Đây là những vấn đề, theo chúng tôi, khá nổi bật trong ca dao Nam Bộ. 
Về tu từ ngữ nghĩa, các biện pháp đã được tìm hiểu, lý giải là so sánh, chơi chữ. Từ mô hình chung của phép so sánh, chúng tôi đánh giá những nét đặc sắc của cách so sánh trong ca dao Nam Bộ trên ba tiêu chí: hình ảnh so sánh và cấu trúc so sánh và cách dùng từ so sánh. Lối chơi chữ của người Nam Bộ trong ca dao cũng có những nét riêng so với ca dao ở các vùng miền khác. Những điều này được làm rõ qua các số liệu và sự phân tích ngữ liệu. 
Về tu từ cú pháp, chúng tôi đi sâu nghiên cứu phép sóng đôi, phép lặp và câu hỏi tu từ. Ở mỗi biện pháp, luận văn đều đưa ra bảng thống kê để có cái nhìn định lượng, trên cơ sở đó, cảm nhận và phân tích những giá trị biểu hiện của chúng.
KẾT LUẬN 
Qua khảo sát một số phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ, chúng tôi rút ra một số kết luận sau đây: 
1. Ca dao Nam Bộ là một bộ phận hữu cơ trong nền thơ ca dân gian Việt Nam, là tiếng nói phản ánh tâm tư, tình cảm, đời sống lao động, đấu tranh, những nhu cầu và khát vọng... của con người nơi mảnh đất "Chín Rồng". Những nét riêng của ca dao nơi vùng đất này không chỉ ở mặt nội dung, ở hiện thực cuộc sống và tâm tình con người nó đã tái hiện, mà còn ở phương diện hình thức, trong đó, có các phương tiện và biện pháp tu từ - tức là cái cách trau dồi ngôn từ để ca dao Nam Bộ ánh lên những vẻ đẹp riêng của nó. 
2. Trước khi đi vào khảo sát cụ thể các phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ, chúng tôi đã tập trung giải quyết một số vấn đề có tính chất khái quát hoặc liên quan đến lý thuyết. Đó là khái niệm ca dao, sự phân biệt ca dao với các thể tài gần gũi; tình hình nghiên cứu ca dao từ góc độ văn học và góc độ ngôn ngữ học; vấn đề tu từ nghệ thuật và nghiên cứu tu từ trong ca dao... Cũng trong chương 1, luận văn đã phác dựng một cách đại lược miền đất và con người Nam Bộ, giới thiệu tổng quát về ca dao Nam Bộ trong tương quan với ca dao của các vùng miền khác trên đất nước Việt Nam. 
3. Khảo sát một số phương tiện tu từ trong ca dao Nam Bộ là nhiệm vụ của chương 2. Trên cơ sở khái niệm phương tiện tu từ và việc sử dụng phương tiện tu từ trong văn bản nghệ thuật, luận văn tập trung đi vào khảo sát một số phương tiện chủ yếu. Trước hết là lớp từ ngữ thơ ca. Về lượng, lớp từ ngữ này có tỷ lệ không cao trong vốn từ được dùng, song sự có mặt của chúng trong ca dao tạo nên nét tương phản hình thức rất đặc biệt: con người Nam Bộ vốn chân chất mộc mạc, vậy mà trong biểu đạt tình cảm, có khi lại cũng hết sức thi vị, trữ tình. Bên cạnh lớp từ thi ca, lớp từ Hán Việt cũng rất đáng chú ý. Thực ra, lớp từ này có sự "giao thoa" với lớp từ thi ca; nói cách khác, hầu hết các từ thi ca, xét về nguồn gốc, là từ Hán Việt. Từ Hán Việt có thể được dùng tương đương nghĩa với từ thuần Việt, hay cũng có những từ Hán Việt không có từ thuần Việt với nghĩa tương đương. Chính sự đa dạng trong sử dụng đã mang lại cho lớp từ Hán Việt một giá trị biểu đạt nổi bật trong ca dao Nam Bộ. Ngoài ra, chúng tôi cũng khảo sát rất kỹ lớp từ nghề nghiệp, lớp từ địa phương, lớp từ láy. Sự khảo sát, phân tích và đánh giá bao giờ cũng trên nguyên tắc: từ định lượng đến định tính. Ở mỗi lớp từ, chúng tôi đều lập bảng thống kê, và mọi sự phân tích đều dựa trên những cứ liệu cụ thể. 
Về tu từ ngữ nghĩa, chúng tôi nghiên cứu một số phương tiện nổi bật: ẩn dụ, nhân hóa, phóng đại. Ẩn dụ được dùng rất phổ biến trong ca dao Nam Bộ. Đây cũng là nét chung của ca dao. Tìm hiểu ca dao Nam Bộ, chúng tôi nhận thấy, được dùng nhiều là những hình ảnh: tơ với nguyệt, bướm ong, lựu đào, trăng sao, loan phụng, rồng mây, cá với nước, cây đa bến đò, chài lưới, nguyệt hoa, lên ngựa xuống xe, chim oanh ương kết bầy, cá vầy đôi bạn, bắp non trổ cờ, gió thổi bốn mùa, sóng trào biển dâng, bông thơm bướm đậu, cây đắng sanh trái ngọt… Đây là những hình ảnh hết sức quen thuộc trong đời sống của con người nơi vùng đất này. Lối nhân hóa, phóng đại của ca dao Nam Bộ cũng được thực hiện trên nguyên tắc ấy. Do đó, qua các phương tiện tu từ ngữ nghĩa, ta có thể nhận diện một cách khá dễ dàng những nét riêng của con người Nam Bộ biểu hiện qua ca dao. 
4. Các biện pháp tu từ của ca dao Nam Bộ là nội dung được giải quyết ở chương 3 của luận văn. Về tu từ ngữ nghĩa, chúng tôi tìm hiểu kỹ hai biện pháp: so sánh và chơi chữ. So sánh vốn là biện pháp đắc dụng ở thơ ca, ca dao Nam Bộ cũng không ngoài thông lệ đó. Khảo sát cả bình diện cấu trúc so sánh và bình diện hình ảnh so sánh, chúng tôi nhận thấy ca dao Nam Bộ có cách xử lý riêng. Nếu cấu trúc so sánh thường linh hoạt, ít tính khuôn mẫu, thì hình ảnh so sánh thường là những gì quen gặp trong đời sống con người nơi đây, kể cả thế giới thiên tạo và thế giới nhân tạo. Vì thế, đọc ca dao Nam Bộ, gặp những câu có sử dụng so sánh, không thể nhầm lẫn với ca dao của bất cứ miền nào khác. Chơi chữ là biện pháp được sử dụng không nhiều, và đặc biệt, rất ít tính "bác học" như ca dao Bắc Bộ hoặc ca dao Nghệ Tĩnh. Lối chơi chữ của con người Nam Bộ trong ca dao thường ít lắt léo, ít tính chất sách vở, hài hước một cách nhẹ nhàng, không quá thâm trầm, sâu sắc. 
Về tu từ cú pháp, chúng tôi đi sâu ba biện pháp: sóng đôi, lặp và câu hỏi tu từ. Sóng đôi vốn rất đậm tính cổ điển, được văn học viết ưa dùng. Ca dao Nam Bộ sử dụng sóng đôi, nhưng không quá chặt chẽ về hình thức. Có khi sóng đôi thể hiện ở từng vế trong một câu, có khi sóng đôi biểu hiện ở từng cặp câu, do vậy, lời ca vẫn rất phóng túng. Tương tự, phép lặp trong ca dao Nam Bộ cũng rất biến hóa: lặp từ, lặp cụm từ, lặp hình ảnh, lặp vế câu hoặc lặp câu. Về vị trí, có lặp đầu, lặp cuối, lặp vòng, mục đích là nhấn mạnh và gây ấn tượng cho người đọc. Câu hỏi tu từ trong ca dao Nam Bộ cũng không đơn điệu về hình thức. Có khi câu hỏi ở cuối mỗi bài, có khi hỏi dồn dập ở các câu. Tùy trường hợp mà ta có thể cảm nhận được trạng thái tình cảm của chủ thể trữ tình. 
Tu từ trong ca dao Nam Bộ là vấn đề khá rộng, những gì chúng tôi đã trình bày trong luận văn này mới chỉ là kết quả khảo sát bước đầu. Có những nội dung đã được tìm hiểu, phân tích kỹ lưỡng, nhưng cũng có những vấn đề đang cần được tiếp tục suy nghĩ. Với những vấn đề đó, hy vọng sau này chúng tôi sẽ có dịp trở lại, tìm hiểu, nghiên cứu một cách đầy đủ, sâu sắc hơn. 
Nguyễn Thị Thanh Hằng
Theo http://lib.sgu.edu.vn:84/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát

Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát Lời hát giao duyên kể về nỗi niềm cô gái thương thầm chàng trai/ Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát/ ...