Cảm hứng tôn giáo
trong thơ Mai Văn Phấn
trong thơ Mai Văn Phấn
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tôn giáo, một hình thái ý thức xã hội, được hình
thành và song hành cùng với quá trình tiến hóa, phát triển của lịch sử xã hội
loài người. Tôn giáo và khái niệm tôn giáo ngày càng đa dạng, biến thiên, và vẫn
khẳng định được vị thế, những giá trị của mình trong đời sống tâm linh cộng đồng,
từng vùng miền, dân tộc. Những giá trị đó đã chi phối, thậm chí khuynh loát
tinh thần, đời sống con người. Các giáo lý của tôn giáo nói chung đều chứa đựng
giá trị đạo đức nhân bản rất hữu ích cho việc xây dựng nền đạo đức mới và nhân
cách con người, hướng con người tới Chân Thiện Mỹ, tới những điều tốt đẹp,
công bằng, bác ái, sống lương thiện hơn, hạnh phúc hơn trong cõi thế tục.
Văn học nghệ thuật, theo Mác và Ăng-ghen, cũng là một hình
thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, dĩ nhiên không ngoài quỹ đạo ảnh
hưởng của tôn giáo, với những biểu hiện tinh vi nhất. Không phải ngẫu nhiên mà
trong thế giới nghệ thuật của nhiều văn nghệ sĩ, dấu ấn tôn giáo lại in đậm đến
vậy. Tôn giáo ở một khía cạnh nào đó cũng được nhìn nhận như một cảm quan, một
cách nhìn nghệ thuật về thực tại, “nó tồn tại trong thơ và bằng thơ, chứ
không thể xé rào ra ngoài thơ để thành tôn giáo của thế tục. Rabindranath
Tagore gọi đó là “tôn giáo của nhà thơ”.” [39, 2]. Tôn giáo đã ăn sâu vào
ý thức của nhà thơ, làm cơ sở để họ cắt nghĩa cảm nhận đời sống theo nhãn quan
tôn giáo. Vì vậy, tìm hiểu cảm hứng tôn giáo của một nhà thơ chính là từng bước
thâm nhập vào thế giới tôn giáo dưới nhãn quan thi sĩ, từ đó hiểu được cách tiếp
cận đời sống từ chiều sâu tâm linh, nó chi phối nhân sinh quan, thế giới quan để
tạo nên một thế giới nghệ thuật với những phương thức biểu đạt riêng biệt.
1.2. Mai Văn Phấn - con người âm thầm trong hành trình của
những đổi mới, cách tân và sáng tạo đã mang lại cho thơ Việt đương đại một sinh
khí mới, dáng vẻ mới. Ông đã tạo ra “một vùng tiểu khí hậu trong thơ” (Hữu Thỉnh, Thơ
Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công - Kỷ yếu hội thảo
thơ tại Hải Phòng, 15/ 5/ 2011, NXB Hội Nhà văn, 2011). Ông là người luôn trăn
trở, suy tư một cách nghiêm túc về nghề nghiệp. Vì thế, Mai Văn Phấn đã có những
quan điểm tiến bộ, góp phần không nhỏ vào sự khai phóng cho nền văn học mới khi
ông xác định cho mình một hướng đi mới, một trường thẩm mỹ mới.Với Mai Văn Phấn “thơ
ca ngoài mục đích tải đạo, tuyên truyền, mô phỏng diễn tả… nó còn tìm cách đặt
tên lại sự vật, định hình lại thế giới” [33,14]. Vì vậy, qua các tác phẩm
của mình, từ tập thơ đầu tay “giọt nắng” (Hội Liên hiệp VHNT TP. Hải Phòng,
1992), đến tập thơ mới nhất “vừa sinh ra ở đó” (Nxb. Hội Nhà văn, 2012), Mai
Văn Phấn đã cho người đọc thấy được mạch nguồn vận động và sáng tạo không ngừng
của một thi sĩ tài hoa, đặc biệt có tư tưởng trong lộ trình nghệ thuật của
mình. Đây không chỉ là bước đột phá trong quá trình ông tự hoàn thiện và đổi mới
mình, mà quan trọng hơn, đó còn là đòn bẩy mạnh mẽ nhất đưa thơ bước đến đỉnh
caocủa nghệ thuật đích thực. Đọc thơ Mai Văn Phấn trong mỗi thời kỳ, mỗi giai
đoạn nhất định, người đọc không khỏi suy tư, trăn trở theo những khát vọng khơi
mở thầm kín nơi ông. Nghiên cứu thơ Mai Văn Phấn, trong bối cảnh thơ Việt sau
1975 với xu hướng vận động tự do hóa, dân chủ hóa để góp phần khẳng định những
chuyển động sáng tạo mới trong thơ Việt Nam hiện đại.
1.3. Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn chính là một
cách nhìn mới, nhận thức mới trong sáng tác của ông, đã tạo nên những sắc màu
riêng biệt thể hiện quan niệm, cách khai thác độc đáo về một thế giới bên ngoài
thế giới thực tại. Hay nói đúng hơn, chính là cách nhà thơ tìm đến với một thực
tại khác mà ở đó có sự xen kẽ giữa hư và thực. Qua đó, bộc lộ nỗ lực của thi sĩ
trong việc kiến tạo một thế giới mới xuất phát từ điểm nhìn của đời sống thực tại.
Do vậy, chọn đề tài “Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn
Phấn”, người viết hy vọng sẽ khám phá thêm về những yếu tố cấu thành nhân
sinh quan, thế giới quan của nhà thơ, đồng thời, giúp người đọc hiểu thêm một
khía cạnh mới trong nhận thức khám phá thế giới của một hồn thơ thi sĩ.
2. Lịch sử vấn đề
Từ năm 1992 với “giọt nắng”, tập thơ mở đường chính thức đưa
Mai Văn Phấn vào làng văn, từ đó đến nay ông liên tiếp cho ra đời những tác phẩm
có giá trị, để rồi trên chính con đường ấy đã ghi nhận những đóng góp hết sức
tích cực của nhà thơ. Không gian thơ của Mai Văn Phấn luôn là khu vườn đầy
hương sắc, lôi cuốn sự tìm tòi, khám phá của những người yêu thơ. Vì vậy, khi đến
với độc giả dưới góc nhìn đa diện, các tác phẩm của ông được soi chiếu dưới nhiều
chiều kích khác nhau. Có thể khẳng định, số lượng bài viết về thơ Mai Văn Phấn
khá lớn, theo thống kê chưa đầy đủ cho đến thời điểm hiện tại có đến hàng trăm
các bài viết trên nhiều phương diện: giới thiệu sách, giới thiệu chân dung nhà
thơ, thảo luận, nghiên cứu, phê bình… Trong đó, có đủ cả khen và chê, phê phán
và khẳng định.
2.1. Trước hết, là những đánh giá ghi nhận những đóng
góp của Mai Văn Phấn cho quá trình hiện đại hóa của văn học nước nhà, là nhà
thơ cách tân hàng đầu trong nền thơ ca đương đại Việt Nam với sự sáng tạo không
ngừng. Sự thống nhất chung đó có ở các bài viết của các tác giả Đình Kính, Cao
Năm, Đỗ Quyên, Nguyễn Quang Thiều… Đặc biệt được nhấn mạnh một cách toàn diện
và sâu sắc trong hai luận văn tốt nghiệp: “Đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn
Phấn” của Vũ Thị Thảo và “Một số cách tân nghệ thuật trong thơ Mai
Văn Phấn” của Nguyễn Quang Hà.
Nhà văn Đình Kính trong bài mở đầu tại hội thảo “Thơ Mai
Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt và thành công” đã nhấn mạnh: “Mai
Văn Phấn là nhà thơ tiên phong sáng tạo theo hướng đổi mới, cách tân, định hình
tư duy thẩm mĩ mới và anh đã được đánh giá cao” Đồng thời ở Mai Văn Phấn “ngoài
sự tài hoa, đam mê, phông văn hóa, tri thức, sự kiên trì nhẫn nại trong sáng tạo,
anh còn là nhà thơ dũng cảm và giàu bản lĩnh” [13, 6].
Bên cạnh đó, khi khẳng định về tố chất của người nghệ sĩ, Cao
Năm đã không dè dặt trong việc một lần nữa nhấn mạnh ở bản lĩnh sáng tạo của một
cây bút kiên định, giàu sức sống. “Mai Văn Phấn dường như sinh ra là để năng động
và sáng tạo không ngừng, con người hiện thân của sự sáng tạo”[13,18].
Cùng với dòng mạch vận động này, nhưng chủ yếu tiếp cận ở
phương diện sáng tác và thành quả nghệ thuật của Mai Văn Phấn. Không thể không
kể đến hai công trình nghiên cứu chi tiết, hệ thống ở phương diện nghệ thuật
trong hai luận văn thạc sĩ của Nguyễn Quang Hà và Vũ Thị Thảo. Điểm gặp gỡ của
hai bài viết này là đều khẳng định những thành công và đóng góp quan trọng về mặt
nghệ thuật trong các sáng tác của Mai Văn Phấn. Vũ Thị Thảo trong “Đặc điểm
nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn”, trên cơ sở phân tích quan niệm trong hành trình
sáng tác của Mai Văn Phấn, từ đó có cái nhìn khái quát một cách có hệ thống về
các phương diện nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn, “Bằng con mắt quan sát
tinh tế và có chiều sâu, Mai Văn Phấn nhìn vạn vật trong sự phồn sinh , hóa
sinh bất định. Chính những quan niệm về thi ca, về thi nhân, về nhân sinh và thế
giới nói trên đã chi phối hành trình sáng tạo nghệ thuật của ông” [44,116].
Còn Nguyễn Quang Hà trong “Một số cách tân nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn”
đã nhìn nhận xu thế cách tân trong thơ Việt nói chung và đặc biệt trong thơ Mai
Văn Phấn. “Mai Văn Phấn đã cho thấy một diện mạo thơ mới có thể chuyển tải
được những bộn bề, phức tạp của cuộc sống và tâm trạng với nhiều cung bậc tình
cảm của cái tôi luôn mang nặng ý thức, trách nhiệm với con người và cuộc sống,
phù hợp với xu hướng phát triển chung của xã hội” [3, 122].
Như vậy, có thể nói trên đây đã dẫn ra một vài ý kiến tiêu biểu
cho cách nhìn nhận, đánh giá những đóng góp tích cực cũng như những thành công
trên con đường tìm kiếm nghệ thuật đích thực của Mai Văn Phấn. Tuy các bài viết
chưa thể bao quát hết được các phương diện đánh giá về các sáng tác của ông,
nhưng với mỗi cách nhìn, mỗi quan niệm cho ta một mảnh ghép quan trọng để hoàn
thiện dần bức chân dung về thơ và đời của nhà thơ Mai Văn Phấn.
2.2. Bên cạnh những tình cảm yêu mến, sự trân trọng và
đón nhận nồng nhiệt, còn có những ý kiến trái chiều trong hành trình sáng tác của
thơ ông. Đó là những nhận xét phê phán cực đoan của các nhà thơ, các nhà phê
bình trước những thành tựu được ghi nhận trong thơ Mai Văn Phấn.
Rõ ràng, thơ Mai Văn Phấn “bên cạnh những thành công thì
thơ ông còn nhiều điều dang dở. Trước hết, thơ Mai Văn Phấn, có những bài thơ
gây khó hiểu cho bạn đọc. Với niềm say mê cách tân thơ, nhiều khi nhà thơ quá
sa đà vào việc thể nghiệm những cái mới nên thơ ông trở nên rối rắm, khó hiểu” [44,
119]. Đây có lẽ là cái nhìn biện chứng hơn cả đối với một thế giới thơ mà ở đó
nhà thơ tạo ra nhiều “cánh cửa” để bạn đọc có thể tiếp cận ở nhiều chiều kích
khác nhau. Ở đó, họ thực sự tự do, “nó không có chỗ cho sự ù lì, dễ dãi…đọc
thơ anh trước hết cần sự đồng cảm, tháo gỡ những quan niệm cũ về thơ vẫn nằm ẩn
sâu trong mỗi người, cần vươn tới những tìm kiếm mới, giá trị mới”…[13, 2].
Nói tóm lại, dù đánh giá ở phương diện nào thì cũng không thể
phủ nhận được những giá trị và đóng góp của thơ Mai Văn Phấn. Thơ Mai Văn Phấn
vẫn giành được những ưu ái và đánh giá cao bởi những cây bút uy tín, chuyên
nghiệp trên văn đàn hiện nay
2.3. Trong các công trình nghiên cứu còn hạn chế về thơ
Mai Văn Phấn, vấn đề người viết quan tâm là “Cảm hứng tôn giáo trong thơ
Mai Văn Phấn” vẫn chưa được nhìn nhận và nghiên cứu một cách có hệ thống,
thậm chí, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách trực diện về vấn đề
này. Một số bài viết của các tác giả Dương Kiều Minh, Nguyễn Hiệp, Đỗ Minh Tuấn,
Vũ Thị Thảo… đã bắt đầu chạm vào vấn đề tôn giáo ở phương diện tâm linh, hình ảnh
biểu tượng. Tuy còn lẻ tẻ chưa tập trung, nhưng các ý kiến đó vẫn là nhưng gợi
dẫn quí báu để người viết tìm hiểu vấn đề “cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn
Phấn” một cách sâu sắc và toàn diện hơn.
Nhà thơ Dương Kiều Minh với “cuộc trở về “tâm không” trong tập
“Bầu trời không mái che” của nhà thơ Mai Văn Phấn” nhấn mạnh đến sự hồi sinh
cùng biểu tượng trong thơ ông, “Bầu trời không mái che – một cuộc hoàn
nguyên để tái sinh ngoạn mục, một cuộc một cuộc lộn trở về với bản thể người
trong bản thể của vũ trụ”, rồi khi nhắc đến hình ảnh biểu tượng tôn giáo
trong thơ Mai Văn Phấn, nhà nghiên cứu đã khẳng định “bông cúc hiện ra như
ánh sáng của sự giác ngộ, của giải thoát trên lối về độc đáo của cuộc kiếm tìm” [13,
23].
Nhà văn Đặng Thân trong “hành trình cỏ cây xuyên tâm
linh”, cũng bước đầu nhìn nhận, đánh giá những hình ảnh biểu tượng: hoa
sen biểu tượng phật giáo; bông cúc biểu tượng cho một thế giới tâm linh thanh sạch;
và đặc biệt “hình ảnh cỏ là cội rễ tâm linh Mai Văn Phấn” [13, 65].
Nhà thơ Đỗ Minh Tuấn trong bài “Mai Văn Phấn và thi pháp
mộng du xuyên thế giới”, đã đánh giá những bài thơ hay của Mai Văn Phấn
trên bình diện tôn giáo, “những bài hay nhất của anh đã thể hiện cuộc luân
hồi thi ca và tái sinh thi ca trong cõi vô thường tam thiên thế giới của phật
giáo thấm sâu vào cảm xúc của thi nhân” [13, 89].
Cụ thể hơn trong bài viết của Vũ Thị Thảo đã liệt kê một cách
có hệ thống các hình ảnh biểu tượng tâm linh, chủ đề tâm linh trong thơ Mai Văn
Phấn, có thể nói “ ý niệm tâm linh giống như luồng ánh sáng linh thiêng
soi rọi, phủ ngập lộ trình thơ Mai Văn Phấn” [44, 55].
Điểm qua một vài bài viết trên, chúng ta có thể thấy được, vấn
đề“Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn” chưa được nhìn nhận như là một
vấn đề trọng tâm mà mới chỉ tồn tại dưới những nhận xét lẻ tẻ trong các bài
nghiên cứu. Các tác giả đã bắt đầu tiếp cận ở phương diện tâm linh, hình ảnh –
biểu tượng tôn giáo. Trên cơ sở hệ thống hóa các bài viết có liên quan, người
nghiên cứu sẽ cố gắng phân tích, lí giải, đánh giá vấn đề “cảm hứng tôn giáo
trong thơ Mai Văn Phấn” trên bình diện sâu và rộng hơn.
Lịch sử nghiên cứu Mai Văn Phấn chưa phải đã dài, ý kiến đề cập
trực tiếp đến vấn đề tôn giáo trong thơ của tác giả này cũng chưa phong phú.
Nhưng, dầu sao chúng cũng là những tiền đề hữu ích để người sau bước tiếp. Với
đề tài này, chúng tôi một lần nữa muốn góp thêm một tiếng nói khẳng định giá trị
thơ Mai Văn Phấn. Và, hơn thế bài viết muốn đưa đến một cái nhìn mới, toàn diện
hơn khi soi chiếu thành tựu thơ của Mai Văn Phấn dưới góc nhìn của cảm hứng tôn
giáo – một trong những nguồn cảm hứng chủ đạo làm nên sức sống thơ ông.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề cảm hứng
tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là toàn bộ sáng tác
thơ của Mai Văn Phấn gồm các tác phẩm đã xuất bản: Giọt nắng (thơ, Hội
Liên hiệp VHNT TP. Hải Phòng, 1992); Gọi xanh (thơ, Nxb. Hội Nhà văn,
1995); Cầu nguyện ban mai (thơ, Nxb. Hải Phòng, 1997); Nghi
lễ nhận tên (thơ, Nxb. Hải Phòng, 1999); Người cùng thời (trường
ca, Nxb. Hải Phòng, 1999); Vách nước (thơ, Nxb. Hội Nhà văn,
2003); Hôm sau (thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2009); và đột nhiên
gió thổi (thơ, Nxb. Văn học, 2009); Bầu trời không mái che (thơ,
Nxb. Hội Nhà văn, 2010); hoa giấu mặt (thơ, Nxb. Hội Nhà văn,
2012); Vừa sinh ra ở đó (thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2013). Đặc biệt luận
văn còn tham khảo công trình Thơ tuyển Mai Văn Phấn (thơ cùng tiểu luận
và trả lời phỏng vấn, Nxb. Hội Nhà văn, 2011). Từ đó, chúng tôi xác định
tìm hiểu “cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn trên hai phương diện đó là
thế giới hình tượng và các phương tiện nghệ thuật.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
4.1. Phương pháp liên ngành
Bản chất của phương pháp này là người viết vận dụng một số
tri thức liên ngành triết học, tôn giáo học, phân tâm học…nhằm lí giả các vấn đề
văn học qua cái nhìn tôn giáo. Có thể nói, đây là phương pháp chủ đạo, có ý
nghĩa quan trọng, xuyên suốt quá trình khai triển luận văn. Góp phần đáng kể
vào việc làm sáng tỏ những vấn đề có ý nghĩa then chốt trong bài viết.
4.2. Phương pháp hệ thống
Phương pháp này cho phép người nghiên cứu xem xét những bình
diện, những yếu tố cơ bản làm nên ý nghĩa, đặc điểm những cái nhìn, cách cảm,
cách nghĩ về tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn. Để từ đó hệ thống thành một chỉnh
thể nghệ thuật với cấu trúc và quy luật nội tại riêng.
4.3. Phương pháp thống kê, phân loại
Với phương pháp này sẽ được xem xét dựa trên sự tương đồng về
mặt giá trị, giúp người viết xắp xếp một cách có hệ thống những hình ảnh, biểu
tượng xuất hiện nhiều lần như một phương tiện quan trọng biểu hiện cho cách
nhìn của nhà thơ. Để từ đó người nghiên cứu sẽ xác lập, xâu chuỗi các biểu hiện
đa dạng của các yếu tố trong thơ Mai Văn Phấn.
4.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Người viết sử dụng phương pháp này để thiết lập hệ thống luận
điểm. Trên cơ sở làm rõ những nét độc đáo về cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai
Văn Phấn để có cái nhìn khái quát về hành trình thơ ông. Từ đó, làm cơ sở khái
quát chung về những dấu ấn mới trong cách nhìn của thi sĩ.
4.5. Phương pháp so sánh – đối chiếu
Trên cơ sở lí giải các yếu tố, các phương diện đặc biệt trong
thơ ông, từ đó so sánh, đối chiếu những cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa của
Mai Văn Phấn với các nhà thơ cùng thời để tìm ra dấu ấn riêng biệt của Mai Văn
Phấn.
5. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn diện, hệ
thống về “Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn”.
Trong khuôn khổ cho phép, luận văn cố gắng làm nổi bật nét đặc
sắc trong thơ Mai Văn Phấn ở phương diện tôn giáo. Thực hiện luận văn, chúng
tôi mong muốn góp tiếng nói khẳng định về giá trị của một tiếng thơ, làm rõ một
gương mặt thơ trong thi đàn đương đại.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, phần
nội dung luận văn có những chương sau:
Chương 1: Cảm hứng tôn giáo và sự hình thành cảm hứng tôn
giáo trong thơ Mai Văn Phấn
Chương 2: Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn, nhìn từ
thế giới hình tượng
Chương 3: Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn, nhìn từ
các phương tiện nghệ thuật
1.1. Giới thuyết về tôn giáo và cảm hứng tôn giáo
1.1.1. Tôn giáo
Ra đời hàng ngàn năm nay, tôn giáo là một hình thái ý thức xã
hội, là một hiện tượng lịch sử thuộc lĩnh vực tinh thần có ảnh hưởng sâu rộng
trong đời sống của toàn thể nhân loại. Đến với tôn giáo là đến với thế giới của
cái đẹp, cái thiêng và sự thánh thiện, nó giúp tâm hồn con người bình yên,
thanh thản. Không phải ngẫu nhiên mà từ xưa đến nay tôn giáo luôn là nguồn cảm
hứng bất tận trong các lĩnh vực nghệ thuật, đặc biệt là văn học. Trên thế giới
có rất nhiều các loại hình tôn giáo khác nhau, mỗi tôn giáo mang một màu sắc, một
nét đẹp riêng, tạo thành một bản âm hưởng đa thanh, đa sắc, từ đó đã có rất nhiều
cách hiểu về tôn giáo khác nhau. Khái niệm tôn giáo là một vấn đề được giới
nghiên cứu về tôn giáo bàn cãi rất nhiều. Ở mỗi góc độ cho chúng ta một cách
nhìn, một cảm nhận ở nhiều khía cạnh.
Trước hết là những quan điểm về tôn giáo được đánh giá từ những
mặt hạn chế. Nói đúng hơn đó là những cách nhìn nhận, đánh giá chưa toàn diện,
hoàn chỉnh về tôn giáo vì họ chưa nhìn thấy bản chất xã hội của nó. Tiêu biểu
đó là những ý kiến đánh giá của các nhà triết học trước Mác.
Từ chủ nghĩa duy tâm đa khẳng định tôn giáo như một hiện tượng
nằm ngoài hiện thực khách quan, không phụ thuộc vào hiện thực khách quan mà
là “một sức mạnh kì bí thuộc “tinh thần” tồn tại vĩnh hằng, là cái chủ yếu
đem lại sinh khí cho con người”[38, 17].
Các nhà thần học cho rằng “Tôn giáo là mối liên hệ giữa
thần thánh và con người”.
Trong các nhà triết học duy vật trước Mác, thì L.Phoiơbắc
(1804 – 1872) là người có quan điểm tiến bộ về tôn giáo, khi ông xác định được
đúng đắn mối quan hệ giữa thần thánh và con người. Ông cho rằng: “không phải
thượng đế sáng tạo ra con người mà ngược lại, chính con người đã sáng tạo ra
thượng đế theo mẫu hình của mình”[33, 18]. Tuy nhiên với sự tiến bộ này ông vẫn
không nhìn thấy bản chất xã hội của tôn giáo. Hạn chế này cũng bộc lộ rõ ở quan
điểm của nhà phân tâm học người Áo Singmund Freud (1856 -1939) – người xem hình
thức tôn giáo đầu tiên là tô tem giáo, xác định: “Tôn giáo là sản phẩm của
vô thức, là “sự thăng hoa”, “niềm hân hoan” của người nguyên thủy trong tục “ăn
thịt vật tổ”.
Như vậy, với những cách nhìn nhận, đánh giá còn hạn chế như
trên đã không cho chúng ta thấy được bản chất đích thực của tôn giáo.
Sau này khi khoa học ngày càng phát triển, quan điểm Mácxit về
Tôn giáo, với cái nhìn biện chứng đã khẳng định, tôn giáo không phải là sản phẩm
của thần thánh, là cái siêu nhiên, thần bí mà là sản phẩm của xã hội. Tôn giáo
là hiện tượng thuộc đời sống tinh thần của xã hội chịu sự quy định của đời sống
vật chất. C.Mác cho rằng không phải tôn giáo sáng tạo ra con người mà chính con
người sáng tạo ra tôn giáo, “tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của
con người chưa tìm được bản thân mình hoặc đã lại để mất bản thân mình một lần
nữa”, chính vì vậy mà “tôn giáo biến bản chất con người thành tính hiện thực
ảo tưởng, vì bản chất con người không có tính hiện thực thật sự… Tôn giáo là tiếng
thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim,
nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của
nhân dân”[21, 570]. Như vậy, bản chất xã hội của tôn giáo đến đây đã được làm
sáng rõ.
Còn Ph.Ăngghen trong công trình nghiên cứu của mình đã làm rõ
bản chất của tôn giáo trên cơ sở xem tôn giáo như là một hình thái ý thức xã hội,
vì thế với ông Tôn giáo như là một sự phản ánh hư ảo về thế giới bên ngoài nhằm
đền bù cho những bất lực của con người trong cuộc sống hàng ngày.
Trong quá trình tìm hiểu, đánh giá dựa trên nhiều điểm nhìn
khác nhau, chúng tôi có thể đưa ra một vài nhận định về tôn giáo - một lĩnh vực
hết sức phức tạp trong đời sống tâm linh của con người. Để có thể hiểu đầy đủ về
tôn giáo cần phải chú ý:
Thứ nhất, Khi nói đến tôn giáo, dù theo ý nghĩa hay cách biểu
hiện nào thì luôn luôn phải đề cập đến vấn đề hai thế giới: thế giới hiện hữu
và thế giới phi hiện hữu, thế giới của người sống và thế giới sau khi chết, thế
giới của những vật thể hữu hình và vô hình. Cả hai thế giới ấy luôn tồn tại
xung quanh cuộc sống con người
Thứ hai, Trong đời sống xã hội có những hiện tượng phức tạp
mà con người không thể giải thích được, con người hướng những điều không thể lí
giải đó đến với niềm tin tâm linh vào thần thánh. Tôn giáo là nơi thể hiện sự gắn
kết giữa con người với thần linh. Tôn giáo không chỉ là những sự bất lực của
con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên và xã hội, do thiếu hiểu biết dẫn đến
sợ hãi và tự đánh mất mình do đó phải dựa vào thánh thần mà còn hướng con người
đến một hy vọng tuyệt đối, một cuộc đời thánh thiện, mang tính “Hoàng kim
nguyên thủy”, một cuộc đời mà quá khứ, hiện tại, tương lai cùng chung sống. Nó
gieo niềm hi vọng vào con người, dù có phần ảo tưởng để yên tâm, tin tưởng để sống
và phải sống trong một thế giới trần gian có nhiều bất công và khổ ải.
Như vậy, Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên,
vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động
qua lại một cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế
giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời
kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý - văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng
tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của
từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau.
Bên cạnh cách hiểu về nội hàm khái niệm, thì khi nói về tôn
giáo chúng ta không thể không nhắc tới tác động to lớn của nó lên đời sống con
người, đây chính là điều làm nên sức sống vĩnh hằng của tôn giáo trong quá
trình đi lên của xã hội. Tôn giáo có vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống
con người mà trước hết là sự giải thoát về mặt tâm hồn. Trong cuộc sống, những
trạng thái thái tâm lí mang tính tiêu cực như cô đơn, bất hạnh, đau khổ, nỗi
kinh hoàng, sợ hãi, chán chường dễ dẫn con người đến với tôn giáo để mong được
sự an ủi, che chở, cứu giúp. Tôn giáo như “thuốc phiện” làm giảm nỗi đau khổ của
con người trong cuộc sống hiện thực. Mặc dù chỉ là “hạnh phúc hư ảo”, “mặt trời
hoang tưởng” xoay xung quanh con người nhưng tôn giáo hấp dẫn kì lạ. Tôn giáo
nhiều khi là phương tiện khá hữu hiệu giúp con người cân bằng sự hẫng hụt tâm
lí, giải thoát nỗi cô đơn, bất hạnh diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Bởi
trong đời sống mà con người đang tồn tại, con người không chỉ tiếp xúc với cái
hiện hữu mà còn tiếp xúc với cả vô số những cái vô hình, trừu tượng, không thể
lí giải được bằng lí trí, mà chỉ có thể cảm nhận bằng tâm thức, linh cảm. Trong
thế giới của tâm thức và linh cảm đó, chỉ có niềm tin vào đấng siêu nhiên, cứu
giúp của thần thánh mới có thể giúp con người lí giải những điều khó hiểu và vượt
qua được những trở ngại trong cuộc sống. Với tinh thần tự nguyện, những khoảnh
khắc mà con người sống với tôn giáo là lúc tâm hồn họ cảm thấy thanh thản, thoải
mái nhất.
Thứ hai, trong xã hội hiện đại, khi cuộc sống ngày càng phức
tạp, tôn giáo trở thành điểm tựa vô cùng quan trọng trong việc hoàn thiện điều
chỉnh nhân cách con người. Ý thức tôn giáo có thể được xem là những phương thức
giúp con người cân bằng, điều hòa tâm lý, tình cảm, cấu trúc nhân cách. Như
chúng ta đã biết, ý thức tôn giáo thường gắn liền với những linh cảm, tâm cảm,
những hiện tượng tâm lí chập chờn giữa hai vùng ý thức và vô thức, tiềm thức.
Xã hội hiện đại với cơ chế vận hành mang tính duy lí cao độ có xu hướng
biến con người thành một thực thể trừu tượng, máy móc, đôi khi là sự vô cảm, lạnh
nhạt trong đời sống tinh thần. Việc duy trì cõi phi duy lí đầy bí mật – một thế
giới nằm ngoài thế giới thực tại mà ở đó không có những sự khắt khe, công thức
duy lí, sẽ là một “liều thuốc” tốt giúp hạn chế, ngăn chặn những hành vi đạo đức,
thể hiện “tâm hồn con người đã chết”, đó là những con người cạn kiệt về nhân
cách, phẩm chất người. Điều này đã được PGS.TS.Nguyễn Hồng Dương – viện trưởng
viện nghiên cứu tôn giáo đã khẳng định trong một chuyên khảo về tôn giáo: “Tôn
giáo nào cũng khuyên con người – tín đồ, làm lành, lánh dữ, tích đức, hành thiện,
yêu người, cho người đói ăn, cho kẻ khát uống. Tôn giáo dạy con người tu thân,
tề gia, đưa ra những chuẩn mực trong quan hệ vua – tôi, cha – con, vợ - chồng,
thầy – trò. Hầu hết các nội dung trên là những lời răn dạy của đấng sáng tạo
tôn giáo (chúa trời, phật, thánh Ala), trở thành quy chuẩn, mô phạm điều chỉnh
hành vi của con người, tín đồ”[20, 3]. Chính vì vậy mà chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn tỏ thái độ tôn trọng và đề cao vai trò của tôn giáo và người sáng lập tôn
giáo: “Mục đích cao cả của Phật Thích Ca và Chúa Giê Su đều giống nhau.
Thích Ca và Giê Su đều muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế
giới đại đồng”.
Mặt khác, trong sự tác động của tôn giáo lên đời sống con người
bên cạnh những mặt tích cực vừa nói ở trên thì vẫn còn tồn tại những hạn chế,
tiêu cực. Trước hết, khi con người coi tôn giáo như là một sự “đền bù hư ảo”
thì sẽ làm giảm đi ý chí, nghị lực của con người, hạn chế sự phát triển của tư
duy khoa học, tạo nên thái độ sống nhẫn nhục. Niềm tin tâm linh không phải là
điểm tựa để con người cố gắng mà họ lại tin tưởng thái quá vào sự cứu giúp của
thần thánh hạn chế sự phấn đấu của bản thân để vượt qua những khó khăn, thử
thách của cuộc sống, con người không có ý thức chủ động, tích cực xây dựng cuộc
sống hạnh phúc nơi trần gian mà lại hi vọng ở một cuộc sống sau khi chết. Thứ
hai, Nhiều khi tôn giáo là thứ rượu mạnh, là men say dễ cho con người ta có
thái độ mù quáng và hành vi cuồng tín, con người dễ lâm vào tình trạng mê tín dị
đoan. Tôn giáo còn bị một số người lợi dụng để cầu lợi. Họ biến không gian tôn
giáo linh thiêng thành nơi buôn thần bán thánh. Ở nước ta, tự do tín ngưỡng và
tự do không gian tín ngưỡng là quyền của mỗi công dân, nên những kẻ xấu và các
thế lực thù địch đã lợi dụng để chống phá nước ta.
Tuy nhiên với những hạn chế kể trên không hề làm giảm đi những
giá trị to lớn mà tôn giáo mang lại trong cuộc sống con người, nó chỉ góp phần
tạo nên sự hoàn thiện, đa diện trong cách nhìn nhận, đánh giá về tôn giáo.
Như vậy, tôn giáo với tất cả những cách hiểu, cách đánh giá
khác nhau trong một bức tranh đầy đủ gồm cả những mặt mạnh và mặt yếu đã làm
nên sự đa diện nhưng cũng không kém phần phức tạp. Trong quá trình vận động và
đi lên của xã hội tôn giáo sẽ mãi là một thành phần góp nên “tiếng nói tích cực”
vào sự phát triển toàn diện của xã hội.
1.1.2. Cảm hứng tôn giáo
Khởi nguồn cho sự đam mê để làm nên thành công không thể thiếu
đi cảm hứng sáng tạo. Trong từ điển thuật ngữ văn học đã khẳng định, cảm hứng
chính là: “Trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm, xuyên suốt tác phẩm nghệ
thuật, gắn liền với tư tưởng xác định một sự đánh giá nhất định gây tác động đến
cảm xúc của những người tiếp nhận” [5, 45]. Có thể nói, cảm hứng là một yếu
tố quyết định trong những công trình nghệ thuật, nghệ thuật đích thực bắt nguồn
từ những cảm hứng nảy sinh trong những điều kiện cụ thể. Cũng như, quá trình
sáng tạo của nhà văn bắt đầu từ khi nảy sinh những dự đồ rồi sau đó là quá
trình nảy sinh những quan niệm mang tư tưởng sáng tạo của tác phẩm văn học. Những
tư tưởng ấy gắn liền với sự thụ cảm của nhà văn với cuộc sống dưới hình thức cảm
xúc. Cảm hứng là một trạng thái hưng phấn cao độ của người nghệ sĩ do việc chiếm
lĩnh được bản chất đối tượng mà họ phản ánh. Khi ấy những tia chớp sáng tạo sẽ
bùng cháy những chất liệu hiện thực. Đó chính là những giây phút thăng hoa của
tư duy sáng tạo trong người nghệ sĩ, hay nói khác đi cảm hứng bao giờ cũng gắn
với tính nghệ thuật dù tự giác hay không tự giác.
Cảm hứng nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ đời
sống chân chính, phải “sống hết mình” với cuộc sống thiên nhiên, cuộc sống con
người thì mới có những cảm xúc mãnh liệt, sâu sắc và chân thật. Tuy nhiên, cảm
hứng tự nó chưa phải là tác phẩm mà còn phải nhờ vào tài năng của người nghệ
sĩ: “biết rút ra được từ trong cả một khối kiến thức và ấn tượng những sự
việc, những hình tượng, những chi tiết đập vào trí người nhất, điển hình nhất
và phú cho chúng những lời hết sức chính xác, rực rỡ truyền cảm” (Theo
M.Gorki)
Cảm hứng đưa người làm thơ đến với thơ và rung động thơ thật
sự, nhưng để làm nên sức sống của tác phẩm, người nghệ sĩ không chỉ rung động với
mình mà còn phải truyền sự rung động đó đến với người đọc, tạo sự truyền cảm đặc
biệt. Khi nói cảm hứng là chân thực bởi vì cảm hứng đó xuất phát từ tiếng hát
chân thực của trái tim mới tìm con đường nhanh nhất đến với trái tim độc giả mà
thôi.
Nghiên cứu cảm hứng nói chung, đặc biệt cảm hứng tôn giáo
trong thơ, đã cho chúng ta một cái nhìn đầy đủ về đối tượng mà người nghệ sĩ
quan tâm, cũng như toàn bộ xúc động, suy tư của người nghệ sĩ ấy trước đối tượng.
Xét cho cùng, các cảm hứng đều được nảy sinh trong ý thức con người, tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp lên tâm hồn của người nghệ sĩ làm nảy sinh những tình
cảm chân thành. Cảm hứng sáng tác vừa là cuộc hành trình nhọc nhằn, vừa là sự
nghỉ ngơi thư thái trong tâm hồn nghệ sĩ, nó buộc người nghệ sĩ vào trạng thái
lao động nghiêm túc, cẩn trọng bằng niềm say mê, bằng tất cả niềm hứng khởi.
Chính vì thế, khi tiếp xúc với tôn giáo – một thế giới tâm linh đầy huyền bí,
nâng giấc tâm hồn người nghệ sĩ với những khát khao được chinh phục, khám phá
những ngọn nguồn sâu kín. Trong thế giới tâm linh đầy phức tạp ấy, cách nhìn nhận,
thể hiện của người nghệ sĩ rất đa dạng nhưng tựu chung đều muốn vươn tới miền
tâm thức phi hiện thực.
Vì vậy, khi nói tới cảm hứng tôn giáo chính là đang chỉ cái hứng
thú mãnh liệt ở người nghệ sĩ hướng về tôn giáo. Điều này nghiêng về phía chủ
quan của người nghệ sĩ, đó cũng chính là cái tiềm ẩn trong tâm hồn nghệ sĩ với
khả năng rung động trước cái đẹp và khát khao được khám phá, sáng tạo. Cảm hứng
tôn giáo chính là hướng tới tôn giáo như một nền tảng chi phối thế giới nghệ
thuật trong công trình mà người nghệ sĩ dày công tạo dựng. Đồng thời để hiểu rõ
hơn về cảm hứng tôn giáo dựa trên cách hiểu về các thuật ngữ, chúng ta có thể
khẳng định, Cảm hứng tôn giáo được hiểu là một trong những nguồn cảm hứng
lớn của sáng tạo nghệ thuật, trong đó chủ thể nghệ sĩ tiếp cận thực tại bằng điểm
nhìn tâm linh và bình diện tôn giáo của thực tại chiếm trọn suy cảm của nghệ sĩ.
Khác với hiện thực đang tồn tại, trong quá trình sáng tạo nhà văn có thể xây dựng
hiện thực hoàn toàn hư cấu, tưởng tượng, thế giới hình tượng hiện lên đắm trong
sắc màu của thế giới tâm linh, tâm tưởng. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc khẳng
định cảm hứng tôn giáo sẽ ứng với những phương thức sáng tạo riêng, những giọng
điệu riêng mang màu sắc tôn giáo. Cảm hứng tôn giáo lấy các vấn đề tôn giáo làm
điểm đến nhưng cái đích vươn tới không phải đơn thuần là soi sáng thế giới tâm
linh mà quan trọng hơn là đi sâu vào thế giới ấy để giúp con người nhìn
nhận lại cuộc sống, khẳng định lại chính mình. Có thể nói, khi tôn giáo là nguồn
cảm hứng say mê và nung nấu tâm can của người nghệ sĩ thì đó sẽ là ngọn lửa, là
kim chỉ nam để người nghệ sĩ có thể chạm tới những điều mà lớp màn hiện thực
khó phân giải, để thế giới ấy được tái hiện sinh động hơn, đặc sắc hơn. Trong
thi phẩm, cảm hứng tôn giáo lắng sâu trong từng ngôn ngữ, giọng điệu, thấm đượm
trong hình tượng, giống như là cách mà người nghệ sĩ đối thoại với chính mình
và với thế giới.
Ở Mai Văn Phấn, dù là con chiên của đạo Thiên Chúa, nhưng tâm
hồn ông không hề giành riêng cho bức tường thành Thiên chúa, bởi trong con người
ấy không hề có sự phân biệt giữa tôn giáo mình và tôn giáo người. Mai Văn Phấn
không hề dè dặt trong việc đem những từ ngữ, hình ảnh của nhiều tôn giáo khác
nhau vào trong thơ mình, đặc biệt là ngôn ngữ của đạo Phật. Cảm hứng tôn giáo
mang tính chất hỗn giao thể hiện rõ trong sáng tác của ông, càng về những sáng
tác ở giai đoạn sau dấu ấn này ngày càng in đậm. Tôn giáo của Mai Văn Phấn là cảm
quan, cảm xúc về những điều thiêng, về cái đẹp hiện tồn và linh ẩn trong cõi thế
tục, là khát vọng lý tưởng tìm đến Chân - Thiện - Mỹ trong hành trình sáng tạo của
ông.
1.2. Cảm hứng tôn giáo trong văn học Việt Nam
1.2.1. Mối quan hệ giữa tôn giáo và thi ca
Từ xa xưa, tôn giáo và thi ca có mối quan hệ gắn bó máu thịt
với nhau, cùng hướng tới thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người, tuy cách thể
hiện có khác nhau nhưng nhìn chung cả hai đều tìm đến với lối tư duy có sự tham
gia của cảm xúc, tưởng tượng đồng thời dựa nhiều vào hình tượng tôn giáo và thơ
ca đã từng thống nhất, hòa quyện vào nhau trong tư duy nguyên hợp của con người
cổ đại. Không ít nhà nghiên cứu đã nhận định rằng, những bài thơ đầu tiên của
nhân loại có lẽ là những bài ca nghi lễ, những lời xưng tụng thần linh. Ở những
buổi đầu sơ khai ấy giữa con người và thần linh có mối quan hệ gần gũi và để thể
hiện mối liên hệ đó trong năng lực sáng tạo của mình con người đã đưa tôn giáo
vào thơ ca một cách linh hoạt. Có nhiều nhà nghiên cứu đã xem thơ ca như một thứ
tôn giáo giúp thanh lọc tâm hồn con người, cứu rỗi con người trong một thế giới
đầy tội lỗi. Họ đến với nghệ thuật bằng một niềm tin thiêng liêng – niềm tin
tôn giáo và như được khai sáng dưới ánh sáng của đức tin màu nhiệm. Vì thế,
không chỉ những nghệ sĩ là môn đồ của một tôn giáo cụ thể mới có thể làm nên được
những vần thơ tôn giáo, mà cả những nghệ sĩ không là môn đồ của một tôn giáo
nào cũng làm nên những tác phẩm tôn giáo tuyệt diệu chỉ cần họ là người có “tín
tâm”. Điều này đã được TS. Chu Văn Sơn xác định ở dạng thức thứ hai của thơ tôn
giáo, đó là dạng ẩn chìm “kẻ viết có tín tâm nhưng không hề là tín đồ của
bất cứ giáo phái hiện hành nào, tôn giáo chỉ đơn thuần như một cảm quan, một
cái nhìn nghệ thuật về thực tại. Nó tồn tại trong thơ và bằng thơ, chứ không thể
xé rào ra ngoài thơ để thành tôn giáo của thế tục. Rabindranath Tagore gọi đó
là “tôn giáo của nhà thơ” [39, 2].
Như vậy, thơ ca và tôn giáo đều song tồn trong thế giới tâm
linh, tưởng tượng, dựa vào lý trí và cảm xúc để tác động vào người tiếp nhận.
Hơn nữa dù là tình cảm tôn giáo hay tình cảm thẩm mỹ của văn học nghệ thuật đều
nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh, là nơi gửi gắm tinh thần của con người. Tất
nhiên tình cảm tôn giáo và tình cảm thẩm mỹ không phải là một. Con người xuất
phát từ niềm tin thiêng liêng với sự kính tín, tín ngưỡng nên mới có tôn giáo
(Religion). Tôn giáo tồn tại và hiện diện là do con người sáng lập ra và vì con
người. Vì vậy chủ nghĩa nhân văn tôn giáo là nguồn cảm hứng cho văn học nói
chung, đặc biệt thơ ca, đồng cảm với con người trong văn chương.
Quan hệ giữa tôn giáo và thi ca còn biểu hiện ở sự nương tựa,
“cộng sinh” ảnh hưởng lẫn nhau. Tôn giáo có thể tác động đến sự chiêm nghiệm,
suy tư về cuộc đời, về con người của nhà thơ cũng như những phương thức tổ chức
thế giới nghệ thuật. Theo đó, một mặt tư duy tôn giáo ý nghĩa như một công cụ để
người nghệ sĩ “nhân loại hóa thơ mình”. Tức là nó đóng vai trò cơ chế tư tưởng
chuyển những giá trị riêng tư, cá nhân, dân tộc, khu vực thành những giá trị
chung, thế giới nhân loại. Tôn giáo đẩy mạnh khả năng suy tưởng của con người
trước những câu hỏi mang tính bản thể luận, “những vấn đề cuối cùng” (chữ của
Bakhtin) của cõi nhân sinh: Ta là ai? Sống là gì? Chết là gì? Con người tồn tại
như thế nào trong thế giới này?... Mặt khác, “tư duy tôn giáo còn là một công cụ
hữu hiệu để nâng cách cho trực giác nghệ thuật tuyệt vời của nhà thơ bay cao,
bay xa vào cõi siêu hình”. Những hình ảnh tưởng tượng kì ảo, linh diệu, những
mô típ, chủ đề, ẩn dụ, giàu sức gợi, cả giọng điệu đầy sức mê hoặc trong các
kinh điển tôn giáo qua sự sáng tạo, nhào nặn lại của thi sĩ hiện lên với một sắc
thái thẩm mỹ đặc biệt.
Đồng thời, tôn giáo như đối tượng quan tâm và mô tả của thơ
ca. Tôn giáo là nguồn cảm hứng bất tận cho sáng tạo nghệ thuật. Còn thơ ca lại
được sử dụng như một hình thức để tôn giáo thể hiện các giáo lý, giáo luật. Những
bài kinh ca, những cuốn sách ghi chép lại những triết lý tôn giáo đều được thể
hiện một cách độc đáo, sáng tạo dưới những bài thơ, những câu thơ dài ngắn khác
nhau, vừa tinh túy mà lại thể hiện được chất văn chương nhẹ nhàng. Vì vậy, có
thể nói thơ ca và tôn giáo không chỉ có quan hệ với nhau về nội dung mà còn cả
hình thức thể hiện. Nhờ thơ ca mà các hình thức của tôn giáo hiện lên sinh động
và hấp dẫn hơn, không đơn nhất. Giáo lý của tôn giáo vô cùng sâu sắc và khó hiểu
cho nên việc sử dụng những hình thức của thơ ca làm cho tôn giáo gần gũi hơn và
dễ thấu hiểu hơn. Tôn giáo còn giúp cho người nghệ sĩ cân bằng lại những khủng
hoảng về mặt tinh thần của con người trong thời đại văn minh vật chất, giúp con
người có niềm tin để sống tốt hơn.
Lịch sử thơ ca nhân loại đã ghi nhận nhiều những tên tuổi nghệ
sĩ tiếp thu sáng tạo tinh hoa của tôn giáo, tạo nên một phong cách nghệ thuật đặc
sắc, một cách nhìn nhận mới mẻ về tôn giáo. Đã từng có một Boris Pasternak
(Nga) với sự tái tạo lại những tượng trưng ky – tô giáo để thể hiện những cảm
quan sâu sắc về lịch sử, về kiếp người. Rồi đến một Kô-un (Hàn Quốc) với dòng
thơ Thiền hiện đại. Ngược dòng lịch sử, trong nền văn học Ấn Độ đã từng có một
nhà thơ vĩ đại R. Tagore – người làm lừng danh văn học châu Á với giải Nobel
cao quý. Trong thơ Tagore niềm tin vào đấng tối cao của tôn giáo mang một ý niệm
hoàn toàn mới mẻ. Thượng đế không còn trừu tượng siêu hình mà trở nên gần gũi sống
động với nhiều hình hài, dáng vẻ khác nhau. Trong nhiều bài thơ, thượng đế
đã hiện lên như một người bạn, mang lại niềm vui sống tràn đầy, bất tận, là nguồn
cảm hứng vô biên cho sáng tạo. Người có mặt ở khắp nơi, trong nỗi buồn, niềm
vui, con người đều tìm đến Người để chia sẻ… [8, 62]
Nói tóm lại, những phân tích trên đây đã phần nào cho chúng
ta thấy mối quan hệ giữa tôn giáo và thi ca hết sức phong phú, đa dạng. Nó
không chỉ ảnh hưởng trong tư tưởng, trong tư duy nghệ thuật và cả trong lối thể
hiện. Trong đó, tính chất hướng nội của tư duy và sự xuất hiện của một thế giới
biểu tượng là những đặc trưng cơ bản. Tuy nhiên, mức độ của sự giao thoa, ảnh
hưởng lại phụ thuộc nhiều vào đặc trưng thể loại, kiểu nhà thơ. Nhưng dù ở góc
độ nào chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy rằng giữa tôn giáo và thi ca có một sự gắn
kết mật thiết. Tôn giáo vừa như là một chất liệu, vừa là cái đích đến của nghệ
thuật, còn thơ ca trong vai trò hình thức thể hiện đã mang lại những sức sống mới,
những điệu hồn mới làm cho đời sống tinh thần của con người thêm phong phú và
tươi đẹp hơn. Từ đó, chúng ta có thể khẳng định, tôn giáo và nghệ thuật như đôi
cánh nâng đỡ tâm hồn con người trong suốt cuộc hành trình từ thuở hồng hoang đến
buổi hiện đại. Các dân tộc có thể khác nhau về vô vàn đặc điểm nhưng đều gặp gỡ
ở dấu ấn sâu sắc của tôn giáo và nghệ thuật, đó là hằng số chung của nhân loại.
Nói như thế không có nghĩa là tôn giáo và nghệ thuật có vị trí như nhau trong đời
sống của các dân tộc. Tùy thuộc vào dân tộc tính, vùng miền mà vai trò của hai
chiếc cánh này dài rộng, tương trợ, bổ sung và thay thế khác nhau. Nếu như đối
với người Ấn Độ “tôn giáo đọc cho văn học chép”, thì đối với dân tộc ta “thơ
chính là tôn giáo”.
1.2.2. Sơ lược về cảm hứng tôn giáo trong văn học Việt
Nam
Trong quá trình phát triển và ảnh hưởng của tôn giáo trong đời
sống nhân loại, đặc biệt là ở các lĩnh vực tinh thần đã mang lại cho nghệ thuật
thêm nguồn sống mới. Từ khi mới du nhập vào Việt Nam tôn giáo đã có những ảnh
hưởng nhất định trong đời sống của con người. Từ đó, tôn giáo đi vào thơ ca,
cũng như vào văn học nghệ thuật nói chung một cách tự nhiên, phổ biến, đó chính
là nguồn cảm hứng bất tận để các văn nghệ sĩ hướng tới. Nền văn học chân chính
là nền văn học hướng con người ta đến với sự trải nghiệm mọi cảm xúc trong đời
sống, văn học làm giàu thêm đời sống tâm hồn của con người. Cũng như vậy, tôn
giáo mở ra cho con người một thế giới khác một thế giới của đời sống tâm linh,
tâm cảm, hướng con người đến với những giá trị siêu tại. Tôn giáo đến với văn học
Việt Nam đã trải qua sự thanh lọc cho phù hợp với những tín ngưỡng dân tộc tạo
nên một sắc thái riêng, khác biệt với thứ tôn giáo chính thống lúc ban đầu. Mặt
khác, tôn giáo ảnh hưởng lên tâm hồn nhạy cảm của các nghệ sĩ cũng không thuần
nhất. Vì vậy, sự cộng hưởng trong văn học được tạo nên từ sự giao thoa của nhiều
hình thức tôn giáo khác nhau, văn học không phải chỉ thể hiện một loại tôn giáo
nhất định mà mỗi tôn giáo được thể hiện trong mỗi thời kì văn học đậm nhạt khác
nhau.
Trước hết là trong văn học dân gian, một nền văn học mang đậm
màu sắc triết lí của dân tộc. Từ thần thoại, truyện cổ tích, ca dao, tục ngữ chịu
ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng nhà phật. Có thể nói, đối với nền văn học nước
ta thì Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ, sâu rộng và lâu bền nhất. Phật
giáo là tôn giáo về con người và vì con người, hướng con người đến với tình yêu
thương bao la, mênh mông, với tư tưởng “từ bi hỷ xả” và đặc biệt hướng đến những
con người đau khổ. Trong văn học dân gian, có thể nói truyện cổ tích là bộ phận
thể hiện rõ nhất tư tưởng nhà Phật. “Thạch Sanh”, “Tấm Cám” thể hiện giáo lý
nhân quả - nghiệp báo, khuyên răn con người “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”.
Hình ảnh ông Bụt trong các câu chuyện cổ tích đã hình tượng hóa tấm lòng cưu
mang của người Việt bằng màu sắc phật giáo. Cùng với nó, thuyết luân hồi của đạo
Phật đã trở thành chỗ dựa và phương tiện nghệ thuật, giúp cho tác giả dân gian
thực hiện được ước mơ công bằng xã hội và liên tưởng thẩm mỹ một cách thuận lợi
trong trí tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng sáng tạo. Điều này được minh chứng
bằng sự kì diệu trong những tình tiết sáng tạo phi thực. Hình ảnh Tấm sống lại
sau bao lần bị tiêu diệt và hóa thân thành chim vàng anh – xoan đào – khung cửi
– cây thị, thể hiện ước mơ của nhân dân gửi gắm vào nhân vật Tấm. Tấm phải sống
để hưởng hạnh phúc, để trừng trị những kẻ thù độc ác và mẹ con Tấm Cám nhất định
phải đền tội. Đó cũng là quan niệm thiện ác và tinh thần lạc quan, niềm tin vào
chân lý và công bằng của tâm thức người Việt trong truyện cổ tích. Cùng với
truyện cổ tích, tục ngữ Việt Nam có nhiều giá trị nhân bản rút từ tư tưởng nhà
Phật. Những kinh nghiệm về nhân sinh của dân tộc Việt Nam biểu hiện ở tục ngữ
tiềm tang màu sắc phật giáo, chứa đựng triết lý nhân quả luân hồi nghiệp báo và
cả về đức từ - bi – hỷ - xả. Nhìn chung, luân lý Phật giáo trong tục ngữ dễ hiểu,
dễ cảm nhận, dạy con người biết sống đời sống tốt lành, lương thiện, “gần
mực thì đen gần đèn thì rạng”, “thương người như thể thương thân”. Tinh thần
Phật giáo trong tục ngữ là tổng hợp kết tinh của những triết lý dân gian có ý
nghĩa nhân sinh cao đẹp thấm đượm tình người. Nguyên lý cao đẹp của Phật giáo
trong tục ngữ nhằm thể hiện khát vọng của con người bình dân trong cuộc sống.
Như vậy, trong quan hệ ảnh hưởng với tinh thần phật giáo ta
thấy ít nhiều văn học dân gian đã phản ánh một thái độ sống, có một sức tác động
mãnh liệt trong đời sống tín ngưỡng, tạo nên một sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bản
sắc dân tộc và tinh thần Phật giáo.
Đến văn học trung đại, trong văn hóa nói chung, đặc biệt
trong văn học với hiện tượng “tam giáo đồng nguyên” (Nho – Phật – Đạo), khiến
cho thơ văn thời trung đại thấm đẫm tinh thần tôn giáo. Thời kì đầu, Phật giáo
vẫn là tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Lịch sử văn học trung đại Việt Nam
phải kể đến những vẻ đẹp kết tinh từ Phật giáo với văn chương. Biết bao kiệt
tác của cha ông chuyên chở tinh thần nhân văn của đạo Phật, phản ánh niềm tin,
khát vọng cao cả của con người. Trong thời kì văn học trung đại, thơ ca Lý –Trần
luôn được nhắc đến như một sự thăng hoa của tinh thần Phật giáo. Với mạch nguồn
cảm hứng từ giáo lý Thiền tông vô cùng đa dạng và phong phú, thơ Thiền đã thể
hiện rõ vai trò của loại hình thơ chức năng: giái tỏa sự bừng ngộ và tạo ra sự
trợ lực nhằm giác gộ thi nhân. Nhờ đạo Phật với các bia chùa, sách “Thiền uyển
tập anh” đã lưu giữ phần nào các tác phẩm quý giá của văn học Lý Trần. Vì vậy,
đạo Phật đã đóng góp công trạng cực kì quan trọng đối với sự phát triển cũng
như sự bảo tồn của văn học nước nhà. Đến giai đoạn sau, từ truyện Kiều của Nguyễn
Du, đến “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều… đều thấm đẫm tinh thần, giáo
lý Phật giáo. Đặc biệt với “Cung oán ngâm khúc” là tác phẩm chữ Nôm nổi tiếng,
tác phẩm này cho thấy tâm tư của tác giả không chỉ thâm nhập ý tưởng siêu thoát
của Phật – Lão mà còn bị níu kéo bởi triết lí nhập thế tích cực của nho giáo.
Giai đoạn tiếp theo khoảng thế kỉ XV đến thế kỉ XIX, văn học trung đại Việt Nam
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ hơn cả từ Nho giáo. Nho giáo ảnh hưởng tới văn học Việt
Nam với tư cách là một học thuyết tức là các quan điểm về thế giới, xã hội, con
người, lý tưởng… Nho giáo một mặt khích lệ sự phát triển của văn chương khi tư
tưởng Nho gia đề cao người có học, đề cao kẻ làm văn chương, mặt khác Nho giáo
cũng kìm hãm nặng nề sự phát triển của văn học Nho giáo hình dung xã hội trong
khuôn khổ của tam cương ngũ thường, đòi hỏi con người phải có trách nhiệm, có
tình nghĩa… đã chi phối đến cảm xúc, cách suy nghĩ làm cho vấn đề được con người
quan tâm hàng đầu là đạo đức. Hơn nữa, quan niệm của Nho giáo coi văn chương là
để giáo hóa, có quan hệ với thế đạo, nhân tâm, phải có nội dung đạo lý. Nho
giáo hướng văn học vào truyền đạt đạo lý chứ không phải để tả và kể, phản ánh
hiện thực.
Thời kỳ văn học Việt Nam hiện đại, khi xã hội ngày càng phát
triển, sự giao lưu, tiếp nhận ngày càng phong phú thì những luồng gió mới từ
phương Tây đã mang đến cho nền văn hóa Việt Nam thêm nhiều điều mới mẻ. Tôn
giáo trong văn học Việt Nam không còn là sự độc tôn của một dòng tôn giáo nào
mà bắt đầu có sự hỗn giao của nhiều loại hình tôn giáo trong sáng tác của các
nhà văn, nhà thơ. Một nền văn học tiếp thu và chịu ảnh hưởng của các tôn giáo
không chỉ là từ Nho giáo, Phật giáo mà cả Thiên chúa giáo trên cơ sở tiếp thu
có chọn lọc. Viết về tôn giáo ở Việt Nam các tác phẩm các tác phẩm chứa đựng
nhiều yếu tố nhân sinh, thể hiện sự am hiểu giáo lý tôn giáo. Do vậy, văn học
viết về tôn giáo luôn là nguồn chất liệu để các nhà thơ, nhà văn khai thác.
Trong đó, đáng kể nhất phải nói đến ở giai đoạn này là ánh sáng của Thiên chúa
giáo đến từ phương Tây du nhập vào nước ta và nhanh chóng chiếm lĩnh đời sống
tâm linh sâu kín, nhanh chóng trở thành chỗ dựa tinh thần to lớn để xoa dịu những
nỗi đau cho con người. Hàn Mặc Tử - con người của những nỗi đau đớn, cô đơn tận
cùng đã đến với tôn giáo trong tâm thức của một “kẻ có tín tâm”. Hàn Mặc Tử đã
sống Đạo, chết Đạo và sáng tác thơ Đạo một cách tha thiết khiến nhiều người cho
Hàn Mặc Tử là một “nhà thơ tôn giáo”, nhưng ông đã vượt hẳn lên cái mục đích
“truyền bá đức tin” và người thi sĩ ấy đến với tôn giáo một cách rất tự nhiên.
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã khẳng định: “Thơ tôn giáo đã ra đời với Hàn
Mặc Tử. Tôi giám chắc rồi đây còn nhiều thi sĩ Việt Nam sẽ tìm nguồn cảm hứng
trong Đạo giáo và đưa thi ca vào con đường triết học, con đường rất mới, rất xa
xăm mà đến nay chưa mấy nhà thơ nào giám bước tới”. Nhận định mang ý nghĩa tiên
tri này đã thể hiện sự linh ứng, khi càng về các giai đoạn sau các văn nghệ sĩ
theo cách riêng của mình đã sử dụng tôn giáo như một nguồn cảm hứng vô biên để
tạo nên những tác phẩm có giá trị không chỉ trong thơ mà cả ở văn xuôi. Nguyễn
Xuân Khánh với “Mẫu thượng ngàn” và “Đội gạo lên chùa”, qua sự ảnh hưởng và cái
nhìn của Nho, Phật và đạo Mẫu Việt Nam, ánh sáng của tôn giáo như được thổi
thêm một hồn sống mới, thể hiện bút lực dồi dào và một tâm hồn nhạy cảm của nhà
văn.
Tính chất hỗn giao của tôn giáo trong tâm hồn thi sĩ thể hiện
rõ hơn trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà. Thể hiện một cách khám phá đời sống và
con người theo một chiều hướng sâu sắc hơn. Khám phá con người ở chiều sâu bên
trong, con người tinh thần, con người tâm linh, phát hiện ra những băn khoăn,
day dứt, khủng hoảng tinh thần mà con người phải đối diện trong một xã hội mà
các bảng thang giá trị đều bị đảo lộn. Đến Nguyễn Quang Thiều, xuất phát từ thi
nhãn tôn giáo của nhà thơ, ông đã mang đến một thế giới hình tượng thấm đẫm cảnh
quan tôn giáo. Để thể hiện tôn giáo trong sáng tác của mình, Nguyễn Quang Thiều
đã “kì bí hóa sự sống, linh thiêng hóa cái đẹp, nghi lễ hóa sự kiện trữ
tình và long trọng hóa phát ngôn”.
Trong dòng xoáy phát triển của văn học hiện đại, Mai Văn Phấn
đã góp phần làm khuấy động sự im lặng trong làng thơ Việt Nam. Với nền tảng của
một con chiên Thiên chúa giáo, cùng với sự đam mê, yêu thích đối với đạo Phật
và sự am hiểu nhiều tôn giáo khác, Mai Văn Phấn đã mang đến nhiều sự sáng tạo,
thể hiện độc đáo trong cách nhìn về tôn giáo. Dù được sinh ra trong gia đình
theo đạo Thiên chúa, từ bé ông đã rất ngoan đạo, nhưng lớn lên khi gặp đạo Phật,
ông đã rất mê triết lí của Phật giáo, thấy đạo Phật rất gần với dân tộc Việt
Nam. Mai Văn Phấn cũng là người nghiên cứu sâu về các tôn giáo khác như đạo Hồi,
đạo Hin đu, đạo Mẫu của người Việt Nam. Vì vậy, thơ Mai Văn Phấn không dùng để
làm phương tiện phát ngôn cho một tôn giáo nhất định nào cả, cũng không phải là
hệ thống giáo lý được trữ tình hóa. Mà đó là một thế giới nghệ thuật đa sắc
màu, mang những quan niệm, những nhận thức riêng của Mai Văn Phấn về tôn giáo.
Trong đó, thi sĩ thể hiện “tín tâm” với tất cả tôn giáo, ở đó ông luôn định
hình các sự vật, hiện tượng bằng cách nhìn nhận chúng trong nhiều chiều kích
khác nhau. Bằng ngòi bút tài hoa, uyên bác và một trái tim nhạy cảm của người
nghệ sĩ, Mai Văn Phấn đã góp thêm vào làng thơ một mĩ quan mới về tôn giáo, khẳng
định một lần nữa mạch nguồn tôn giáo là vô tận trong thế giới diệu kì mà thơ ca
hướng đến. Để từ đó, Mai Văn Phấn xác định một trường thẩm mỹ mới, một tư tưởng
nhất quán về tôn giáo rằng, thượng đế chỉ có một, tất cả các tôn giáo đều có
chung mục đích đưa con người đến bến thiện, dạy họ ăn ngay ở lành. Khác nhau ở
các tôn giáo chỉ là quan niệm sống, hành lễ, phong tục mà thôi… Là một nhà thơ,
Mai Văn Phấn có quan niệm riêng về tôn giáo theo kiểu thi sĩ nữa.
1.3. Sự hình thành cảm hứng tôn giáo trong thơ của Mai
Văn Phấn
1.3.1. Quê hương, gia đình – ngọn nguồn của cảm hứng tôn
giáo
Mỗi con người sinh ra đều có nơi “chôn nhau cắt rốn” của
mình, đó là nơi ấp ủ, nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi chúng ta. Ở đó, con người tiếp
nhận những bài học làm người đầu tiên để hình thành nên nhân cách mỗi người. Những
phong tục tập quán của quê hương ăn sâu trong tính cách con người, đến khi trưởng
thành dù con người có rời xa nơi ấy thì vẫn mang trong mình nếp nghĩ, lối sống
đặc trưng của nơi mình sinh ra. Vì vậy, với bất kì ai, mảnh đất quê hương luôn
luôn là thánh địa trong sâu thẳm trái tim. Đặc biệt với nhà văn, quê hương là cội
nguồn của cảm hứng sáng tạo. “Một chốn đôi quê” là điều đặc biệt mà chúng ta có
thể nói về quê hương của Mai Văn Phấn. Nhà thơ Mai Văn Phấn sinh năm 1955, tại
một làng hẻo lánh châu thổ sông Hồng thuộc địa phận Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Đó
là nơi tuổi thơ Mai Văn Phấn đi qua trong sự gắn bó với ruộng đồng, làng mạc và
những con người chân chất chân lấm tay bùn. Cuộc sống ở đó đã nuôi dưỡng tâm hồn
nhạy cảm của thi nhân, để trong thời kì học trò Mai Văn Phấn là một người yêu
thơ văn và là một học sinh giỏi văn của trường cấp 3B huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh
Bình. Quê hương đã để lại trong lòng thi sĩ những dấu ấn khó phai, đây là ngưỡng
cửa đầu tiên để thi sĩ hòa nhập với thế giới rộng lớn sau này. Đặc biệt, Kim
Sơn Vùng đất được biết đến với vai trò trung tâm của xứ đạo Phát Diệm, nay
là giáo phận Phát Diệm với mật độ dày đặc các nhà thờ công giáo, nơi có gần
80.000 giáo dân, chiếm trên 47% dân số toàn huyện, có quần thể Nhà thờ đá Phát
Diệm nổi tiếng, được mệnh danh là "kinh đô công giáo" của
Việt Nam. Trả lời câu hỏi của chúng tôi về “tâm sự của nhà thơ, khi nói về
"xóm đạo", nơi ông sinh ra và đã được ông nhắc đến trong một số bài
phỏng vấn”, Mai Văn Phấn đã thẳng thắn chia sẻ: “Tôi được sinh ra trong
gia đình theo đạo Thiên Chúa, có căn gốc từ thời tổ tiên tôi theo chân cụ Nguyễn
Công Trứ về lập ấp, dựng lên huyện Kim Sơn, Ninh Bình ngày nay. Từ khởi thuỷ,
giáo dân quê tôi đã xây dựng rất nhiều nhà thờ. Cả địa phận Phát Diệm có quần
thể nhà thờ lớn (tại thị trấn Phát Diệm), trong đó nhà thờ đá là công trình độc
đáo, được mô phỏng theo những nét kiến trúc đình chùa truyền thống của Việt Nam
với cách bài trí đăng đối, uy nghiêm mà vẫn rất hài hòa, hợp lý, đặc sắc duy nhất
ở Việt Nam. Huyện Kim Sơn có 27 nhà thờ xứ, tương đương với 27 xã theo địa giới
hành chính.
Và, hầu như mỗi thôn làng còn có nhà thờ họ, thờ thánh bản mệnh của mỗi con chiên. Tôi nhớ mãi khi mình mới lớn, chừng 5 - 6 tuổi, lần đầu tiên biết cảm nhận về thế giới gần gũi xung quanh, thì tiếng chuông nhà thờ, tiếng cầu kinh sớm tối của giáo dân, tiếng ca đoàn phối bè trong những bài thánh ca là những âm thanh huyền hoặc và cũng đầy uy lực nơi tuổi thơ bùn đất và êm đềm của tôi. Âm thanh linh thiêng, quyến rũ và bí ẩn ấy tựa như ánh sáng, như không khí thấm vào từng hơi thở, bước chân chập chững của tôi. Lúc ấy tôi chỉ biết nghĩ đơn giản rằng, mình phải sống tốt, có mọi cử chỉ cao đẹp trên thế gian này, bởi mình làm bất cứ điều gì thì Đấng-Toàn-Năng/ Tạo Hóa cũng sẽ nhìn thấy. Từ ấy tôi luôn tin có một thế giới khác nữa đang soi xét, chi phối đời sống chúng ta. Và sau này tìm đến với thơ ca, cũng là cách tôi tự mở cánh cửa riêng mình để nhìn thấy và đi vào thế giới linh thiêng, bí ẩn ấy. Tôi được bà nội dạy kinh bổn từ khi chưa biết chữ. Cứ chiều chiều, tôi cắp chiếc chiếu manh theo bà đi nhà thờ. Bà nội hay mua cho tôi chiếc bánh "khoái" (tên địa phương, bánh tráng bằng bột gạo, màu vàng, trong có tép khô). Ăn xong, tôi bình tâm ngồi đọc kinh cho hết buổi lễ. Lớn lên tôi được đọc kinh Tân ước và Cực ước, lịch sử Giáo hội, lich sử các thánh, học giáo lý... Thấy tôi ngoan đạo, bà con giáo dân trong họ đạo khuyên cha mẹ tôi nên gửi tôi vào nhà dòng để có thể tu hành sau này; nhưng khi nhận ra "con ngựa hoang' trong tâm hồn mình, thấy sự đam mê, run rẩy quá đỗi của mình với vẻ đẹp của thiên nhiên và con người... tôi đã từ chối. Sau này tôi mới ý thức được rằng: nhà tu hành và nhà thơ đi từ hai thái cực, có cách hành xử trong cõi thế tục hoàn toàn khác biệt, nhưng cùng hướng tới đích là vẻ Đẹp vĩnh cửu mà Thượng đế đã chờ sẵn ở phía trước. Nhớ lúc tôi 6 tuổi đã được cha xứ làm lễ Rửa tội. Đây là bí tích đầu tiên trong ba bí tích khai tâm đặt nền tảng cho đời sống Kitô hữu. Kể từ giây phút đó, tôi cảm thấy ánh sáng của Thiên Chúa luôn dẫn dắt, soi rọi đời sống tâm hồn tôi. Ánh sáng này được tái hiện rõ nét nhất trong các tập thơ Gọi xanh, Cầu nguyện ban mai sau này”.
Và, hầu như mỗi thôn làng còn có nhà thờ họ, thờ thánh bản mệnh của mỗi con chiên. Tôi nhớ mãi khi mình mới lớn, chừng 5 - 6 tuổi, lần đầu tiên biết cảm nhận về thế giới gần gũi xung quanh, thì tiếng chuông nhà thờ, tiếng cầu kinh sớm tối của giáo dân, tiếng ca đoàn phối bè trong những bài thánh ca là những âm thanh huyền hoặc và cũng đầy uy lực nơi tuổi thơ bùn đất và êm đềm của tôi. Âm thanh linh thiêng, quyến rũ và bí ẩn ấy tựa như ánh sáng, như không khí thấm vào từng hơi thở, bước chân chập chững của tôi. Lúc ấy tôi chỉ biết nghĩ đơn giản rằng, mình phải sống tốt, có mọi cử chỉ cao đẹp trên thế gian này, bởi mình làm bất cứ điều gì thì Đấng-Toàn-Năng/ Tạo Hóa cũng sẽ nhìn thấy. Từ ấy tôi luôn tin có một thế giới khác nữa đang soi xét, chi phối đời sống chúng ta. Và sau này tìm đến với thơ ca, cũng là cách tôi tự mở cánh cửa riêng mình để nhìn thấy và đi vào thế giới linh thiêng, bí ẩn ấy. Tôi được bà nội dạy kinh bổn từ khi chưa biết chữ. Cứ chiều chiều, tôi cắp chiếc chiếu manh theo bà đi nhà thờ. Bà nội hay mua cho tôi chiếc bánh "khoái" (tên địa phương, bánh tráng bằng bột gạo, màu vàng, trong có tép khô). Ăn xong, tôi bình tâm ngồi đọc kinh cho hết buổi lễ. Lớn lên tôi được đọc kinh Tân ước và Cực ước, lịch sử Giáo hội, lich sử các thánh, học giáo lý... Thấy tôi ngoan đạo, bà con giáo dân trong họ đạo khuyên cha mẹ tôi nên gửi tôi vào nhà dòng để có thể tu hành sau này; nhưng khi nhận ra "con ngựa hoang' trong tâm hồn mình, thấy sự đam mê, run rẩy quá đỗi của mình với vẻ đẹp của thiên nhiên và con người... tôi đã từ chối. Sau này tôi mới ý thức được rằng: nhà tu hành và nhà thơ đi từ hai thái cực, có cách hành xử trong cõi thế tục hoàn toàn khác biệt, nhưng cùng hướng tới đích là vẻ Đẹp vĩnh cửu mà Thượng đế đã chờ sẵn ở phía trước. Nhớ lúc tôi 6 tuổi đã được cha xứ làm lễ Rửa tội. Đây là bí tích đầu tiên trong ba bí tích khai tâm đặt nền tảng cho đời sống Kitô hữu. Kể từ giây phút đó, tôi cảm thấy ánh sáng của Thiên Chúa luôn dẫn dắt, soi rọi đời sống tâm hồn tôi. Ánh sáng này được tái hiện rõ nét nhất trong các tập thơ Gọi xanh, Cầu nguyện ban mai sau này”.
Chỉ qua những dòng tâm sự ngắn ngủi mà rất chân tình của nhà
thơ, chúng ta không chỉ hiểu về quê hương của Mai Văn Phấn, mà còn phần nào hé
mở về truyền thống lâu bền trong một gia đình theo đạo Thiên chúa, từ ông bà,
cha mẹ, rồi đến thế hệ của nhà thơ. Như vậy, dấu ấn của thiên chúa giáo in đậm
trong các sáng tác của Mai Văn Phấn trong những giai đoạn đầu là điều dễ hiểu.
Quê hương thứ hai của Mai Văn Phấn, là mảnh đất lãng mạn của
những con sóng biển dạt dào và những làn gió mát trong lành. Hải Phòng - nơi
Mai Văn Phấn đã định cư hơn 20 năm. Dẫu Mai Văn Phấn chẳng sinh ra ở đây, nhưng
hồn thơ lúc nào cũng đầy ắp gió biển, rất ngang tàng và phóng dật. Chủ nhân của
những câu thơ có nhịp và không nhịp, nhịp sóng, nhịp thời gian, nhịp đời sống...
Mỗi con sóng tự làm mới mình sau mỗi lần vươn tới. Ấy cũng là nét đặc trưng của
thơ Mai Văn Phấn. Phong vị Hải Phòng có “trầm sâu của tinh tế Hà Thành, có
chân chất đằm thắm sen nhãn khoai lúa của châu thổ sông Hồng, và gân guốc vạm vỡ
vầng ngực thủy thủ trên mũi tàu hững bão” (Ý của Nguyễn Tham Thiện Kế).
Khí chất ấy, cũng hiện diện trong thơ Mai Văn Phấn.
Thành phố Cảng, nơi đầu sóng ngọn gió, với những chùm hoa phượng
đỏ rực cả góc trời, là nguồn cảm hứng sáng tạo dồi dào của bao nhà văn, nghệ
sĩ. Sẽ là khập khiễng, nếu đem so sánh văn học Hải Phòng với các trung tâm văn
học lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế. Song, không vì thế mà văn học Hải
Phòng không mang trong mình những nét riêng, độc đáo, là cá tính của đất và người
nơi đây, mang hơi thở của biển cả, của những con người ăn sóng nói gió… Trong
suốt chặng đường dài của lịch sử, chúng ta có thể tự hào khẳng định truyền thống
thơ và văn học nói chung của Hải Phòng, thời nào cũng có những tác giả xuất sắc,
chẳng những làm sáng đẹp đất Cảng mà còn đóng góp vào sự nghiệp văn học Việt
Nam, tiêu biểu như Thế Lữ, Văn Cao, Nguyên Hồng, Thi Hoàng, Thanh Tùng, Đồng Đức
Bốn, Mai Văn Phấn. Tên tuổi và sáng tác của những người nghệ sĩ, mãi mãi là những
bông hoa đẹp trong vườn hoa đầy hương sắc của nền văn học nước nhà.
Như đã nói ở trên, từ tâm sự của Mai Văn Phấn đã hé mở ở người
thơ ấy còn có một nền tảng gia đình vững chắc đủ để chắp cánh cho những ước mơ
nơi ông được vươn cao và xa hơn nữa. Mai Văn Phấn được sinh ra trong một gia
đình nhiều thế hệ là con chiên của đạo Thiên chúa. Đây chính là căn cốt làm nên
chất tôn giáo trong thơ của ông. Một hồn thơ luôn hướng tới thế giới của những
vẻ đẹp huyền bí mà cũng hết sức tinh khiết và đẹp đẽ. Nhưng, để tôn giáo trong
thơ ông trở nên đa diện và đa sắc hơn phải kể đến “tình yêu” của thi sĩ, đó
cũng chính là người luôn bên cạnh giúp sức và ủng hộ ông rất nhiều trong suốt
hành trình sáng tác. Trong bài “Mai Văn Phấn: vượt thoát về phía trong
veo”, nhà thơ Nguyễn Hiệp đã ghi lại tâm sự của ông: “tôi sinh ra
trong một gia đình theo đạo thiên chúa, từ nhỏ tôi rất ngoan đạo, thuộc kinh bổn,
thông thạo kinh Tân ước và Cựu ước, các sách thánh, mê hát thánh ca… Sau này
khi du học ở Liên Xô cũ (1983 – 1984), tôi đã gặp vợ tôi bây giờ, một người
theo đạo Phật. Tôi đã đến với Phật giáo bằng tình yêu và cả sự chiều chuộng người
tôi yêu nữa. Khi nghiên cứu các giáo lí của các tôn giáo lớn trên thế giới, tôi
nhận ra rằng: Thượng đế chỉ có một. Và, chắc chắn chúng ta được sinh ra và bị
cho phối bởi một Đấng – Toàn – Năng. Đấng – Toàn – Năng cho con người biết được
gần đúng khuôn mặt và tinh thần của Ngài thông qua các hình thức tôn giáo mà
thôi…” [10, 1]. Từ đó có thể thấy, chính nền tảng quê hương và gia đình vững
chắc đã hun đúc trong tâm hồn của người thi sĩ ấy bắt đầu chạm đến vẻ đẹp giao hòa
giữa nhiều tôn giáo khác nhau, để rồi nhà thơ tìm đến với một chân lí và cũng
là quan điểm sáng tác của mình rằng, “Thượng đế chỉ có một, tất cả các tôn
giáo đều chung một mục đích đưa con người ta đến bến thiện, dạy họ ăn ngay ở
lành. Khác nhau giữa các tôn giáo chỉ là quan điểm sống, hành lễ, phong tục mà
thôi…”.
1.3.2. Quan niệm về thơ và người làm thơ
Trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình mỗi người nghệ
sĩ đều xây dựng cho một trường thẩm mỹ riêng, hình thành những quan niệm có
tính chất định hướng cho sáng tác. Dù ở phương diện trực tiếp hay gián tiếp thì
quá trình ấy cũng được thi sĩ cụ thể hóa, sinh động hóa qua những quan niệm nghệ
thuật của mình. Nó cũng chính là sự áp dụng những gì đã tích lũy thành những “đứa
con tinh thần” mang phong cách riêng mà dù ở bất cứ đâu người đọc cũng có thể gọi
tên được bằng ấn tượng của mình. Thành công của một tác phẩm văn học được tạo
nên trước hết từ tiền đề của các quan niệm đúng đắn. Người nghệ sĩ chân chính
là người nghệ sĩ biết cách xây dựng cho mình những cảm quan riêng và tạo ra
“sóng âm” trong tác phẩm bằng chính những lí lẽ riêng của mình đến người đọc.
Quan niệm nghệ thuật chính là thể hiện phần ý thức tự giác mang tính chủ quan của
người nghệ sĩ, nó được rút ra từ sự nghiệp sáng tác và chính con đường thơ đó,
góp phần khẳng định phong cách, cá tính sáng tạo trong thơ. Mai Văn Phấn là một
nghệ sĩ như vậy. Qua các giai đoạn sáng tác, để dần dần trưởng thành và hoàn
thiện những quan niệm, xây dựng một phong cách sáng tạo mà khó có thể lẫn tạp
trong vòng xoáy thơ hiện đại. Ông đã từng khẳng định “phong cách của nhà
thơ không được đơn điệu, nó giống như cái Ru bích, một trò chơi của trẻ con,
anh muốn xem màu gì thì xin hãy quay. Nhưng chắc chắn quay chiều nào, cách nào,
anh vẫn nhận ra diện mạo, tinh thần của thi sĩ” [33, 425].
* Quan niệm về thơ
Nếu từ những năm 80, Bằng Việt đã tỏ ra hoài nghi: “Thơ
có còn tri kỉ nữa hay chăng? Đời đột biến mà thơ đi quá chậm/ Đời hết sức thẳng
thừng. Thơ vòng vèo luẩn quẩn/ Đời trả giá hết mình. Thơ khi nhớ khi quên” (Lại
nghĩ về thơ). Và thơ trong qua trình vận động của mình đã phải tự đổi mới để rồi
câu hỏi trên đã thành lời khẳng định. Tất nhiên, sự đổi mới phải bắt đầu từ
quan niệm, từ ý thức nghệ thuật của người cầm bút. Văn học thời kì hiện đại
càng đòi hỏi các văn nghệ sĩ của chúng ta phải luôn ý thức về điều này. Và, nhà
thơ Mai Văn Phấn, con người của những suy tư, tìm tòi sáng tạo đã luôn tự làm mới
mình, luôn có những cuộc “vong thân” đầy táo bạo để mang đến sự “vượt thoát”
thành công. Điều này được ông thể hiện trước hết trong quan niệm về thơ ca.
Từ xưa đến nay, khi nói về một bài thơ hay dù là ai thì cũng
chỉ có thể đưa ra những tiêu chí tương đối về nó, đứng ở những góc nhìn khác
nhau sẽ mang đến những quan niệm khác nhau. Là con người luôn muốn “bung ra” khỏi
những lối mòn xưa cũ, với Mai Văn Phấn thơ không đơn giản là “tải đạo, nói
chí”, cũng không dừng lại ở việc phản ánh những vấn đề then chốt của thời đại,
mà “thơ hay trong khoảng im lặng giữa các chữ, là mang đến cho ta niềm ngạc
nhiên về thế giới, sự run rẩy trong tâm thức” [33, 389]. Với quan niệm này
của thi sĩ đã cho ta thấy một cách nhìn mới về nhận thức thơ hay. Nhà thơ không
tập trung vào các điểm chói sáng mà hướng đến những bài thơ hay trong quan hệ với
chỉnh thể. Thơ hay trước hết là mang đến cho chúng ta “niềm ngạc nhiên về thế
giới”, vậy niềm ngạc nhiên đó có được từ đâu? Trước hết phải xuất phát từ ý thức
luôn tự làm mới mình của thi sĩ, cái mà nhà thơ Mai Văn Phấn gọi đó là những cuộc
“vong thân”. Tuy nhiên, “vong thân” không nhất thiết là phải rũ bỏ, quay lưng lại
với cái cũ và tìm đến những cái mới hoàn toàn. Mà ngược lại, sức hấp dẫn của nó
đối với độc giả chính là trên những miền đất cằn cỗi ấy người nghệ sĩ sẽ làm
cho nó màu mỡ hơn, tươi mát và giàu sức sống hơn. Từ đó, mở ra trước mắt người
đọc những chân trời mới nhưng không hề lạ lẫm mà hết sức gần gũi, quen thuộc
như những gì ta vẫn luôn cảm, luôn nghĩ.
Như vậy, quan niệm đúng đắn về thơ chính là cách nhà thơ tìm
về với nghệ thuật chân chính. Qua hành trình sáng tác của mình chính là minh chứng
cho những cách nhìn nhận và đánh giá của nhà thơ để vươn tới những chân trời rộng
mở và đầy ánh sáng của nghệ thuật. Trên con đường ấy sẽ không thể thiếu được dấu
ấn của sự sáng tạo và những quan niệm đúng đắn.
* Quan niệm về người làm thơ
Để có thể đến được với thế giới của nghệ thuật chân chính,
bên cạnh quan niệm đúng về thơ thì cũng không thể thiếu quan niệm về người làm
thơ. Trong một bài tiểu luận, Mai Văn Phấn đã từng nói “thơ ca đang chuyển
động trong một thế giới đa chiều, đa cực. Trách nhiệm của mỗi nhà thơ là phải tự
khám phá cho được không gian nghệ thuật của chính mình, nếu thực sự muốn tồn tại
trong không gian mới của thời đại”[33, 375]. Nhà thơ phải biết tập trung vào những
điểm chập nổ (những câu thơ nhói sóng) mà gây sức ép. Như vậy, với Mai Văn Phấn,
người nghệ sĩ chân chính bên cạnh những quan niệm nghệ thuật đúng đắn thì cũng
phải xác định được trách nhiệm và sứ mệnh nghệ thuật của mình. Nam Cao đã từng
quan niệm: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một
vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết
tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có” (Đời
thừa). Như đã nói ở trên, đối với Mai Văn Phấn, sự đổi mới và sáng tạo không phải
là sự bứt rào, đi ra khỏi những nền cũ và những gì được gọi là truyền thống, mà
đối với ông sự đổi mới, sáng tạo đó chính là đưa thơ đến với sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa âm hưởng truyền thống và màu sắc hiện đại. Khi ấy, thơ đến với độc
giả bằng bộ cánh mới, đa sắc, lộng lẫy nhưng không lạ lẫm mà gần gũi, quen thuộc
như chính những nốt nhạc thường xuyên vẫn ngân nga ở quê hương mình và trong
tâm hồn mình. Nhà thơ Việt phải có “sự ra đi và sẽ trở về”. Ra đi “để thám
hiểm, để đặt chân lên những vùng đất mới”, còn “trở về không có nghĩa là
quay lại ngôi nhà cũ (hiện thực và lãng mạng) mà mang một diện mạo khác, tâm thế
khác trên con đường khác” [33, 385]. Hình ảnh thơ Việt đương đại trải ra
trên bề mặt thế giới mang tính toàn cầu, mới mẻ, giàu tính nhân văn, đẹp đẽ sống
trong tâm hồn Việt. Vì vậy, trong quá trình suy ngẫm, Mai Văn Phấn đã rút ra được
chìa khóa đưa người thơ vào với thế giới thơ. Người viết khi đã khai phá được bức
tường thành bên ngoài thì phải đảm bảo sự tràn đầy của cảm xúc, cảm xúc dâng
trào dòng thơ cũng được tuôn chảy ra từ đó. Ngược lại, nếu “cảm xúc không
đầy, thơ sẽ rơi vào sự rối rắm, làm xiếc chứ và lại sa vào… tắc tị”. Với
ông sự sáng tạo của người nghệ sĩ luôn là mầm sống để người nghệ sĩ ấy được tồn
tại với những sản phẩm mà mình làm ra. “Sáng tạo chính là cuộc vong thân,
là quá trình phủ định bản ngã”, Người nghệ sĩ với ý chí và nghị lực phi thường
sẽ đưa đến chỗ tự phủ định mình để luôn thực hiện những bước tiến trên hành
trình sáng tạo nghệ thuật.
Mai Văn Phấn đã ví “việc sáng tạo thi ca gần giống trạng
thái bàng hoàng của một đứa trẻ lần đầu được nhìn thấy những hiện tượng kì lạ của
thiên nhiên và khám phá những bí ẩn, phức tạp của con người”[33, 454]. Rõ ràng
mỗi một nhà thơ là có một quan niệm, một cách nhìn nhận khác nhau, có bao nhiêu
nhà thơ là có bấy nhiêu con đường đến với thi ca. Nhà thơ, theo Mai Văn Phấn "phải
là nhà văn hoá. Kiến thức văn hoá ấy lắng sâu vào nhà thơ một cách tự nhiên, và
tới mộthoàn cảnh “hữu duyên” nào đó, nó đột khởi dâng lên thành cảm xúc thi ca.
Lúc ấytứ bài thơ vụt đến bất ngờ, tưởng như “của nhặt được", nhưng thực ra
nó đã đượctích luỹ vô tình ở đâu đó từ lâu".
Từ quan niệm về thơ và người làm thơ, Mai Văn Phấn đưa ra mối
quan hệ giữa thơ ca với người tiếp nhận. Với ông, người nghệ sĩ khi viết xong một
bài thơ là đã hoàn thành sứ mệnh của mình, lúc đó tác giả coi như “đã chết”,
còn tác phẩm lại được sáng tạo một lần nữa bởi bạn đọc. Người tiếp nhận chính
là người đồng sáng tạo với nhà thơ, là người luôn sống cùng với tác phẩm. Với
Mai Văn Phấn, “thơ ca gần như tôn giáo, nhưng không cao vợi và phải thờ phụng
theo những nghi lễ. Thơ ca cũng là tâm linh, nhưng nhà thơ có thể làm biến đổi
cả đời sống tinh thần con người và mở ra những không gian riêng biệt khi gặp được
“duyên” cảm xúc” [33, 435].
Nói tóm lại, là một nghệ sĩ chân chính, Mai Văn Phấn luôn định
hướng và xác định cho mình những con đường đúng đắn để đến với nghệ thuật đích
thực. Là một thi sĩ có sự ảnh hưởng của nhiều ánh sáng sáng tạo ở những chiều
kích khác nhau, Mai Văn Phấn luôn chủ động để tìm cho mình một ý hướng tiến bộ
vừa tiếp thu truyền thống, đồng thời trầm tích thêm truyền thống vừa mang hơi thở
hiện đại.
1.3.3. Quan niệm về nhân sinh và thế giới
Đến với thơ ca, mỗi nghệ sĩ đều tìm cho mình một tâm thế nhất
định. Điều đó không chỉ là kim chỉ nam cho sáng tác của thi sĩ mà còn góp phần
tạo nên sắc điệu riêng trong sáng tác ở mỗi người. Trong quá trình sáng tác của
mỗi nhà thơ, chính là sự ghi dấu về nhân sinh quan và thế giới quan. Trong đó,
mỗi cách nhìn nhận và đánh giá của thi sĩ sẽ như một nốt nhạc của bản hòa tấu về
con người và cuộc đời.
* Quan niệm về nhân sinh
Quan niệm về nhân sinh chính là quan niệm về sự sống con người,
cụ thể hơn đó là sự xem sét, suy nghĩ của người nghệ sĩ về sự sống con người.
Văn học là nhân học. Từ xưa đến nay văn chương đều lấy con người làm đối tượng
miêu tả, phản ánh. Lịch sử văn học là lịch sử về con người, lịch sử về những giới
hạn cũng như khát vọng của con người “là sự miêu tả hữu hạn của thế giới
vô hạn”, “là hình thức bên trong của sự chiếm lĩnh đời sống”. Quan niệm về
con người, cùng với cách nhìn nhận đánh giá hiện thực chính là cơ sở chi phối
những nguyên tắc chiếm lĩnh, cắt nghĩa đời sống của nghệ sĩ, là nơi đánh dấu
trình độ tư duy nghệ thuật của một thời đại, một trào lưu, một tác giả.
Trở lại, văn chương cũng phục vụ con người. Con người trong
văn chương thể hiện ý thức về con người và cuộc đời của nhà văn. Đây là một yếu
tố quan trọng làm cơ sở cho việc sáng tạo các hình tượng nghệ thuật trong tác
phẩm. Trong văn học, con người bao giờ cũng là con người được quan niệm, vì thế “nói
đến quan niệm nghệ thuật là nói đến ý hướng của nhà văn hướng đến thế giới và
con người ngay trong khi sáng tác văn học” và “quan niệm nghệ thuật về
thế giới và con người thể hiện tầm nhìn của nhà văn và chiều sâu triết lý của
tác phẩm”. Quan niệm con người trong sáng tác của Mai Văn Phấn thể hiện tầm
quan sát, sự nhận thức về con người của thi sĩ, tạo cho các thi phẩm của ông có
được chiều sâu triết lí nhất định.
Như chúng ta đã biết, cuộc sống muôn hình, muôn vẻ, con người
tồn tại và phát triển trong các mối quan hệ xã hội chứ không phải là những thực
thể độc lập, tồn tại cách biệt với thế giới bên ngoài. Con người được khai thác
trong sự hài hòa với thiên nhiên và vũ trụ. Vì thế, trong các sáng tác của
mình, Mai Văn Phấn đặc biệt chú ý đến mối quan hệ giữa con người – vũ trụ - cội
nguồn. Lịch sử tiến hóa loài người dù phát triển ở giai đoạn nào thì tự nhiên,
vũ trụ vẫn đóng vai trò quan trọng. Mai Văn Phấn nhận thức được điều này từ rất
sớm, ngay từ tập thơ đầu tiên, Mai Văn Phấn đã đưa người đọc đến với những trải
nghiệm bất ngờ: Anh nghiêng vào chiếc lá/ Lá bỗng đôm đốm vàng/ Có hạt
sương lạnh giá/ Rơi xuống hồn anh đang (Chân thật)
Ở đây, con người xuất hiện trong tư thế chủ động, hòa mình
vào với thiên nhiên, đắm mình trong vũ trụ bao la, làm cho thiên nhiên ấy cũng
trở nên sống động, có hồn. Nó mang những sắc thái riêng và có thể lay động đến
tận miền tâm thức của con người. Câu thơ như đang có sự chuyển động về phía phồn
vinh của sự sống.
Sự hòa hợp giữa con người và ngoại giới trong thơ Mai Văn Phấn
được hình dung như những hành động hết sức nhỏ bé, dung dị ngay trong đời sống
thường nhật chứ không phải chỉ trong ý niệm cao xa: Em gom mùa nào thức nấy/ chùm
hoa bưởi mùa thu/ trái mận mùa xuân/ Mình là mạch khí, vực sâu, ngực
đất/ chọn nơi ấm áp kê giường tủ/ nơi thoáng đãng đặt bàn ghế…(Mùa
hoa mận).
Càng về các sáng tác ở giai đoạn sau, Mai Văn Phấn lại càng ý
thức rõ nét về các mối quan hệ của con người trong cuộc sống. Trong đó, ông đặc
biệt chú ý đến vấn đề nguồn cội của con người. Tập thơ mới nhất của ông không
chỉ thể hiện những bước chuyển đáng kể trong cách thể hiện, mà quan trọng hơn
là sự nhận thức mới mẻ về sự tồn tại và phát triển của con người trong sự quy
chiếu của nhiều yếu tố. “Vừa sinh ra ở đó” – một sự mới mẻ, tinh khôi
đến bất ngờ. Tập thơ đã thể hiện được vấn đề căn cốt khi đã chạm vào chiều sâu
về mối quan hệ giữa con người với cội nguồn. Nơi sinh ra sự sống là nơi có ánh
sáng, có bình minh, có ban mai như một sự “đón chờ đến ngây dại” – Ánh
sáng đang phát ra từ đó, bình minh đang phát ra từ đó: Không phải nơi nào
khác/Mà chính từ bông hoa cỏ may kia/ Đang làm nên một ngày tuyệt đẹp (Nơi
cội nguồn thế giới).
Để rồi, từ đó nhà thơ khẳng định, nơi cội nguồn của sự sống,
cội nguồn của thế giới chính là từ thiên nhiên và vũ trụ bao la kia. Nơi ấp ủ
toàn bộ sự sống lại có chút gì đó mơ hồ nhưng lại rất nên thơ: Đúng, rất
đúng/ Tất cả chúng ta vừa sinh ra ở đó. (Nơi cội nguồn thế giới)
Như vậy, thiên nhiên vũ trụ trong tâm thức của thi sĩ cũng giống
như một người mẹ trong cuộc sống con người. Thiên nhiên ấy dù được nhìn nhận ở
góc độ nào thì đều thể hiện những tầm cao vĩ đại trong mối quan hệ với con người.
Không phải là những điều xa xôi, huyền bí nào mà chính “người mẹ thiên nhiên”
đã tạo ra một sự thống nhất cao hơn, sâu sắc hơn giữa tự nhiên và xã hội, nhân
sinh và vũ trụ, giữa cái tôi và cái ta. Đồng thời, vũ trụ bao la chính là nơi
nuôi dưỡng, duy trì sự sống: Trái đất – căn nhà hộ sinh/ Tiếng trẻ
con chào đời truyền trong không gian xanh/ Những dòng mật mã. (Màu xanh)
Trái đất – Mái nhà của sự sống, là “bà mẹ thiên nhiên” nuôi
dưỡng, ấp ủ sự sống con người. Chính nơi đây đảm bảo cho sự sinh tồn của con
người và vạn vật. Ươm mầm cho những khát khao, để con người được “nương tựa”
vào thiên nhiên, hòa mình vào cảnh vật.
Cùng với mối quan hệ với thiên nhiên, vũ trụ và cội nguồn,
thì con người còn bị chi phối bởi các quy luật trong cuộc sống. Trong cõi
nhân thế vạn vật đều bị chi phối bởi quy luật vô thường “sinh, lão,
bệnh, tử” là chuyện ngàn đời của nhân thế, cũng như chúng sinh nói chung. Sinh
lão bệnh tử đâu chỉ dành cho con người, mà còn cho cây cỏ vạn vật. Trăm năm
sinh lão bệnh tử dành cho con người, có thể hàng ngàn năm vạn vật và từng thời
kỳ với một giới hạn thời gian nào đó cho các hành tinh, vũ trụ. Đó là căn
nguyên của lẽ vô thường. Cũng là những quy luật huyền bí mà không ai có thể
thay đổi được. Khi ấy, giấc mơ trở thành một điểm tựa tâm linh, nâng giấc tinh
thần con người: Chợp mắt mười lăm phút/ Mà mơ dằng dặc mấy mươi năm/ Tỉnh
mộng/ Mộng còn/ Vật vã…(Mơ thực)
Đời người thật ngắn ngủi, chỉ như một giấc mộng kéo dài, nhưng
rồi có lúc phải tỉnh trong sự đau khổ, vật vã.
Bên cạnh đó, nhà thơ cũng xác định được, cô đơn là tâm thức
phổ biến của con người thời hiện đại. Xã hội ngày càng phát triển, đời sống
nâng cao đôi khi con người cảm thấy lạc lõng, đơn điệu, trong cuộc sống tưởng
như là đầy đủ ấy. Sự cô đơn đó thường diễn ra khi con người trực tiếp đối diện
với bản ngã của chính mình, hay khi con người không thể tìm được một chân trời
để sẻ chia, tâm sự. Họ cố gắng tìm kiếm một sự tương tác, thấu hiểu nhưng chỉ
nhận lại một sự im lặng đến đáng sợ trong một khoảng không vô định. Khi ấy, con
người rơi vào trạng thái bất lực, nỗi cô đơn càng rợn ngợp: …Thử gọi một
ai xa lắc xa lơ/ Ngọn đèn lặng phắc càng tỏ/ Càng tỏ (Tắm đầu
năm)
Mai Văn Phấn đã đưa nỗi cô đơn của mình vào những miền sâu thẳm
nhất của tiềm thức. Sau sự cô đơn đã biến thành động lực khơi dậy những khát
khao sâu thẳm trong con người: Nhoài lên mỏm đá sắc/ Thân thể gió trầy
xước/ Máu của gió là mưa/ …/Giang tay núi đạp chân vào đất/ Vò nát/ Xé
toang thân gió /Ánh sao rơi/ Buổi sớm vỡ òa…(Đỉnh gió)
Ái tình trong thơ Mai Văn Phấn cũng dâng lên từ trạng thái cô
đơn, nhưng trong thơ ông sự khát khao đó không đơn giản là sự thỏa mãn nhục dục
mà tình yêu của Anh và Em trong tương quan đó, là biểu tượng của cuộc gieo
trồng thiêng liêng. Thi sĩ ý thức được sự phồn sinh trong sự sống. Mai Văn
Phấn đã lay động đến những nguyên lý sinh sôi, nảy mầm trong thế giới tự nhiên,
khơi dậy sự sống trong tình người và trong cả bản thể vũ trụ: Tìm miệng
anh gieo hạt/ Gió níu chân tay đất dịu dàng/ …/Chờ nảy mầm/ Gió
mang mặt đất đi (Đỉnh gió)
Như vậy, quan niệm về nhân sinh đúng đắn cũng chính là con đường
chân chính đưa thi sĩ đến với nghệ thuật đích thực.
* Quan niệm về thế giới
Quan niệm về thế giới là hệ thống tổng quát những quan điểm của
người nghệ sĩ về thế giới (toàn bộ sự vật và hiện tượng thuộc tự nhiên và xã hội),
về vị trí con người trong thế giới đó và về những quy tắc xử sự do con người đề
ra trong thực tiễn xã hội. Thế giới – nơi tồn tại sự sống, có cấu trúc phức tạp,
gồm nhiều yếu tố trong đó có hạt nhân là tri thức. Hay nói cách khác, quan
niệm về thế giới chính là biểu hiện của cách nhìn bao quát (bức tranh) đối với
thế giới bao gồm cả thế giới bên ngoài, cả con người và cả mối quan hệ của người
– thế giới. Nó quy định thái độ của con người đối với thế giới và là kim chỉ
nam cho hành động của con người.
Là con người ham học hỏi, cộng với vốn kiến thức uyên thâm và
những trải nghiệm sống sâu sắc, Mai Văn Phấn đã thể hiện những cách nhìn nhận mới
mẻ với toàn bộ thế giới quan. Trong đó, đặc biệt nhất là đời sống của tự nhiên,
con người và nhân loại. Cách thể hiện của Mai Văn Phấn là khát vọng nhận thức
đi tìm cái mới, cái đẹp hay đúng hơn, ông muốn phản ánh đặt tên lại các hiện tượng
trong cuộc sống. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú thơ phải được gợi mở
trong “cấu trúc không gian đa chiều”. Làm thơ là sự khổ công tìm kiếm,
bám níu có ý thức và vô thức lý tưởng mà mình đam mê. Do đó, quan niệm về thế
giới của thi sĩ cũng là một cách khẳng định bản lĩnh và bản ngã của người nghệ
sĩ.
Mai Văn Phấn dường như giữ một cái nhìn điềm tĩnh trong quan
niệm về thế giới. Đọc thơ ông, người đọc có thể cảm nhận một quan hệ tương
thích hài hòa của người thấy mình trong thiên nhiên và thấy thiên nhiên trong
mình hơn là những nỗi bi ai, hoài nhớ, đau xót một thiên đường đã mất như trong
quan niệm của Nguyễn Quang Thiều – người muốn, “rời bỏ thành phố” để tìm lại những
giá trị vững bền của con người và tự nhiên. Có những khi, trong thơ Mai Văn Phấn
thế giới phi-nhân muốn nổi loạn, “đòi đặt lại tên” và “định hình lại”, nhưng
nhiều hơn vẫn là một sự quấn bện kì lạ, như thể thi sĩ sống ở một không gian
khác, nơi các linh hồn kết tụ với nhau đầy bí ẩn cùng với viễn tượng về một không
gian mới ở tương lai. Cách ứng xử, chung sống với tự nhiên của Mai Văn Phấn
trong quan niệm và trong thơ ca dường như cũng là căn cốt thi sĩ của ông, đồng
thời là cái “khí” thơ đẹp khỏe khoắn, vững bền, tinh lọc, không hướng về những
vùng tối mà hướng về ban mai và ánh sáng, không bị kéo trĩu bởi cảm thức hoài
nhớ hay nỗi “thương nhớ đồng quê”- để gợi nhắc một tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp
- thường thấy trong văn chương lãng mạn và hiện đại, khi những giá trị của văn
minh xung đột với những vẻ đẹp văn hóa bản nguyên.
Như vậy, từ các hiểu biết về thế giới trong quan niệm thi sĩ,
Mai Văn Phấn cho chúng ta có được bức tranh về thế giới trong ý thức và từ đó
nó quyết định lại thái độ và hành vi đối với thế giới. Ở đó thi sĩ như vừa
tự nhắc nhở mình, vừa muốn nhắn gửi đến các thế hệ người tiếp nhận bức thông điệp
về cách hành xử của mình đối với thế giới. Có một quan niệm về thế giới
đúng đắn sẽ hướng con người hoạt động theo sự phát triển lôgic của xã hội và
góp phần vào sự tiến bộ của xã hội. Vì thế, thế giới quan là trụ cột về mặt hệ
tư tưởng của nhân cách, là cơ sở cho đạo đức, chính trị và hành vi . Nhà
văn Kate Chopin đã nói: "Thức tỉnh vẫn là điều tốt nhất, dù ta thức để
gánh chịu nỗi thống khổ, còn hơn ở mãi trong sự lừa mị của ảo tưởng". Mỗi
ngày, nhà thơ Mai Văn Phấn đều thức dậy với những giấc mơ trong khóe mắt. Giấc
mơ của nhà thơ là chất xúc tác dẫn đến sự thức tỉnh, và những dòng chữ ông viết
là phương thuốc xoa dịu nỗi đau. Không còn chỗ cho sự dối trá ở đời sống
này. Mai Văn Phấn đã tìm đến thiên nhiên theo cách của một thi sĩ phương
Đông: hòa mình vào với “thế giới”, phóng chiếu tâm tưởng vào vũ trụ để nhận ra
cái hồn và tinh thần của muôn vật.
Tóm lại, từ những quan niệm đúng đắn và mang tính chất định
hướng về nhân sinh và thế giới của Mai Văn Phấn, chúng ta có quyền khẳng định rằng,
Mai Văn Phấn vừa là nhà thơ, tình nhân đích thực của thiên nhiên (theo
cách nói của Nhã Thuyên) và cũng vừa là tri kỉ trong cuộc sống con người. Thi
sĩ luôn có ý thức khơi những “miền dậy sóng”, để từ đó, “trong hành trình
sáng tạo nghệ thuật của mình, Mai Văn Phấn đã nỗ lực khám phá ngôn ngữ như một
phương cách thiết yếu để thấu nhập vào thế giới tự nhiên và từ đó, tạo dựng khí
quyển thơ riêng của mình, một bầu khí quyển kết nối cá thể người và thế giới,
linh hồn người và linh hồn tạo vật trong sự bình đẳng và quấn bện của tình yêu
thuần giản. Do đó, đọc thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn này cũng khơi mở hi vọng về
một con đường sáng tạo thơ ca, trong đó, việc trở về với cội rễ đồng thời là một
cách nạp năng lượng cho thi ca. Ở góc độ này, Mai Văn Phấn, ngay khi được xếp
vào thế hệ những nhà thơ đổi mới với nỗ lực cách tân thi ca đã khẳng định một
cách nghĩ riêng về giá trị và sáng tạo”[13, 292]. Và rồi, qua bao thời đại với
những thăng trầm thì những quan niệm đúng đắn và những trải nghiệm tuyệt vời
trên ngòi bút của mình, Mai Văn Phấn sẽ luôn khẳng định được giá trị và vị thế
của mình.
* Tiểu kết
Trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại, thơ Mai Văn
Phấn đến và mang theo một làn gió mát trong lành chảy sâu trong tiềm thức của
con người. Ông là người luôn có ý thức khẳng định bản lĩnh sáng tạo của
mình. Mai Văn Phấn xác định: “Thi sĩ đích thực là người phải biết làm
ra những bài thơ biết phản bội mình. Nghệ sĩ là người liên tục vượt qua những
cuộc “vong thân” để hoàn thiện mình". Trong quá trình hoàn thiện ấy,
tôn giáo trong thơ ông cũng được thể hiện hết sức tự nhiên và đầy thú vị. Tôn
giáo với Mai Văn Phấn là thế giới tâm linh của những điều thiêng liêng, cao đẹp.
Tôn giáo ấy, hướng con người đến sự gắn kết vô hình mà chặt chẽ thẳm sâu trong
tiềm thức. Không phải ngẫu nhiên mà trong văn học Việt Nam và trong hành trình
sáng tạo của Mai Văn Phấn lại in đậm dấu ấn tôn giáo đến vậy. Bởi từ xa xưa tôn
giáo giống như “liều thuốc tinh thần”, là điểm tựa tâm linh trong cuộc
sống của cá nhân, nó giống như điểm sáng soi đường cho sự phát triển nhân cách
của con người trong xã hội.
Tôn giáo chảy trong tâm hồn thi sĩ khởi nguồn từ truyền thống
quê hương, gia đình, cùng với sự “hữu duyên” và ham học hỏi,
nên trong Mai Văn Phấn là sự hội tụ của rất nhiều tôn giáo lớn, biểu tượng những
nền văn minh trên thế giới. Từ đó, ông đã tự đúc kết chân lí về tôn giáo của
riêng mình, rằng Đấng-Toàn-Năng/ Thượng đế (hiểu theo nghĩa Cái Đẹp) chỉ có một,
dù thể hiện dưới những tên gọi khác nhau nhưng chúng cùng chung một mục đích là
hướng con người ta đến bến thiện, khuyên họ điều hay, lẽ phải và giáo dục con
người cách hành xử đúng đắn. Từ đó, trong hành trình sáng tạo, sự ảnh hưởng của
các tôn giáo trong thơ ở mức độ đậm nhạt khác nhau. Đặc biệt còn có sự hoán
chuyển trong các nghi thức tôn giáo ở các thời kì sáng tạo của thi sĩ. Rõ ràng,
Mai Văn Phấn đã có một cái nhìn biện chứng về tôn giáo, trong con người ấy
không có sự phân biệt giữa tôn giáo mình và tôn giáo người. Chính cách nhìn nhận
thấu đáo, cùng những quan niệm tiến bộ đã đưa Mai Văn Phấn đến với hiện thực ở
bề sâu một cách gần nhất, toàn diện nhất. Tôn giáo một lần nữa lại được “hồi
sinh ”, “tái sinh ” trong thơ của Mai Văn Phấn.
CHƯƠNG 2: CẢM HỨNG TÔN GIÁO TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN, NHÌN TỪ THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG
2.1. Hình tượng không gian trong cảm hứng tôn giáo
“Nếu hiểu thơ ca là sự cảm nhận thế giới và con người thì thời
gian, không gian chính là hình thức để con người cảm nhận thế giới và con người” (Trần
Đình Sử). Mọi sự vật, hiện tượng đều được gắn với hệ tọa độ không - thời gian
xác định, nên những cảm nhận của con người về thế giới đều bắt đầu từ sự đổi
thay của không gian, thời gian. Và từ sự đổi thay của không gian - thời gian,
con người nhận ra sự đổi thay trong chính mình.
Để hiểu được khái niệm không gian nghệ thuật một cách cơ bản
và khái quát nhất, chúng tôi xin được viện dẫn cách hiểu của Lê Bá Hán trong cuốn Từ
điển thuật ngữ văn học: “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của
hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó” [5, 162]. Không gian
nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật. Không gian nghệ thuật không
những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng,
mà còn cho thấy những quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay
một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo
cũng như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ thuật. Vì vậy, không thể
tách hình tượng ra khỏi không gian mà nó tồn tại.
Đối với Mai Văn Phấn, ông quan niệm, Trách nhiệm của mỗi
nhà thơ phải khám phá cho được không gian nghệ thuật của chính mình… Không gian
ấy là dung lượng cảm xúc, độ mở trí tuệ mà nhà thơ bao quát, chế ngự được. Không
gian trong thơ Mai Văn Phấn rất đa dạng từ những không gian thực đến không gian
được tưởng tượng, linh hóa, đó là “không gian ẩm ướt”, “không gian lặng lẽ”,
“không gian bí ẩn”, “không gian lập thể”… Nói cách khác, không gian trong thơ
Mai Văn Phấn là nơi hiện hữu của những điều thiêng. Không gian ấy có thể được
đơn giản hóa bằng những điểm đến cụ thể (không gian thực): cửa chùa, thánh đường,
triền sông, gót chân thiếu nữ, tiếng cá quẫy…, nhưng cũng có thể là nơi được trừu
tượng hóa, trữ tình hóa trong thế giới của hư vô và hư không (không gian siêu
thực).
Trước hết, không gian trong thơ Mai Văn Phấn hiện lên qua những không
gian tôn giáo thực. Đó là cái thực trong sự hiện hữu của những ngôi chùa, cửa đền,
thánh đường, khói hương, hay nến sáng… Những không gian đặc trưng của Phật giáo
và Thiên Chúa giáo được Mai Văn Phấn đưa vào thơ hết sức tự nhiên và đầy chất
thơ. Đó là, thế giới thiên nhiên nơi cửa chùa thanh tịnh, … Chúng bay lên
rồi đậu xuống mái chùa/ Bị lũ trẻ rình bắt và đem bán/ Từ chiếc lồng đến bầu trời
là ánh sáng cầu nguyện/ Sao lời cầu nguyện còn giam hãm những linh hồn (Những
con chim sẻ chùa Vĩnh Nghiêm). Rõ ràng, trải dài trên nền thơ là nơi không gian
tôn nghiêm, với hình ảnh biểu trưng là những con chim sẻ với lời cầu nguyện, đó
là thứ ánh sáng thiêng liêng giải thoát linh hồn. Cầu nguyện để được siêu thoát
linh hồn, đây là một cách nói độc đáo mang âm hưởng tôn giáo. Bên cạnh đó, hình
ảnh “Những ngôi đền kí ức” hiện lên như một sự ám ảnh đến một vùng tâm thức của
nhà thơ, … Ký ức tựa ngôi đền, dâng trong tóc mình dĩ vãng tôn nghiêm… tôi
gom câu ca xưa đúc thành bệ cho thánh nhân ngồi, những câu ca thơm hương trong
ngôi đền ký ức… Mặt đất căng cánh buồm no gió, ta lại nghiêng mình trước ngôi đền
ký ức lúc ra khơi (Hải Phòng trước năm 2000). Cách nhà thơ tìm về với nguồn
cội hết sức ấn tượng và đầy thi vị. Trong miền ký ức ấy, chứa đầy một không
gian tôn giáo linh thiêng. Không gian ấy, gắn liền với vùng nhớ và sự tri ân của
nhà thơ đối với “Thánh nhân”. Hay đặc biệt hơn, khi viết về một không gian hiện
hữu quen thuộc, từ cái thuở “Cứ chiều chiều, tôi cắp chiếc chiếu manh theo bà
đi nhà thờ”, Mai Văn Phấn bộc lộ một niềm trắc ẩn… Vọng tiếng reo trên
nguồn rừng góc bể/ Hay tự nơi nào vừa tan chảy u mê/ Nơi thánh đường không ai
thờ phụng/ Phi lý lỗi thời mọi toan tính suy tư/ Mọi bền chặt đã đến giờ tan
loãng/ Nung nấu réo sôi từng vật thể tế bào (Quyền lực
mùa thu). Đến đây, dấu ấn tôn giáo hóa thể hiện rõ nét trong cách thể hiện
của thi sĩ. Bằng sự kết hợp hài hòa giữa “tôn giáo mình” và “tôn giáo người”,
nên không gian thơ có lúc như “tan chảy” theo sự bừng nở của cảm xúc. Hiệu ứng
thơ vang vọng đến thế giới tâm linh, tâm thức của con người. Để rồi, không gian
thực của tình yêu hạnh phúc, cũng chính là không gian của “Đạo yêu” trong nhận
thức và miền sâu cõi lòng,… Căn phòng mình chẳng còn những bức tường bao quanh
và không gian thành thời gian thánh thiện, khi anh mải mê nhìn vầng ngực em
dâng đầy như biển, cứ thu mình tìm vào miệng con be bé xinh xinh... (Em
cho con bú). Một không gian mang một vẻ đẹp đến thánh thiện, không gian và thời
gian như cùng hòa điệu để vươn tới một tình yêu đẹp, vẻ đẹp hiện hữu của những
điều thiêng liêng và kì diệu.
Đặc biệt hơn cả, Mai Văn Phấn đã sáng tạo ra không gian
của sự phồn sinh – một không gian sống được mở ra vô cùng rộng lớn. Đó là
khoảng không gian không xác định và được linh hóa, nghệ thuật hóa trong
thơ. Không gian ấy, dường như được nuôi dưỡng bởi kí ức vùng nông thôn miền Bắc
Việt Nam, kí ức giàu có đó vẫn đầy sức sống ngay cả trong không gian đô thị hóa
của cuộc sống hiện tại. Cũng có thể bởi Hải Phòng, là một đô thị biển, không đậm
đặc chất đô thị như Sài Gòn, không có nỗi hoài vọng về “thủ đô thanh lịch”, lại
vẫn giữ được vẻ phóng khoáng của gió, sóng biển, một không gian được hòa trộn
giữa làng và phố, nhiều phấp phỏng về thế giới vật chất nhưng vẫn dễ dàng bắt
được một bóng cây, một bóng mây đẫm lửa… tất cả đã bồi đắp nên tính chất hỗn
giao trong tâm hồn của thi sĩ khi khám phá thế giới tâm linh trong đời sống con
người. Thậm chí, ở một khía cạnh nào đó, nhà thơ còn được nuôi dưỡng bởi suối
nguồn lãng mạn để xây dựng những tưởng tượng đẹp về thời chưa tới với một không
gian đô thị sinh thái, một không gian trút bỏ mọi ràng buộc, trở thành Tự
Nhiên, mở rộng đến vô cùng, mà lại có thể thu vào trong lòng tay, để cái mênh
mông đó cũng là một không gian chung - Mái Nhà của nhân loại. Nơi đây, trẻ con
sinh ra và sự sống khai mở, hồi sinh, những nguồn cảm hứng mãnh liệt của Mai
Văn Phấn từ những sáng tác giai đoạn đầu, Trái đất - Căn nhà hộ sinh/
Tiếng trẻ con chào đời truyền trong không gian xanh những dòng mật
mã... (Màu xanh)
Rõ ràng, nơi tồn tại và duy trì sự sống: Trái Đất –
không gian rộng lớn được đồng nhất với Căn Nhà Hộ Sinh, và hơn thế, Tình Yêu
(hôn nhau qua kẽ lá) cùng với sự Sinh Ra (tiếng trẻ con chào đời) hợp thành một
thế giới trở về đúng với cái khởi nguyên, cái kì diệu, và tất cả cũng được đồng
nhất với Màu Xanh. Nếu nói bầu trời là không gian ôm trùm thơ Mai Văn Phấn, thì
cách diễn đạt tốt nhất có lẽ chính là thơ của ông: viễn tượng về một “Bầu trời
không mái che”, tên tập thơ xuất bản năm 2010. Bầu trời này, không chỉ là giấc
mơ về một không gian sống khoáng đạt, nó còn là một giấc mơ về không gian tư tưởng,
cảm xúc, nơi các cá thể người và không phải người thả lỏng tuyệt đối để tận hưởng
và khai mở sự sống bản thể, Ao chuôm tìm hướng lên trời/ dòng sông vừa
chảy/ vừa sinh nở (Đất mở). Đến đây, nhà thơ đã đạt đến sự cân bằng chắc
chắn cần thiết ở tầng sâu tâm thức, nổ lực vươn tới một miền “nhói sáng trong
huệ tưởng”. Có thể dễ dàng nhận ra, hình tượng không gian rộng lớn này đã được
Mai Văn Phấn có ý tạo dựng ngay từ giai đoạn đầu của sáng tác: Hồn mình dựa
chốn mong manh/ Rồi hư danh ấy cũng thành hư không/ Mắt vừa mở với rạng đông/
Chân trời hổn hển phập phồng ngón chân. (Kinh cầu ban mai)
Thực ra, nếu so sánh với các hình tượng các yếu tố nguyên thủy
khác như đất (biến thể là cánh đồng, đất đai,v.v), nước (biến thể là sông, biển…),
lửa (biến thể là ánh sáng, mặt trời) thì “bầu trời”(với các biến thể như không
khí, hơi gió) xuất hiện có vẻ thưa vắng hơn. Tuy nhiên, hình tượng không gian
này lại trở nên giàu có, bởi tiềm năng khêu gợi tưởng tượng về một không gian
vô tận của tự nhiên và suy tưởng của nó, bởi đó là chiều cao, chiều rộng và cả
chiều sâu, bởi nó hướng về một viễn tượng xa xôi. Đặc biệt hơn nó quy chiếu đến
chiều sâu tâm lí của con người. Một không gian rộng lớn có thể bao phủ khắp thế
gian, vừa che chở, vừa quy chụm tất cả vạn vật, như tình yêu thương bao la của
Đấng – Toàn – Năng. Đó là hình tượng trung tâm trong một lập thể không gian rộng
lớn, không gian đó dù không được xác định ở một nơi, điểm cụ thể nhưng nó lại
được xác định trong chính chiều sâu nhận thức của con người, là cách con người
tìm đến với Đấng tối cao của miền tâm linh, tâm cảm.
Không gian được linh hóa trong thơ Mai Văn Phấn hiện lên đa
phần là những không gian mơ hồ, không xác định. Cách miêu tả không gian như vậy
phù hợp với sự chuyển động của vùng tâm thức, của thế giới tâm linh. Khai thác
không gian này, Mai Văn Phấn chú ý đến không gian giấc mơ. Thi sĩ thể hiện
niềm tin đặc biệt vào sự ban phát của giấc mơ như một vị cứu tinh: Như bao
muông thú/ Tôi lớn bằng giấc mơ/ Của ánh bình minh/ Của cơn mưa/ Bầy sao sa/
Trái đất/ …/ Trái đất màu đen/ Chín từ đỉnh trời/ Nơi hoa sen/ hoa cúc/ đang nở/
…/ Bình minh vắt ngang ngực/ lúc tôi bắt đầu hành thiền (Tĩnh lặng). Không
gian giấc mơ, được Mai Văn Phấn phát huy một cách cao độ trong tưởng tượng, giả
định. Đó là những câu chuyện phi logic, hoang tưởng từ “Chỉ là giấc mơ”,
“Kể lại giấc mơ”, đến “giấc mơ vô tận”. Nhà thơ triết lí về sự sống,
về một “Hiện thực khác” vẫn luôn hiện hữu trong đời sống này. Đồng thời với
không gian giấc mơ, hơn bao giờ hết cũng là cõi không gian hiển hiện trong khoảng
trời vô thức – cánh cửa mở ra những điều kì bí, huyền hoặc không thể giải thích
được. Đây cũng là một mặt trong thế giới của tâm linh. Thế giới tâm linh là thế
giới của những miền đối cực, giữa thực và ảo, ánh sáng và bóng tối. Tất cả là sự
thể hiện tính chất đối cực của “nguyên lý âm – dương” hiện diện đậm nét trong
không gian thơ Mai Văn Phấn. Đó là đối cực của cánh đồng và cơn mưa, của trời
và đất, đêm và ngày, tối và sáng, nam và nữ… Hiển nhiên, những đối cực
này thể hiện sự thống nhất, hòa hợp. Điều đó biến không gian thơ này trở thành
biểu tượng của một sinh giới nẩy nở, viên mãn. Do tìm thấy cái đẹp trong sự
sinh nở, nên Mai Văn Phấn đã nhìn thấy khung cảnh người phụ nữ thật lung linh
trong dáng điệu mang thai ánh sáng bồng bềnh bụng mang dạ chửa (Tắm đầu
năm), hay một vẻ đẹp căng tràn sự sống phì nhiêu, rất mực thiêng liêng khi người
phụ nữ đang cho con bú: Căn phòng mình chẳng còn những bức tường bao quanh
và không gian thành thời gian thánh thiện, khi anh mải mê nhìn vầng ngực em
dâng đầy như biển, cứ thu mình tìm vào miệng con be bé xinh xinh…(Em cho con
bú). Quen đấy mà lạ đấy, sự sinh nở của cõi sống này đã được nhà thơ tụng ca nồng
nhiệt với những vần thơ thật bình dị mà đẹp đẽ.
Mặt khác, trong sự chuyển động của vùng tâm thức được lập
trình trong khoảng không gian được linh hóa, nó có chút gì đó mơ hồ, không xác
định:
… Theo ngọn gió mở cánh đồng buổi sớm, ùa vào những
căn phòng lẫn bụi và ánh sáng, lau mồ hôi vừa tắm gội giấc mơ.
Và như thế, cội nguồn trong gang tấc, lúc quay về là đi hết
đời mình, hay chờ luân hồi trở lại kiếp sau.
Những linh hồn kia chưa kịp đầu thai, đang ngưng lại nơi
không gian thờ phụng, bay lửng lơ rồi nấp vào bái vật giáo bất động… (
Bức ảnh, trái cây và giấc mơ)
Một không gian thơ tràn ngập sắc màu Phật giáo, không gian ấy
với “những căn phòng lẫn bụi và ánh sáng”và cũng là không gian
thiêng của sự “thờ phụng”. Trong đó, nó có khả năng ngưng đọng sự sống, để
con người có dịp nhìn nhận lại cội nguồn, cuộc đời và sự sống sau khi chết.
Hình ảnh con người xuất hiện mờ nhạt nhưng lại để lại ấn tượng sâu sắc về sự hiện
tồn của “đời sống thứ hai”.
Nếu ở một số tập trước (Hôm sau, Và đột nhiên gió thổi, Bầu
trời không mái che…), tính siêu thực đậm nét thì đến Hoa giấu mặt, và bây
giờ là Vừa sinh ra ở đó, thơ Mai Văn Phấn nghiêng về tính tượng trưng. Tập
thơ là sự trở về với đời sống tâm linh phương Đông, với hồn cốt Việt, trên nền
trữ lượng tinh thần mạnh mẽ của kiểu tư duy hiện đại. Sự tiết chế trong kĩ thuật,
tính biểu tượng trong cấu trúc không gian, sự cô đặc và giản dị trong ngôn từ
và hình ảnh… là những yếu tố quan trọng tạo nên tính tượng trưng đậm nét trong
tập thơ này. Ngôn ngữ, hình ảnh thơ tái hiện và hòa hợp một cách tự nhiên, sắc
nét với trực giác, xúc cảm, làm trực hiện một thế giới của tâm linh, của trí tưởng
tượng song vẫn hết sức gần gũi. Nhìn chung trong toàn bộ tập thơ, cái lõi tinh
thần triết học đã tìm được một cách diễn đạt sát hợp, dung dị và giàu tính ám gợi
“Nơi cội nguồn thế giới” - nơi tất cả chúng ta được sinh ra và luôn được tái
sinh. Đó cũng chính là không gian sinh thành và tồn tại của Cái đẹp, tình yêu
và sự sáng tạo nghệ thuật. Từ đó, có thể nói cùng với sự chuyển dịch của các
nghi thức tôn giáo trong quá trình sáng tác nên không gian tôn giáo cũng có sự
thay đổi. Không gian ấy có lúc mang màu sắc Thiên chúa giáo, lúc lại thấm đẫm
tinh thần Phật giáo. Nhưng dù được thể hiện dưới hình thức không gian nào thì
cũng cùng chung điểm đến là khoảng trời tâm linh thiêng liêng, là một vùng
không gian tâm tưởng trong tâm hồn con người. Ở đó, “thế giới thứ hai” được sống
đời sống của chính nó
Như vậy, cảm hứng tôn giáo được soi chiếu từ hình tượng không
gian nghệ thuật, chính là cách chúng ta tìm đến với hồn cốt của một thế giới phồn
sinh trong thơ Mai Văn Phấn. Từ đó, thêm một lần nữa đến với chiều sâu nhận thức
của thi sĩ về một thế giới mà đời sống tâm cảm luôn hiện hữu. Để rồi, chính đời
sống tồn tại trong không gian tôn giáo ấy đã mang đến sự thiêng liêng, thanh sạch
trong cõi tâm thức con người. Thơ Mai Văn Phấn được bao phủ bởi không gian
và ánh sáng từ cuộc trở về tĩnh lặng đến cái đích của Tâm không và
tái sinh ở một đời sống mới với tinh thần, Vẫn hiểu nhau dù quên tiếng
nói/ Đã yêu. Hiến dâng. Đã sống.
Như trên đã nói, cùng với hình tượng không gian thì thời gian
cũng là hình thức thể hiện của nhân sinh quan và thế giới quan. Thời gian
nghệ thuật là nó luôn mang tính cảm xúc và ý nghĩa nhân sinh, quan niệm nhân
văn, do đó nó mang tính chủ quan. Tính chất chủ quan giúp ta phát hiện được thực
tại đối với con người. Nó chính là thời gian của thế giới hình tượng, vì thế,
nó là hình tượng thời gian. Trần Đình Sử viết:“Thời gian nghệ thuật là hình tượng
thời gian được sáng tạo nên trong tác phẩm nghệ thuật” [40, 39]. Để
có thể tạo mạch chuyển động tinh tế phù hợp với miền vô thức, Mai Văn Phấn đã lựa
chọn cách biểu đạt thời gian như một hình tượng nghệ thuật mang ý nghĩa tôn
giáo. Tác giả sáng tạo ra hình tượng thời gian không tuân theo những quy luật
logic thông thường mà phát triển trên nền thời gian phi tuyến tính, từ đó lập
thể trong cách xây dựng thời gian hiện thực trần thế, thời gian trần thuật và
thời gian đậm chất triết lí Phật giáo. Ở đây, thời gian nghệ thuật là sự phản
ánh đời sống, tâm tư, tình cảm, kể cả tư tưởng của con người trong tác phẩm. Do
đó, việc khám phá hình tượng thời gian trong các thi phẩm của Mai Văn Phấn, sẽ
giúp chúng ta hiểu rõ các giá trị tư tưởng thẩm mỹ về đời sống tâm linh.
Trước hết, thời gian hiện thực trần thế được soi tỏ từ
việc thẩm thấu triết lý vô thường của triết học tôn giáo, dấu ấn thời gian nghệ
thuật được tái hiện qua sáng tác thơ. Sự biểu hiện thời gian hiện thực của
trần thế vốn vô cùng ngắn ngủi và chớp nhoáng. Xuyên suốt hành trình sáng tạo
nghệ thuật, người đọc có cảm giác thời gian trôi nhanh một cách vùn vụt, hối hả,
gắn liền với các sự kiện mà con người nỗ lực để hoàn thành. Cảm hứng chủ đạo của
Mai Văn Phấn là ở chỗ sáng tạo ra một thời gian, thước đo thực hiện “hạnh nguyện”
của mình phù hợp với mọi tâm thức. Điểm sáng của tác giả là nhìn nhận con người
- nhân vật trung tâm với những mục đích, hành động để chuyển hóa thân phận khổ
đau. Dường như, ông đã đi cùng nhịp đập thời gian của cuộc sống.
Tôn giáo quan niệm, mạng sống của con người được tính qua hơi
thở. Một hơi thở ra mà không thở vào được là kết thúc một sinh mệnh. Trong ý
nghĩa đó, không ai có thể cầm chịt, kìm hãm thời gian theo ý muốn. Thời gian cứ
thế ám ảnh, khiến nhân vật trữ tình lúc nào cũng thao thức muốn chuyển cái thời
gian hữu hạn thành cái vô hạn. Ở đó, không có sự tàn phá của cái thời gian lạnh
lùng, từng làm sụp đổ biết bao nỗi lòng con người từ sắc đẹp, tuổi trẻ, danh vọng,
địa vị và quyền uy. Thật xót xa cho cái đẹp bị thời gian hủy diệt theo bốn
mùa. Đây là mùa Xuân, biểu tượng cho cái đẹp thật hữu tình, đang lên phơi
phới, sắc nồng hương thơm ngọt ngào. Thế nhưng, tâm lý thường tình của con người
khó mà chấp nhận, và không thể không xót xa khi đang bị thời gian hiện thực tàn
phá. Hơn ai hết, Mai Văn Phấn thấu rõ triết lý vô thường về thân phận con người.
Ông mong ước con người vượt ra khỏi sự tàn phá của quy luật thời gian. Thế nên,
ông đã nhìn nhận có một vẻ đẹp đang tràn ngập sức sống mạnh mẽ và mang khát vọng
yêu đời qua những câu thơ viết về mùa Xuân, biểu tượng cho sức sống tươi trẻ của
con người:
Rừng nụ chờ em bước đến mới nở, điệp trùng hoa trắng lan
nhanh.
Anh là cây mận trắng trong mưa xuân se lạnh, càng quay quắt
nhớ hoa càng trắng muốt. Mắt nhìn, hơi thở rung rinh. Vầng hoa đang rụng bớt những
cánh mỏng.
Mùa hoa lộng lẫy đến nghẹn thở. Em đi đừng e ngại làm đau mặt
đất, dù những cánh hoa mong manh sẽ rụng.
Đồi núi úp lên nhau cho hoa nở. Hơi lạnh và gió nhẹ phủ đều. Anh hình dung con ngựa bạch đến bên em hiền từ cúi xuống.
Đồi núi úp lên nhau cho hoa nở. Hơi lạnh và gió nhẹ phủ đều. Anh hình dung con ngựa bạch đến bên em hiền từ cúi xuống.
Cứ mùa này đường đất mùa xuân, ta còn yêu nhau hoa còn nở. (Mùa
hoa mận)
Còn đây cái đẹp chóng tàn, chỉ cần một cơn gió vàng đi qua là
buổi xế chiều của kiếp người lụi tàn tức khắc thông qua hình ảnh mùa Thu: Hoá
thân giọt nước mùa hè/ Một đêm trở gió bay về với thu/ Dẫu chưa trọn kiếp sương
mù/ Xin tan loãng kẻo trăng lu cuối trời/ Bao lần xanh biếc rong chơi/ Mấy lần
úa rụng tiếng người vọng theo/ Thôi em! Ðừng vặn! Ðừng khêu!/ Ðáy thu thắp sáng
trên nhiều ngọn cây./ Anh vừa đọng xuống thu gày/ Ðã đông thành đá phủ đầy rêu
xanh. (Khúc cảm mùa thu)
Con người cần giác tỉnh vô thường trong cái hữu hạn, đời
người qua nhanh như hình ảnh ngọn đèn trước gió. Mai Văn Phấn cất lên tiếng
thét như cảnh tỉnh sinh mệnh con người chỉ trong “giấc mộng”, để rồi: Tỉnh
mộng/ Mộng còn/ Vật vã (Mơ thực). Con người có cảm giác sợ hãi khi thời
gian cứ trôi chảy, sinh mệnh theo đó mà chơi vơi, lung lay. Không chỉ thân sắc
bị hủy hoại trong hư không, tắt ngấm như ngọn đèn trước gió, vỡ tan như bọt nước
trên sông, mà tâm thức cũng trở nên u tối như quỷ ám của kiếp người. Thật
là Bóng đen ngấm xuống chân trời/ Hừng đông dâng cả bãi bồi lên
không (Trường ca người cùng thời)
Thời gian khách quan dường như được Mai Văn Phấn thu ngắn lại
bằng những hình ảnh sinh động mang các biểu tượng minh chứng cho một thời gian
siêu tốc luôn vận hành. Với thuyết luân hồi nghiệp báo, thân mệnh con người
không dừng lại đó. Thời gian cũng chịu quy luật tuần hoàn theo chu kỳ: âm
dương hoạ phúc vốn xoay vần. Chính trong cái thịnh suy mà con người giác
ngộ có những rung động trực cảm vút lên cao, chớp nhoáng như tốc độ thời gian vận
hành của cá thể biến chuyển qua “một phút chốc” trước cái thăng trầm “được” và “mất” của
trần thế. Tại đây, tâm thức con người được mở rộng, tiếp cận cái vô hạn bao la
của trời đất, cái tĩnh lặng của hư không, thời gian như thể nhập vào giác tính,
bởi con người đã giác ngộ và tâm thức vắng lặng. Cũng từ đó, mà sự thức nhận về
tương lai cũng bắt đầu từ những vang vọng trong quá khứ: Ngày sang thời vụ
gieo trồng/ Dường như tiếng sấm bên sông vọng về/ Dường như chuông đổ ngoài
kia/ Bà tôi nón lá áo the lên chùa (Người cùng thời). Thời gian trong thơ
Mai Văn Phấn luôn có sự lồng hiện, đan xen giữa quá khứ, hiện tại và tương lai
Thứ đến, hình tượng thời gian còn được tái hiện thông qua thời
gian trần thuật. Thời gian trần thuật trong thơ Mai Văn Phấn không được
tái hiện cụ thể trong một khung thời gian nhất định mà nó được lập trình theo hệ
thức thời gian phi tuyến tính. Sự xuất hiện tương quan sự kiện với thời gian là
một hiện thực về cụ thể hóa và cá biệt hóa. Điểm đáng chú ý, ở các sáng tác đã
có sự liên hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Thời gian có đôi khi đã được
tính bằng giây, ứng với sát-na theo như cách nói nhà Phật. Việc tính thời gian
bằng giây, bằng“thời”, bằng giờ, đã cho phép hình dung sự kiện trong sinh
hoạt bình thường của thực tại.
Từ lâu, con người đã cất bước theo cuộc hành trình trên các nẻo
đường sinh tử. Dường như, con người cứ mải mê với cuộc sống thực tại, nên thời
gian theo đó đã mang theo rất nhiều điều quý giá: Chưa kịp cất lời kinh/
Con chim sâu/ Vội chuyền sang cành khác (Sát na -Đơn vị đo thời gian
ngắn nhất của nhà Phật). Sự hệ lụy của con người là do vọng niệm khởi lên
trong một sát-na. Trong cái khoảnh khắc đó, con người đi ra ngoài tầm kiểm soát
của ý thức, dẫn đến các hành động gây khổ đau cho chính mình và xã hội. Để rồi,
con người chỉ có thể tìm thấy những phút giây yên bình trong hoài niệm, ở trạng
thái “nhắm mắt”: Khi nhắm mắt chợt thấy thế giới không còn ô nhiễm. Những
khoảng không thanh sạch quanh ta lan tỏa, đan cài. Thấy mình thuở nhỏ giữa lòng
nhà thờ cầm cây nến sáng. Ánh sáng ngọn nến đang tràn vào hốc mắt, vào trũng đất
sâu bất động giữa vòm cây bí ẩn mướt xanh. Nhắm mắt thấy rừng cây cũng giống
khu vườn. Những cây song mây, dương xỉ, cỏ dại cao lớn hiện hình cổ thụ. Những
chiếc lá kim vươn rộng che rợp chung quanh. Con ong đất, con nhím, con sóc, con
bò mộng cao lớn như nhau... Và bất động hồi lâu trong mắt nhắm
Mai Văn Phấn đã không đơn giản kể lại những thời khắc của các
sự kiện, mà luôn đặt chúng trong một không gian với các gam màu và nhịp điệu. Một
đêm dài đến rạng sáng, khởi điểm của một ngày gắn liền biết bao nhiêu sự kiện,
vụ việc, kể cả hồi tưởng chuyện đêm qua. Thời gian hằng ngày đã mang lại cho sự
kiện một hình thức vật chất của thực tại đời thường với biết bao nỗi lòng. Tâm
trạng theo thời gian mà biến chuyển qua việc miêu tả cảnh vật để diễn đạt thế
giới nội tâm con người. Từ sáng sớm, rồi giữa trưa, mặt trời lặn, hoàng hôn, chập
tối, nửa đêm… tuần hoàn như thế, thời gian khách quan như được thu ngắn, nhưng
lại căng ra bởi những tình cảm luyến ái, những đam mê, thói quen, tật cố của
con người. Mô tả sự kiện hiện thực, pha một ít gam màu gợi cảm khiến ta trầm tư
lặng nghĩ. Chẳng hạn, khi miêu tả thời gian vào lúc chập tối, Mai Văn Phấn đã bộc
lộ rõ nét cái tâm lý thường tình của con người trước cảnh ngày tàn, đêm đến:…
Khi cúi xuống dưới chân hoàng hôn/ Thấy bóng tối xếp dày hơn trước/ Chợt phát
hiện thấy nhiều lỗ thủng/ Những ngọn đèn vừa thắp trên sông (Mũi tên bóng
tối)
Lúc nửa đêm là khởi điểm của thời gian tâm trạng rõ nét nhất.
Con người như tự đối thoại với những nghiệp nhân, nghiệp quả do bản thân tạo ra
trong đời sống thường nhật. Không gian như đi vào tĩnh lặng thì tâm trạng con
người vận động trong cô đơn não lòng: Những giấc ngủ đã ngấm rượu độc/ trí
nhớ rối mù, rồi Có ai bên tai thều thào: Hãy thức chờ xem rêu phủ bầu trời/
Mặt nước ăn những vì sao cuối cùng (Còn cậu hãy đứng đằng kia). Thời
gian vật lý như kéo dài để con người tự khắc khoải chìm đắm trong giấc ngủ nồng
của đêm dài lắm mộng. Tính thực tại nhờ thế thêm đậm đà khi thời gian sự kiện gắn
liền với cảm xúc không gian hiện thực: Dưới những mái nhà còn ôm
nửa bóng đêm/ Ta hay đám rêu phong ẩm mốc/ Rùng mình... Héo
khô... Xanh thêm... Hoảng hốt.../ Trái chín thay áo hồng trút lại nửa
vành trăng. (Giấc mơ đi qua)
Cuối cùng, hình tượng thời gian còn được thể hiện ở cách tạo
dựng thời gian trong triết lý Phật giáo. Sáng tạo nghệ thuật của Mai
Văn Phấn càng về những giai đoạn sau càng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ tư tưởng
triết lí của đạo Phật. Phật giáo quan niệm, thời gian như một dòng chảy liên tục,
con người dễ bị cuốn hút theo dòng chảy đó. Nói rõ hơn, thời gian là một sự vận
động vô thủy vô chung của những vòng “luân hồi”. Con người ngụp lặn
trong những chu lưu đó với vô lượng “kiếp”, mỗi kiếp là một chu kỳ sinh,
lão, bệnh, tử. “Cửa Mẫu” chính là một trường đoạn kí ức thể hiện những
siêu nghiệm trong cấu trúc bề sâu về những quy luật của đời người. Kiếp này tạo
nhân, kiếp sau thọ quả, có khi nhân quả cùng thời trong một kiếp… Thời gian của
một đời người chẳng qua chỉ là một sát-na (khoảnh khắc) trong dòng chảy sinh tử
luân hồi: Lặng yên cho nước chảy/ Xối xả lâu lạnh toát mình đá/…/ Đá nhắm
mắt an nhiên nước cuốn (Đá trong lòng suối). Con người bị thời gian cuốn
trôi mãi. Một khi thân mạng mất đi, muôn kiếp khó trở lại. Theo quan niệm này,
thời gian vận động tùy theo nghiệp nhân, nghiệp quả của từng cá thể. Quá khứ - hiện
tại - tương lai là dòng chảy, nó sẽ trở thành chuỗi luân hồi báo ứng nhân quả
như bài Chuyện con dài nói: Con gián bò quanh tôi và nói/ vừa đầu
thai được ba tháng tuổi/ kiếp trước từng là người đàng hoàng/ Đàng hoàng sao chịu
phận xẹp lép?/ Tôi không tin và đu lên khung cửa/ Thế nhân chứng đâu? Vật chứng
đâu?. Thật ra, thời gian tuần hoàn trong một số thi phẩm được diễn dịch
theo cấu trúc tha hóa - đọa lạc - tỉnh giác - chứng ngộ. Phân tích sâu
hơn, chúng ta sẽ nhận ra quy luật vận động thời gian luân chuyển tuần hoàn
này:… Buổi sáng chống gậy ra đường nghe gió thổi, mỉm cười. Rồi vô
tình bị phát giác. Có người thấy tên tôi trong đống giấy phế liệu, hồ sơ ghi
làm gián điệp những hai mươi mang …Tôi bị con cháu chê cười, khinh bỉ chẳng
ra gì. Bị vu khống trắng trợn, không thể thanh minh. Trước khi tự tử tôi muốn
khóc. Nhưng tự nhiên khóc là việc rất khó với một người già. Tôi đành dỗ dành một
đứa trẻ sơ sinh vừa thức dậy trong tã lót còn cuốn chặt (Kể lại giấc
mơ). Đọa lạc hay thăng hoa của mỗi người là do chính bản thân quyết định.
Khi tâm và thân ra khỏi vùng tâm lý không hệ lụy, không ưu phiền, nhà thơ đưa
ra giải pháp phải “Sống hồn nhiên”: Vợ tôi bảo muốn chữa bệnh đau đầu/ phải
hồn nhiên như cây cỏ. Vì thế cho nên, Vợ lại bảo dù trí tuệ uyên bác/
nhưng chân tay ngại cử động/ cũng chẳng nghĩa lý gì. Đó chính thời gian để
con người tiếp cận thế giới “đại quang minh” của từ bi và trí tuệ. Sự
chuyển hóa này khiến con người thoát ly sinh tử. Thời gian chuyển động trở
thành thời gian vĩnh hằng của tự do vô giới hạn do tâm thức đạt đạo vận
hành: Ánh sáng đã ngủ yên/ Ta đang hồi sinh/ Trong vòng tay của đêm.(Nghi
lễ cuối cùng). Đó là cảnh giới bất sinh bất tử, vô khứ vô lai mà
thi sĩ mong đợi.
Nhìn chung, thời gian trong hành trình sáng tạo thơ của Mai Văn
Phấn được thể hiện như là phương tiện phản ánh hiện thực mà người nghệ sĩ
hướng tới, đó là hiện thực ở bề sâu. Với sự vận dụng tư duy triết học tôn giáo,
các thi phẩm đã phát sinh một thế giới nghệ thuật độc đáo, phong phú. Ở đó, con
người tồn tại trong thời gian hiện thực và chuyển hóa song song thành thời gian
vĩnh hằng với một không gian vô tận. Chính yếu tố thời gian nghệ thuật đã góp
phần tạo ra những giá trị thẩm mỹ cao và một chân trời nghệ thuật rộng mở, để
người nghệ sĩ được thỏa sức với những ước mơ, khát vọng.
2.3. Hình tượng con người trong cảm hứng tôn giáo
Văn chương dù đứng ở điểm nhìn nào thì phần đa đều lấy hình
tượng con người làm trung tâm. Văn học là nhân học, vì thế cho nên con người
luôn là hình tượng được thi sĩ dày công tạo dựng và gửi gắm những quan niệm nhất
định về nhân sinh quan, thế giới quan. Đứng từ những điểm nhìn khác nhau nên mỗi
nhà văn lại tự xây dựng cho mình những hình tượng khác nhau. Với cảm hứng tôn
giáo, Mai Văn Phấn đã soi chiếu vào thế giới nhân vật của mình bằng con mắt của
một triết gia. Không phải là sự bao bọc bởi “vòng vòng hào quang” mà thi sĩ để
cho hình tượng của mình tự tỏa ánh hào quang chỉ bằng bút pháp nghệ thuật hóa
sâu sắc và tinh tế. Hình tượng con người trong thơ Mai Văn Phấn, không phải chỉ
đơn giản hóa với đời sống thực, mà cao hơn nó còn được trừu tượng hóa với vẻ đẹp
của Đấng – Toàn – Năng. Vẻ đẹp ấy, có thể được thể hiện dưới những hình thức
khác nhau, nhưng nhìn chung đều thể hiện tinh thần nhân bản sâu sắc của thi
nhân ở sự cứu rỗi và giải thoát con người giữa khổ đau thực tại.
2.3.1. Hình tượng cái tôi trữ tình
Hướng về hiện thực ở bề sâu luôn là khát khao cháy bỏng trong
tim người thi sĩ. Một thế giới thơ với nhiều các cung bậc cảm xúc và giàu tính
nhân văn. Đến với thơ, bằng sự nhạy bén và tinh tế chảy từ con tim người thi
sĩ, Mai Văn Phấn đã cho người đọc tiếp cận với một hình tượng cái tôi trữ tình
hết sức độc đáo và ấn tượng. Cái tôi đó tồn tại không hề có sự biệt lập với thế
giới bên ngoài mà luôn trong tâm thế hòa đồng cùng khách thể. Nhà thơ trải lòng
mình với đất trời và vạn vật với tinh thần “thiên nhân hợp nhất”. Bởi thế cho
nên, hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ hiện lên với nhiều dáng vẻ: Đó là một
kẻ say đắm trong tình yêu; Một người hết lòng sùng kính với đấng tối cao bằng một
đức tin thiêng liêng, màu nhiệm; Và, đặc biệt là một tấm lòng, một trái tim nhạy
cảm luôn hòa hợp với con người và vạn vật. Tất cả đã tạo nên những nét đẹp
riêng, đầy phong cách từ dáng vẻ đến tâm hồn của thi sĩ.
Trước hết, khi tiếp xúc với những trang thơ chan chứa cảm xúc
của Mai Văn Phấn, người đọc không khỏi ấn tượng về hình ảnh một nhân vật trữ
tình đắm say trong tình yêu. Con người ấy giám yêu và khao khát được yêu, một
tình yêu chân chính. Nếu như tình yêu với tuổi trẻ là ngọn lửa đam mê trong nỗi
khát khao rực cháy, thì ở Mai Văn Phấn tình yêu có độ chín nhất định về mặt nhận
thức, nên tình yêu ấy không chỉ đẹp ở cách yêu mà còn đẹp cả trong tâm thế của
người yêu. Mai Văn Phấn là người ý thức rất rõ về ý nghĩa của tình yêu như một
phép màu nhiệm, nên thi sĩ rất trân trọng người mình yêu. Mai Văn Phấn đến với
tình yêu trong tâm thế của một người khao khát sự hòa hợp của hai tâm hồn, hai
trái tim: Bờ vai em bức tường ngày xa/ Anh giấu kín ngăn sách/ Ngọn đồi kiêu
hãnh/ Nâng anh gió mạnh/ Cây cầu bắc qua tháng ngày. Hay, nhiều hơn là sự khao
khát như ánh sáng diệu kì chảy từ một con tim thành thật, “anh” như muốn vỡ
tan, muốn hòa điệu:… Nhòa tan anh với mung lung/ Em là giếng gió trong
lòng/ Nhấn chìm anh thoắt đã không còn gì/ Hư vô thành thật cũng vì yêu em/ Tiếng
em gọi chói chang bên kia sông mơ, con thuyền anh bỗng thành con chó nhỏ…(Em
xa). Ở thi sĩ, khát vọng yêu, khát vọng gắn bó rất đỗi mãnh liệt nhưng cách nhà
thơ đến với tình yêu luôn bằng sự ngưỡng vọng tuyệt đối. Tình yêu của em được
tôn thờ như thứ ánh sáng trên cao, anh chỉ có thể chiêm ngưỡng và chờ đợi sự
ban phát. Và, cũng chính tình yêu ấy đã mang lại sức mạnh hồi sinh trong
anh:… Anh dũng cảm lún sâu/ Chờ sinh lại trong tóc mềm (Được quyền
nghĩ những điều đã ước)
Với Mai Văn Phấn, tình yêu nam nữ luôn gắn liền với những
tình cảm cao cả. Thâm nhập vào thế giới thơ tình của Mai Văn Phấn, người đọc
như được chạm đến bờ cõi của những vẻ đẹp đến thánh thiện, những vẻ đẹp trong
sáng đến toàn mĩ, ngay cả khi nhà thơ nhắc đến sự gắn bó về thể xác trong tình
yêu cũng đậm chất thơ: Em là vỏ chát anh là nhân/ Quấn quýt heo may chuyển
ngọt dần/ Hôn nhau thành quả rơi trên cỏ/ Xanh ủ trên đầu chín dưới chân (Quả
thu). Và, trước sức hút của một trái tim đắm say trước vẻ đẹp của người mình
yêu thì:… Quyến rũ quá sao mà chịu được/ Bồng em lên / Và xiết chặt hơn/
tới vỉa quặng khai phá ký ức/ xa vời/ rợn ngợp chông gai…Vì thế, nhà thơ phải: Tưởng
tượng em hiểu anh/ được yêu/ hình hài đã tặng (Bông hoa).
Đặc biệt Mai Văn Phấn cho rằng, tình yêu cũng là một cách thức
giải thoát để mang lại sự tái sinh, hồi sinh bất tận. Em là ngọn lửa thiêu đốt
trái tim yêu, là ánh sáng đưa anh tới bến bờ hạnh phúc. Tình yêu đó hiện lên
như một nghi lễ thiêng liêng, là hình thức rửa tội, ban ơn: Vừa chạm vào bờ
ánh sáng/ Anh quỳ xuống/ Anh hiện thân trong chiếc áo thiên thần/ Lấy một ít nước
gọi lên máu và sữa cỏ/ Em dịu dàng rửa tội cho anh (Nghi lễ cuối cùng). Rõ
ràng, cái tôi trữ tình say đắm trong tình yêu nhưng là một sự say đắm đầy lí
trí. Cái tôi ấy đến với tình yêu trong tâm thế của một kẻ tôn thờ, ngưỡng vọng
dù trái tim yêu lúc nào cũng rạo rực với những khát khao rát bỏng. Tất cả đã tạo
nên một bản âm hưởng tình ca đầy ý vị, mang một phong cách rất riêng của Mai Văn
Phấn.
Trong thơ Mai Văn Phấn, bên cạnh cái tôi trữ tình say đắm
trong tình yêu thì cái tôi ấy còn thể hiện tấm lòng chân thành của mình trước Đấng
tối cao với cái nhìn thành kính, ngưỡng vọng, bằng một đức tin thiêng liêng,
màu nhiệm. Như trên đã nói, Mai Văn Phấn sinh ra trong một gia đình có truyền
thống theo đạo Thiên chúa. Từ nhỏ ông đã là một con chiên ngoan đạo, trong tâm
hồn ông lúc nào cũng tồn tại lòng tin về một thứ quyền năng ở một thế giới
khác. Đến với thế giới nghệ thuật, ông thể hiện một sự thức nhận sâu sắc về ánh
sáng của Đấng – Toàn – Năng luôn chi phối đến đời sống con người. Vì thế, nhà
thơ luôn thận trọng sử dụng những ngôi lời tế vi nhất, như một sự sùng kính
dâng lên Người: … Chúa cũng đã một thời/ Chết như người hành khất/ Máu
Chúa hòa nước sạch/ Rửa tội cho cộng đồng (Nguyên Hồng vào nhà thờ). Sự ra
đi của Chúa dưới con mắt của những con chiên nói chung và đặc biệt với nhà thơ
là một sự hi sinh cao cả. Cái chết của Chúa không phải là kết thúc sự sống, mà
là sự khởi đầu cho triệu triệu sự sống khác. Máu Chúa rửa tội cho chúng sinh, hồi
sinh cho hàng vạn mầm sống. Mai Văn Phấn thể hiện một niềm xót xa, trong sự
thành kính sâu sắc của một cá thể chúng sinh được hưởng sự ban phát phước lành
từ Chúa.
Không dừng lại ở đó, đến với “Cửa Mẫu”, Mai Văn Phấn đã tạo
ra sợi dây gắn kết giữa vô cùng đặc biệt giữa “con” và “Người”. Ở đây, đứng ở vị
thế của “hậu thế” trong cái nhìn ngưỡng vọng với “Đấng sinh thành”. “Mẫu” là điểm
tựa tinh thần, là bầu trời độ thế, che chở cho con: Mẫu nâng niu con ánh
trăng/ Tiếng chuyền cành tiếng hú/ Da thịt con yêu trải sâu đêm tối/ Dựng tầng
mây mưa nguồn. Với tư cách là một sinh linh tồn tại trong lòng vũ trụ bao
la kia, nhân vật trữ tình thể hiện một niềm “tri ân” đối với Đấng sáng tạo, thi
sĩ tự nhận mình là con của người. Vì thế, hình tượng “Mẫu” tưởng như xa vời kia
lại trở nên gần gũi hơn, gắn bó yêu thương trong chính cuộc đời. Bằng lối dẫn
truyện hồn nhiên, trong sáng Mai Văn Phấn đã tạo ra được sợi dây kết nối thiêng
liêng giữa con người với cội nguồn. Ở đó, người đọc như được nhìn thấy những
hình tượng sống động về Đấng – Toàn – Năng, đó là những hình tượng đang hiện hữu
trong chính đời sống tâm linh của con người. Bên cạnh đó, cũng trong “Cửa Mẫu”,
điều khiến người đọc bất ngờ không phải nằm ở sự hiện hữu của hình ảnh, hình tượng
mà là sự lồng hiện các hình tượng khác nhau xuất phát từ điểm nhìn ái kính của
nhân vật trữ tình. Tính nhân bản của thi phẩm một lần nữa lại được khẳng định.
Mai Văn Phấn đã rất thành công khi tạo ra sự đồng hiện của kiếp người thông qua
hai hình tượng cha và con: con là ấu thơ là kí ức của cha, cha là hình ảnh
tương lai của con; con là sớm, cha là chiều; con là ra đi, cha là lúc trở về. Cửa
Mẫu là xuất phát điểm cũng nơi kết thúc một hành trình vừa nhiệm màu, vừa khổ ải.
Hai hình ảnh ấy dìu nhau cùng biểu đạt quy luật của đời người là tứ thơ độc đáo
của Mai Văn Phấn. Chính mối liên hệ mang tính huyết thống này đã chuyển tải tối
ưu ý niệm của Mai Văn Phấn về một đức tin màu nhiệm có khả năng xua tan khổ đau
mang lại ánh sáng hạnh phúc cho con người. Hạnh phúc ấy trước hết là sự sống,
là niềm tin ở một cõi nhân sinh tốt đẹp. Vì thế cho nên, con luôn cầu nguyện
cho bóng đêm đi qua, bình minh ánh sáng lại tới, để sự nhiệm màu ban phát sự sống: Từng
chồi chân tay bé xíu/ Bật nhẹ trong cơ thể Người/ Con tỉnh giấc.
Cuối cùng, khi nói về hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ
Mai Văn Phấn chúng ta có thể dễ dàng nhận ra hình ảnh quy tụ ở một tâm hồn, một
trái tim hòa hợp với thiên nhiên và vạn vật. Nhà thơ đến với thế giới hình tượng
không chỉ bằng cái tài hoa của một người nghệ sĩ, mà còn bằng “cái tình” sâu nặng
chảy từ trái tim yêu. Nhân vật trữ tình trải lòng mình giữa thiên nhiên vũ trụ
và con người trên tinh thần “thiên nhân hợp nhất”: Tôi ngước lên dòng thác
màu tím nhạt từ bông hoa đang dội xuống ngực mình. Không phải ai đi qua mùa hè
cũng được vô tình tắm gội/ Vực thẳm của bóng cây khi chiếu xuống càng hun hút
và rợn ngợp. Biết có ai dìu những bông bằng lăng bé bỏng đi đâu. Chắc hoa vẫn rực
rỡ và thản nhiên ban phước (Hoa bằng lăng). Rõ ràng, với thi sĩ sắc đẹp của
thiên nhiên ban tặng cho con người cũng là một điều phước lành. Cảm hứng tôn
giáo chi phối đến cách nhìn và cách thể hiện, để từ đó ngôn ngữ thơ chuyển tải
một sức nặng cơ bản đưa tôn giáo đến gần cuộc đời hơn. Phải là trong tâm thế của
một nhà thơ, luôn hòa mình vào đất trời thì mới có thể cảm nhận được mọi sự
thay đổi tế vi nhất của thiên nhiên, Muốn dừng lại bên đường/ Nằm lên cỏ/
Trời cao mong leo lên cây/ Nhìn xuống tiếc nuối cát/ Thèm trộn vào cát/ Giây
phút phân vân anh bất động (Hình đám cỏ - nhịp II)
Trong thơ Mai Văn Phấn thiên nhiên cũng có hồn, cũng có tâm
trạng đặc biệt. Nếu như thơ xưa với “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” thì
trong thơ Mai Văn Phấn, thiên nhiên cũng mang quyền năng riêng – thứ quyền năng
của tạo hóa: Miệng bóng tối ghé vào thanh bạch/ Hơi độc từng phun ngược lại
âm hình/ Nơi đoán phạt trắng đen, thiện ác/ Lá cỏ trồi ra chiếc lưỡi phân minh (Tập
phát âm). Rồi ngay cả những vật tưởng như là vô tri, vô giác cũng có xúc cảm
riêng và ước mơ riêng, đó là ước mơ thoát khỏi bóng đêm để vươn tới những chân
trời tràn đầy ánh sáng: Bóng những chiếc ghế, hàng cây, ngọn tháp…/ Trốn
màn đêm đi tìm ước mơ/ Những lưng ghế không biết đổ mồ hôi/ Và tán lá không làm
ra diệp lục/ Cả quả chuông cố rung lên mà không thành tiếng….(Phía sau ánh
sáng). Tâm hồn thi sĩ cùng ngân vang với khúc biến tấu của vạn vật về sự sống.
Khát vọng hướng tới một bầu trời đầy ánh sáng và thanh sạch như hướng về một thế
giới thuần khiết, thiêng liêng nơi cõi lòng. Khúc nhạc ấy có khi lại được ngân
lên từ những nỗi đau, sự mất mát. Khi ấy, vạn vật và con người cùng lắng đọng để
chia sẻ và thấu hiểu: …Cuộc chiến tranh lại đi qua những thời thiếu nữ/ Ngọn lửa
Na-pan lùa vào giấc mơ làm mẹ làm vợ/ Nay có chị về núp bóng nâu sồng/ Rung lên
những quả chuông hoàng hôn./ Những lồng ngực mang hình quả chuông!/ Những ánh mắt
trẻ thơ mang hình quả chuông!/ Những hộp sọ vang cùng quả chuông!/ Những giọt
máu vang cùng quả chuông! (Trường ca người cùng thời). Gấp trường ca lại lời
thơ như còn vang vọng mãi trong tâm trí của người tiếp nhận. Cái đọng lại không
chỉ đơn giản là hiện thực chiến tranh với những đau thương, mất mát, mà cao hơn
đó là cách lồng hiện hình tượng hết sức tinh tế của thi sĩ tạo nên một bản hòa
tấu của con người và vạn vật về những đau thương, mất mát ấy. Điều này xuất
phát từ thế giới quan tiến bộ về quan niệm “vạn vật hữu linh”, để từ đó Mai Văn
Phấn sáng tạo ra sự cân xứng trong mối quan hệ với con người. Thơ ông thực sự
có hồn và lôi cuốn người đọc ở sắc điệu này. Có thể nói, trên ba bình diện về
cái tôi trữ tình thì đây là bình diện quy tụ nhất, sâu sắc nhất quy chiếu toàn
bộ hành trình sáng tạo nghệ thuật. Để rồi, trên đường dấn thân đi tìm nẻo khác
cho thơ mình, cái nẻo càng ít dấu chân, thậm chí chưa có dấu chân ai đó càng tốt.
Mai Văn Phấn đã dằn mình để cho sự mạo hiểm thắng sự sợ hãi và chấp nhận cả những
đau xé; cơn đau siêu thực hành hạ ông có khi còn hơn những cơn đau hiện thực,
khiến ông mong rằng nó chỉ là một giấc mơ, Tôi cúi xuống đón chiếc ách lên
vai/... Tôi chạy quanh và miệng sùi bọt/ Tôi nhễ nhại giả chết, lồng lộn/ Tôi
rã rời, loạn nhịp/ vỡ tung/ Tôi thấm nước và vắt ra nước (Chỉ là giấc mơ).
Đây rõ ràng là tác giả không mấy đi tìm nỗi cảm thông ở người đọc mà là đang
làm một việc gần như bóp chết bản ngã để hình thành một chủ thể khác, mong
trình bày tâm trạng một cách khách quan nhất có thể. Vậy, cũng là bước đầu tìm
một điểm tì vịn mà bật lên đổi mới nội dung.
Như vậy, cái tôi trữ tình trong trong thơ Mai Văn Phấn là một
hình ảnh đa diện. Lật từng trang thơ, người đọc có cảm giác như đang được đối
diện với một “lòng nhân” cao cả, nhà thơ đang đứng ở vị thế của một người “phổ
độ chúng sinh” để ban phát sự sống và đức tin cho vạn vật. Bằng một trái tim nhạy
cảm, thi sĩ đã thổi hồn vào thế giới đa sắc màu kia, để chúng cùng sống, cùng
“bén rễ” trong thế giới tâm thức của con người. Mai Văn Phấn là người có ý thức
trong việc hướng những vần thơ của mình tới một thế giới đầy ấy sáng. Đây cũng
là tinh thần cơ bản của Thiên chúa giáo soi chiếu đến những tập thơ đầu tay của
thi sĩ. Với những bài thơ mang đậm âm hưởng thánh ca, đa số câu thơ đều hướng tới
ánh sáng và có sự phân biệt rạch ròi giữa ánh sáng và bóng tối. Chất thơ mang
trong mình những ánh sáng diệu kì từ miền vô thức. Hay nói đúng hơn, trong suốt
hành trình sáng tạo thơ, Mai Văn Phấn luôn có ý thức hướng thế giới hình tượng
của mình tới sự sống ánh sáng. Đó là thứ ánh sáng của tâm linh với tất cả sự
linh thiêng và thanh sạch. Phải là một tâm hồn yêu người, mến cảnh đến thế nào
thì Mai Văn Phấn mới có thể mang đến một thế giới thơ thuần khiết và giàu màu sắc
nhân văn đến vậy.
Hình tượng người tình đồng nghĩa với nhân vật “em” trong các
thi phẩm của Mai Văn Phấn. Hình tượng ấy được nhìn nhận ở nhiều bình diện khác
nhau. Có lúc là con người hiện thực, lúc lại được nghệ thuật hóa bằng liên tưởng
và tưởng tượng thành một hình tượng hư cấu. Vì vậy, hình tượng này hiện lên
không hề đồng nhất mà thể hiện sự đa dạng, với nhiều dáng vẻ trong thơ. Và, nó
chỉ thực sự nhất quán ở chiều sâu trong tâm thức người tiếp nhận.
Trước hết, “em” hiện ra ở sự đối xứng với “anh” trong tình
yêu qua khuôn hình của kẻ đang yêu vô cùng tình tứ: Con sâu đo em đu lên
người anh/ thì thầm gặm hết những xanh non (Gió thổi).Trong thơ Mai Văn Phấn,
tình yêu cũng là một “nghi lễ” thiêng liêng, nghi lễ ấy được bao phủ bởi một sức
mạnh quyền năng. Ở đây, “em” là khởi nguồn của tất cả sự sống, Yêu nhau.
Là những nghi thức dâng tụng trời đất. Bây giờ là mùa xuân. Anh mệnh kim và em
mệnh hỏa. Từ lửa làm ra thổ, ra mộc, ra thủy. Đất rùng mình. Sông chảy. Ngàn vạn
đọt mầm từ thân thể nở bung (Anh anh em em). Hình ảnh Em trong vẻ đẹp
sinh nở, hoài thai, có lẽ là một hình ảnh mang ý nghĩa nhân sinh cao cả: Khẽ
nhắm mắt, khẽ ngậm vào tóc em/ Đang chết đi và đang sinh sản/ Dù có lả đi thành
âm u bóng tối/ Lại thấy huy hoàng chạm những môi hôn (Anh đã rơi)… Vì
thế cho nên, Anh là con đường lạc loài trong cỏ/ Biết bao giờ
tới được vầng trăng/ Nước mắt đầu non nở thành hoa dại/ Rũ tàn phiêu
dạt chốn cô liêu (Vầng trăng và con đường). Ánh sáng từ em là thứ ánh
sáng của vầng trăng ở trên cao, anh chờ đợi em soi chiếu như chờ một sự ban
phát. Để rồi, sự mong mỏi đó trở thành một nỗi khát khao trong tâm hồn của một
kẻ yêu “ngây dại”. Yêu em, cũng là yêu thứ “ánh sáng thanh cao” có thể soi tỏ mọi
“con đường” trong anh.
Mặt khác, người tình mang trong mình một thứ quyền năng mầu
nhiệm: Em đã nghe/ Nên gốc cây vừa mới tưới ngấm nhanh đến thế/ Vòm phượng
vĩ đẫm sương sáng nay bốc cháy/ Những quả ngô đồng khô nỏ khua vang (Sáng
mùa hè). Một quyền năng thiêng liêng với cả vũ trụ bao la: Em gom mùa
nào thức ấy/ chùm hoa bưởi mùa thu/ trái mận mùa xuân (Từ nhà mình)
Nói về thơ tình, Mai Văn Phấn có không ít những bài thơ thật
quyến rũ trong vóc dáng thanh tân hiện đại: Sáng mùa hè, Gương mặt em, Gió
thổi, Nghe em qua điện thoại, Vườn em. Những bóng hình em trong các bài thơ ưu
tú ấy đều mang tư thế của kẻ đem cho, che chở, dâng hiến, tạo dựng giá trị. Nữ
tính và mẫu tính hài hòa trong mỗi giai nhân. Nhà thơ trong vai anh hiện ra như
kẻ được ân hưởng, được “rửa tội”, được “ban phép lành thánh thể” như một tín đồ
trong tính thiêng liêng mầu nhiệm của Đạo Yêu:… Lấy một ít nước gọi lên máu và
sữa cỏ/ Em dịu dàng rửa tội cho anh…(Nghi lễ cuối cùng). Vì thế, viết về tình
yêu qua các giai đoạn sáng tác cũng có sự thay đổi. Ở giai đoạn đầu, khi dấu ấn
Thiên chúa giáo in đậm trong sáng tác, thì tình yêu, đặc biệt là vấn đề tình dục
luôn được nhà thơ nghi lễ hóa bằng cách nâng người mình yêu lên “chín tầng trời”,
xem những khát khao trong tình yêu là những vùng trời xa xôi, khó nắm bắt và
đoán định. Nhưng, càng về giai đoạn sau, khi tư tưởng hòa đồng của các tôn giáo
soi rõ tâm thức thơ, cùng với sự ảnh hưởng sâu sắc của đạo Phật, thì Mai Văn Phấn
đã có một sự nhận thức lại về người mình yêu, cũng như sự tận hưởng trong tình
yêu chính là “bữa tiệc ngay trong cuộc sống trần thế”.
Hình tượng Em có lúc đồng nhất với Người tôi yêu mến, nhưng
phần đa chúng ta khó đoán định được ở sự thống nhất, bởi nó không nằm ở một sự
nguyên phiến nhất định, khi: Chúa Jê-su và Phật Thích – ca/ Trên cỗ xe năm
2000/ Cả Người tôi yêu mến nữa/ Họ cùng bên nhau lặng yên… (Hoang tưởng
năm 2000). Một thế giới thơ gợi mở, để người đọc thỏa sức với sự tự do sáng tạo
và kích thích trí tưởng tượng ở họ. Đây là tố chất thơ tiến bộ của thơ hôm nay
nói chung và đặc biệt là ở cách thể hiện của thơ Mai Văn Phấn. Nhà thơ đã tạo
nên một sợi dây gắn kết thiêng liêng giữa đạo – đời và tình yêu. Bởi, trong triết
lí của một hồn thơ tôn giáo, dù là Chúa, Phật hay Người yêu mến thì đều gặp gỡ ở
một tình yêu lớn. Tình yêu ấy có đủ khả năng để san lấp mọi khoảng cách, cùng
thiết lập một thế giới đại đồng yêu thương. Cũng như vậy, hình tượng Em
còn có khả năng tạo sự gắn kết trong cõi nhân sinh, …. Mới nghe nửa câu điện
thoại/ Đã biết anh lạc đâu đâu/ Tiếng nước từ đỉnh thác êm/ Em đang nối hai đầu
thế giới… (Hình đám cỏ)
Rõ ràng, hình tượng Em không phải là một hình tượng đơn thuần,
mà nó mang một ý nghĩa triết học. Nhà thơ luôn đứng ở một vị trí tương thích để
cảm nhận về Em với một niềm ngưỡng vọng. Niềm ngưỡng vọng ấy được soi tỏ như
cách của “một con chiên” đối diện với Đấng tối cao. Bởi thế hình tượng em có
lúc được nâng lên thành một “thánh nhân”: Ngược dốc tới gần cổng chùa/
Khuôn mặt em chợt hiện Quán Thế Âm Bồ Tát/ Mang chiếc túi màu nâu/ Cổ cao, váy
chùng, nhẫn trắng.../ Vòng vòng hào quang/ Trong vòm trời sáng láng/ Tâm tưởng
con xin sấp mình/ Thân con rỗng không/ Hạc khô chiếc mõ chân tâm trì chú.../
... "Om Mani Padme Hum"* (Lên chùa).
Ở đây, Em đồng nghĩa với “thánh nhân” - Quán Thế Âm Bồ Tát.
Quán Thế Âm Bồ Tát là một vị Bồ tát hiện
thân lòng từ bi của tất cả chư Phật, luôn lắng
tai nghe âm thanh kêu cứu từ chúng sinh cùng khổ. Quan Thế Âm thường được xem
là đại diện cho người Mẹ với tình thương bao la, luôn lắng nghe tiếng
than thở từ chúng sinh và hết lòng cứu giúp trong cơn nguy khó. Dưới ngòi bút của
Mai Văn Phấn, hình ảnh thanh cao về Người đã trở nên gần gũi hơn. Thi sĩ gọi
Người là Em nhưng lại xưng Con, cách đối thoại như vậy có vẻ mâu thuẫn trong
logic thông thường nhưng lại thống nhất ở logic bề sâu. Nhờ thế, hình ảnh Quán
Thế Âm không phải chỉ là một hình ảnh mơ hồ, luôn ngự trên ngôi cao xa cách, mà
có ngay trong hiện thực đời sống. Người sẽ đến (có thể là chỉ trong ý nghĩ),
khi tâm con “thanh tịnh” và một lòng cầu nguyện.
Như vậy, hình tượng người tình không phải đơn thuần là một
hình hài cụ thể, một tình cảm cụ thể mà là một ý niệm trong tư duy siêu thực
xuyên suốt hành trình thơ. Dù là hình ảnh thực được miêu tả rất chi tiết về
móng chân màu cà phê, làn tóc mây, giọng nói thánh thót, hay sự linh hóa thành
những biểu tượng của sự “cứu rỗi”, “siêu thoát”, “hồi sinh” thì Em vẫn là một
hình ảnh thánh thiện và là hình tượng đẹp trong anh. Em lẫn trong hành trình
sáng tác có lúc vô hình, vô ảnh nhưng lại là điểm tựa cần thiết cho sáng tạo
nghệ thuật, từ đó tạo nên một sự đa diện, để người đọc có thể cảm nhận một cách
toàn vẹn nhất.
2.3.3. Hình tượng “Mẫu”
Cảm hứng tôn giáo chi phối nhãn quan của người nghệ sĩ khi
xây dựng những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng tôn giáo. Với những hiểu biết
sâu rộng về nhiều loại hình tôn giáo khác nhau, không chỉ với những tôn giáo
ngoại lai mà cả tôn giáo của dân tộc đã tạo cái nhìn đa năng, biện chứng của
người nghệ sĩ khi xây dựng hình tượng. Chính điều này đã khiến cho thế giới thơ
ca Mai Văn Phấn tuy giàu sắc màu hiện đại nhưng vẫn đậm chất thuần Việt.
Ở Việt Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng mang đậm chất bản
địa và nguyên thuỷ. Bởi vì tín ngưỡng thờ Mẫu có nguồn gốc sâu xa từ chế độ mẫu
hệ, trong đó người mẹ, người vợ giữ vị trí quan trọng trong gia đình. Do vậy,
trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong văn chương nghệ thuật thì chữ “Mẫu”,
chữ “Mẹ”, chữ “Cái” vẫn giữ nguyên giá trị như nó vốn có cho đến bây giờ. Cũng
từ đó, hình ảnh “Mẫu” đi vào thơ Mai Văn Phấn cũng rất tự nhiên dưới góc nhìn
được nghệ thuật hóa. Bằng sự khéo léo, nhà thơ đã rất tinh tế khi nhìn nhận “Mẫu”
cũng là một sự biểu hiện của Đấng – Toàn – Năng. Mai Văn Phấn đã tìm ra sợi dây
gắn kết, gần gũi giữa các tôn giáo khác nhau. Trong thế giới tâm linh, tất cả
các tôn giáo đều dễ dàng có sự gặp gỡ. Chính vì thế, hình tượng về tôn giáo
không phải sự phản ánh đơn nhất mà được đặt trong các mối quan hệ tương thích.
Ví như, sự thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau giữa đạo Phật và tín ngưỡng thờ
Mẫu theo khuynh hướng dân gian hóa là điều dễ hiểu bởi lẽ, đó là tín ngưỡng dân
dã của người dân, cùng hướng về cái từ bi bác ái, tinh thần cộng đồng, khuyến
thiện trừ ác vốn là nền tảng trong nguyên tắc ứng xử của xã hội cổ truyền. Hai
thứ tín ngưỡng này bổ sung cho nhau đáp ứng nhu cầu tâm linh của người nông
dân: Theo Phật để tu nhân tích đức cho đời, kiếp sau được lên cõi Niết Bàn để
cuộc sống tươi sáng hơn, tự do hơn, còn theo đạo Mẫu là mong được sự phù hộ độ
trì đem lại sức khỏe, tài lộc, may mắn cho đời sống thường ngày. Hình tượng
“Mẫu” đã tạo nên không khí gần gũi, sự gắn kết trong tâm hồn mỗi người. Và
tinh thần ấy đã được Mai Văn Phấn thể hiện độc đáo trong thơ.
Dưới nhãn quan của người nghệ sĩ, “Mẫu” là khởi nguồn của mọi
sự sống trên thế gian, là Đấng Sáng Thế đầy quyền năng, là nguyên nhân của quy
luật sinh tồn. Chỉ bằng một trường đoạn kí ức “Cửa Mẫu” mà những siêu nghiệm
trong cấu trúc bề sâu đạt đến độ nhuần nhuyễn trong nghệ thuật xây dựng hình tượng.
Hình tượng “Mẫu” là biểu trưng của cảnh khai thiên lập địa. Vũ trụ lúc ấy tối
tăm mù mịt, là một khối hỗn độn vô hướng của nước, lửa và những sinh vật bán
khai. Giữa buổi hồng hoang ấy, bà mẹ hoài thai sinh ra đứa con mang dáng dấp
Con Người. Hình tượng “con” ở đây còn bao hàm cả khái niệm vũ trụ (ánh trăng,
mây mù, mưa nguồn chớp bể, bóng đêm, vầng mặt trời, đáy nước, đàn chim, con
nòng nọc, lá mầm…). “Cửa Mẫu” không có thời gian, không gian cụ thể mà là những
khái niệm giả định, được đo đếm bằng những đại lượng “ảo” do chính “Mẫu”, một
thứ totem siêu hình không thể cắt nghĩa rõ ràng được, quy định được. “Mẫu” mang
trong mình sức mạnh bản năng của “Đấng sinh thành”: Mẫu nâng niu con
ánh trăng/ Tiếng chuyền cành, tiếng hú/ Da thịt con yêu trải sâu đêm tối / Dựng
tầng mây mưa nguồn. “Cửa Mẫu” có 9 khúc, mỗi khúc đều được gắn với những
hiện tượng, những quy luật trong nhận thức vạn vật tương thông. Mỗi khúc vừa hé
mở lại vừa khép kín những bí mật của vũ trụ, lúc thì như là sự giải thích, lúc
lại như những câu sấm truyền tối nghĩa bằng thủ pháp ẩn dụ. Và, chính qua các
khúc ấy góp phần hoàn thiện vẻ đẹp của hình tượng thiêng liêng. Có thể nói, “Cửa
Mẫu” là một cố gắng tự khám phá thế giới tâm hồn, tìm vào tầng vô thức khám phá
bí mật của Tạo Hóa. “Cửa Mẫu” không giải thích mà chỉ nêu hiện tượng cùng mối
quan hệ rất bình thường của các quan hệ ấy. Có vẻ như, khi viết “Cửa Mẫu”, Mai
Văn Phấn đang trong trạng thái “lên đồng”. Tác giả đã hóa thân thành một chủ thể
hoàn toàn khác, có khả năng cảm thấy, nhìn thấy những thứ mà người trần mắt thịt
bất lực. Ngôn ngữ “Cửa Mẫu” dồn nén, trơn tru, kéo dài thành những trường đoạn
với hàng loạt câu ngắn phảng phất loại ca từ chầu văn, diễn tả thế giới mông
lung nửa thần thánh nửa trần tục.
Yếu tố triết lý được loại bỏ ngay từ đầu, thay vào đó là những
nghiệm sinh được đúc rút qua quá trình sống của các thế hệ được di truyền lại.
Như vậy, “Mẫu” được tôn vinh như là thủy tổ của muôn loài, Cửa Mẫu chính là khởi
nguồn của sự sống trên Hành Tinh Xanh. Hình tượng “Con” ẩn dụ vạn vật trong cuộc
đấu tranh sinh tồn trong lịch sử tiến hóa. “Mẫu” là đấng toàn năng, khi sinh
thành ra “Con” cũng là lúc Người trao cho nó cẩm nang sống. Hình ảnh “Con” vừa
có tính cá thể, vừa mang tính quần thể, là hiện thân của sức quật cường trong
hành trình tự khám phá mình để đến tương lai. Đây là những vần thơ cảm nhận sự
huyền vi của Tạo hóa khi vạn vật đang sinh thành: Da thịt con yêu trải sâu
đêm tối/ Dựng tầng mây mưa nguồn/ Con lặng lẽ đi qua vầng mặt trời
đáy nước/ Nhìn hướng bầu trời mở đôi cánh. Và sự sống nguyên thủy qua
hình ảnh đảo ngược gây hiệu ứng siêu thực: Ngọn cây vươn mỏ con chim/ Đang
cúi xuống mớm vào miệng con từng hớp gió. Vượt lên trên hết là quy luật sinh diệt
của vạn vật do “Mẫu” tạo nên cho thế giới tự nhiên, dạy “Con” thích ứng với
hoàn cảnh: Tiếng hạt vỡ trong ngực/ Bơi qua sông con nòng nọc đứt đuôi/ Tập
vỗ cánh, quạt gió vào lòng tổ/ Bật lá mầm bay đi thênh thang.
“Mẫu” vừa là vũ trụ vĩ mô vừa là vũ trụ vi mô được nhận thức
như là một ý niệm vô thủy vô chung. Nơi sinh ra cũng là nơi kết thúc của mỗi cá
thể bởi phương thức cộng sinh. Phương pháp siêu thực kết hợp với biện pháp đảo
trang, hòa đồng một cách ngẫu hứng côn trùng, thảo mộc, muông thú và con người
trong trật tự khá hỗn loạn: Đặt con lên đất/ Lòng sông đau xé thân đêm/… /
Con bật khóc cuốn đi lưới nhện/ Tiếng con vạc khàn khàn/ Tàng tro lóe
sáng/ Mặt trăng run. Biện pháp xen kẽ tư duy trực cảm của con người thời
hiện tại với hành vi mang tính di truyền đẩy thời gian về trục quá khứ, nén chặt
không gian sinh tồn, làm cho người và vật thay đổi vị trí của nhau. Đó chính là
không gian hiện sinh, thời gian siêu thực được biểu đạt bằng ngôn ngữ thơ.
Như vậy, hình tượng “Mẫu” góp phần quan trọng vào việc hoàn
thiện thế giới hình tượng con người trong thơ Mai Văn Phấn. Đó là cách nhà thơ
đến gần hơn với thế giới tâm linh; là nền tảng quan trọng trong cách thức ứng xử
giữa Con với Người, được thể hiện ở sự kính trọng, ngưỡng vọng với “Đấng sinh
thành”. Qua đó, một lần nữa nhà thơ thể hiện những quan niệm mới mẻ cùng cái
nhìn tinh tế đối với hiện thực ở bề sâu.
2.4. Tôn giáo qua các hình ảnh mang tính chất biểu tượng
Trong thế giới nghệ thuật của Mai Văn Phấn, những tình cảm, cảm
xúc thường được ông tiết chế một cách lí trí. Xuất phát từ cảm hứng tôn giáo,
nên những tình cảm tôn giáo, cũng như cách đánh giá của ông về nhân sinh và thế
giới cũng có khả năng thức nhận cao. Đến với tôn giáo – thế giới của sự đa dạng
và phức tạp, Mai Văn Phấn thể hiện một cách nhìn, một quan niệm tỉnh táo và
đúng đắn. Tuy là con chiên của đạo Thiên chúa nhưng trong tâm hồn thi sĩ có sự
dung hợp, hài hòa của các tôn giáo khác nhau. Tất cả cùng hòa điệu tạo nên vẻ đẹp
rất riêng trong thơ Mai Văn Phấn. Mà đặc biệt nhất là nét đẹp tôn giáo trong
thơ ông hiện lên trên hai bình diện cơ bản: đức tin và biểu tượng.
Tôn giáo luôn gắn liền với một thế giới các hình ảnh mang ý
nghĩa biểu tượng. Đó là thế giới trừu tượng, hư vô, sản phẩm của trí tưởng tượng
phong phú, một tư duy hướng nội siêu hình. Bằng những quan điểm thẩm mỹ cùng với
tài năng sáng tạo, Mai Văn Phấn đã đưa vào thơ mình hệ thống những biểu tượng
mang ý nghĩa tôn giáo. Có những biểu tượng được đưa vào một cách trực tiếp, còn
đa phần biểu tượng được linh hóa bởi một tư duy tôn giáo sắc sảo. Vì vậy, mỗi
hình ảnh trong thơ khi mang ý nghĩa biểu tượng, nghĩa là hệ thống hình ảnh ấy
đã vượt thoát ra ngoài những ý nghĩa tả thực. Các hình tượng trong bài thơ đã
chuyển từ truyền cảm đến gợi cảm, mở ra nhiều chiều kích ý nghĩa. Điều ấn tượng
hơn cả là, thế giới hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng trong thơ đều được lấy từ
thiên nhiên, vũ trụ. Nhà thơ vĩ đại R.Tagore đã từng khẳng định trong một bài
tiểu luận, “có thể là phương Tây tin vào linh hồn của con người nhưng
không thực sự tin rằng vũ trụ cũng có linh hồn. Thế nhưng, đó là niềm tin của
phương Đông và toàn bộ đóng góp của phương Đông về mặt tinh thần cho nhân loại
đều chứa đầy cái ý niệm này”. Như vậy, ở thời nào cũng vậy thiên nhiên
luôn có một vị trí đặc biệt trong tâm thức của nhà thơ phương Đông, cách nhìn
thiên nhiên của các thi sĩ chứa đựng tư tưởng triết học, thiên nhân đồng thể hợp
nhất. Hòa hợp với thiên nhiên, với vũ trụ là một phần của cuộc sống, của tình
yêu và của chân lý. Tiếp nhận thiên nhiên và đời sống bên ngoài với nhiều nhà
thơ phương Đông nói chung và đặc biệt ở Mai Văn Phấn có ý nghĩa như một tôn
giáo.
Hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng trong thơ Mai Văn Phấn xuất
hiện với mật độ dày đặc, đa số đều là hình ảnh của thiên nhiên, vũ trụ. Thế giới
hình tượng trong thơ Mai Văn Phấn, khi được soi chiếu dưới nhãn quan tôn giáo của
thi sĩ, thì tính biểu tượng của nó không phải nằm ở những hình ảnh đơn lẻ mà là
ở sự tương tác hài hòa của chúng. Mai Văn Phấn không triết lý mà để cho tư tưởng
triết lý hiện lên một cách tự nhiên qua những biểu tượng thiên nhiên được nghệ
thuật hóa.
2.4.1. Hình ảnh biểu tượng cho sự tái sinh và sự sinh sôi, nảy
nở
Thế giới hình ảnh biểu tượng trong thơ Mai Văn Phấn đều nằm
trong sự quy chiếu của lẽ phồn sinh và hóa sinh bất định với tất cả sự sống động
của chúng. Như trên đã nói, quan niệm thẩm mỹ như thế nào sẽ có cách lựa chọn
và biểu đạt đối tượng thẩm mỹ tương ứng. Trong rất nhiều thi ảnh bề bộn ở thơ
Mai Văn Phấn, có hai hình ảnh cô đọng nhất thể hiện ý nghĩa tái sinh và sinh nở: Đất
đai và nước.
Trước hết, về hình ảnh đất đai. Trong thơ Phấn, không một
hình ảnh nào lại có mặt với một mật độ dày đặc như hình ảnh đất đai. Vốn trong
tâm thức dân gian, đất được hình dung như là Mẹ, mang tính Mẫu (Cha trời, mẹ đất)
gắn liền với sự bình yên, che chở, sinh sôi. Nhưng trong thi cảm nhà thơ Mai
Văn Phấn, thì đất lại được ví với người đàn ông, nhất thể hóa với người đàn
ông: Đất đai- người đàn ông nằm ngủ/…/ Trên ngực còn vương tro than của
mùa đốt đồng (Sau mùa gặt); Anh mơ được em gieo trồng trên ngực/…/
Anh cựa mình nồng nàn tươi xốp (Bài ca buổi sớm). Hóa ra, nhà thơ đã nuôi
nấng trong mình một nỗi khao khát thật lạ: Ta thèm một lần nhân danh đất
đai (Khúc phóng túng). Đây là điều thực sự độc đáo ở thơ Mai Văn Phấn. Sự
độc đáo ấy thể hiện trước hết ở cách nhà thơ bộc lộ bản lĩnh sáng tạo của mình.
Quả thật chúng ta ít thấy một nhà thơ đàn ông nào lại ví bản thân mình với đất.
Hẳn phải có lý do gì đó. Có lẽ rằng, xuất phát từ sự tôn thờ tột bậc sự phồn
sinh và hóa sinh bất định, nên nhà thơ đã nhất thể hóa bản thân và hóa sinh bất
định đó. Một câu thơ thật trìu mến: Đồng đất quê ta hao hao giống những mặt
người/Một sớm dậy nhìn ta thân thiết thế…/Đất vạm vỡ dưới bầu trời tươi tốt (Tiếng
gọi từ cánh đồng). Đất cũng mang vóc dáng suy tư của phận người: Mẹ ơi mẹ!
Giờ con thấy bóng râm từ bùn đất/ Đất ở dưới chân mà cao hơn những suy nghĩ của
mình (Nhật ký đô thị hóa).
Một khía cạnh nữa về hình ảnh đất: đất luôn luôn trong trạng thái che chở, dung dưỡng, sinh sôi; và chỉ có như vậy đất mới hiện lên như một biểu hiện thuộc về Cái Đẹp. Cái đẹp đó bao hàm một thứ quyền năng thiêng liêng của sự che chở, bảo vệ. Phải chăng chính nó, là cái nôi mà Đấng – Toàn – Năng đã tạo ra để nuôi dưỡng sự sống, cứu rỗi con người. Hãy dừng lại với những câu thơ này: Kìa thửa ruộng đang vươn lên che chở những ngôi nhà (Cấu trúc tạm thời); Lao vào đất những ngón chân khát nước/ Chiếc lá mới nhô lên đặt lại ca từ (Sáng mùa hè). Hay, Trên ngực bùn nâu đã linh thiêng ban lộc/Máu hồi sinh rần rật chạy qua/ Thấy nghĩa địa lặn đi thành vết sẹo/ Thấy người xưa tỉnh lại cấy cày (Hồi sinh). Đó là sự ban ơn của đất trời đối với sự sống, yếu tố siêu thực tạo nên màu sắc hư ảo làm cho ý thơ có chút kì bí, nhưng rất ấn tượng đối với người tiếp nhận.Với ý thơ, Đất mỡ màu quyện rạng đông dâng lên khuôn mặt/ dâng lên cỏ cây phồn thực bời bời (Bài hát mùa màng) lại một lần nữa chứng thực một cách chắc nịch tinh thần phồn thực sinh nở như hiện thân của Cái Đẹp trong thơ Mai Văn Phấn. Để từ đó, tâm hồn nhà thơ lóe lên những dự cảm về tương lai và ngày mai tươi sáng: Bó gối những gốc cây/ Nhắm mắt ngọn đồi gió/ Hạt giống rơi trong bùn ngấu thảnh thơi/ Ngày mai mặt đất này/ Và thế giới sẽ đổi khác. (Mùa trăng)
Một khía cạnh nữa về hình ảnh đất: đất luôn luôn trong trạng thái che chở, dung dưỡng, sinh sôi; và chỉ có như vậy đất mới hiện lên như một biểu hiện thuộc về Cái Đẹp. Cái đẹp đó bao hàm một thứ quyền năng thiêng liêng của sự che chở, bảo vệ. Phải chăng chính nó, là cái nôi mà Đấng – Toàn – Năng đã tạo ra để nuôi dưỡng sự sống, cứu rỗi con người. Hãy dừng lại với những câu thơ này: Kìa thửa ruộng đang vươn lên che chở những ngôi nhà (Cấu trúc tạm thời); Lao vào đất những ngón chân khát nước/ Chiếc lá mới nhô lên đặt lại ca từ (Sáng mùa hè). Hay, Trên ngực bùn nâu đã linh thiêng ban lộc/Máu hồi sinh rần rật chạy qua/ Thấy nghĩa địa lặn đi thành vết sẹo/ Thấy người xưa tỉnh lại cấy cày (Hồi sinh). Đó là sự ban ơn của đất trời đối với sự sống, yếu tố siêu thực tạo nên màu sắc hư ảo làm cho ý thơ có chút kì bí, nhưng rất ấn tượng đối với người tiếp nhận.Với ý thơ, Đất mỡ màu quyện rạng đông dâng lên khuôn mặt/ dâng lên cỏ cây phồn thực bời bời (Bài hát mùa màng) lại một lần nữa chứng thực một cách chắc nịch tinh thần phồn thực sinh nở như hiện thân của Cái Đẹp trong thơ Mai Văn Phấn. Để từ đó, tâm hồn nhà thơ lóe lên những dự cảm về tương lai và ngày mai tươi sáng: Bó gối những gốc cây/ Nhắm mắt ngọn đồi gió/ Hạt giống rơi trong bùn ngấu thảnh thơi/ Ngày mai mặt đất này/ Và thế giới sẽ đổi khác. (Mùa trăng)
Mặt khác, khi nói về hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cho sự
hồi sinh và sự sinh sôi nảy nở còn thể hiện ở sự kết hợp độc đáo của các thi ảnh.
Như trên đã nói, những hình ảnh biểu tượng cho ý nghĩa tôn giáo không phải là
những hình ảnh biệt lập, mà nó luôn tồn tại trong sự kết hợp với các hình ảnh
khác để tạo ra nét đẹp cân đối, hài hòa. Cùng với “Đất đai” thì “Nước” cũng là
một hình ảnh biểu tượng độc đáo cho sự sinh sôi, nảy nở. Nếu như đất là cái nôi
nuôi dưỡng sự sống thì nước cũng là ngọn nguồn sự sống con người. Ngọn nguồn sống
ấy mang vẻ đẹp của sự tinh khiết và khả năng thanh tẩy: Nước ấm nóng mở đầu
nghi lễ thanh tẩy/ Lăn trơn anh chuỗi hạt xổ tung (Hình đám cỏ - nhịp IV).
Tôn giáo trong thơ đó là một cách thể hiện tự nhiên và cũng hết sức tế vi.
Trong thế giới bao la hạn hữu của đời người thì có một thế giới khác của hư vô
và hư không luôn tồn tại. Đó là thế giới trường cửu của muôn vàn sự sống khác.
Hình tượng “nước” tồn tại đôi khi không chỉ đơn giản là sự gột rửa, thanh tẩy bụi
trần để hướng tới thế giới thanh sạch, mà quan trọng hơn là sự thanh sạch trong
cõi lòng,… Một thời phờ phạc thiên di/ Tìm trong bóng nước thấy gì nữa
đâu/ Mảng đêm đập cánh đi mau/ giọt sương trong mắt trên đầu hư không (Thay
lời chim làm tổ).
Mặt khác, nước cũng mang ý nghĩa về sự tái sinh và hồi sinh bất
tận, Tôi trồng hoa nơi cỗi cằn đất không còn là đất/ Mưa đang tái sinh bỗng
lại nắng lụi tàn (Lời người trồng hoa). Phải chăng, thời khắc của sự tái
sinh là thời khắc thiêng liêng nhất không chỉ của kiếp người mà còn của triệu
triệu đời sống khác. Trong tôn giáo, đặc biệt là với Thiên chúa giáo và Phật
giáo, luôn quan niệm về thế giới thứ hai với niềm tin mãnh liệt. Thiên chúa
giáo cho rằng cuộc sống hiện tại chỉ là sự nương nhờ, tạm bợ còn cuộc sống sau
khi chết mới là cuộc sống thực sự. Còn Phật giáo, lại đề cao sự tu nhân tích đức
ở đời sống hiện tại để sau khi chết lại được đầu thai. Còn Mai Văn Phấn xem cái
chết như một sự khởi đầu, mở ra sự sống mới, rồi cứ thế hóa hóa sinh sinh, vô
cùng vô tận, miên viễn. Ý thức hóa sinh này bắt nguồn từ một cảm niệm có ý
nghĩa triết học: chết chưa phải đã chấm dứt, chết có thể là một sự khởi đầu của
một quá trình mới. Điều này bắt gặp tinh thần Phật giáo. Phật học cho rằng cái
chết là sự luân hồi. Có thể Mai Văn Phấn không suy tư theo hướng Phật giáo.
Nhưng với một nhân sinh quan khỏe khoắn, cộng với bản tính tự nhiên, hồn thơ
này luôn hướng về sự sống tái sinh, phục sinh, hồi sinh, sinh lại, khai
sinh, phôi thai - những chữ được nhà thơ sử dụng nhiều lần, với tần suất
cao.Ý nghĩa đức tin về “đời sống tái sinh và hồi sinh” cũng có điểm gặp gỡ với
quan niệm muốn được đầu thai sống một kiếp sống khác sẽ tốt đẹp hơn, tươi sáng
hơn, vì thế “nước” cũng là điểm tựa để dung dưỡng sự sống, che chở sự sống, Lá
sen và ngó sen/ Tỉnh dậy trong vòng tay của nước (Sáng mùa hè). Cùng thể
hiện ý nghĩa về sự sinh nở, “nước” đang cất lên bài ca sinh nở ngàn đời, dòng
sông vừa chảy/ vừa sinh nở (Đất mở). Để rồi, nó báo hiệu cho những điều tốt đẹp
khác sẽ đến, Sông rất sáng/ Một ngày dài rất đẹp (Ngày đẹp
trời).
Vẻ đẹp hài hòa của hình tượng đất và nước trong thơ Mai Văn
Phấn là mối quan hệ gắn kết cùng đồng hiện. Vẻ đẹp của nó hiện lên không phải
là ở trạng thái biệt lập mà có sự tương tác, tương tác trong chiều sâu nội tại
khi: …Khoảnh khắc cuối ban mai/ Căng ngang trời đại lộ trong suốt/ Đất
đai, mặt hồ đẫm ướt/ Che kín dấu chân… (Rời tay để bạn đi). Rõ ràng, sự xuất
hiện tương xứng giữa hai hình tượng đã tạo cho không gian thơ mang đậm màu sắc
tâm linh, mở ra một vùng trời của một cõi khác, cái cõi tồn tại của một kiếp sống
khác. Thế giới thơ của Mai Văn Phấn là một thế giới “phồn sinh và hóa sinh bất
định”, vì thế “cái tình” trong thơ không chỉ tồn tại giữa người với người mà vạn
vật cũng có sự giao linh thiêng liêng để tạo nên những phép màu kì diệu, Mồ
hôi và nước mắt dẫn dắt phù sa lăn vào trong đất. Còn máu bao giờ cũng tươi tốt,
vì thế chăng mà đất đai chẳng nỡ bạc màu. Cho mọi dấu chân đều hy vọng đến được
chân trời, cho hạt lép được nghiền ra làm cám trấu. Cuộc ái ân của đất với nước
ngân lên thành tiết tấu và mọi cánh đồng được thấy mình sinh ra bên cạnh dòng
sông. (Người cùng thời). Quả thật, đó là bản giao hưởng mang vẻ đẹp của một cuộc
sinh nở kì diệu, tái sinh mọi sắc màu của sự sống thiêng liêng. Đây cũng là thời
khắc đẹp nhất trong cõi nhân sinh, nơi quy tụ những mầm sống mới.
Có thể nói, “đất và nước” là những hình ảnh biểu tượng độc
đáo cho sự “phồn sinh và hóa sinh bất định” trong thơ Mai Văn Phấn. Chính sự kết
hợp hài hòa của những hình ảnh này đã tạo nên một thế giới hình tượng mang đậm
màu sắc triết lí. Và, cũng chính khả năng liên đới của chúng đã mang đến vẻ đẹp
tâm linh tinh tế từ ý nghĩa thầm kín trong bản thể sự vật.
2.4.2. Hình ảnh biểu tượng cho khát vọng sống và sự hồi sinh
Tôn giáo từ xưa đến nay mang trong mình những quyền năng nhất
định. Tôn giáo tồn tại trong đời sống con người và luôn thể hiện những khả năng
ảnh hưởng nhất định vào đời sống tinh thần. Khát khao sống luôn là niềm mong ước
cháy bỏng chảy trong miền tâm thức của con người. Chỉ có tôn giáo mới mang lại
cho con người niềm hi vọng lớn lao ở một cõi sống tiếp nối thực sự, đời sống đó
không chỉ là đời sống ảo, mà nó thực sự hiện hữu ở khả năng hồi sinh bất tận.
Hình ảnh ánh sáng được sử dụng trong thơ như là thứ ánh sáng soi đường trong
tôn giáo, hướng con người tới một đời sống thực thụ ở cõi sâu tâm thức. Cũng như
hình ảnh đất, ánh sáng cũng có mặt với mật độ nhiều trong thơ Mai Văn Phấn. Ở
nơi nào có ánh sáng, ở nơi đó có giã từ bóng tối, chết chóc, hủy diệt. Và hơn
thế nữa, nơi nào có ánh sáng, nơi đó đồng nghĩa với sự phì nhiêu, sinh nở, hóa
sinh, để cho sự sống được thăng hoa, bừng sáng. Những miền khát vọng sống được
trở về với niềm hạnh phúc lớn lao, để “Máu hồi sinh” lại được phát sáng trong
cõi lòng. Tất cả thật nhất quán trong thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn.
Những biến thể của ánh sáng trong thơ Mai Văn Phấn rất đa dạng,
từ ban mai, bình minh, hừng đông, rạng đông đến hoàng hôn và lửa. Tất cả đều
chung hệ quy chiếu, cùng trường liên tưởng về ánh sáng – Thứ ánh sáng mang ý
nghĩa biểu tượng, thấm đẫm tư duy triết học. Không phải ngẫu nhiên mà trong thơ
Mai Văn Phấn, những hình ảnh mang ý nghĩa ánh sáng lại xuất hiện với mật độ dày
đặc và nhiều biến thể đến vậy. Mỗi hình ảnh mang một ý niệm riêng của nhà thơ về
một khoảng trời tôn giáo hóa trong thơ. Nếu ở thơ tôn giáo của Hàn Mặc Tử, ông
sử dụng ánh sáng của “trăng” hàm chứa những điều linh diệu, huyền bí, gần với
thứ ánh sáng khải huyền trong Kinh Thánh. Trăng chính là biểu tượng cho khát vọng
siêu thoát, cao cả, êm đềm, là ánh sáng tinh khôi đối lập với bóng tối khổ đau
của cuộc đời trần thế. Đặng Tiến đã từng nhận xét “Trăng trước hết là ánh
sáng, một chủ đề rọi suốt mặc khải Kinh Thánh, từ ngày thứ nhất của sáng thế
khi đất chúa trời phân định ánh sáng và bóng tối cho đến chương cuối cùng của
Khải huyền, khi con người trong trời đất mới hướng một ánh sáng viên miễn”. Thì
đến Mai Văn Phấn, bên cạnh ý nghĩa về ánh sáng khải huyền, khi đã đối lập trực
tiếp với bóng tối, nó còn mang trong mình ý nghĩa liên đới, tạo sự kết nối với
đời sống thực của con người. Ví như, trong ý nghĩa biểu tượng chung của ánh sáng
về sự sống và lẽ công bằng, thì đặc biệt nổi trội lên với: Ánh sáng ban mai là
biểu tượng cho niềm hạnh phúc và sự hồi sinh, cùng với bình minh, rạng đông là
thứ ánh sáng thanh sạch đầu tiên mang ý nghĩa khởi nguyên; Ánh sáng của lửa là
biểu tượng cho khát vọng sống, tình yêu và tuổi trẻ… Tất cả đều hướng con người
tới sự cứu rỗi khỏi bóng đen của thực tại, hướng con người tới tình yêu mãnh liệt
với sự sống và cuộc đời.
Trước hết, Đó là những thời khắc tạo sinh lộng lẫy và màu nhiệm
của vũ trụ trong hào quang ánh sáng, mà chủ yếu là ánh sáng ban mai. Ban mai là
khởi đầu của một ngày, khởi đầu sự sống, đánh thức và bừng tỉnh, vạn vật và con
người được hoàn nguyên trong trạng thái khởi đầu, thanh khiết, tinh khôi. Quy
luật này cũng được xem như là biểu hiện trạng thái sinh sôi của sự sống, làm mới,
làm giàu sự sống. … Tấm lưới nghìn năm dằng dặc, miệt mài/ Ai đã kéo sau mỗi
cơn binh lửa/ Suốt đời mẹ đan những sợi ban mai âm thầm bên khung cửa/ Khi đón
cha đêm đã nhạt cuối vườn (Giấc mơ đi qua). Một miền ánh sáng dạt dào, bừng
tỉnh sự sống: sóng sắc lẻm, đường chân trời đã vỡ/ Ban mai trào lên nơi
ranh giới xóa nhòa/ Muôn ngàn mắt em xoay không gian lập thể/ Trong hạt sương
trôi căng mọng phập phồng… (Dấu vết bình minh). Đó còn là ánh sáng trong
những phút giây chan chứa tình yêu tuổi trẻ:… Và trái tim bừng lên ánh
ban mai/ Tiếng chim gù rót vào ô cửa/ Tiếng nước cuốn đi từng mảnh đêm sụp đổ/
Em hay vầng trăng vừa lặn cuối con đường (Vầng trăng và con đường); Anh bước
lên vạt nắng/ Một con thuyền ban mai/ Em bảo hãy chờ để khóa chặt cổng (Vườn
em). Bài thơ Dấu vết bình minh “căng mọng” một bầu trời sắc dục ái
ân: Da thịt anh rộn ràng mang dấu chân em/ Làm những móng tay trên đất
càng vang vọng/ Mỗi đốt xương muốn rời ra ngân lên bộ hơi/ Ngỡ có đôi môi trên
đỉnh đầu đang thổi. Mai Văn Phấn cũng là người công khai sử dụng các yếu tố
dục tính. Tuy nhiên ở Phấn, dục tính hiện lên trong sự hướng đạo của ánh sáng
tình yêu và tính thiêng liêng, nên về cơ bản là mang tính duy mỹ. Vượt lên nhục
cảm để trở thành Cái Đẹp. Ở những bài thơ sau này hoặc gần đây nhất, Mai Văn Phấn
vẫn không thôi ám ảnh về ánh sáng. Bài Tắm đầu năm lại tìm về ánh
sáng của ngọn đèn, thứ ánh sáng của không gian gia đình, của tâm linh, của yêu
thương, Thanh tẩy mãi vẫn không thấy sạch/ quay về tắm bằng ngọn đèn. Bài
thơ thật xuất sắc trong một ẩn dụ thân thuộc, khơi gợi, sâu lắng, mang chiều
sâu của văn hóa nguồn cội. Trong bài thơ Ở Sokcho cũng vậy, một thứ
ánh sáng thanh khiết, trìu mến, thuộc về ban mai: Cửa sổ mặt hồ yên tĩnh/
Giọng nói thân tình bỡ ngỡ ban mai.
Phải công bằng mà nói, hình ảnh ánh sáng không có gì xa lạ
trong thi ảnh của các nhà thơ. Nhưng đến lượt thi sĩ họ Mai, ánh sáng bừng lên
đồng nghĩa với sự sống ngời hiện. Có lần, nhà thơ ví lòng ống sáo là bóng tối của
địa ngục, mỗi khi giai điệu cất lên là mỗi lần tìm lối tới thiên đường, và với
người thổi sáo thì:… Vũ trụ lầm lì lơ lửng trong đêm. Những con sóng dịu mềm
cho bên lở biết mình còn đó, để ban mai thức dậy gặp bên bồi. Mỗi góc tối trong
tôi đang ngậm lấy âm thanh như ngậm vào vú mẹ, từ miệng mình he hé ánh sáng bồng
bế nhau thong thả tràn vào (Viết cho cây sáo). Đó chính là sự lên tiếng của
sự sống phồn sinh và hóa sinh kỳ diệu. Và rồi, sự sống một lần nữa lại được trở
về, trở về trong sự “hồi sinh”, để một lần nữa ban mai mang lại ánh sáng của sự
khởi đầu cho những mầm sống mới,… Ấy là dấu hiệu tái sinh/ hay bắt đầu những điều
trọng đại/ chưa kịp xúc động/ Mới mơ hồ nhận ra/ Ban mai đã cuốn lấy ta những
vòng tả lót (Khúc dạo đầu).
Những hình ảnh biểu trưng cho ánh sáng, nhiều khi cùng xuất
hiện để bổ trợ cho nhau, làm cho đoạn thơ sáng bừng lên một ý nghĩa nhân sinh
sâu sắc,… Đã xa hiện thời lu mờ quá khứ/ Bao lối mòn những bộ quần áo cũ/
Quên cả mình từng mất mát khổ đau/ Tiếng hát tung lưới quét ta về ánh sáng/
Hiện dần lên những lấm tấm vảy bạc/ Nơi hoàng hôn chạm vào mặt ban
mai/ Đom đóm muốn thiêu mình trên đống lửa/ Cả vòm cây đang bật khóc xuyên
tường (Nghe Nana Mouskousri). Càng độc đáo và ấn tượng hơn khi, Cha muốn
con thức dậy trước bình minh. Khi bàn chân đêm lướt qua dàn hoa leo trước
cửa…
... Phía cha mơ có ban mai đến sớm, ban mai ấy
giống như con dẫu khóc hay cười đều làm sáng lên lớp bụi trần gian, sáng lên những
đường kỷ hà trên nền thổ cẩm. Trên hương án tổ tiên những bài vị nhang đèn đang
tư lự một điều gì âm ỉ…
…Con đã thức dậy trong ban mai của cha. Phía chân
trời hừng đông như trẻ thơ bụ bẫm đang duỗi dài khoái hoạt, vài tia
sáng đầu tiên giãi bày niềm hân hoan trên thềm cửa, rồi đưa những ngón tay
mềm âu yếm đỡ con đi. (Lúc mặt trời mọc). Bên cạnh đó, hình ảnh ánh
sáng cũng kết hợp với nhiều hình ảnh biểu tượng khác để tạo nên sắc điệu riêng
trong thơ Mai Văn Phấn. Ba hình ảnh Đất đai, Ánh sáng và Người tình trong
nhiều trường hợp cùng hiện lên phối thuộc lẫn nhau, hòa quyện trong nhau, tương
tác và tôn vinh nhau: Yêu nhau. Là những nghi thức dâng tụng trời đất. Bây
giờ là mùa xuân. Anh mệnh Kim và em mệnh Hỏa. Từ lửa làm ra Thổ, ra Mộc, ra Thủy.
Đất rùng mình. Sông chảy. Ngàn vạn đọt mầm từ thân thể nở bung (Anh anh em
em…); Hôn em trời đổ mưa/ đất đai hồi sinh tươi tốt/ Hạt giống nẩy mầm rồi
bỏ đi xa (Những bông hoa mùa thu)…Đó là những biểu hiện toàn vẹn, sung mãn
nhất về hiện thân của Cái Đẹp phồn sinh và hóa sinh bất định. Nói theo cách nói
của thi pháp học, đó chính là thế giới nghệ thuật đặc sắc của thơ Mai Văn Phấn.
Có thể khẳng định rằng, thế giới thơ của Mai Văn Phấn là một
bầu trời ngập tràn ánh sáng, đa số các bài thơ các câu thơ đều hướng tới sự sống
và ánh sáng. Trong giai đoạn đầu của sáng tác, thi sĩ chịu quy chiếu của những
quan niệm về nhân sinh quan và thế giới quan trong “tôn giáo mình”. Âm hưởng
thánh ca vang vọng trong những tập thơ đầu, từ “Gọi xanh” đến “Cầu nguyện ban
mai”. Đi sâu vào tiếp cận các vần thơ, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra đa số
các câu thơ đều hướng đến ánh sáng. Đó không chỉ dừng lại là ánh sáng ánh sáng
của ban mai, bình minh, hừng đông, rạng đông, mà quan trọng hơn còn là ánh sáng
của tâm linh và một miền tâm thức. Ánh sáng đã ngủ yên/ Ta đang hồi sinh/
Trong vòng tay của đêm. Rõ ràng, với người Ky tô giáo dựa trên những triết
lí từ trong kinh thánh họ phân biệt rất rạch ròi ranh giới giữa thiên đàng – địa
ngục; thiên thần – ác quỷ; thiện – ác. Từ đó, họ tin tưởng ở sự ban thưởng xảy
ra sau khi chết: sống tốt thì được lên thiên đàng, làm việc xấu thì bị đày xuống
địa ngục, hỏa ngục. Vì thế, trong thơ Mai Văn Phấn có sự phân biệt rạch ròi giữa
ánh sáng và bóng tối: Thời bom đạn bình minh như bát vỡ/ Tôi ôm chiếc bát
của bóng đêm ăn dở/ Thành lực điền đối diện với hoàng hôn (Hát giữa hai
mùa). Càng về những tập thơ sau, dấu ấn Phật giáo in đậm trong thơ. Ánh sáng
trong thơ, chính là miền ánh sáng soi tỏ hạnh phúc ngay chính cuộc sống hiện tại,
cõi niết bàn tồn tại ngay trong cuộc sống trần thế. Vì thế, ánh sáng có khả
năng thay đổi quan niệm, trật tự xã hội, thay đổi thế giới. Chỉ có thể là thứ
ánh sáng tinh khôi mới có khả năng xuyên qua thế giới tối đen, bí ẩn:… chỉ khi
một cánh chim bay tia sáng ngôi sao vô tình nào bỗng xuyên thủng lớp vỏ kia bí ẩn,
hay hạt gống được chạm vào dịu nhẹ ngón tay của mùa xuân, mọi trật tự và quan
niệm sẽ khác (Giải pháp)
Như vậy, qua sự tìm hiểu chúng ta dễ dàng nhận ra, cũng giống
như thơ tôn giáo của Hàn Mặc Tử, thế giới hình ảnh thiên nhiên, vũ trụ mang ý
nghĩa biểu tượng trong thơ Mai Văn Phấn cũng không mang màu sắc tôn giáo thuần
khiết. Hầu hết các biểu tượng gần gũi với cuộc đời, được linh hóa, bổ sung nhiều
nét nghĩa thầm kín. Bởi thế, khi tách khỏi thế giới nghệ thuật của Mai Văn Phấn,
nó không còn mang màu sắc tôn giáo. Điều này khiến cho việc giải mã các hình ảnh
thiên nhiên trong thơ ông là hết sức khó khăn. Những hình ảnh thiên nhiên gợi về
thế giới ánh sáng, nhưng đó không đơn thuần là một thứ ánh sáng thiên nhiên thuần
khiết, biểu tượng vẻ đẹp của đất trời. Thay vào đó là một ý nghĩa thiêng liêng
huyền bí hơn, gắn liền với cảm hứng tôn giáo của nhà thơ. Ánh sáng chính là biểu
tượng cho khát vọng sống, siêu thoát và hồi sinh cao cả, êm đềm; là ánh sáng
tinh khôi đối lập với bóng tối khổ đau của cuộc đời nhân thế.
2.4.3. Hình ảnh biểu tượng cho khát vọng hướng thiện
Trong thế giới hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng trong thơ Mai
Văn Phấn, bên cạnh hình ảnh thiên nhiên mang ý nghĩa tôn giáo, thì còn có cả những
biểu tượng trong tôn giáo. Những biểu tượng tôn giáo trong thơ vốn rất trừu tượng
và siêu hình. Nhà thơ không sáng tạo ra biểu tượng mà chỉ vận dụng một cách
sáng tạo những hình ảnh, những khái niệm đã có trong tôn giáo, và mang đến cho
nó một màu sắc cá thể, góp phần chuyển tải những cảm xúc, suy tưởng của nhà
thơ. Trong thơ Mai Văn Phấn các biểu tượng tôn giáo xuất hiện khá nhiều, và nó
thường xuất hiện độc lập, riêng lẻ. Ý nghĩa biểu tượng của nó được thiết lập dựa
trên những ý niệm của tôn giáo truyền thống và trong mối tương tác với thế giới
hình tượng tác phẩm. Chẳng hạn, Đấng – Toàn – Năng trong tôn giáo là một khái
niệm trừu tượng siêu hình, gắn với một vị chúa tể tối cao, có quyền năng tuyệt
đối, người sáng tạo và che chở cho thế giới muôn loài. Đến Mai Văn Phấn hình ảnh
này hiện lên không còn trừu tượng, siêu hình mà trở nên gần gũi, sống động, với
nhiều hình hài và dáng vẻ khác nhau. Đặc biệt, Mai Văn Phấn đã rất tinh tế khi
tạo ra sự gắn kết với tư tưởng tôn giáo, khi đưa vào thơ một biểu tượng đậm chất
tôn giáo. Hình ảnh “quả chuông” trong thơ Mai Văn Phấn xuất hiện với tần xuất
cao, khoảng trên 30 lần. Đây trở thành một hình ảnh ám ảnh, lặp đi lặp lại nhiều
lần trong hành trình thơ Mai Văn Phấn, đặc biệt là ở những giai đoạn sau. Sở
dĩ, hình ảnh này càng ngày càng xuất hiện với mật độ dày trong thơ ông là bởi,
nó có nguồn gốc sâu xa từ những dư âm về cố hương – mảnh đất công giáo, với tiếng
chuông nhà thờ là yếu tố quan trọng nuôi dưỡng tâm hồn của một con chiên ngoan
đạo.
Cùng với đó, về sau này khi tìm hiểu về Phật, Mai Văn Phấn hiểu Chuông khởi nguồn từ Phật giáo mà ra, tuy trong cách bài trí và ý nghĩa tiếng chuông có điểm khác nhau ở mỗi tôn giáo, nhưng ông cũng tìm thấy sự hòa điệu trong thứ âm thanh linh thiêng ấy. Rõ ràng, tiếng chuông chùa hay tiếng chuông nhà thờ đều để thức tỉnh những ai còn mù mịt, đang trong cõi u minh; Tiếng chuông thấu đáo đến khắp pháp giới để cứu những chúng sinh đang khổ nạn. Nghe được tiếng chuông này thì thoát khỏi cảnh khổ đau, lầm lạc. Cuộc đời con người, sướng, khổ, giàu, nghèo, hạnh phúc hay bất hạnh, tất cả đều bắt đầu do mình. Mọi việc là tự mình làm, tự mình quyết định cho mình. Nếu không tự tỉnh thức bằng trí tuệ, để tìm thấy các giá trị thật của mọi việc đang có mặt chung quanh mình, thì thật là uổng phí, vì mình sẽ mất tất cả theo luật tự nhiên, và nếu như khi đặt hết trọng tâm của đời mình vào Từ, Bi, Hỷ, Xả, để thực hiện việc gì cho mình hay cho người bằng những giá trị thật của việc đó, thì mình sẽ không bao giờ bị mất tất cả. Đó là căn cốt của lẽ đời, là mục tiêu để con người đạt “Đạo” và cũng là con đường để con người vươn tới những điều thiện. Như vậy, hình ảnh quả chuông chính là biểu tượng cho những điều tốt đẹp, nó không chỉ là ước mơ mà còn là mục đích để con người hướng tới bến thiện.
Cùng với đó, về sau này khi tìm hiểu về Phật, Mai Văn Phấn hiểu Chuông khởi nguồn từ Phật giáo mà ra, tuy trong cách bài trí và ý nghĩa tiếng chuông có điểm khác nhau ở mỗi tôn giáo, nhưng ông cũng tìm thấy sự hòa điệu trong thứ âm thanh linh thiêng ấy. Rõ ràng, tiếng chuông chùa hay tiếng chuông nhà thờ đều để thức tỉnh những ai còn mù mịt, đang trong cõi u minh; Tiếng chuông thấu đáo đến khắp pháp giới để cứu những chúng sinh đang khổ nạn. Nghe được tiếng chuông này thì thoát khỏi cảnh khổ đau, lầm lạc. Cuộc đời con người, sướng, khổ, giàu, nghèo, hạnh phúc hay bất hạnh, tất cả đều bắt đầu do mình. Mọi việc là tự mình làm, tự mình quyết định cho mình. Nếu không tự tỉnh thức bằng trí tuệ, để tìm thấy các giá trị thật của mọi việc đang có mặt chung quanh mình, thì thật là uổng phí, vì mình sẽ mất tất cả theo luật tự nhiên, và nếu như khi đặt hết trọng tâm của đời mình vào Từ, Bi, Hỷ, Xả, để thực hiện việc gì cho mình hay cho người bằng những giá trị thật của việc đó, thì mình sẽ không bao giờ bị mất tất cả. Đó là căn cốt của lẽ đời, là mục tiêu để con người đạt “Đạo” và cũng là con đường để con người vươn tới những điều thiện. Như vậy, hình ảnh quả chuông chính là biểu tượng cho những điều tốt đẹp, nó không chỉ là ước mơ mà còn là mục đích để con người hướng tới bến thiện.
Quả chuông trong tinh thần tôn giáo là biểu tượng cao nhất
cho khát vọng hướng thiện. Khát vọng hướng thiện ở đây không chỉ đơn thuần là sống
và làm điều thiện, mà nó còn thể hiện niềm khát khao vươn tới một thế giới chỉ
tồn tại những điều thiện. Thi sĩ đứng ở vị thế của một người với tư tưởng “phổ
độ chúng sinh” trong một thế giới đại đồng bằng những gì tốt đẹp nhất. Và, tiếng
chuông là sự khai mở kì diệu đưa con người đến với thế giới ấy bằng con đường
tâm thức. Như chúng ta đã biết, chuông là một trong những pháp âm của nhà Phật,
Chuông Phật trong tiếng Phạn gọi là Ghaṇṭā.घण्टा, thuộc nữ tính. Theo từ điển Hán-Việt
còn gọi là Kiền trùy. Người hoa dịch là Chung, Khánh. Khi âm thanh huyền diệu của
nó ngân vang, sẽ làm chuyển hóa lòng người, trở nên nhẹ nhàng, thanh thản, trí
tuệ được tăng trưởng vào một con đường chí tâm duy nhất sống, để mang ích lợi
cho mình cũng như cho người trong từng khoảnh khắc hiện tại của cuộc đời vô thường.
Tiếng chuông là âm thanh ở bên ngoài nhưng có ảnh hưởng sâu sắc đến thể chất,
tinh thần, tình cảm và tâm hồn của chính lòng người. Ý nghĩa biểu trưng của
chuông quan hệ đặc biệt mật thiết với sự cảm thụ âm thanh. Không chỉ là thính
giác mà đối với nhiều tôn giáo, người ta còn tri giác được. Cảm thụ nó, có thể
làm mất đi cảm nhận về giới hạn về thân phận nhất thời. Tiếng chuông như là sự
giao tiếp, cầu nối giữa trời và đất. Đó chính là điều huyền diệu thực sự của
chúng có ngay trong đời sống thường nhật của con người. Chính vì thế, đối với
Mai Văn Phấn là thứ âm thanh vang lên trong cái thinh lặng dưới ánh sáng của sự
tái sinh, của sự quay trở về bản thể: Chiếc lá kia rơi/ Mặt đất sẽ
trũng xuống/ Vọng tiếng chuông xua mây đen (Thu đến). Tiếng chuông ở
đây cũng là hiện thân của ánh sáng diệu kì, có khả năng xua tan bóng đen, đêm tối
khổ đau, bất hạnh, để vươn tới một cuộc đời tươi sáng hơn.
Trong mỗi tiếng chuông của nhà Phật là những sứ giả Như Lai
mang đến cho đại chúng những tâm nguyện từ bi, để giúp cho chính họ có thể tự
mình giải tỏa những nỗi muộn phiền đau khổ, hay để tắm gội cho thân tâm thanh sạch,
những buồn bực, chán nản… bụi trần: Gần sáng thức dậy/ Quả chuông đêm chụp
xuống mặt đất/… / Em đang xa quả chuông/ Boong…/ Boong…/ Giữa trời một bông hoa
cúc (Hình đám cỏ - Nhịp I). Từng âm thanh vang lên như một sự ám ảnh và
ngân vang trong đời sống vô thức của con người. Hình ảnh “em” cùng đồng hiện
như một sự gắn kết, bởi trong cái hư vô có cái hiện hữu. Cùng với nó, hình ảnh bông
cúc đột nhiên hiện giữa trời, đó có lẽ là bông cúc hiện
ra từ ánh sáng của sự giác ngộ, của sự giải thoát trên lối về độc đáo của cuộc
kiếm tìm. Sắc màu Phật giáo thấm đẫm trong từng ý thơ.
Từ xưa đến nay, tiếng chuông vẫn làm cho người con Phật tự
nhiên cảm thấy lòng mình thanh thản đến lạ thường và càng gần với Đức Phật
hơn, đó là điều không chối được. Tuy nhiên cũng nên hiểu rằng: Sống đời biết
“tu hành”, theo những gì Đức Phật dạy một cách nghiêm túc, thì cho dù có ở bất
kỳ nơi đâu, vẫn luôn giữ được thân tâm trong sáng. Điều này có ảnh hưởng rộng
rãi với đa số chúng sinh, có thể họ không theo đạo Phật nhưng vẫn tin ở sự dẫn
dắt của Người, theo kiểu Tu tại tâm, dân gian ta có câu: “Tu đâu
không bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới thật là đi tu”. Cũng theo hướng đó,
ở đây thi sĩ thể hiện cách nhìn độc đáo với hình tượng tôn giáo, tuy không phải
là người con Phật, nhưng Mai Văn Phấn cũng thể hiện một đức tin rộng mở đối với
tư tưởng lớn của nhà Phật. Với ông, Đức Phật cũng là biểu hiện của Đấng – Toàn
– Năng, Người ở ngôi cao và lấy thân tâm từ, bi, hỷ, xả của mình để soi chiếu đến
nhân sinh và thế giới. Vì thế, khi tiếng chuông chạm tới tâm thức nhà thơ, như
một bản âm hưởng có thể xuyên thấm mọi ngõ ngách trong tâm hồn: … Tiếng
chuông/ Qua thân thể tôi/ Vào đáy nước/ Boong!/ Tôi chìm/ Lại nổi lên (Tĩnh
lặng). Hay đó còn là một sự hòa điệu vào hình tượng để cùng ngân
vang, … Bàn chân em đặt lên/ Cho phân minh lời cỏ/ Anh lặng yên nghe ngực
mình/ Rộng mở…/ Thành quả chuông run lên trong mưa/ Gặp đèn trời, khói bay, gió
lạnh/ Hay vô ý chạm vào một lá cỏ/ Bất kỳ (Khai bút cùng cỏ). Quả thật,
Tiếng chuông trong tôn giáo không dạy con người những triết lý cao xa, mà cho họ
cảm nhận những điều bình dị trong cuộc sống đời thường. Những âm thanh đánh thức
con người thấy được những gì trước mắt để lựa chọn, đặt cho cuộc đời mình vào
lòng thương yêu tất cả chúng sinh, bằng cách sống thánh thiện, xa lánh tội ác.
Đồng thời, nó còn là phương tiện để hổ trợ cho mình trong việc gìn giữ cái tâm
của mình an tĩnh, để tiếp nhận được ánh sáng tâm linh, mà hành theo để đạt được
sự tỉnh thức giống như Ngài.
Đồng thời, nơi âm thanh của quả chuông cũng là nơi diễn ra sự
cộng hưởng trong bản thân của các hình tượng tôn giáo. Một không gian thơ
thiêng liêng, mang đậm chất tôn giáo:… Còn bóng ai in trên quả chuông,
loa kèn, tang trống. Nơi ấy, Phật – Thích – Ca và Chúa Giê – su cộng hưởng, làm
sự lặng im cũng nhấp nhô chuyện trò trong khoảng rỗng ban mai.
Sinh ra từ ngọn lửa và ánh sáng, bóng chạy theo mình, cái có
có không không! Mắt ta nhìn thấy được (Trường ca người cùng thời). Rõ
ràng, âm thanh của tiếng chuông được thi sĩ tiếp nhận bằng nhiều giác quan khác
nhau, không chỉ bằng sự nghe thấu, mà còn cảm nhận bằng cả tâm hồn. Chúng có chức
năng giúp con người tự mình cảm nhận, tự mình lắng nghe, tự mình chiêm nghiệm,
trong nhịp sống xô bồ, bon chen, tràn đầy các cạm bẫy cám dỗ của tội lỗi, những
lòng tham, sự ghen ghét hay những điều sai trái… mà phát sinh ra lý trí và ý
chí trong nội tâm để hướng mình đến ánh sáng của trí tuệ và lòng từ bi, nhằm
mang lại cho tâm hồn sự thanh tịnh, an vui hạnh phúc, và cũng làm giảm bớt áp lực
của công việc trong đời sống mỗi ngày. Ở đây, ý thơ đã cho chúng ta cảm nhận về
tư tưởng hòa đồng giữa các tôn giáo, trong sự cảm nhận của thi sĩ các tôn giáo
đều hướng con người đến những mục đích sống tốt đẹp. Và trong tâm hồn của người
thi sĩ đã có một sự thức nhận cao từ khi, “lần đầu tiên biết cảm nhận về thế giới
gần gũi xung quanh, thì tiếng chuông nhà thờ, tiếng cầu kinh sớm tối của giáo
dân, tiếng ca đoàn phối bè trong những bài thánh ca là những âm thanh huyền hoặc
và cũng đầy uy lực nơi tuổi thơ êm đềm của tôi. Âm thanh linh thiêng, quyến
rũ và bí ẩn ấy tựa như ánh sáng, như không khí thấm vào từng hơi thở, bước chân
chập chững của tôi. Lúc ấy tôi chỉ biết nghĩ đơn giản rằng, mình phải sống tốt,
có mọi cử chỉ cao đẹp trên thế gian này, bởi mình làm bất cứ điều gì thi Đấng-Toàn-Năng
cũng sẽ nhìn thấy. Từ ấy tôi luôn tin có một thế giới khác nữa đang soi xét,
chi phối đời sống chúng ta. Và sau này tìm đến với thơ ca, cũng là cách tôi tự
mở cánh cửa riêng mình để nhìn thấy và đi vào thế giới linh thiêng, bí ẩn ấy”.
Như vậy, hướng con người đến điều thiện luôn là mục đích tồn
tại của hầu hết các tôn giáo. Mai Văn Phấn rất nhạy bén khi sử dụng hình ảnh
trong tôn giáo, với âm thanh đặc trưng làm rung động tới cả miền tâm thức của
con người. Âm thanh ấy, cũng là một cách gần nhất, nhanh nhất thi sĩ tìm đến với
thế giới tâm linh. Khát khao thế giới luôn tồn tại một đời sống thiện, cũng là
niềm mơ ước tột cùng luôn chảy trong tâm hồn người nghệ sĩ. Bởi trước những sự
thật nghiệt ngã đang chảy trôi trong dòng chảy của cuộc sống hiện đại, con người
đứng trước ngưỡng của sự tha hóa đã được Mai Văn Phấn thể hiện ít nhiều trong tập
“Hôm sau”. Đến đây, ông muốn gióng lên một “hồi chuông cảnh tỉnh” đến miền tâm
thức của con người. Con người cần một sự “thức tỉnh”, “giác ngộ” để “thân tâm”
được thanh thản trong một đời sống tươi đẹp hơn. “Làm thiện, lánh ác” là mục
tiêu trong đời sống mà Mai Văn Phấn muốn con người hiện đại hướng tới.
Mai Văn Phấn đưa tôn giáo vào thơ một cách tự nhiên như “đi
trên đất”. Với tất cả sự trong sáng, tinh khiết chảy ra ở đầu ngọn bút, Mai Văn
Phấn đã mang đến một thế giới vô hình khác, cũng đang hiện hữu trong chính cuộc
sống con người. “Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn”, không chỉ đơn giản
là thể hiện một hệ tư tưởng mới mẻ về đổi mới các quan niệm mà quan trọng hơn
là thể hiện một cách nhìn đặc biệt về tôn giáo. Trong đó Mai Văn Phấn cho thiên
nhiên một nền tảng vững chắc trên tinh thần “vạn vật hữu linh”. Vì thế cho nên,
thế giới hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng vừa mang tính thẩm mỹ, vừa gắn liền với
tư tưởng, tình cảm, tài năng cá tính sáng tạo của nhà thơ. Nhà thơ không sáng tạo
ra biểu tượng tôn giáo mà chỉ vận dụng một cách sáng tạo những hình ảnh đã có
và mang đến cho nó một màu sắc cá thể, góp phần chuyển tải những cảm xúc, suy
tưởng của nhà thơ về thế giới tâm linh.
Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn khi được soi chiếu từ
thế giới hình tượng, thể hiện những quan niệm tiến bộ của thi sĩ về nhân sinh
quan, thế giới quan. Trong đó, nhà thơ đặc biệt chú ý đến cách xây dựng một
hình tượng không gian đa chiều bao gồm không gian thực trong tôn giáo và một
không gian được linh hóa độc đáo; Cùng với hình tượng thời gian với mạch vận động
không theo logic đời sống thông thường mà theo logic đời sống tâm linh, hay nói
cách khác là tuân theo mạch vận động thời gian phi tuyến tính – hình tượng thời
gian rất phù hợp với kiểu cảm hứng tôn giáo; Đặc biệt trong cái nhìn từ thế giới
hình tượng, thì nổi lên là cách khám phá độc đáo về hình tượng con người. Từ
cái tôi trữ tình, hình ảnh người tình, đến “Mẫu”, đều được soi chiếu từ ánh
sáng tâm linh, được linh hóa trở thành những hình tượng mang những đặc trưng rất
riêng. Mỗi hình tượng được hiện lên lung linh bằng ngòi bút nghệ thuật hóa rất ấn
tượng, nhưng tựu chung đều được soi thấu từ cảm hứng tâm linh rất tinh tế và nhạy
bén của tâm hồn người nghệ sĩ; Đồng thời, tôn giáo trong quan niệm của thi sĩ
còn được thể hiện một cách cụ thể qua thế giới hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng.
Cảm hứng tôn giáo chi phối không chỉ ở tư tưởng, mà cả trong tư duy nghệ thuật
và lối thể hiện. Trong đó, thế giới hình ảnh được soi chiếu qua lăng kính của
người nghệ sĩ thể hiện dưới nhiều góc độ khác nhau. Đa số các hình ảnh thiên
nhiên đều được nghệ thuật hóa trở thành những biểu tượng độc đáo. Hình ảnh đất
và nước là biểu tượng cho sự tái sinh và sinh sôi, nảy nở; Hình ảnh ánh sáng với
những biến thể đặc sắc là biểu tượng cho khát vọng sống và sự hồi sinh; Đặc biệt
nổi lên với một biểu tượng trong tôn giáo đi vào trong thơ Mai Văn Phấn rất tự
nhiên, một mặt vừa giữ được cái huyền bí, trừu tượng của tôn giáo, mặt khác lại
mang cái cụ thể, cảm tính, sinh động của một biểu tượng trong thi ca. Đó là
hình ảnh quả chuông biểu thị cho khát vọng hướng thiện – Một khát vọng chân
chính và mang đầy tính nhân văn chủ nghĩa. Có thể nói, Mai Văn Phấn không tự
sáng tạo ra biểu tượng tôn giáo mà bằng cái nhìn tinh tế cùng với những trải
nghiệm của người nghệ sĩ, ông đã thổi hồn vào thế giới hình ảnh để chúng được tỏa
sáng trong thế giới nghệ thuật rộng mở của ông. Hầu hết các biểu tượng đều gần
gũi với cuộc đời, được linh hóa, bổ sung thêm nhiều nét nghĩa thầm kín. Để thế
giới hình ảnh đó không phải chỉ thể hiện như những gì nó vốn có và bằng những
cách hiểu thông thường, mà nó còn được soi chiếu dưới nhãn quan tôn giáo của
người nghệ sĩ. Vì thế, khi tách khỏi thế giới nghệ thuật của Mai Văn Phấn, đa số
các hình ảnh không còn mang màu sắc tôn giáo nữa.
CHƯƠNG 3: CẢM HỨNG TÔN GIÁO TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN, NHÌN TỪ CÁC PHƯƠNG TIỆN NGHỆ THUẬT
Nói đến thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn là nói đến
sự phong phú và đa dạng của một ngòi bút tài năng sáng tạo. Với sự sắc sảo của
một thi sĩ đầy bản lĩnh, Mai Văn Phấn đã tự mở cho mình một hướng đi riêng. Bên
cạnh sự đôn hậu và sắc sảo của Nguyễn Quang Thiều, cái đời thường và bình dị của
Đồng Đức Bốn, Mai Văn Phấn đã góp thêm vào dòng văn học đương đại một phong
cách mới. Khi đánh giá Mai Văn Phấn, có ý kiến cho rằng “ngoài sự tài hoa,
đam mê, phông văn hóa, tri thức, sự kiên trì nhẫn nại trong sáng tạo, anh còn
là nhà thơ dũng cảm và giàu bản lĩnh. Anh làm thơ như nghệ sỹ tự tin đi trên sợi
dây mảnh, dù bên dưới là vực sâu hiểm trở, nhưng vẫn luôn tự tin rằng mình sẽ đến
được đích” [13, 7]. Cố nhiên ngòi bút viết văn của Mai Văn Phấn không đạt
kỷ lục nào về số lượng, về độ dài hay độ dày. Cái mà ông đạt tới đỉnh cao là chất
lượng mới: chất lượng ngôn ngữ nghệ thuật, khả năng thể hiện qua giọng điệu nghệ
thuật và đặc biệt qua lối kết cấu men theo đời sống tâm linh đã lay động tâm hồn
người đọc. Dòng ý thức hết sức ấn tượng, phát triển theo logic nội tại sâu sắc.
Ngòi bút Mai Văn Phấn đã đem lại cho thơ ca đương đại một chất lượng mới trong
khả năng phản ánh, khám phá hiện thực ở bề sâu. Cảm hứng tôn giáo là một thành
tựu nổi bật đối với việc xây dựng và phát triển cho nền thơ ca hiện đại, Mai
Văn Phấn có đóng góp rõ rệt, đã chạm đến miền tâm thức của con người. Ở cảm hứng
tôn giáo, thành phần ngôn ngữ về cơ bản mang tính chất siêu thực, nhưng cũng
không bị thôn tính bởi thứ ngôn ngữ xa lạ, khó hiểu. Mặt khác, do quan tâm truyền
đạt những dao động, biến thiên trong chiều sâu của miền duy cảm nên Mai Văn Phấn
tạo được một ngôn ngữ ít nhiều mang tính phức điệu. Mai Văn Phấn là một trong số
không nhiều tác giả cùng thời có những tác phẩm mà ngôn ngữ dường như không cũ
đi so với thời gian. Nói cách khác, Mai Văn Phấn có những tác phẩm đạt đến sự
tiêu biểu, khó bị lẫn tạp, người đọc có thể dễ dàng gọi tên và nhận diện ra nó
trong bất kì tình huống nào.
3.1. Kết cấu men theo mạch vận động của tâm linh
Đời sống tâm linh là một đời sống hết sức phức tạp. Nó luôn tồn
tại sâu trong tâm hồn mỗi người. Đồng thời, mạch vận động của tâm linh lại
không theo một quy luật “nhất thành bất biến” nào, cũng không có một quy chuẩn
nào cho nó. Vì thế, không phải khi nào con người cũng có thể nắm bắt và ý thức
được rõ ràng về một đời sống khác luôn hiện hữu trong chính bản thân mỗi người.
Hơn ai hết, là một nghệ sĩ luôn nhạy cảm với thế giới tâm linh, tâm cảm (tạm gọi
là “thế giới thứ hai” – thế giới tồn tại bên ngoài đời sống thực), Mai Văn Phấn
đã có ý thức xây dựng cho những “đứa con tinh thần” của mình những thành trì vững
chắc nhất về mặt kết cấu. Để có thể tạo nên những vần thơ có sức lay động mạnh
mẽ đến chiều sâu tâm thức của con người, thi sĩ đã dày công tạo dựng cho thơ
mình những “bộ cánh” thật mới mẻ nhưng không hề lạ lẫm với người đọc. Với lối kết
cấu hiện đại mà thấm đẫm mạch chảy truyền thống, làm trầm tích thêm để tôn vinh
truyền thống, Mai Văn Phấn đã mạnh dạn đẩy những sáng tạo nghệ thuật của mình đến
những trường thẩm mỹ mới làm cho người đọc không khỏi bất ngờ. “Mai Văn Phấn
rất có ý thức trong cách sử dụng ngôn từ, nhưng anh đi theo lối hiện đại, mới mẻ,
tránh sự mòn nhảm, anh biết để câu chữ lan toả trọn vẹn hết nội hàm và sức lay
động của nó trong từng tình huống thơ. Đấy chính là cấu trúc điển hình ngôn ngữ
thơ Mai Văn Phấn” [13, 6]. Đây có thể được xem là một trong những cách tân
quan trọng của ông về mặt cấu trúc thơ. Từ đây có thể khẳng định, kết cấu là một
phương diện quan trọng góp phần làm nên bản chất của hồn thơ Mai Văn Phấn. Khi
hiện thực được ông nhìn nhận ở bề sâu thì lối kết cấu men theo mạch vận động của
tâm linh được sử dụng một cách triệt để. Trong đó, nhà thơ phát huy cao độ mạch
kết cấu theo thể thơ tự do, cùng với kết cấu phân tán, gián đoạn và thơ văn
xuôi. Có lúc, những dạng thức ấy cùng được kết hợp với nhau một cách linh hoạt,
đã tạo nên những hiệu ứng bất ngờ đối với sự tiếp nhận của người đọc. Chính lối
kết cấu linh hoạt, hiện đại, không chỉ đưa người đọc đến với một thế giới tâm
linh đầy hấp dẫn mà còn kích thích trí liên tưởng, sáng tạo.
Thoạt tiên, khi nhắc đến sự vận động trong đời sống tâm linh
chúng ta dễ dàng có thể khẳng định đó là một sự “thả lỏng”, tự do hoàn toàn
không tuân theo bất kỳ một quy luật hay một sự sắp đặt nào. Nó chảy trôi một
cách tự nhiên trong vùng vô thức của con người, như chính cách thi sĩ để cho
con chữ của mình tuôn trào: Chiếc lá kia rơi/ Mặt đất sẽ trũng xuống/ Vọng
tiếng chuông xua mây đen (Thu đến)
Rõ ràng, thơ hiện đại nói chung, đặc biệt thơ Mai Văn Phấn có
những phá cách hết sức tự do, lựa chọn cách thể hiện theo thể thơ tự do được
phát huy cao độ trong suốt hành trình sáng tạo. Hiện thực đời sống vốn phong
phú, phức tạp, biến hóa khôn lường, ẩn tàng đầy nghịch lí, phi logic, nhiều khi
không thể nhận thức, phân định minh bạch được. Mai Văn Phấn là nhà thơ có linh
giác mạnh, có thể đưa cảm xúc của mình tới những vùng xa mờ của nhận thức và
ông cũng là người nhạy cảm với đời sống tâm linh, tâm cảm, đã mang đến cho thơ
ca đương đại cách cấu trúc tổ chức bài thơ hết sức tự do, không tuân theo logic
thông thường. Thơ Mai Văn Phấn không hề bị ép buộc trong một khuôn mẫu có sẵn
nào, thơ ông đi theo “mạch nguồn” của riêng ông. Về cơ bản, đó là những nhận thức
mới mẻ về bề sâu của hiện thực, hình thức thơ vì thế cũng được xây dựng trên
nguyên tắc tự do thể hiện: Ánh sáng đã ngủ yên/ Trong vòng tay của đêm/ Ta
đang hồi sinh (Nghi lễ cuối cùng). Ở đây, màu sắc tôn giáo thể hiện trong
sự phân lập rõ ràng giữa ánh sáng và bóng tối, mà ở đó những nghi lễ Thiên chúa
giáo hiện hữu (Đây cũng là thiên hướng sáng tạo chủ yếu của Mai Văn Phấn ở những
tập thơ đầu).
Mặt khác, thơ tự do còn được nhà thơ đẩy đến những cách tân
táo bạo. Ta có những cách diễn đạt khá mới lạ: Con gián và tôi từ giờ
sòng phẳng/ Nó chui ra. Tôi vô cảm./ Nó gặm nhấm. Tôi ngập chìm./ Nó
leo tường. Tôi thù vặt./ Nó bài tiết. Tôi ăn gian./ Nó hôi xì. Tôi lì
lợm./ Nó dò xét. Tôi mở đường./ Nó nghênh ngang. Tôi u muội. (Chuyện
còn dài)
Đó là một sự kết hợp độc đáo, không tuân theo một quy tắc nội
tại hiện hữu nào, mà đó có thể gọi là những nguyên tắc của riêng nhà thơ. Khi ấy,
chỉ có sự hoạt động mạnh mẽ của “thế giới thứ hai”, tạo ra nhiều liên tưởng bất
ngờ. Nó lôi cuốn người đọc cùng trải nghiệm trong những sáng tạo của nhà thơ.
Thứ hai, men theo mạch vận động của đời sống tâm linh – một
vùng xa mờ của ý thức, đôi khi chúng ta cảm nhận đó là một sự rời rạc, đứt nối
của cảm xúc, có thể tạm gọi đó là sự phân tán, gián đoạn trong vô thức và
tiềm thức. Bản thân thi sĩ là người có tâm hồn hết sức nhạy cảm, linh giác và
trực giác mạnh mẽ. Vì thế, cùng với sự hoạt động mạnh mẽ của “đời sống thứ
hai”, và quan niệm tiến bộ về thơ ca (thơ không chỉ phản ánh cái thực, cái hữu
hình của đời sống, mà còn quan tâm đến cái ảo của thế giới tâm linh, vô thức) sẽ
dẫn đến cách thức tổ chức bài thơ tự do, phóng khoáng. Nhà thơ không thể chủ động,
không thể định hướng trước một điều gì. Bài thơ được dẫn dắt một cách ngẫu hứng
theo sự dẫn dắt của tâm thức. Mai Văn Phấn cũng là một trong số những nhà thơ vận
dụng một cách thành công những kinh nghiệm của vô thức, tiềm thức trong quá
trình sáng tạo, và xem nó như một nhân tố quan trọng trong việc tổ chức, kết cấu
bài thơ. Nhiều bài thơ của ông, tưởng như rất rời rạc, phi logic ở bề mặt nhưng
lại nguyên phiến, nhất quán ở bề sâu:
Trang nghiêm
Cha chịu
Phép lành
(Chơi với con)
Những câu thơ bị ngắt ra, nhưng ẩn sâu trong nó vẫn tồn tại sự
kết nối. Từ đó, chúng ta liên tưởng đến cách vắt dòng trong thơ mới, nhưng ở
đây có sự khác biệt với thơ mới. Sự vắt dòng ở Mai Văn Phấn không hề tính đếm đến
sự nguyên vẹn trong ý nghĩa của từ ngữ, của câu thơ. Ông không đơn giản hóa chức
năng hoạt động của ngôn ngữ trong khuôn mẫu của dòng thơ nhất định vì ngôn ngữ
có vai trò đặc biệt và khả năng biến hóa vô cùng. Nhưng rõ ràng trong sự gián
đoạn do thi sĩ tạo ra, người đọc vẫn có thể cảm nhận được một sự liền mạch – liền
mạch trong sự kết nối của tâm thức, tiềm thức ở cõi “mơ thực”:
Tỉnh mộng
Mộng còn
Vật vã…
(Mơ thực)
Đây là một cách tổ chức hình thức thơ được vận dụng thành
công trong thơ Mai Văn Phấn. Nó không chỉ trực tiếp tác động lên giác quan của
người đọc mà còn tạo ấn tượng mạnh mẽ lên trường thẩm mỹ của các thế hệ người
tiếp nhận. Rõ ràng, cách tổ chức hình thức thơ Mai Văn Phấn mang một quan niệm
riêng về sự kết hợp ngôn từ trong một dòng thơ, bài thơ. Mỗi câu thơ là một sự
gián đoạn tạo khoảng lặng để người tiếp nhận cảm nhận và đồng sáng tạo. Với Mai
Văn Phấn, mỗi con chữ đều có thể chuyên chở một ý nghĩa và có một tiếng nói nhất
định trong chỉnh thể. Sự kết hợp ngôn từ hết sức tự do có xu hướng phá bỏ những
trật tự logic thông thường, nhưng đó lại chính là sự liên kết trong thế giới
duy tâm, duy cảm. Do vậy, câu thơ thường có sự song tồn, xen kẽ mơ hồ giữa đời
sống hiện tại và đời sống tâm linh, giữa màu sắc hư và thực. Nhà thơ Nguyễn
Việt Chiến đã nói về cách kết hợp ngôn từ trong thơ Mai Văn Phấn mang lại hiệu
quả thẩm mỹ cao,“Mai Văn Phấn đã biết cách giữ được những đặc thù của ngôn ngữ
thơ trong chuyển động đổi mới của những con chữ. Đây chính là sự khác biệt giữa
một số cây bút cách tân đã nhân danh cái mới để “lạ hóa” thơ đến mức phản thơ với
những tác giả có xu hướng tìm tòi nhằm nâng cao vẻ đẹp ngôn ngữ - thơ bằng những
ý tưởng mới”.
Mai Văn Phấn luôn có xu hướng phá vỡ cấu trúc thơ truyền thống,
ông không hề câu nệ đến mối quan hệ nhân quả theo chiều tuyến tính. Bởi trong
tâm hồn của người nghệ sĩ ấy luôn tràn đầy cảm xúc, một khi cảm xúc bung nở thì
nó sẽ được thể hiện dưới nhiều chiều kích khác nhau. Vì thế, cách kết cấu theo
kiểu phân tán, gián đoạn có sự bổ trợ đắc lực cho trường thẩm mỹ mới của thi
sĩ, đây cũng là sự cách tân tiến bộ so với thơ ca truyền thống, thể hiện một sự
phá cách tự do. Đôi khi trong bài thơ xuất hiện những câu thơ, những hình ảnh rời
rạc, dường như không có chút liên hệ nào với nhau. Đó là lối tư duy phi logic của
những người mắc bệnh hoang tưởng, mà hình ảnh ông già mắc bệnh lẩn thẩn xuất hiện
trong bài thơ “Đúng vậy” đã tạo nhiều ám gợi cho người đọc. Ông bỏ nhà đi
và cứ lẩm bẩm những câu nói tưởng chừng vô nghĩa: “sáng rồi tối... thối rồi
thơm... bơm rồi xì... đi rồi ngã... vả rồi thương... ương rồi chín... nín rồi
thét... kẹt rồi lơi... xơi rồi hóc... bóc rồi che... đe rồi chừa... đưa rồi quỵt...
bịt rồi hở... lỡ rồi toi... moi rồi thấy...”.
Rõ ràng, đây là những mảnh vụn của hiện thực, giống như những
hình ảnh ảo giác, kì dị, chỉ xuất hiện từ trong những khủng hoảng tâm lí của
con người. Ở đó, con người triền miên trong cõi vô thức, những hành động ở họ
có chút gì đó “kì quặc” trong mắt người thường. Nhưng nếu lắng lòng lại để cảm
nhận những chuyển biến tinh tế trong miền sâu thẳm của tâm hồn chúng ta có thể
tiếp cận đến chiều sâu của những quy luật đời người. Ở đó, ta còn được có những
trải nghiệm tuyệt vời với cái nhìn đôn hậu của người nghệ sĩ và khả năng đồng vọng
đến miền tâm thức của con người. Đây cũng là lối viết thơ theo kiểu tự động được
đông đảo các nhà thơ đương đại sử dụng và phát huy một cách có hiệu quả. Lối viết
này đã được “Hoàng Hưng đề xuất lối thơ “vụt hiện”, giống như lối viết tự
động từng được nói đến ở phương Tây, nhưng được đẩy cao hơn: bài thơ là tập hợp
thơ của những câu, những hình ảnh rời rạc, dường như không có chút liên hệ nào
với nhau, chỉ là những bản tốc kí những gì “vụt hiện” ra trước mắt hoặc đến từ
tiềm thức, vô thức”**[48, 108]. Và trên chính nền ấy, Mai Văn
Phấn đã tạo ra những “bước tiến” mới, khi ông thể hiện những ẩn ức của mình bằng
việc tạo cho nó một cấu trúc mới để tồn tại. Trong cấu trúc ấy, không tồn tại sự
tường trình, diễn giải chi tiết mà tất cả được giản lược một cách tối đa. Từ
đó, người đọc tự suy đoán và tìm ra sợi dây logic liên kết ngầm ẩn đằng sau bề
mặt câu chữ.
Thứ ba, khi sử dụng hình thức thơ tự do, những cảm xúc mới được
tạo ra từ chính sự tự do sáng tạo của nhà thơ. Với xu hướng tự do hóa hình thức
thơ một cách triệt để, cùng với mạch vận động đa dạng của đời sống tâm linh thì
những hình thức thơ thông thường không thể chuyển tải hết được những chiêm nghiệm,
suy tư của thi sĩ đối với những biến động tinh tế trong đời sống tâm linh. Khi
đó, thi sĩ cần đến những hình thức thơ cởi mở hơn, rộng rãi hơn để những cảm thức
thơ được trải dài và lan rộng hơn. Lúc ấy, thể thơ văn xuôi được Mai
Văn Phấn sử dụng và phát huy một cách hiệu quả. Soi chiếu vào hành trình sáng tạo
của Mai Văn Phấn càng về những giai đoạn sau, khi ý thức về sự đổi mới hình thức
thơ ngày càng gia tăng thì mật độ của thể thơ văn xuôi xuất hiện càng nhiều.
Thơ văn xuôi được sử dụng dưới những hình thức hết sức đa dạng, từ những bài
thơ văn xuôi độc lập, cụm lại thành chùm (như 8 bài Lúc mặt trời mọc, Viết
cho cây sáo, Nước mắt, Em cho con bú, Đêm ở Thuỵ Khuê, Bừng tình trên tàu, Ký sự
mùa thu, Hải Phòng trước năm 2000), Mai Văn Phấn mở rộng khuôn khổ thơ văn xuôi
thành từng chương trong Trường ca (như chương III: Cộng hưởng I; chương
VI: Cộng hưởng II; chương X: Phía trước bàn chân trong trường ca Người
cùng thời) hoặc tổ hợp thành liên khúc, biến tấu theo chủ đề (Mười bài tập mùa
xuân – 10 khúc; Những bông hoa mùa thu 13/27 đoạn). Trong đó, từ viết
cho cây sáo; nước mắt; em cho con bú; Bừng tỉnh trên tàu… đến bức ảnh,
trái cây và giấc mơ; kể lại giấc mơ; giấc mơ cây; Quang phổ;…không chỉ thể hiện
sự đổi mới hình thức thơ mà ở đó, những bài thơ đã tạo dựng nên một thế giới
xen lẫn những hư và thực, mà quan trọng hơn là sự thay đổi điểm nhìn tôn giáo,
hay nói đúng hơn là sự hoán chuyển những nghi thức thức tôn giáo trong thơ Mai
Văn Phấn trong quá trình sáng tạo.
Mặt khác, khi sử dụng thơ văn xuôi là một hình thức thơ có
tính chất cởi mở hơn cả, ít ràng buộc hơn cả (so cả với thơ tự do), không giới
hạn về biên độ câu thơ, dòng thơ, mạch câu chảy tràn, sự kiện phong phú, hình ảnh
chồng chất, ý tứ đa dạng, cảm xúc trùng điệp. Mai Văn Phấn đã gây ấn tượng mạnh
mẽ bởi lối cấu trúc bề thế, tầng lớp của hình ảnh; Tính ẩn dụ, đa nghĩa, giàu
triết lí; Giọng điệu trúc trắc, gân guốc; Ngôn ngữ đậm chất siêu thực; Sử dụng
cả chi tiết kỳ ảo, phi lý:
“Đoàn tàu băng qua bao cây số, đưa giấc mơ của tôi đến những
nơi giời ơi đất hỡi ... Tôi đi ra khỏi tôi, ra khỏi con tàu.
Có tiếng sóng biển rào rạt đập vào bờ làm tỉnh giấc.
Đang bàng hoàng run rẩy, tôi nhớ ngay đến người phụ nữ xa lạ kia liệu có
ngủ́ thiu thiu, để lỡ trượt chân ngã xuống đường tàu.
Nhìn chẳng thấy chị đâu. Hay chị xuống ga nào? Có cái ga ấy
không? Có cái ga ấy không? Có cái ga ấy không? Trong giấc ngủ của tôi vừa
nãy!”. (Bừng tỉnh trên tàu).
Những câu hỏi của nhà thơ, như còn ngân vọng mãi trong miền
vô thức của con người như một sự ám ảnh khôn cùng. Thi sĩ đang sống trong cảm
giác “mộng du”, không thể ý thức được rõ ràng về những điều đã và đang xảy ra ở
hiện tại, nhưng ông lại vô cùng tỉnh táo và vô hình chung có thể tự lí giải được
những điều vang vọng từ cõi tâm thức. Từ đó, tạo nên khoảng không gian thơ siêu
thực, mông lung để người nghệ sĩ có thể thả hồn mình vào những miền sâu của tâm
tưởng. Đến bài thơ Quang Phổ, một lần nữa nhà thơ tạo ra những khoảng lặng
tâm tưởng giữa hai miền ánh sáng và bóng tối – một quan niệm quán xuyến trong
hành trình sáng tạo của ông. Để thể thơ văn xuôi được sải cánh vươn tới một
chân trời của những điều tưởng như bình dị nhưng vô cùng thiêng liêng. Một
ngày ánh sáng rút đi, mọi vật quanh ta chỉ là bóng tối. Cánh đồng tối
ôm giống lúa tối. Thuỷ triều tối cuốn đàn cá tối. Giọng đơn ca tối
trên nền nhạc tối. Lớp học tối nhầm lẫn giáo trình tối. Hồ sơ tối giấu
kho tài liệu tối. Đại lộ tối đổ về quảng trường tối. Cuộc diễu binh tối
phô trương vũ khí tối. Bàn tay tối buông con bồ câu tối... Vậy từ nay
tôi tiết kiệm và tàng trữ ánh sáng, gom nhặt và đầu cơ ánh sáng,
tích luỹ và khúc xạ ánh sáng, nâng niu và giành giật ánh sáng,
tôn kính và giấu bớt ánh sáng, yêu thương và ăn cắp ánh sáng, thanh sạch và
vươn trong ánh sáng...(Quang Phổ). Rõ ràng, tập hợp đoạn thơ là lớp lang những
hình ảnh chồng chất về bóng tối và ánh sáng. Cách viết của nhà thơ như là việc
“ghi chép lại một cách tốc kí” những hình ảnh mà giác quan thu nhận được. Cách
viết nêu lên, những hệ nhân để mang lại những hệ quả tất yếu, như một cách thức
nhận trong tâm tưởng của nhà thơ muốn hướng về thế giới bao la ngoài kia. Quả
thật, chỉ có thể là thơ văn xuôi mới có thể dung chứa hết được độ mở của cảm
xúc và những biến thiên tinh tế trong tầng sâu tâm thức của con người.
Đến những trường hợp đáng chú ý từ những bài thơ: anhanhemem,
những bông hoa mùa thu; Biến tấu con quạ; Hắn… là sự kết hợp tinh tế giữa thơ tự
do và thơ văn xuôi tạo nên sự sóng âm kì diệu. Ở đó vừa có sự tự do của ngôi lời,
vừa có không gian rộng rãi để cảm xúc được bung nở và hoàn thiện. Trong bản
thân một bài thơ chia làm nhiều phân đoạn, kết hợp giữa những đoạn thơ tự do và
thơ văn xuôi, làm người đọc có cảm giác như nhìn thấu được đời sống của chính
mình. Hay nói cách khác, tiếp cận thế giới thơ với độ mở phong phú như vậy là một
cơ hội để người tiếp nhận trải nghiệm đến miền ý thức với nhiều những vỉa tầng
khác nhau. Phải chăng, đây cũng là một phương diện độc đáo để thi sĩ tạo những
dấu ấn riêng biệt trong lòng độc giả. Làm thơ theo những chủ đề không hề mới,
nhưng cách thể hiện thì luôn mới đã tạo nên sự hấp dẫn đến kì lạ. Bên cạnh
đó, thơ Mai Văn Phấn có nhiều bài mang hơi thở tự do, ít khi sử dụng những
dấu chấm câu, không cần tuân thủ trật tự cú pháp, đề cao sự liên tưởng cá nhân
(hay còn gọi là lối viết tự động và sự “tùy tiện” của ký hiệu). Để biểu đạt giấc
mơ và đời sống vô thức, lối viết tự động được xem là phương thức hữu hiệu. “Nó
cho phép tìm lại quyền năng đã mất của trí tưởng tượng và cho phép hiểu rõ hơn
cơ chế của tư duy được xác lập như thế nào”. Đó là một cách để thoát khỏi
mọi định kiến của xã hội và luân lý, để biểu lộ niềm tin vào tính dân chủ của
ngôn ngữ, để tự do suy ngẫm về chức năng của nghệ thuật và bản chất của quá
trình sáng tạo. Đó là trường hợp đặc biệt như ở Mười bài tập mùa xuân có
sự gắn kết của những đoạn thơ văn xuôi vắng sự xuất hiện của các dấu câu. Những
câu thơ dàn trải như chính sự chuyển động của một miền vô thức: “…bức tượng
trong vườn ngỡ bị trương lên bởi hơi ẩm mưa dầm quánh đặc tràn lỗ tai con chữ
chết dính vào trang sách không rõ ràng cảm xúc văng vẳng cơn mơ tiếng cười lả
câu đùa nửa thực nửa hư trong bóng râm mơ hồ muội ám gốc cây nhòa mái đình ngõ
nhỏ người đi bóng dán xuống hai vệ cỏ liêu xiêu gợi nhớ bà nội đầu năm châm lửa
thắp hương thoảng mùi diêm sinh bay từ chăn chiếu từ nhụy hoa đầy dấu chân
ong…”. Rõ ràng, âm hưởng tâm linh hướng người đọc đến sự đồng sáng tạo.
Nhiều hình ảnh được chồng lấn lên nhau trong một mạch thơ, tạo nên sự phồn tạp,
đa bội trong cảm nhận. Ở đây, nhà thơ đã tạo ra rất nhiều khoảng trống để khơi
dậy tiềm thức trong mỗi con người. Mỗi cảm quan tiếp nhận có thể tự sáng
tạo cho mình một văn bản phù hợp với trường thẩm mỹ của mình, trong quy phạm về
khoảng không gian chung mà thi sĩ tạo ra. Qua đó, người đọc sẽ có thể cảm nhận
khách quan, bởi từ trong sự cụ thể hóa đã hàm chứa sự trừu tượng hóa, nên mức độ
lan tỏa của nó có được trên phạm vi rộng. Cũng như vậy, trong trường ca “Người
cùng thời” với những bài “Đằm thắm mặt người” hay “Mail cho em”, đọc thấy
“mỏi” vì những câu thơ không chấm phẩy, xuống hàng nhưng bị “dẫn dụ” bởi trường
liên tưởng “phá vỡ” những rào cản, vỏ bọc. Với lối tư duy phức hợp, “trong câu ấy
có câu khác”, thơ Mai Văn Phấn đã có thêm rất nhiều biến ảo, đi đến tận cùng của
cái “tôi” của nỗi đau nên thơ anh thật nhiều vỉa tầng, ý nghĩa. Càng đọc càng
thêm nhiều “khám phá” về tính cộng hưởng của từng câu thơ trong một bài, của từng
bài thơ trong cả tập, của chương này với chương khác trong trường ca. Khi nhịp
điệu câu thơ bị ngắt ra, không lệ thuộc vần điệu, không có dấu chấm, dấu phẩy,
ta như bị lạc vào thế- giới- đa- chiều, không gian của những cộng hưởng... Có
thể khẳng định, Mai Văn Phấn đã có nhiều cách tân, cả trong cách cảm, cách
nghĩ, cả trong hình thức thể hiện. Chọn sự đổi mới không chỉ trong bản thân chủ
thể mà còn đi sâu vào các khía cạnh thể hiện để nêu bật ý thơ. Thế giới thơ có
sự hòa điệu cùng với thế giới bao la của vũ trụ và lòng người. Đây cũng là
phương diện mới khi thi sĩ muốn khám phá “đời sống thứ hai” của con người.
Như vậy, Mai Văn Phấn đã mạnh dạn đưa những cách tân táo bạo
về mặt kết cấu để phù hợp với những chủ đề mang ý nghĩa tâm linh. Trong hiện thực
đời sống hiện đại với những sự phồn tạp của nó thì miền hiện thực ở bề sâu đã
hiện lên hết sức sinh động. Nói cách khác, từ chữ đến lời, ngôn ngữ thơ và tư
duy thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn nhằm thể hiện khát vọng quyền lực tối thượng
của nhà thơ đi tìm một cấu trúc văn bản thơ mới lạ, với cách dụng ngữ riêng, in
đậm cá tính sáng tạo nghệ thuật của tác giả, tích hợp đặc sắc, ưu thế kết hợp
giữa cách tân truyền thống và hiện đại. Văn bản thơ văn xuôi Mai Văn Phấn đầy
tiềm năng nghĩa ẩn chứa trong đó, nó là một “kết cấu vẫy gọi” sự mở, sự khám
phá của người đọc tri âm, đồng điệu, đồng cảm. Đó là một lối thơ ngẫu hứng ghi
kịp những tâm trạng vụt hiện, những nỗi niềm như tự động được khơi mở, tuôn
trào... Nhà văn Văn Chinh đã nhận xét: “Như Mai Văn Phấn đã không còn
phải loay hoay với vần điệu, tu từ và thật thú vị, thoát được là tự do. Cảm
giác tự do ở lối nói tung tẩy, nói như không ngụ ý gì, như bất chợt”. Phần
lớn các bài thơ của Mai Văn Phấn cứ tuôn trào một cách tự nhiên như một lời tâm
sự, một câu chuyện kể rất hồn nhiên. Điều đó có được nhờ xuất phát điểm
cũng hết sức “tự do” trong vùng ý thức của nhà thơ. Và cũng bởi, Mai Văn
Phấn đến với thế giới tâm linh một cách rất tự nhiên, ông luôn nhận thức tinh tế
về thế giới của hư vô. Cảm hứng tôn giáo giống như sợi chỉ đỏ xuyên suốt hành
trình sáng tạo của ông, tuy ở mức độ đậm nhạt khác nhau nhưng về cơ bản thơ ông
luôn hướng đến sự linh thiêng, thanh sạch trong cõi sâu tâm hồn.
3.2. Ngôn ngữ siêu thực
Nhà văn Đình kính đã từng nhận xét “Mai Văn Phấn rất có
ý thức trong cách sử dụng ngôn từ, nhưng anh đi theo lối hiện đại, mới mẻ,
tránh sự mòn nhảm, anh biết để câu chữ lan toả trọn vẹn hết nội hàm và sức lay
động của nó trong từng tình huống thơ. Đấy chính là cấu trúc điển hình ngôn ngữ
thơ Mai Văn Phấn” [13, 6].
Còn nhà thơ Đặng Thân trong bài viết Mai Văn Phấn và
công nghệ cách tân thơ thì cho rằng: “Ngôn từ mà Mai Văn Phấn ghi lại
ấy xứng đáng được đi vào thơ ca Việt, vào văn học sử như một dòng thơ cách tân
mãnh liệt nhất. Ngôn ngữ thơ ấy chưa ai từng viết. Nó mới lạ đến từng từ”. Và,
trong sự “lạ hóa” của các thủ pháp nghệ thuật chúng ta không thể không nhắc đến
hệ thống ngôn ngữ siêu thực. Đây là ngôn ngữ chủ yếu tạo nên cái hồn cốt của
thơ ca Mai Văn Phấn nói chung và trong những tác phẩm viết về thế giới tâm
linh, tâm cảm nói riêng. Chúng ta phải thừa nhận rằng, để có được một thế giới
ngôn từ như vậy xuất phát từ những cảm quan của nhà thơ đối với những vấn đề của
chủ nghĩa siêu thực. Chủ nghĩa siêu thực là trào lưu văn nghệ
xuất hiện vào khoảng sau chiến tranh thế giới thứ nhất ở Pháp do
Andre Breton và P.Soupault đề xướng với sự tham gia của L.Aragon và
P.Eluard. Quan điểm và thi pháp của họ chống lại sự sùng bái các
trào lưu văn học hiện thực và lãng mạn thế kỷ XIX, đưa ra một phương
pháp sáng tác mà họ gọi là “lối viết tự động”, tức là ghi lại
những ảo giác tự phát theo “trạng thái của những người bị thôi
miên”... nói tóm lại, là theo chủ quan của người nghệ sĩ thoát ly
mọi liên hệ với thực tế xã hội. Họ chủ trương “giải phóng” thơ khỏi
những qui cách, lề lối gò bó trước đó mà họ cho là khuôn sáo, hàn
lâm, chủ trương dùng những từ ngữ kiểu cách, kỳ lạ, âm luật và cú
pháp thất thường. Đề tài của họ là những mơ tưởng huyền ảo quái
dị, là sự đau khổ nhớ nhung quá khứ, là tình yêu. Họ cho rằng chỉ
với lối sáng tác ấy người ta mới đạt đến một hiện thực cao hơn hiện
thực tầm thường hằng ngày, một “siêu hiện thực”, chữ mà A.Breton đặt
ra (Bách khoa toàn thư Việt Nam).
Ngôn ngữ siêu thực là một trong những đặc trưng của bút pháp
Mai Văn Phấn. Nó biểu hiện ở dạng thức thơ không vần, không nhịp điệu, không
đăng đối và thường đảo ngược cấu trúc ngữ pháp. Đúng như phát hiện của nhà thơ
Lê Đạt, “chữ bầu nên thơ”, hiệu ứng của những dòng thơ cấu trúc ngôn ngữ bị
thay đổi hay chuyển dịch vị trí cú pháp dẫn đến thay đổi cả về nội dung ngữ
nghĩa lẫn giá trị biểu cảm. Cũng như hầu hết các nhà thơ vận dụng thủ pháp
siêu thực, thơ Mai Văn Phấn khêu gợi nỗi kinh ngạc bằng cách phá vỡ thói
quen sử dụng từ ngữ sáo mòn và khai mở các dáng vẻ phong phú của thế giới bằng
những hình ảnh chói sáng. Bởi hình ảnh chính là một phương tiện giải phóng
cái nhìn, gắn kết tưởng tượng với tự nhiên, biến các khả năng thành hiện thực.
Thơ Mai Văn Phấn cũng xuất hiện nhiều hình ảnh lạ và bất ngờ, kiểu như:
Tôi thổi vào lòng ống sáo tối đen địa ngục để tìm ra bảy lối
tới thiên đường: đồ rê mi fa son la si (Viết cho cây sáo)
Con gián bò quanh tôi và nói/ vừa đầu thai được ba tháng tuổi/
kiếp trước từng là người đường hoàng (Chuyện con dài)
Nếu như ở thời kì trước của thơ mới Việt Nam, Trường thơ
loạn trong sự ảnh hưởng của quan niệm về cái đẹp của Baudelaire, các nhà
thơ đã mở rộng nội hàm cái đẹp để tiệm cận với cái kinh dị, cái ghê rợn, cái xấu
và đem những cái ấy làm thi liệu cho thơ, đẩy thơ đến bờ chủ nghĩa siêu thực với
các tác giả tiêu biểu như Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử, thì hôm nay, người đọc
cũng bắt gặp trong Hôm sau của Mai Văn Phấn những hình ảnh thơ cũng
không kém phần kinh dị, ghê rợn: Cái miệng đang trôi kia chắc của người đã
chết/ lúc trên cao/ lúc chạm vào mặt đất./ Bộ xương của cái miệng
giờ tan vào cát bụi/ vẫn vàng ươm/ hay đã xỉn đen trong chiếc tiểu
sành? (Cái miệng bất tử)
Ngôn ngữ siêu thực tạo nên một bầu không khí tâm linh mang âm
hưởng liêu trai:
… Những linh hồn thoát xác tìm cách quay về chiến đấu với
loài quạ dữ. Sau những loạt đạn không gây sát thương, khói hương căng thành bảng,
viết con chữ đầu tiên của bài học mới.
Đây là dòng cuối cùng trong một bản di chúc: “Bắt đầu lễ
Thiên tang khi xuất hiện bóng quạ”
(Biến tấu con quạ)
(Biến tấu con quạ)
Ta cũng bắt gặp trong Biến tấu con quạ những hình ảnh
ám ảnh, ma mị khiến người đọc không khỏi kinh ngạc: Bổ nhào từ đỉnh/ Bằng
đôi cánh sắc/ Lấy tâm điểm xác chết/ Chém toác bầu không/ Gió hấp
tấp không kịp băng bó/ Móc từ hốc mắt/ Những nhãn quan/ Di ảnh
là vật chứng/ Mổ vào lưỡi / và kéo dài/ Phơi dưới trời bài
học khẩu ngữ/ Bóc từng mảng thịt/ Tháo rời tứ chi/ Sổ tung lục phủ
ngũ tạng/ Hộp sọ vừa được dựng lên/ Rêu đã phủ đầy/ Không viết nổi
những dòng bi ký. Màu sắc kì dị được soi chiếu dưới nhãn quan sắc sảo của
người nghệ sĩ, như mở ra trước mắt người đọc một thế giới của những điều tưởng
như phi thực nhưng lại luôn tồn tại trong cuộc sống con người.
Ngôn ngữ siêu thực thể hiện rõ nhất trong việc thi sĩ không sử
dụng cách viết đăng đối như trong thơ truyền thống mà biến tấu nó theo nhịp của
tâm linh, vì thế thơ không theo vần điệu, cấu trúc truyền thống có khi bị đảo
ngược hoàn toàn. Trong “Mùa trăng”, Mai Văn Phấn đã tìm ra thi pháp của riêng
mình khi vị trí của các thực thể bị hoán cải, cấu trúc ngữ pháp đảo lộn: …
Đây là thời khắc ái ân/ Thắp sáng lãnh địa bóng tối/ Mùa phồn sinh thụ phấn, kết
hạt/ Mặn nồng thiêm thiếp trăng khuya/ Bó gối những gốc cây/ Nhắm mắt ngọn đồi
gió/ Hạt giống rơi trong bùn ngấu thảnh thơi/ Ngày mai mặt đất này/ Và thế giới
sẽ đổi khác. Ở đây, sự “phồn sinh, hóa sinh bất định” đã làm cho vạn vật
có sự đổi khác, ngòi bút Mai Văn Phấn như vừa kịp quy chụp được linh hồn của vạn
vật. Những hồn thơ được “thả rơi” một cách tự do, không câu nệ sự đăng đối của
vần điệu, cấu trúc.
Đến “Hình đám cỏ” chính là cách nhìn siêu thực thông qua hình
thức tân cổ điển. Cũng như “Mùa trăng”, ngôn ngữ diễn đạt của “Hình đám cỏ”
thoát khỏi cấu trúc mô hình truyền thống, triệt để sử dụng loại câu không chủ
ngữ hoặc chủ ngữ ẩn đi, đảo ngược chức năng cú pháp, đưa ngôn ngữ thơ vào đời thường,
hạ phóng thơ từ tháp ngà đến với quảng đại công chúng: Tiếng chim qua đỉnh
đầu/ Vào cơ thể anh lúc đang tịnh độ/ Xua đi cho lòng yên lặng/ Sao về được tâm
không…
Hay: Đi về phía cuối con đường/ Nơi bắt đầu cơn giông/ Dọn
lòng thanh sạch…
Xuất phát từ quan niệm của tôn giáo “vạn vật hữu linh”, Mai
Văn Phấn đã thể hiện những triết lí sâu sắc về sự hòa điệu kì diệu giữa con người
và vạn vật. Để từ đó, trước mọi sự biến chuyển của thiên giới, thi sĩ đã có những
cách nhìn nhận và đánh giá sâu sắc, như cách “người họa sĩ vẽ trúc trước hết phải
sống cuộc đời của trúc vậy”. Quả nhiên, cái cõi “tâm không” với lòng “thanh sạch
ấy” thì làm gì có công thức, quy chuẩn nào cho nó. Có chăng, là xuất phát từ khả
năng “tịnh độ” của con người để hướng tới một sự tư do tuyệt đối trong cả vùng
ý thức và vô thức.
Đặc biệt trong “Cửa Mẫu”, hình thức thơ cũng hoàn toàn xé rào
ra khỏi sự đăng đối. Bút pháp siêu thực thể hiện trong cấu trúc thơ, Giọng
nói rất gần/ Dưới bình minh con hãy lột xác!/ Hoa quả/ Lửa đèn/ Âm dương chén
nước/ Như trườn qua cơn chạng vạng/ Rút dần cơ thể khỏi lớp vỏ bọc/ Con hớp những
giọt sương. Ở đây, mạch vận động của cấu trúc thơ không câu nệ đến sự cân
đối, phổ thông. Mà quan trọng ở việc tạo được kết nối thiêng liêng giữa “con” với
“đấng sáng tạo”. Điều đó không phải ở đâu xa, mà nó thực sự tồn tại bằng sự tri
nhận của giác quan, của cảm nhận.
Cùng với đó, không duy hình, không duy lý nhưng nhiều
sáng tạo, những triết lý nhân sinh, cái nhìn luôn luôn “động” của Mai Văn Phấn
đã mang đến cho thơ ông một nhịp điệu khỏe khoắn, và không hề bị o ép trong một
quy chuẩn nào. Nhịp điệu thơ cũng chính là nhịp điệu của thế giới tâm linh, tâm
cảm, nó bắt rễ vào chiều sâu tâm thức, để một lần nữa thi sĩ giúp chúng ta nhìn
nhận lại cuộc đời. Có thể, khi mới lướt qua chúng ta cảm giác thiếu một sự cân
xứng, liền mạch trong ý thơ, … Bát nước và tôi màu trắng/ Mặt đất ngả
vàng/ Cánh đồng phía trước/ Cùng chiếc chuông/ Vàng sậm/ …/ Tôi thỉnh chuông/
Màu vàng / Màu trắng lan đi (Tĩnh lặng). Nhưng chậm rãi hơn một chút,
chúng ta sẽ có thể hiểu được với lối tư duy phức hợp, tính ổn định truyền
thống bị chính ông “bóc gỡ”. Dường như Mai Văn Phấn muốn làm khác đi, phá vỡ những
cấu trúc, cách sắp xếp ngôn ngữ thông thường, phong cách mới một lần nữa đã được
định hình. Ngôn ngữ trong thơ tự tạo cho mình những “bộ cánh” mới để bay cao và
xa hơn đến những vùng chân trời sâu thẳm của cuộc đời.
Có thể nói, trong thơ Mai Văn Phấn, các cách diễn đạt của
ngôn ngữ siêu thực chỉ là một phương tiện biểu hiện những nội hàm rất khác của
thơ ông so với chủ nghĩa siêu thực thời kì trước. Thơ Mai Văn Phấn không thoát
ly mọi liên hệ với thực tế xã hội, nó bám rễ rất chắc vào đời sống, luôn theo
sát mọi diễn biến của đời sống con người và phản ánh nó với các dạng thức mới lạ,
tìm tòi, “khơi những mạch nguồn chưa ai khai mở với đúng nghĩa của sự sáng tạo”.
Nhưng trên các nẻo đường của sự sáng tạo không ngừng ấy, Mai Văn Phấn luôn có ý
thức hướng bạn đọc đến chiều sâu của hiện thực, một hiện thực đa chiều với nhiều
phương diện phong phú. Để từ đó, một lần nữa Mai Văn Phấn giúp người đọc gọi
tên những xúc cảm, những suy tư khó đoán định trong thế giới tâm linh của con
người. Từ những am hiểu về thế giới ấy, ông đã mang đến cho độc giả những lối
thể hiện ấn tượng theo mạch vận động của “Đời sống thứ hai”. Cách viết không
đăng đối, không vần nhịp, đảo ngược những cấu trúc thông thường không có tác dụng
vỗ về cảm xúc cho người tiếp nhận, mà nó đưa ra một cái nhìn tỉnh táo, xuyên thấu
đời sống vô thức. Để từ đó, tạo hiệu ứng liên đới trong chính cuộc sống của mỗi
người cả về bề mặt và bề sâu. Đến đây, Mai Văn Phấn đã quyết dấn thân, tìm
tòi, đổi mới, làm lại một “bình minh” mới cho thơ mình.
3.3. Giọng điệu giàu tính triết lý, chiêm nghiệm
Khi đặt ngôn ngữ vào môi trường “sinh thái” của nó, đó là môi
trường giao tiếp, chúng ta sẽ hiểu được giá trị đích thực của những phát ngôn.
Bằng giọng điệu mang tính sáng tạo độc đáo ở mỗi nhà văn, thể hiện tài năng của
nhà văn, trong sự chiếm lĩnh đời sống. Vì thế, Trần Đình Sử xem giọng điệu văn
học là hiện tượng “siêu ngôn ngữ”, là “yếu tố hàng đầu của phong
cách nhà văn”***. Là một cây bút hiện đại xuất sắc, Mai
Văn Phấn luôn nhìn thẳng vào cuộc sống, con người, phản ánh những ngõ ngách sâu
kín trong tâm hồn. Từ đó, thêm một lần nữa Mai Văn Phấn “tỉnh táo” đưa chúng ta
tiếp cận với lớp màn hiện thực ở bề sâu. Vì thế, ngôn ngữ trong sáng tác của
ông rất gần với ngôn ngữ của đời sống tâm linh, nó như được ngân lên từ chính
miền tâm cảm của con người. Trong các sáng tác của Mai Văn Phấn về cảm hứng tôn
giáo, càng về giai đoạn sau càng thể hiện rõ nét những thành công về mặt nghệ
thuật trên rất nhiều phương diện mà đặc biệt là giọng điệu nghệ thuật. Giọng điệu
ấy, có lúc thấm đẫm tính triết luận, lúc lại thể hiện những suy tư, chiêm nghiệm
của người cầm bút.
Nhà văn Đặng Thân trong một bài viết có tên Mai Văn Phấn
và công nghệ cách tân thơ đã từng nhận xét: “Thơ Mai Văn Phấn chan chứa
cả trời vô thức”. Không chỉ tìm về với miền vô thức của con người, thơ Mai
Văn Phấn với ảnh hưởng của khuynh hướng siêu thực còn đề cao cái ngẫu hứng, chú
trọng việc ghi chép những cái xuất hiện lướt qua trong đầu không qua sự kiểm
soát của lí trí. Ta có thể bắt gặp điều này trong bài thơ Không thể tin:
... Nhưng hình như/ mọi con vật trong nhà/ vẫn chế tác từ đồ
phế thải:/ con mèo tam thể được sinh ra từ mớ giẻ rách?/ con cá bơi trong bể được
gò hàn từ vỏ lon beer?/ chim họa mi hót trong lồng là chiếc ấm vỡ?/ con chó giụi
đầu vào tay mình là cuộn báo cũ?/ đàn kiến đang nhẫn nại tha mồi là đống mạt
cưa?
Tác giả từ một sự ngẫu hứng đã đề ra những khả thể cho sự vật:
tại sao lại gọi đó là con mèo mà không phải là mớ giẻ rách? tại
sao lại gọi đó là con cá mà không phải là vỏ lon beer?... hàng
loạt câu hỏi kiểu như thế được cất lên có vẻ như ngây ngô, buồn cười nhưng thực
ra nó lại mang một triết lí sâu sắc. Như một lời phản biện với quan niệm thông
thường, những hình dung mới của nhà thơ đã làm thay đổi ý niệm về những cái đã
mặc định. Sự thống ngự của chủ thể quan sát hiện lên ở đây để thách thức và đòi
thay đổi. Rõ ràng, những khái niệm của các sự vật là do con người áp đặt lên
nó, chứ bản thân chúng không mang các tên gọi như vậy. Ở đây, sự thể hiện của
thi sĩ đã vượt ra ngoài những kiểm soát của lý trí, nhà thơ như nhập hồn vào
các sự vật để mà liên tưởng và tưởng tượng.
Tính triết lý trong sáng tạo của thi sĩ còn thể hiện ở niềm
tin ở chiều sâu tâm thức và khả năng dự báo. Nhiều bài thơ trong tập Hôm
sau, Mai Văn Phấn đã vứt bỏ sự phân tích logic, đập tan các gông cùm của lý trí, đạo đức, tôn giáo và chỉ tin cậy ở trực giác, giấc mơ, ảo giác, ở những
linh cảm bản năng và sự tiên tri. Với bài thơ duy nhất trong Hôm sau được
viết trong một bầu không khí liêu trai, nhà thơ đã mang đến cho người đọc trạng
thái kinh hãi, rùng rợn khi kể về một ông khách xuất hiện trong ngôi
nhà của mình, đang trò chuyện với mình thực chất là một bóng ma: Pha xong ấm
trà/ Quay ra/ Ông khách không còn ở đó/ Gọi điện thoại/ Người
nhà bảo ông ấy mất đã bảy năm
Chủ nhà tưởng mình nhầm lẫn, nhưng không phải, sau khi đi anh
ta ra ngoài và về lại nhà thì: Trong nhà/ Trà vẫn nóng/ Đẩy chén
nước về phía ông khách đã ngồi./ Luồng tử khí cao chừng một mét sáu dựng đứng
trước mặt/ Chốc lại cúi gập. (Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ)
Điều đó chứng tỏ Mai Văn Phấn đặc biệt tin ở trực giác và
linh cảm của mình. Với Mai Văn Phấn, những xuất phát điểm ở cõi sâu tâm linh
đôi khi lại là sự định hướng chính xác nhất giúp thi sĩ gọi tên những hiện tượng
phi lí trong hiện thực đời sống. Ở đây, vô hình chung những triết lí, quan niệm
về sự sống và cái chết; sự tồn tại hữu hình và vô hình; và, đặc biệt là niềm
tin về sự tồn tại sau khi chết được thi sĩ thể hiện một cách kín đáo thông qua
sự xác tín về sự xuất hiện của ông khách (hồn ma) kia.
Bên cạnh đó, trong cuộc sống nhân sinh hiện đại với nhiều những
bất thường, phi lí ta còn thấy trong Mai Văn Phấn với niềm tin mãnh liệt vào những
giấc mơ với hàng loạt bài thơ trong cùng tập Hôm sau như: Chỉ là
giấc mơ, Ở những đỉnh cột, Giấc mơ vô tận, Kể lại giấc mơ... Nếu
như các nhà siêu thực ở Châu Âu thời kì trước tìm đến với giấc mộng và xem nó
như một phương tiện có sức mạnh toàn năng, có thể thay thế cho tư duy duy lý,
giúp con người đi hết chiều sâu tâm thức của chính mình, tự bộc lộ tính chất
toàn vẹn trong một thực tại siêu đẳng ở đó hành động và mộng mơ, cái bên trong
và cái bên ngoài, cái vĩnh cửu và khoảnh khắc... tất cả trộn lẫn, gắn kết với
nhau thì nhà thơ Mai Văn Phấn đã sử dụng huyễn tưởng và giấc mơ trong thơ mình
để biểu đạt những u uất của sự sống mà con người đang từng ngày bươn trải trong
thế giới phẳng này. Qua đó, nhà thơ bộc lộ những chiêm nghiệm của bản thân mình
về cuộc sống và về nhân sinh. Để rồi, trong tâm thức của một tâm hồn nhạy cảm ấy
xuất hiện đồng thời những dự cảm về thế sự, con người và cuộc đời.
Ở bài Chỉ là giấc mơ, Mai Văn Phấn hình như đang phiêu
lưu trong một ảo giác khủng khiếp, ở đó đầy rẫy những bất công, lừa lọc, hèn hạ,
xấu xa, đê tiện, ác độc... mà đỉnh cao là sự tha hóa của con người đến mức trở
nên ngang hàng với thế giới loài vật, đồ vật ... nhưng cho tôi giữ lại
chút riêng/ xin tự nguyện làm đồ chơi, giẻ lau, trâu chó./ Tôi cúi xuống đón
chiếc ách lên vai/ Tôi xù lông và bắt đầu sủa lớn/ Tôi lúc lắc và kêu bíp bíp/
Tôi mài cơ thể mình xuống sàn nhà./ Tôi chạy quanh và miệng sùi sọt/ Tôi nhễ nhại,
giả chết, lồng lộn/ Tôi rã rời, loạn nhịp, vỡ tung/ Tôi thấm nước và vắt ra nước
… Ở đây, nhà thơ thể hiện những triết lí riêng về sự sống, về những điều “không
gì là không thể xảy ra”. Trong xã hội hiện đại, để có thể là chính mình, và được
làm những điều theo ý mình đôi khi cần một sự đánh đổi. Sự đánh đổi ấy, có lúc
không chỉ dừng lại ở sự “Ngang bằng sổ phẳng” mà còn ở mức độ thấp hơn. Vì thế,
Mai Văn Phấn đưa con người trở thành ngang hàng với con vật, đồ vật để triết lí
về nhân sinh là một cách thể hiện độc đáo. Để rồi từ đó, nhà thơ gióng lên hồi
chuông cảnh tỉnh đối với con người và cuộc đời. Đồng thời, tiên tri về những điều
có thể xảy ra. Cuộc sống vô vàn những họa và phúc. Con người sẽ được thụ hưởng
những nghiệp nhân, nghiệp quả của mình ngay trong cuộc sống hiện tại.
Bên cạnh đó, Mai Văn Phấn lại có thêm một Giấc mơ vô tận mang
tính chất dự báo cho những bất trắc, sóng gió của cuộc sống con người ngay từ
khi họ mới chào đời:
Mưa thôi làm anh lạnh/ đổ vào giấc mơ gần sáng/ những con
sóng đục ngầu/ vỗ vào bãi sú lúc sinh anh. Đời sống thực, với vô vàn những
bất trắc, hiểm nguy luôn rình rập, đòi hỏi con người một tâm thế để “xử thế”
ngay từ khi đối diện với cuộc đời.
Đồng thời giấc mơ ấy còn mang theo dự báo về sự chết chóc thê
thảm của loài người như đặt một dấu chấm hết cho những chuỗi ngày dài con người
sống khổ đau trên trần thế: Gió lùa về/ làm khăn trắng quấn quanh gốc
sú/ trên đỉnh trời linh cữu nhấp nhô. Ý thơ cô đọng bởi màu sắc tang
thương đến gai người. “Đời sống thứ hai” được mở ra với nhiều những góc khuất
chợt hiện trong khoảnh khắc. Và, chính tại thời điểm này, Mai Văn Phấn muốn
quay trở lại và “Theo ngọn gió mở cánh đồng buổi sớm, ùa vào những
căn phòng lẫn bụi và ánh sáng, lau mồ hôi vừa tắm gội giấc mơ ” (Bức
ảnh, trái cây và giấc mơ).
Đọc Ở những đỉnh cột, chúng ta thấy Mai Văn Phấn luôn sống
trong sự trăn trở, bất an trước sự tha hóa của con người, sự phi trật tự của xã
hội. Trong cuộc hành xác ấy, bằng những vần thơ của mình, nhà thơ đã thể hiện một
niềm ước mong thường trực: ông mong mỗi con người có thể tìm thấy cho mình một
chỗ dựa tinh thần, một bến đỗ bình yên, một động lực sống mạnh mẽ giữa cuộc đời
đầy bất trắc này. Và cũng với những vần thơ ấy, có lẽ ông còn muốn đánh thức những
phẩm chất tốt đẹp nơi con người, muốn chỉ cho họ thấy rằng: con người muốn sống
thực sự có ý nghĩa thì trong mọi hoàn cảnh họ phải đấu tranh một cách kiên cường
từng phút, từng giây với cái ác, cái xấu, cái giả dối, cái thấp hèn ... dù cho
cái giá phải trả là những thương tích, mất mát, đớn đau:
Những linh hồn thoát xác tìm cách quay về chiến đấu với loài
quạ dữ. Sau những loạt đạn không gây sát thương, khói hương căng thành bảng, viết
những con chữ đầu tiên của bài học mới. (Biến tấu con quạ)
Từng lời thơ là sự chuyển dịch của đời sống tâm linh, Mai Văn
Phấn không triết lí mà để cho ý thơ tự ngân vang với những cung bậc khác nhau.
Qua đó, thể hiện những chiêm nghiệm sâu sắc của thi nhân về kiếp người. Quả là
một tinh thần rất nhân bản và hợp tự nhiên.
Và với những giấc mơ như trong bài Kể lại giấc mơ, Nếu,...
tác giả được tự do thả mình trong tưởng tượng, giả định. Đó là những câu chuyện
phi logic, hoang tưởng, nhưng chúng ta nhận ra trong những câu chuyện ấy sự hoảng
loạn tinh thần, sự hoài nghi của nhà thơ trước hiện thực cuộc sống của con người
trong xã hội hiện đại và bộc lộ những khát khao thường trực hết sức chính đáng
và giàu tính nhân văn cao cả. Từ đó, Mai Văn Phấn đưa ra những cách cảm, cách
hiểu về những vấn đề nhân sinh và thế sự. Cũng như, trong những bài thơ khác
cùng chủ đề ông đã gửi gắm những nỗi niềm và tâm sự thầm kín, với mong ước tạo
được sợi dây kết nối đến vùng tâm tưởng của bạn đọc. Từ đó, có thể thấy những
suy tư, chiêm nghiệm của nhà thơ còn có được từ những trải nghiệm trần thế, để
rồi Mai Văn Phấn ý thức được những điều có thể xảy ra không chỉ ở thực tại mà
còn cả ở những chân trời xa – nơi những thế hệ nối tiếp sự sống. Bài thơ mở đầu
với những từ mạnh đến gai người: “Cơn sốt thiêu con trên giàn lửa/
Cha cũng có thể thành tro nữa”, thì câu kết lại nhẹ nhàng và mang đầy tính dự
báo: “Khi lớn bằng cha bây giờ/ Đáy chén chắc còn bão tố” (Thuốc đắng). Quả
thực, tư tưởng “luân hồi nghiệp báo” của tôn giáo thể hiện rõ nét trong thơ. Tư
tưởng này, giúp chuyên chở khả năng tiên tri, dự báo để tạo nên tính liên đới
trong thơ Mai Văn Phấn. Thơ ông không chỉ có hiện tại, quá khứ mà còn có cả
tương lai. Tương lai ấy chính là hệ quả của những điều đã và đang xảy ra ở quá
khứ và hiện tại. Vì thế, Mai Văn Phấn đã rất có lí khi mượn quan niệm trong tôn
giáo để tiếp cận gần hơn với thế giới tâm linh của con người. Từ đó, thơ ông có
thể chạm vào từng góc khuất trong cuộc đời. Phải là một trái tim nhạy cảm, một
tâm hồn với những trải nghiệm tuyệt vời thì mới có thể mang đến một bầu trời
thơ tâm huyết như vậy. Để rồi, qua đó chúng ta có thể tự soi mình vào để tìm ra
một sự phản chiếu tinh tế, thức tỉnh tâm hồn.
Như vậy, bằng sự tinh tế và sáng tạo của người nghệ sĩ, Mai
Văn Phấn đã mang đến cho chúng ta một chân trời nghệ thuật rộng mở đầy thi vị.
Với những nhà thơ dám mạnh dạn đi vào cách tân thơ như Mai Văn Phấn thì cuộc
tìm đường, “lột xác” dẫu có đớn đau, nhưng là sự đớn đau sinh nở, thoát khỏi đường
mòn của thơ ca để có một giọng thơ, một khoảng trời thơ Mai Văn Phấn như người
yêu thơ đích thực đã thấy trong những năm gần đây. Từ những quan niệm tiến bộ,
Mai Văn Phấn đã mạnh dạn đi vào những cách tân về mặt hình thức: từ kết cấu men
theo mạch vận động của tâm linh đến ngôn ngữ siêu thực và một giọng điệu đầy
tính triết lí, suy luận…thì thêm một lần nữa, Mai Văn Phấn đã kéo gần khoảng
cách giữa thế giới hiện thực và phi hiện thực, giữa cái hữu hình và những cái
vô hình, giữa ý thức và vô thức… Đây cũng chính là tiền đề để hình thành nên
nhãn quan tôn giáo đối với hồn thơ thi sĩ và cũng là một phần quan trọng giúp
nhà thơ trả lời những câu hỏi của đời sống hiện tại.
* Tiểu kết
Từ cảm hứng tôn giáo khi nhìn từ các phương tiện nghệ thuật,
có thể khẳng định thêm, hướng thơ về những chủ đề triết học chính là một cách
tìm kiếm những năng lượng sáng tạo mới, gia tăng sức gợi, độ mở và vẻ đẹp minh
triết của thơ ca. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, đặt trong bối cảnh hiện tại,
hành trình cách tân hướng về đời sống tâm linh thuần khiết của Mai Văn Phấn dễ
bị xem là “khép mình” bên lề thời cuộc. Trong một hoàn cảnh lịch sử xã hội đầy
biến động, độc giả còn mong muốn tìm thấy từ thơ (và văn học nghệ thuật nói
chung) một tiếng nói tham vấn trực diện về các vấn đề nhân sinh, thế sự nóng bỏng,
gắn liền với cuộc sống hiện tại. Họ mong muốn và đòi hỏi người cầm bút thể hiện
mạnh mẽ vai trò của một công dân với ý thức trách nhiệm và tinh thần “nhập thế”
tích cực. Đó là một đòi hỏi hoàn toàn chính đáng. Nhưng nếu nhìn vào cả chặng
đường sáng tạo, được sản sinh ra từ một tâm hồn giàu ý tưởng và qua những bước
tiến độc đáo trong nghệ thuật của Mai Văn Phấn thì đánh giá đó có phần thiếu
công bằng với thơ ông. Rõ ràng rằng, những vấn đề thời sự nóng bỏng luôn là sự
đòi hỏi cấp thiết của độc giả, và đáp ứng được những trường thẩm mỹ mới của
công chúng mới là nền thơ ca đích thực. Nhưng nếu lắng lại, chúng ta sẽ thấy
khi chỉ dừng lại ở đây thì thơ ca mới chỉ đáp ứng được những bề nổi của cuộc sống
mà thôi. Với tầm nhìn xa và sâu Mai Văn Phấn đã chỉ ra rằng, cuộc sống với rất
nhiều ngả rẽ (như cách nói của Nguyễn Minh Châu “cuộc đời đa sự, con người đa
đoan”), đời sống con người cũng hết sức phức tạp. Con người ngoài mong muốn “một
tiếng nói tham vấn trực diện về các vấn đề nhân sinh, thế sự nóng bỏng, gắn liền
với cuộc sống hiện tại” thì sự thám vấn với chính bản thân mình cũng là đòi hỏi
không kém phần quan trọng. Bởi nhìn sâu vào bản thể con người, ngoài đời sống
hiện tại còn có một đời sống tâm hồn tâm linh cũng hết sức phức tạp, và trong mỗi
con người luôn tồn tại một đời sống khác dù chỉ tồn tại trong suy tư, trong
cách nghĩ. Đưa vào thơ ca những vấn đề có tính chất triết học tâm linh, Mai Văn
Phấn không hề hướng người đọc xa rời tinh thần “nhập thế” tích cực mà trái lại
ông hướng người đọc đến những tầm sâu để nhìn vào đời sống của chính mình, từ
đó hiểu được cách tiếp cận đời sống ở chiều sâu tâm linh. Vì thế, phương tiện
nghệ thuật được xem là con đường nhanh nhất để đưa con người đến với thơ ca tôn
giáo. Mai Văn Phấn đã rất tinh tế khi tạo ra lối kết cấu riêng cho thế giới thơ
của mình, đó là lối kết cấu tuân theo mạch vận động của tâm linh. Để thơ ca đến
gần với “đời sống thứ hai” hơn và con người hiểu rõ hơn về đời sống ấy, khi thi
sĩ mang đến không gian thơ mở đến vô tận với lối thơ tự do, thơ văn xuôi được
chuyển tải bởi những cảm xúc đặc trưng của đời sống tâm cảm; Đồng thời, ngôn ngữ
siêu thực được nhà thơ đẩy đến “độ chín” nhất định. Không phải là sự chau chuốt
đến từng con chữ mà chính lối thơ không vần, không nhịp điệu, đảo ngược cấu
trúc truyền thống đã có sức hấp dẫn lạ kì đối với độc giả; Đó là những tinh túy
được Mai Văn Phấn đúc kết từ những chiệm nghiệm của bản thân để sáng tạo
thành những vần thơ mang đậm tính triết luận tôn giáo. Quả là, chàng thi sĩ họ
Mai đã mang lại cho thế giới tâm linh một chân trời mới để nó lại được sống – một
đời sống vĩnh hằng, trọn vẹn.
Đúng như nhà văn Pháp Andre Malraux đã viết: “Thế kỉ XXI
là thế kỉ của tâm linh”. Đặc điểm của đời sống tinh thần giàu có tâm linh là
“khoan dung”, “an nhiên”, “hài hòa”, “cứu rỗi”, “thông linh”, “khai mở”… Năng lực
tâm linh sẽ giúp con người biết lắng nghe tự nhiên, xã hội, con người; thậm chí
có thể “nghe” được cả bước đi của lịch sử một cách tinh tế nhất như nhà thơ
Nguyễn Đình Thi đã viết: “Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất/ Những buổi ngày
xưa vọng nói về” (Đất nước). Đến Mai Văn Phấn, là lại là niềm tin đầy lí
trí và hướng “đạo” đến với “đời”. Từ những ẩn ức đầy thi vị về thế giới tâm
linh, nơi đó có ánh sáng của Chúa, Của Phật và của rất nhiều hình tượng tôn
giáo khác cùng ngân lên “khúc ca hợp xướng”: Chúa Jê-su và Phật Thích –
ca/ Trên cỗ xe năm 2000/ Cả Người tôi yêu mến nữa/ Họ cùng bên nhau lặng yên./
Thế rồi xe tới Hoàn nguyên/ Họ vụt òa lên nức nở/ Nước mắt thành đầu còn cỗ xe
thành chân trẻ nhỏ/ Khi gửi xiêm y vào gió/ Họ ôm chầm lấy nhau (Hoang tưởng
năm 2000). Cùng với thế hệ nhà thơ Mai Văn Phấn, tương lai của văn
chương sẽ là những cuộc khám phá bất tận những bí ẩn của thế giới tâm linh
trong đời sống của con người thời đại. Thế giới tâm linh đã, đang và sẽ là một
“miền đất hứa” chứa đựng nhiều bí ẩn kì thú mời gọi khám phá sáng tạo đối với
nghệ sĩ, cũng như mời gọi thưởng thức, đồng sáng tạo, đối thoại đối với
côngchúng nghệ thuật.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Có thể nói, nền văn học chân chính bên cạnh phản ánh
hiện thực đời sống của con người nơi trần thế, hướng con người vươn tới cái đẹp,
cái thiện thì cũng cần soi chiếu đến những miền sâu thẳm trong tiềm thức con
người, hướng con người tới thế giới thiêng liêng cao cả, làm cho con người ngày
càng hoàn thiện hơn. Thế giới của tôn giáo là thế giới được xây dựng bằng trí
tưởng tượng, bằng niềm mơ ước, thánh thiện, nơi ấy tâm hồn chúng ta được thanh
thản, bình yên. Cuộc sống hiện đại với tất cả sự bề bộn của nó, có những lúc
con người như lãng quên đi một đời sống tinh thần phong phú cũng đang hiện hữu
trong chính bản thể tưởng chừng đơn nhất kia. “Đời sống thứ hai” ấy có khi là một
điểm tựa vô cùng quan trọng, là động lực mạnh mẽ giúp con người vươn tới những
chân trời rộng mở, giúp họ tìm lại chính mình. Đi tìm lại bản thể là cuộc hành
trình bền bỉ nhất mà Mai Văn Phấn là người ý thức rất rõ về sứ mệnh này.
2. Mai Văn Phấn – thi sĩ hiện thân của sự cách tân và
sáng tạo đã mang lại cho nền văn học đương đại những nhận thức mới mẻ về đời sống
tâm linh, tinh thần của con người. Ở đó, dưới nhãn quan của một thi sĩ, Mai Văn
Phấn đã mạnh dạn đưa ra những cách nhìn nhận, đánh giá về nhân sinh quan và thế
giới quan. Sự sống luôn tồn tại trong cõi “phồn sinh và hóa sinh bất định”. Vì
thế, vũ trụ bao la luôn mang lại cho con người thêm những nguồn sống mới, có
sinh – trụ - hoại – diệt, nhưng cũng có cả sự hồi sinh và tái sinh kì diệu. Đối
với Mai Văn Phấn, ánh sáng tôn giáo, nhãn quan tâm linh luôn chiếu rọi, lan tỏa
trong sáng tác của ông. Dù viết về đề tài nào (thế sự, nhân tình, tình yêu,
thiên nhiên, vũ trụ…), thì ánh sáng đó luôn hiện hữu, bật sáng lên những hình ảnh,
hình tượng độc đáo trong thơ. Cảm hứng tôn giáo khi được soi chiếu từ thế giới
hình tượng, là một cách người thi sĩ tiếp cận sâu sắc nhất với đời sống tâm
linh. Nó không chỉ hiện hữu ở một không gian đa chiều thiêng liêng, màu nhiệm; ở
một hình tượng thời gian phi tuyến tính, không xác định như chính sự tồn tại của
tâm thức con người; cùng với những hình tượng con người được xây dựng mang vẻ đẹp
của sự tinh khiết, thánh thiện; Mà đặc biệt hơn cảm hứng tôn giáo còn được trải
dài ở một thế giới hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng.
Thơ Mai Văn Phấn là nơi hội tụ của lớp lớp các hình ảnh đan cài, hòa quyện vào nhau. Thiên nhiên như cũng có tình, và chính cái tình đã mang đến những nét đẹp “duyên khởi” để thế giới thơ của người nghệ sĩ vươn tới ánh sáng thanh sạch của sự giác ngộ và thi sĩ thực hiện được sứ mệnh “phổ độ” của mình. Cho nên, cảm hứng tôn giáo thể hiện trong thơ Mai Văn Phấn trên hai bình diện: đức tin và biểu tượng. Trên cơ sở tiền đề tôn giáo của một thi sĩ vừa là tín đồ của tôn giáo vừa là người “có tín tâm”, thế giới tâm linh trong thơ Mai Văn Phấn hiện lên hết sức sống động. Từ đó, Mai Văn Phấn đưa ra những quan niệm nhất quán của mình về tôn giáo. Với ông, dù là tôn giáo mình hay tôn giáo người thì cũng chỉ là một, bởi có một Đấng tối cao sinh ra và chi phối mọi chuyển động của vạn hữu trên thế giới này. Đấng ấy có thể là Phật thích ca Mâu Ni, Jessu Christer, Alla, hay Mẫu Avalokitesvara… Mọi tôn giáo quan niệm về Đấng tối cao cũng chỉ gần đúng và tất cả cũng chỉ là một vị duy nhất mà thôi.
Thơ Mai Văn Phấn là nơi hội tụ của lớp lớp các hình ảnh đan cài, hòa quyện vào nhau. Thiên nhiên như cũng có tình, và chính cái tình đã mang đến những nét đẹp “duyên khởi” để thế giới thơ của người nghệ sĩ vươn tới ánh sáng thanh sạch của sự giác ngộ và thi sĩ thực hiện được sứ mệnh “phổ độ” của mình. Cho nên, cảm hứng tôn giáo thể hiện trong thơ Mai Văn Phấn trên hai bình diện: đức tin và biểu tượng. Trên cơ sở tiền đề tôn giáo của một thi sĩ vừa là tín đồ của tôn giáo vừa là người “có tín tâm”, thế giới tâm linh trong thơ Mai Văn Phấn hiện lên hết sức sống động. Từ đó, Mai Văn Phấn đưa ra những quan niệm nhất quán của mình về tôn giáo. Với ông, dù là tôn giáo mình hay tôn giáo người thì cũng chỉ là một, bởi có một Đấng tối cao sinh ra và chi phối mọi chuyển động của vạn hữu trên thế giới này. Đấng ấy có thể là Phật thích ca Mâu Ni, Jessu Christer, Alla, hay Mẫu Avalokitesvara… Mọi tôn giáo quan niệm về Đấng tối cao cũng chỉ gần đúng và tất cả cũng chỉ là một vị duy nhất mà thôi.
3. Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn được soi chiếu
một cách thấu đáo khi nhìn từ thế giới nghệ thuật. Có thể khẳng định, cảm hứng
tôn giáo không chỉ chi phối đến hệ thống hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng, mà
còn ảnh hưởng trực tiếp đến lối kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu. Khi ấy, thế giới
tâm linh được soi chiếu qua lăng kính của người nghệ sĩ rất ấn tượng và độc
đáo. Thi sĩ xác định cho mình điểm nhìn từ trong tâm thức, tiềm thức và đặc biệt
bằng sự thức nhận giác quan. Vì thế, đã có thể chạm đến bề sâu hiện thực trong
hành trình kiếm tìm ý nghĩa của đời sống thực tại. Trên nguyên tắc tôn trọng hiện
thực ở cả hai bình diện bề mặt và bề sâu, Mai Văn Phấn đã mang đến những ấn tượng
đầy bất ngờ và thú vị khi khai mở những bút pháp nghệ thuật độc đáo. Bằng
lối kết cấu men theo mạch vận động của tâm linh tạo mối liên hệ sâu sắc đến trường
liên tưởng và tiếp nhận của bạn đọc. Ngôn ngữ siêu thực với cách thể hiện mới lạ,
biến tấu theo nhịp vận động của tâm linh. Giọng điệu giàu tính triết lí, chiêm
nghiệm thể hiện một hồn thơ nhạy cảm và có sự kết nối giữa truyền thống với hơi
thở hiện đại. Từ đó, trang thơ cũng như trang đời tác động trực tiếp lên trường
thẩm mỹ và trí tưởng tượng của người tiếp nhận.
Mai Văn Phấn là nhà thơ có tư tưởng. Điểm xuyết quá trình
sáng tạo của ông cho thấy, Mai Văn Phấn luôn có ý thức cách tân qua từng giai
đoạn sáng tác, hoạch định cụ thể cho mình hướng đi, cũng như cách tiếp cận nguồn
tri thức và trải nghiệm phong phú. Đó là lộ trình từ truyền thống đến hiện đại
và tìm đến giọng thơ thuần Việt hiện đại hiện nay của ông. Như bao nhà thơ cùng
thế hệ, ông sáng tạo theo bản năng thiên bẩm nghệ sỹ, đồng thời tự thiết lập chủ
thuyết cho riêng mình. Ông luôn tâm niệm không đi lại con đường mà thơ ca nhân
loại đã đi, nói cách khác, là không “bới lại xác ướp” các khuynh hướng thơ ca của
thế giới trong các thư viện. Trong ông luôn thường trực câu hỏi: thơ Việt Nam
đương đại đang ở đâu? Ông đã tự trả lời câu hỏi đó bằng tác phẩm, vươn lên quyết
liệt trong sáng tạo, cũng như trong quá trình hội nhập của thơ Việt Nam ra thế
giới.
Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Mai Văn Phấn là một hành
trình không mệt mỏi của một thi sĩ giàu bản lĩnh. Tinh thần ấy, qua ý tưởng thẩm
mỹ của Mai Văn Phấn về “đời sống thứ hai” được thể nghiệm bằng chính thi pháp
Mai Văn Phấn. Thi pháp này không xa lạ mà chỉ là sự tiếp nối một cách sáng tạo
truyền thống thi ca của cha ông ta từ cả ngàn năm trước. Từ cách nhìn của tác
giả, người đọc nhận thức thêm được một điều, thiên nhiên thật hào phóng, tình
yêu thật diệu kỳ, sự sống thật đa dạng và cũng đầy đẹp đẽ, một khi con người hiểu
được tiếng nói của nó bằng trái tim mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nguyễn Thị Bình (2012), Văn xuôi VN sau 1975. NXB
ĐHSP, Hà Nội.
2. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện
đại. NXB giáo dục, Hà Nội.
3. Nguyễn Quang Hà (2012), Một số cách tân nghệ thuật trong
thơ Mai Văn Phấn, luận văn tốt nghiệp thạc sĩ trường đại học Thái Nguyên.
4. Mai Thanh Hải (2002), Từ điển tôn giáo. NXB Từ điển BK, Hà Nội.
5. Lê
Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (Đồng Chủ Biên) (2006), Từ
điển thuật ngữ văn học. NXB Giáo Dục.
6. Nguyễn Văn Hạnh (2006), Tôn giáo và thi ca - nhìn từ
phương đông, Tạp chí nghiên cứu văn học số 2/2006.
7. Nguyễn Văn Hạnh (2006), Tôn giáo và thơ ca - Nhìn từ phương
Đông. Tạp chí nghiên cứu văn học số 2.
8. Nguyễn Văn Hạnh (2006), Quan hệ giữa tôn giáo và thi ca
trong thế giới biểu tượng, Tchí nghiên cứu văn học số 9/ 2006, tr. 55- 64.
9. Chu Thị Thu Hằng (2012), Cảm quan tôn giáo trong thơ
Nguyễn Quang Thiều. Luận văn thạc sĩ trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội.
10. Nguyễn Hiệp, Mai Văn Phấn: vượt thoát về phía trong veo,
in trên trang http://www.vanvn.net.
11. Đỗ Đức Hiểu (2002), Thi pháp hiện đại. NXB Hội nhà văn.
12. Phạm Thị Hương (2012), Cảm quan tôn giáo trong Mẫu thượng
ngàn và Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh. Luận án Thạc sĩ trường Đại Học
Sư Phạm Hà Nội.
13. Đình Kính (Tuyển chọn) Thơ Mai Văn Phấn - Đồng Đức Bốn -
Khác biệt - thành công (Kỷ yếu Hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/5/2011)
14. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại
mới. NXB giáo dục, Hà Nội.
15. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2005), Văn học Việt Nam
sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy. NXB giáo dục, Hà Nội.
16. Nguyễn Văn Long (2007), Giáo trình văn học Việt Nam sau
cách mạng tháng Tám năm 1945. Nxb Đại học sư phạm.
17. Phương lựu (2002), lý luận văn học tập 1. NXB ĐHSP, Hà Nội.
18. Phương Lựu (2005), Phương lựu tuyển tập T2 (lý luận văn
học hiện đại phương Tây kết hợp luôn vấn đề thi học so sánh). NXB giáo dục, Hà
Nội.
19. Vũ Thị Hồng Minh (2009), Phong cách tôn giáo hóa trong
văn xuôi Việt Nam hiện nay. Luận văn Thạc sĩ trường ĐHSP Hà Nội
20. Nguyễn Man Nhiên, Tục thờ mẫu và nghi lễ ngồi đồng múa
bóng ở Khánh Hòa, in trên trang http:/www.vanchuongviet.org).
21. C.Mác - Ănghen (1994), Toàn tập, tập 1. NXB Chính trị Quốc
gia Hà Nội.
22. Lê lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam (1975 - 1990). NXB
Đại Học Quốc gia, Hà Nội.
23. Mai Văn Phấn (1992), Giọt nắng, NXB Hội nhà văn.
24. Mai Văn Phấn (1994), Thơ và trách nhiệm (Tham luận
tại hội nghị công tác nhà văn trẻ toàn quốc lần thứ IV). Tạp chí cửa biển, Tr.
59 - 60
25. Mai Văn Phấn (1995), Gọi xanh, NXB Hội nhà văn.
26. Mai Văn Phấn, (1997), Cầu nguyện ban mai, NXB Hải
Phòng.
27. Mai Văn Phấn (1999), Nghi lễ nhận tên, NXB Hải
Phòng.
28. Mai Văn Phấn (1999), Người cùng thời, NXB Hải
Phòng.
29. Mai Văn Phấn (2003), Vách nước, NXB Hội Nhà văn.
30. Mai Văn Phấn (2009), Hôm sau, NXB Hội Nhà văn.
31. Mai Văn Phấn (2009), Và đột nhiên gió thổi, NXB Văn
học.
32. Mai Văn Phấn (2010), Bầu trời không mái che, NXB Hội
Nhà văn.
33. Mai Văn Phấn (2011), Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận
và trả lời phỏng vấn, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
34. Mai Văn Phấn (2012), Hoa giấu mặt, NXB Hội Nhà văn.
35. Mai Văn Phấn (2013), Vừa sinh ra ở đó, NXB Hội Nhà văn.
36. Mai Văn Phấn (2014), http//:maivanphan.vn và maivanphan.com.
37. Hoàng Phê (chủ biên) (2002), Từ điển Tiếng Việt, NXB
Đà Nẵng - trung tâm từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
38. Trần Đăng Sinh, Đào Đức Doãn (2006), Giáo trình tôn giáo
học, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội.
39. Chu Văn Sơn (2012), Nguyễn Quang Thiều và khuynh hướng sử
thi tôn giáo. NXB văn học.
40. Trần Đình Sử (1993), Thi pháp học, Trường ĐHSP thành phố
Hồ Chí Minh.
41. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ. NXB
giáo dục, Hà Nội.
42. Trần Đình Sử (1999). Giọng điệu nghệ thuật và chủ nghĩa
cảm thương trong truyện Kiều, tạp chí văn học, số 2.
43. Nguyễn Minh Tấn (1975), Nguồn cảm hứng quan trọng bậc nhất
trong sáng tạo nghệ thuật, Tạp chí văn học số 6/1975.
44. Vũ Thị Thảo (2012), Đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn, luận
văn thạc sĩ trường đại học Đà Nẵng.
45. Nguyễn Bá Thành (1996), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại
Việt Nam. NXB Văn học, Hà Nội
46. Bùi Việt Thắng (2014), Dấu ấn tâm linh trong văn học
Việt Nam đương đại qua một số tiểu thuyết. In trên trang http://vanhaiphong.com/.
47. Đỗ Lai Thúy (2004), Phân tâm học và văn hóa tâm linh.
NXB văn hóa thông tin, Hà Nội.
48. Đặng Thu Thủy (2011), Thơ trữ tình Việt Nam từ giữa thập
kỷ 80 đến nay - Những đổi mới cơ bản, NXB Đại Học Sư Phạm Hà Nội
49. Lưu Đức Trung (2010), Tôn giáo của nhà thơ/ R.Tagore. Tạp
chí văn học nước ngoài - số 12, tr 120 - 129
50. Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Hòa, Đoàn Mộ (1998), Một số hiểu
biết về tôn giáo. Tôn giáo ở Việt Nam: sách tham khảo, NXB QĐND.
51. Vũ Thanh Việt (2000), Thơ mới lãng mạn Việt Nam. NXB VHTT
52. Nguyễn Hữu Vui (1992), Vấn đề đánh giá vai trò của tôn
giáo, Tạp chí triết học số 3/ 1992, tr.29- 32
53. Nguyễn Thanh Xuân (2009), Một số tôn giáo ở Việt Nam.
NXB Tôn giáo, Hà Nội.
54. Hoàng Tâm Xuyên (Chủ biên) (1999), Mười tôn giáo lớn
trên thế giới, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.
Chú thích:
**
Nguyễn Văn Long, Giáo trình văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám năm
1945. Nxb Đại học sư phạm, 2007, tr.318.
***
Trần Đình Sử (1999). Giọng điệu nghệ thuật và chủ nghĩa cảm thương trong
truyện Kiều, tạp chí văn học, số 2.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét