Xu hướng nhạc tình - Nhạc quê hương
Trong những bài hát thuộc xu hướng Nhạc Tình vào thời Tân Nhạc mới thành lập, ta thấy có một số bài đã không chỉ đặt tình yêu vào thiên nhiên hay vào cá nhân mà thôi. Có những bài hát tình yêu nhưng là tình yêu nước, yêu quê hương, với những nhạc khúc hãy còn êm đềm, óng ả, để tới khi phong trào Nhạc Hùng ra đời thì sẽ trở thành những thanh niên ca, lịch sử ca vui tươi, khoẻ mạnh, hùng dũng... Ta hãy gặp những người đã viết ra những bài ca tình tự quê hương của đầu thập niên 40 ấy.
Phạm Ngữ
Phạm Ngữ, trong nhóm Ðồng Vọng ở Hải Phòng, có thể là một trong những người đầu tiên đem tình tự quê hương vào Tân Nhạc. Cùng vào lúc các bạn của ông trong nhóm ÐỒNG VỌNG là người anh Hoàng Quý soạn bài hát xưng tụng một cảnh đẹp quê hương là bài Chùa Hương) và người em Hoàng Phú (tức Tô Vũ) viết bài hát vinh danh giòng sông Hát, nơi trầm mình của hai bà Trưng và giòng sông Bạch Ðằng, nơi vẫy vùng của Trần Hưng Ðạo là bài Ngày Xưa (1)... thì Phạm Ngữ nói tới mối tình của một nghệ sĩ đối với quê hương hơn là ca tụng xuông cái đẹp, cái oai của quê hương. Ông soạn hai bài : Trước Cảnh Cao Rộng và Nhớ Quê Hương... Bài Nhớ Quê Hương, với phần phụ soạn lời ca của Hoàng Quý, là bài hát rất phổ biến vào những năm đầu của Tân Nhạc này:
Nhớ Quê Hương
Ðến nay thu tàn
Phương xa kìa chiếc én bay về
Khuất trong non ngàn
Riêng ta nhìn đâu thấy bóng quê
Kìa mấy nếp tranh
Ðằng xa luyến bao làn khói sương
Kìa bóng lá xanh
Còn vương lấy tiếng chuông chùa buông
Sống xa một mình
Ta đau lòng nhớ tới quê nhà
Nước non bao tình
Sao tâm hồn ta thấy sót sa
Buồn nhớ cố hương
Lòng ta có bao giờ thắm tươi
Lúc ta mơ nhìn bóng quê người
Ôi quê hương biết bao tình mến
Ôi quê hương biết bao tình thương
Dẫu phương trời xa ta bao giờ quên
Bóng tre xanh ngắt khi sương chiều xuống
Ôi quê hương biết bao tình mến
Ôi quê hương biết bao tình thương
Thoáng xa xa tiếng sáo trong chiều êm
Tôi im ngồi nhớ quê hương những chiều
Lúc trăng đang dần
Nhô cao đầu trên khóm tre già
Chúng tôi quây quần
Vui nô đùa bên mấy khóm hoa
Hoặc lắng ý nghe
Buồn tiếng sáo mơ hồ ái ân
Phút giây êm đềm đã xa dần...
Tuy vẫn còn là một bài ca thiên nhiên và lãng mạn với cảnh thu tàn, én bay về phương xa, khuất trong non ngàn... nhưng cảnh vật được gắn liền vào cảnh quê nhà với những nếp tranh, có làn khói sương bao bọc... có thêm bóng lá xanh và tiếng chuông, tiếng sáo diều... Tác giả còn nói rõ là mình buồn nhớ cố hương, cho nên lòng mình có bao giờ thắm tươi... khi còn phải ở nơi quê người.
Việt Lang
Nhưng có một bài hát rất đẹp về quê hương, dù ra đời rất sớm sủa, từ những năm đầu của thập niên 40 lận, thế mà hơn nửa thế kỷ sau, nó vẫn sống dai dẳng trong lòng người, bởi vì hoàn cảnh lịch sử éo le đã khiến cho hàng triệu người Việt Nam cứ luôn luôn phải xa quê, khi thì bỏ miền Bắc để vào sinh sống ở miền Nam, khi thì bỏ nước ra đi khắp bốn phương trời, mười phương đất... Ðó là bài Tình Quê Hương của Việt Lang:
Ngàn dâu xanh ngắt mấy nếp tranh xa mờ
Tiếng sáo bay dập dìu đường về thôn xưa
Tình quê lai láng dưới trời thu
Khói xây thành chập chùng mây đưa
Cành tơ liễu thấp thoáng ven hồ
Mùa nhớ nhung dòng nước lững lờ
Ta ra đi một chiều thắm
Vang lời ca buồn trong khóm lá
Nỗi u hoài ngày tháng khôn nguôi
Miền xa thương nhớ
Tình quê hương thiết tha buồn lắng
Nhắn theo lời gió
Muà trăng êm, tiếng tơ một chiều còn vương
Ôi buồn nhớ quê hương
Lòng trai muôn thuở những bước chân giang hồ
Kiếp sống trong bụi mờ một chiều chia phôi
Ðường đi xa tắp tháng ngày trôi
Nhớ nhung hoài nhạc sầu chơi vơi
Lòng say mê dấn bước ra đi
Vì núi sông ca khúc nguyện thề
Bên nương dâu đường xanh mát
Ta về đây chiều mơ gió ngát
Bóng chiều tà tràn thắm hương quê
Này đây khóm lá, này đây bao nếp tranh mờ khói
Những khi chiều tới
Này đây bao thiết tha êm đềm tình thương
Ôi buồn nhớ quê hương...
Với những câu nhạc dài hơi, với nét nhạc dễ cảm, với nhịp điệu trầm buồn, bài Tình Quê Hương này cũng mang đầy đủ những hình ảnh quê hương nếp tranh mờ khói, bãi cát nương dâu tuyệt vời như bài Nhớ Quê Hương, nhưng có lẽ vì nó là bài hát nhịp đôi cho nên nó phù hợp với nhịp thở của chúng ta hơn là một bài quê hương nhịp ba (valse) của Phạm Ngữ.
Chúng ta cần cám ơn những tác giả này, trong buổi bình minh của Tân Nhạc, đã trao tặng chúng ta những bài hát xanh ngát tình quê. Riêng tôi, lại càng phải mang ơn các bạn đồng nghiệp đó, vì về sau, mỗi khi soạn ra những bài ca tình tự quê hương hay tình tự dân tộc như Tình Ca, Tình Hoài Hương, Em Bé Quê, Vợ Chồng Quê, Bà Mẹ Quê v.v... tôi thấy trong lòng văng vẳng dư âm của hai bài hát nồng ấm này.
Chú thích:
(1) Tôi sẽ nói tới những bài này trong một chương khác.
Trong những bài hát thuộc xu hướng Nhạc Tình vào thời Tân Nhạc mới thành lập, ta thấy có một số bài đã không chỉ đặt tình yêu vào thiên nhiên hay vào cá nhân mà thôi. Có những bài hát tình yêu nhưng là tình yêu nước, yêu quê hương, với những nhạc khúc hãy còn êm đềm, óng ả, để tới khi phong trào Nhạc Hùng ra đời thì sẽ trở thành những thanh niên ca, lịch sử ca vui tươi, khoẻ mạnh, hùng dũng... Ta hãy gặp những người đã viết ra những bài ca tình tự quê hương của đầu thập niên 40 ấy.
Phạm Ngữ
Phạm Ngữ, trong nhóm Ðồng Vọng ở Hải Phòng, có thể là một trong những người đầu tiên đem tình tự quê hương vào Tân Nhạc. Cùng vào lúc các bạn của ông trong nhóm ÐỒNG VỌNG là người anh Hoàng Quý soạn bài hát xưng tụng một cảnh đẹp quê hương là bài Chùa Hương) và người em Hoàng Phú (tức Tô Vũ) viết bài hát vinh danh giòng sông Hát, nơi trầm mình của hai bà Trưng và giòng sông Bạch Ðằng, nơi vẫy vùng của Trần Hưng Ðạo là bài Ngày Xưa (1)... thì Phạm Ngữ nói tới mối tình của một nghệ sĩ đối với quê hương hơn là ca tụng xuông cái đẹp, cái oai của quê hương. Ông soạn hai bài : Trước Cảnh Cao Rộng và Nhớ Quê Hương... Bài Nhớ Quê Hương, với phần phụ soạn lời ca của Hoàng Quý, là bài hát rất phổ biến vào những năm đầu của Tân Nhạc này:
Nhớ Quê Hương
Ðến nay thu tàn
Phương xa kìa chiếc én bay về
Khuất trong non ngàn
Riêng ta nhìn đâu thấy bóng quê
Kìa mấy nếp tranh
Ðằng xa luyến bao làn khói sương
Kìa bóng lá xanh
Còn vương lấy tiếng chuông chùa buông
Sống xa một mình
Ta đau lòng nhớ tới quê nhà
Nước non bao tình
Sao tâm hồn ta thấy sót sa
Buồn nhớ cố hương
Lòng ta có bao giờ thắm tươi
Lúc ta mơ nhìn bóng quê người
Ôi quê hương biết bao tình mến
Ôi quê hương biết bao tình thương
Dẫu phương trời xa ta bao giờ quên
Bóng tre xanh ngắt khi sương chiều xuống
Ôi quê hương biết bao tình mến
Ôi quê hương biết bao tình thương
Thoáng xa xa tiếng sáo trong chiều êm
Tôi im ngồi nhớ quê hương những chiều
Lúc trăng đang dần
Nhô cao đầu trên khóm tre già
Chúng tôi quây quần
Vui nô đùa bên mấy khóm hoa
Hoặc lắng ý nghe
Buồn tiếng sáo mơ hồ ái ân
Phút giây êm đềm đã xa dần...
Tuy vẫn còn là một bài ca thiên nhiên và lãng mạn với cảnh thu tàn, én bay về phương xa, khuất trong non ngàn... nhưng cảnh vật được gắn liền vào cảnh quê nhà với những nếp tranh, có làn khói sương bao bọc... có thêm bóng lá xanh và tiếng chuông, tiếng sáo diều... Tác giả còn nói rõ là mình buồn nhớ cố hương, cho nên lòng mình có bao giờ thắm tươi... khi còn phải ở nơi quê người.
Việt Lang
Nhưng có một bài hát rất đẹp về quê hương, dù ra đời rất sớm sủa, từ những năm đầu của thập niên 40 lận, thế mà hơn nửa thế kỷ sau, nó vẫn sống dai dẳng trong lòng người, bởi vì hoàn cảnh lịch sử éo le đã khiến cho hàng triệu người Việt Nam cứ luôn luôn phải xa quê, khi thì bỏ miền Bắc để vào sinh sống ở miền Nam, khi thì bỏ nước ra đi khắp bốn phương trời, mười phương đất... Ðó là bài Tình Quê Hương của Việt Lang:
Ngàn dâu xanh ngắt mấy nếp tranh xa mờ
Tiếng sáo bay dập dìu đường về thôn xưa
Tình quê lai láng dưới trời thu
Khói xây thành chập chùng mây đưa
Cành tơ liễu thấp thoáng ven hồ
Mùa nhớ nhung dòng nước lững lờ
Ta ra đi một chiều thắm
Vang lời ca buồn trong khóm lá
Nỗi u hoài ngày tháng khôn nguôi
Miền xa thương nhớ
Tình quê hương thiết tha buồn lắng
Nhắn theo lời gió
Muà trăng êm, tiếng tơ một chiều còn vương
Ôi buồn nhớ quê hương
Lòng trai muôn thuở những bước chân giang hồ
Kiếp sống trong bụi mờ một chiều chia phôi
Ðường đi xa tắp tháng ngày trôi
Nhớ nhung hoài nhạc sầu chơi vơi
Lòng say mê dấn bước ra đi
Vì núi sông ca khúc nguyện thề
Bên nương dâu đường xanh mát
Ta về đây chiều mơ gió ngát
Bóng chiều tà tràn thắm hương quê
Này đây khóm lá, này đây bao nếp tranh mờ khói
Những khi chiều tới
Này đây bao thiết tha êm đềm tình thương
Ôi buồn nhớ quê hương...
Với những câu nhạc dài hơi, với nét nhạc dễ cảm, với nhịp điệu trầm buồn, bài Tình Quê Hương này cũng mang đầy đủ những hình ảnh quê hương nếp tranh mờ khói, bãi cát nương dâu tuyệt vời như bài Nhớ Quê Hương, nhưng có lẽ vì nó là bài hát nhịp đôi cho nên nó phù hợp với nhịp thở của chúng ta hơn là một bài quê hương nhịp ba (valse) của Phạm Ngữ.
Chúng ta cần cám ơn những tác giả này, trong buổi bình minh của Tân Nhạc, đã trao tặng chúng ta những bài hát xanh ngát tình quê. Riêng tôi, lại càng phải mang ơn các bạn đồng nghiệp đó, vì về sau, mỗi khi soạn ra những bài ca tình tự quê hương hay tình tự dân tộc như Tình Ca, Tình Hoài Hương, Em Bé Quê, Vợ Chồng Quê, Bà Mẹ Quê v.v... tôi thấy trong lòng văng vẳng dư âm của hai bài hát nồng ấm này.
Chú thích:
(1) Tôi sẽ nói tới những bài này trong một chương khác.
Xu hướng nhạc vui tươi lành mạnh, phóng khoáng
Trong thời kỳ thành lập của Tân Nhạc này, ai cũng thích nghe thích hát những bài theo Xu hướng Nhạc Tình dù ai cũng biết rằng đó là loại nhạc sầu, ủy mị... Phản ứng lại nhạc buồn là sự ra đời của những bài hát theo xu hướng Nhạc Vui Tươi, Lành Mạnh, Phóng Khoáng... mà những người tiên phong phải là Trần Quang Ngọc với bản Ðường Trường và nhất là Nguyễn Xuân Khoát.
Nguyễn Xuân Khoát là người được coi như người anh lớn của làng nhạc lúc bấy giờ. Ông hấp thụ âm nhạc ở một nhạc viện, nghĩa là được giáo dục bởi nền nhạc cổ điển tây phương và trong khi ông làm việc tại nhà hàng Taverne Royale với các bạn đồng môn như Nguyễn Văn Giệp, Nguyễn Hữu Hiếu, Phạm Văn Nhường, hoà tấu những bản nhạc nhẹ (musique légère) của Tây Phương... thì ông lại viết trên báo TINH HOA về cái đàn bầu, hoặc viết bài nghiên cứu về Hát Ả Ðào đăng trên báo THANH NGHỊ... rồi còn ghi lại các bài Hát Chèo bằng ký âm pháp tây phương, in thành các bản rời và cho phổ biến. Thái độ quay về nhạc cổ truyền của vị đàn anh đã khiến cho tụi trẻ chúng tôi lúc đó đang rất thán phục nhạc cổ điển tây phương hoặc đang say mê các bài hát Âu Mỹ, phải suy nghĩ.
Và trong khi những người tiền phong như Nguyễn Văn Tuyên, hay các nhạc sĩ trẻ trong hai nhóm MYOSOTIS, TRICEA còn loay hoay với những bản nhạc pha trộn ngũ cung Việt với thất cung tây phương, nhất là đã lồng hẳn Tân Nhạc vào những hình thức nhạc Âu Mỹ như tango, valse, pasodoble v.v... thì Nguyễn Xuân Khoát đưa ra hai bài thơ phổ nhạc của Thế Lữ là Hồn Xuân và Chờ Ðợi Bình Minh với một phong cách rất Việt Nam trong mọi lĩnh vực giai điệu, tiết điệu, cấu phong.
Nguyễn Xuân Khoát đã dùng ngũ cung thuần túy (Sol La Do Re Mi) để phổ bài thơ Hồn Xuân. Tiết điệu của bản nhạc là vận tiết (prosodie) của thơ. Nghe như một lối hát thơ mới mẻ, có tiến trình giai điệu rất đẹp, không phải cái lối ngâm thơ cổ điển, trói bài thơ trong một công thức bồng mạc hay sa mạc gì đó... Ca khúc có hai đoạn, đoạn nào cũng được kết thúc bằng một trong hai câu nhạc chủ đề:
Hồn Xuân
Hồn Xuân thắm chập chờn
Gió Xuân bay lượn cánh hồng nhẹ lan
Tà xiêm áo lướt theo chiều gió
Cánh hoa bay bướm say mộng vàng
Mùa Xuân tới với bao nhiêu niềm vui tươi mới
Kìa Nàng Xuân đang đứng chờ ai...
Lòng man mác nhịp nhàng
Với muôn ngàn khúc ca nhẹ nhàng
Hồn Xuân qua
Với muôn mầu khoe sắc thêm khơi động tình Xuân
Kìa Nàng Xuân đang đứng chờ ta...
Toàn bài toát ra một không khí mùa Xuân êm đẹp, với lòng người man mác trước cảnh xuân tình. Vẫn là một bài ca chan chứa tình cảm thiên nhiên mà tôi đã nói đến qua các ca khúc khác của những nhạc sĩ khác trong giai đoạn này. Tuy nhiên, trong nhạc tình của người anh Cả trong gia đình Tân Nhạc, dường như ông tránh không đả động tới các cô, tới đàn bà, con gái...
Bài Chờ Ðợi Bình Minh thì có giai điệu Do Ré Fa Sol La và tiết điệu của một hành khúc, nhưng không phải là thứ hành khúc lính tẩy như ta sẽ thấy trong giai đoạn sau của Tân Nhạc. Ðây là hành trình của một người Việt trẻ, trong buổi bình minh, đi trên quê hương gấm vóc của mình, mở lòng ra với thiên nhiên. Ðây là bản nhạc tình cảm, nhưng không phải là thứ tình cảm rên xiết. Nó không lãng mạn, nó rất trữ tình:
Chờ đợi bình minh
Hồn non nước đang âm thầm
Sống trong gió sương
Chờ đợi bình minh
Hồn hoa thắm đang êm đềm
Ðắm trong giấc hương
Ðàn chim mai xuyến xao trên cành
Vừng mây trông đón đưa tin lành
Khắp nơi mơ màng
Khắp nơi vui mừng chờ đợi ánh dương
Bao nguồn sống
Bao tưng bừng
Ðầy mây nước
Tiếng vang lừng
Nhường reo
Bướm đang bay say nắng trên hoa hoa đón làn gió
Cùng nhau múa theo
Khúc thanh âm bình minh tươi sáng tưới khắp non sông
Khắp non sông lan tiếng ca vui mừng reo ánh Ðông
Trong giai đoạn đầu của Tân Nhạc, Nguyễn Xuân Khoát chỉ làm công việc phổ thơ mà thôi, hoặc là thơ Thế Lữ, hoặc là thơ Ðoàn Phú Tứ với bài Mầu Thời Gian đăng trong XUÂN THU NHÃ TẬP vào năm 1942.
Nguyễn Xuân Khoát còn là người đóng góp vào nhạc sử một số bài hát theo xu hướng nhạc hài hước qua những bài Con Voi, Con Mèo Mà Trèo Cây Cau, Thằng Bờm... mà tôi sẽ được hân hạnh hầu chuyện các bạn về sau.
Hùng Lân
Khi Tân Nhạc Việt Nam đang thành hình và phát triển, có một người hoạt động rất mạnh mẽ trong cả hai lĩnh vực nhạc đạo và nhạc đời, đó là Hùng Lân. Là người Công Giáo, xuất thân từ nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh, ông là một trong những người tạo dựng nên Thánh Nhạc Việt Nam. Trước khi có Tân Nhạc, trong cộng đồng Công Giáo Việt Nam, người ta đã chuyển ngữ những thánh ca tiếng La Tinh thành những thánh ca tiếng Việt. Rồi khi Tân Nhạc thành hình thì trong nhạc đoàn kể trên đã có những bài thánh ca Việt Nam được sáng tác và in ra trong những nhạc tập mang tên CUNG THÁNH. Hùng Lân là người đóng góp rất mạnh mẽ vào việc sáng tác và phổ biến thánh ca, từ CUNG THÁNH I (1944) cho tới CUNG THÁNH XI (1952)... Tôi sẽ có dịp nói tới Hùng Lân, người nhạc sĩ lớn trong loại nhạc tôn giáo này.
Trong lĩnh vực nhạc đời, Hùng Lân là người có công lớn trong việc tạo dựng một nền nhạc vui khoẻ. Nhạc vui tươi đã có người khởi đầu là Nguyễn Xuân Khoát, nay Hùng Lân là người tiếp tục, cùng với Hoàng Quý, Lưu Hữu Phước v.v...
Nhạc phẩm của Hùng Lân có thể tạm chia ra ba loại:
* Loại tình cảm cá nhân như Sầu Lữ Thứ, Hận Trương Chi... Bài thứ hai không đặc sắc lắm vì đáng lẽ phải tả tình (anh Trương Chi hay cô Mỵ Nương) thì Hùng Lân chỉ tả cảnh...
* Loại tình cảm thiên nhiên như Vườn Xuân, Trăng Lên, Một Mùa Xuân Huyền Ảo... Tác giả là nhà mô phạm nên ca khúc không đủ lãng mạn tính của thời đại nên không quyến rũ người nghe...
* Loại kêu gọi thanh niên như Rạng Ðông, Tiếng Gọi Lên Ðường, Hè Về, Khỏe Vì Nước, Mùa Hợp Tấu, Việt Nam Minh Châu Trời Ðông... Về sau, những bài này được in ra trong hai nhạc tập mang tên ÐỜI TRAI và HỌC SINH, dành riêng cho thanh, thiếu niên và nhi đồng, khi ông làm việc cho Trung Tâm Học Liệu của Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Ðây là loại ca thành công nhất của Hùng Lân.
Kêu gọi thanh niên bằng tiếng kèn đồng là bài Rạng Ðông:
Anh nghe chăng cung kèn rạng đông
Ðang uy linh lừng vang trên không
Ðang thiết tha hùng hồn khơi chí gan Lạc Hồng
Cháy lên nhuộm bao ánh hồng...
Bài Tiếng Gọi Lên Ðường của ông chắc cũng giống như bài Rạng Ðông, kêu gọi thanh niên Việt Nam đi đi đi đi thôi, tiến cho đến nơi sáng ngời... Bài Mùa Hợp Tấu cũng gọi bạn đường ơi, nắng lên rồi, gieo sáng ngời, nhạc ngày xanh như chim lành tung đôi cánh... Một bài khác, rất nổi danh vì là theo đúng phong trào kêu gọi thanh niên Khoẻ Vì Nước:
Khoẻ vì nước kiến thiết quốc gia
Ðoàn thanh niên ta góp tài ba...
Nhưng bài Hè Về mới thật là vui, không một học sinh Việt Nam nào là không hát bài này:
Trời hồng hồng, sáng trong trong
Ngàn phượng rung nắng ngoài song
Cành mềm mềm, gió ru êm
Lọc mầu mây bích ngọc qua mầu duyên
Ðàn nhịp nhàng hát vang vang
Nhạc hoà thơ đón hè sang
Hè về trong khóm trúc mềm đầu hè
Hè về trong tiếng sáo diều dật dờ
Hè về gieo ánh tơ
Bâng khuâng nghe nắng đùa mây trắng đàn chim cánh đo trời
Phân vân đôi mái chèo lữ thứ thuyền ai biếng đưa
Xa xa lớp lúa dồn cao sóng vàng leo giốc trên đồi
Thanh thanh hương sen nồng ướp gió mát khi chiều rơi...
(Tới đây Hùng Lân bắt chúng ta phải hát bè, khởi sự làm cho Tân Nhạc Việt Nam thêm phong phú):
Hè về, hè về - Nắng tung nguồn sống khắp nơi
Hè về, hè về - Tiếng ca nhịp phách lên khơi
Ðầu gềnh suối mát - Reo vui giào giạt
Ngợp trời gió ngát - Ven mây phiêu dạt
Hồn say ý chơi vơi - Ngày xanh thắm nét cười
Lòng tha thiết yêu đời
Ðây suối trăng rừng thơ - Ðây gió nhung thuyền mơ
Ðây phím ngọc đường tơ - Ðây tứ nhạc ngàn xưa
Hè về non nước mến yêu
Hè về nắng thông reo...
Còn bài Việt Nam Minh Châu Trời Ðông của Hùng Lân, thì theo tôi, đó là một bài âu ca oai linh, nghiêm trang nhất... xứng đáng nhất để làm bài quốc ca như đã có lần được đề xướng:
Việt Nam minh châu trời Ðông
Việt Nam nước thiêng Tiên Rồng...
Vào lúc khởi đầu của Tân Nhạc, Hùng Lân cũng như các bạn đồng lứa tuổi, chưa tìm ra một nhạc ngữ mới cho dân tộc, bài bản ông soạn ra trong giai đoạn này như số bài kể trên còn bị ảnh hưởng nhạc Âu Tây dù là nhạc đạo hay nhạc đời. Về sau, ông sẽ có dịp học thêm về nhạc Việt rồi tới dạy nhạc tại trường Quốc Gia Âm Nhạc và đào tạo ra các môn sinh trong đó có những người thiên về nhạc dân ca như Viết Chung chẳng hạn...
Nguyễn Xuân Khoát là người được coi như người anh lớn của làng nhạc lúc bấy giờ. Ông hấp thụ âm nhạc ở một nhạc viện, nghĩa là được giáo dục bởi nền nhạc cổ điển tây phương và trong khi ông làm việc tại nhà hàng Taverne Royale với các bạn đồng môn như Nguyễn Văn Giệp, Nguyễn Hữu Hiếu, Phạm Văn Nhường, hoà tấu những bản nhạc nhẹ (musique légère) của Tây Phương... thì ông lại viết trên báo TINH HOA về cái đàn bầu, hoặc viết bài nghiên cứu về Hát Ả Ðào đăng trên báo THANH NGHỊ... rồi còn ghi lại các bài Hát Chèo bằng ký âm pháp tây phương, in thành các bản rời và cho phổ biến. Thái độ quay về nhạc cổ truyền của vị đàn anh đã khiến cho tụi trẻ chúng tôi lúc đó đang rất thán phục nhạc cổ điển tây phương hoặc đang say mê các bài hát Âu Mỹ, phải suy nghĩ.
Và trong khi những người tiền phong như Nguyễn Văn Tuyên, hay các nhạc sĩ trẻ trong hai nhóm MYOSOTIS, TRICEA còn loay hoay với những bản nhạc pha trộn ngũ cung Việt với thất cung tây phương, nhất là đã lồng hẳn Tân Nhạc vào những hình thức nhạc Âu Mỹ như tango, valse, pasodoble v.v... thì Nguyễn Xuân Khoát đưa ra hai bài thơ phổ nhạc của Thế Lữ là Hồn Xuân và Chờ Ðợi Bình Minh với một phong cách rất Việt Nam trong mọi lĩnh vực giai điệu, tiết điệu, cấu phong.
Nguyễn Xuân Khoát đã dùng ngũ cung thuần túy (Sol La Do Re Mi) để phổ bài thơ Hồn Xuân. Tiết điệu của bản nhạc là vận tiết (prosodie) của thơ. Nghe như một lối hát thơ mới mẻ, có tiến trình giai điệu rất đẹp, không phải cái lối ngâm thơ cổ điển, trói bài thơ trong một công thức bồng mạc hay sa mạc gì đó... Ca khúc có hai đoạn, đoạn nào cũng được kết thúc bằng một trong hai câu nhạc chủ đề:
Hồn Xuân
Hồn Xuân thắm chập chờn
Gió Xuân bay lượn cánh hồng nhẹ lan
Tà xiêm áo lướt theo chiều gió
Cánh hoa bay bướm say mộng vàng
Mùa Xuân tới với bao nhiêu niềm vui tươi mới
Kìa Nàng Xuân đang đứng chờ ai...
Lòng man mác nhịp nhàng
Với muôn ngàn khúc ca nhẹ nhàng
Hồn Xuân qua
Với muôn mầu khoe sắc thêm khơi động tình Xuân
Kìa Nàng Xuân đang đứng chờ ta...
Toàn bài toát ra một không khí mùa Xuân êm đẹp, với lòng người man mác trước cảnh xuân tình. Vẫn là một bài ca chan chứa tình cảm thiên nhiên mà tôi đã nói đến qua các ca khúc khác của những nhạc sĩ khác trong giai đoạn này. Tuy nhiên, trong nhạc tình của người anh Cả trong gia đình Tân Nhạc, dường như ông tránh không đả động tới các cô, tới đàn bà, con gái...
Bài Chờ Ðợi Bình Minh thì có giai điệu Do Ré Fa Sol La và tiết điệu của một hành khúc, nhưng không phải là thứ hành khúc lính tẩy như ta sẽ thấy trong giai đoạn sau của Tân Nhạc. Ðây là hành trình của một người Việt trẻ, trong buổi bình minh, đi trên quê hương gấm vóc của mình, mở lòng ra với thiên nhiên. Ðây là bản nhạc tình cảm, nhưng không phải là thứ tình cảm rên xiết. Nó không lãng mạn, nó rất trữ tình:
Chờ đợi bình minh
Hồn non nước đang âm thầm
Sống trong gió sương
Chờ đợi bình minh
Hồn hoa thắm đang êm đềm
Ðắm trong giấc hương
Ðàn chim mai xuyến xao trên cành
Vừng mây trông đón đưa tin lành
Khắp nơi mơ màng
Khắp nơi vui mừng chờ đợi ánh dương
Bao nguồn sống
Bao tưng bừng
Ðầy mây nước
Tiếng vang lừng
Nhường reo
Bướm đang bay say nắng trên hoa hoa đón làn gió
Cùng nhau múa theo
Khúc thanh âm bình minh tươi sáng tưới khắp non sông
Khắp non sông lan tiếng ca vui mừng reo ánh Ðông
Trong giai đoạn đầu của Tân Nhạc, Nguyễn Xuân Khoát chỉ làm công việc phổ thơ mà thôi, hoặc là thơ Thế Lữ, hoặc là thơ Ðoàn Phú Tứ với bài Mầu Thời Gian đăng trong XUÂN THU NHÃ TẬP vào năm 1942.
Nguyễn Xuân Khoát còn là người đóng góp vào nhạc sử một số bài hát theo xu hướng nhạc hài hước qua những bài Con Voi, Con Mèo Mà Trèo Cây Cau, Thằng Bờm... mà tôi sẽ được hân hạnh hầu chuyện các bạn về sau.
Hùng Lân
Khi Tân Nhạc Việt Nam đang thành hình và phát triển, có một người hoạt động rất mạnh mẽ trong cả hai lĩnh vực nhạc đạo và nhạc đời, đó là Hùng Lân. Là người Công Giáo, xuất thân từ nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh, ông là một trong những người tạo dựng nên Thánh Nhạc Việt Nam. Trước khi có Tân Nhạc, trong cộng đồng Công Giáo Việt Nam, người ta đã chuyển ngữ những thánh ca tiếng La Tinh thành những thánh ca tiếng Việt. Rồi khi Tân Nhạc thành hình thì trong nhạc đoàn kể trên đã có những bài thánh ca Việt Nam được sáng tác và in ra trong những nhạc tập mang tên CUNG THÁNH. Hùng Lân là người đóng góp rất mạnh mẽ vào việc sáng tác và phổ biến thánh ca, từ CUNG THÁNH I (1944) cho tới CUNG THÁNH XI (1952)... Tôi sẽ có dịp nói tới Hùng Lân, người nhạc sĩ lớn trong loại nhạc tôn giáo này.
Trong lĩnh vực nhạc đời, Hùng Lân là người có công lớn trong việc tạo dựng một nền nhạc vui khoẻ. Nhạc vui tươi đã có người khởi đầu là Nguyễn Xuân Khoát, nay Hùng Lân là người tiếp tục, cùng với Hoàng Quý, Lưu Hữu Phước v.v...
Nhạc phẩm của Hùng Lân có thể tạm chia ra ba loại:
* Loại tình cảm cá nhân như Sầu Lữ Thứ, Hận Trương Chi... Bài thứ hai không đặc sắc lắm vì đáng lẽ phải tả tình (anh Trương Chi hay cô Mỵ Nương) thì Hùng Lân chỉ tả cảnh...
* Loại tình cảm thiên nhiên như Vườn Xuân, Trăng Lên, Một Mùa Xuân Huyền Ảo... Tác giả là nhà mô phạm nên ca khúc không đủ lãng mạn tính của thời đại nên không quyến rũ người nghe...
* Loại kêu gọi thanh niên như Rạng Ðông, Tiếng Gọi Lên Ðường, Hè Về, Khỏe Vì Nước, Mùa Hợp Tấu, Việt Nam Minh Châu Trời Ðông... Về sau, những bài này được in ra trong hai nhạc tập mang tên ÐỜI TRAI và HỌC SINH, dành riêng cho thanh, thiếu niên và nhi đồng, khi ông làm việc cho Trung Tâm Học Liệu của Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Ðây là loại ca thành công nhất của Hùng Lân.
Kêu gọi thanh niên bằng tiếng kèn đồng là bài Rạng Ðông:
Anh nghe chăng cung kèn rạng đông
Ðang uy linh lừng vang trên không
Ðang thiết tha hùng hồn khơi chí gan Lạc Hồng
Cháy lên nhuộm bao ánh hồng...
Bài Tiếng Gọi Lên Ðường của ông chắc cũng giống như bài Rạng Ðông, kêu gọi thanh niên Việt Nam đi đi đi đi thôi, tiến cho đến nơi sáng ngời... Bài Mùa Hợp Tấu cũng gọi bạn đường ơi, nắng lên rồi, gieo sáng ngời, nhạc ngày xanh như chim lành tung đôi cánh... Một bài khác, rất nổi danh vì là theo đúng phong trào kêu gọi thanh niên Khoẻ Vì Nước:
Khoẻ vì nước kiến thiết quốc gia
Ðoàn thanh niên ta góp tài ba...
Nhưng bài Hè Về mới thật là vui, không một học sinh Việt Nam nào là không hát bài này:
Trời hồng hồng, sáng trong trong
Ngàn phượng rung nắng ngoài song
Cành mềm mềm, gió ru êm
Lọc mầu mây bích ngọc qua mầu duyên
Ðàn nhịp nhàng hát vang vang
Nhạc hoà thơ đón hè sang
Hè về trong khóm trúc mềm đầu hè
Hè về trong tiếng sáo diều dật dờ
Hè về gieo ánh tơ
Bâng khuâng nghe nắng đùa mây trắng đàn chim cánh đo trời
Phân vân đôi mái chèo lữ thứ thuyền ai biếng đưa
Xa xa lớp lúa dồn cao sóng vàng leo giốc trên đồi
Thanh thanh hương sen nồng ướp gió mát khi chiều rơi...
(Tới đây Hùng Lân bắt chúng ta phải hát bè, khởi sự làm cho Tân Nhạc Việt Nam thêm phong phú):
Hè về, hè về - Nắng tung nguồn sống khắp nơi
Hè về, hè về - Tiếng ca nhịp phách lên khơi
Ðầu gềnh suối mát - Reo vui giào giạt
Ngợp trời gió ngát - Ven mây phiêu dạt
Hồn say ý chơi vơi - Ngày xanh thắm nét cười
Lòng tha thiết yêu đời
Ðây suối trăng rừng thơ - Ðây gió nhung thuyền mơ
Ðây phím ngọc đường tơ - Ðây tứ nhạc ngàn xưa
Hè về non nước mến yêu
Hè về nắng thông reo...
Còn bài Việt Nam Minh Châu Trời Ðông của Hùng Lân, thì theo tôi, đó là một bài âu ca oai linh, nghiêm trang nhất... xứng đáng nhất để làm bài quốc ca như đã có lần được đề xướng:
Việt Nam minh châu trời Ðông
Việt Nam nước thiêng Tiên Rồng...
Vào lúc khởi đầu của Tân Nhạc, Hùng Lân cũng như các bạn đồng lứa tuổi, chưa tìm ra một nhạc ngữ mới cho dân tộc, bài bản ông soạn ra trong giai đoạn này như số bài kể trên còn bị ảnh hưởng nhạc Âu Tây dù là nhạc đạo hay nhạc đời. Về sau, ông sẽ có dịp học thêm về nhạc Việt rồi tới dạy nhạc tại trường Quốc Gia Âm Nhạc và đào tạo ra các môn sinh trong đó có những người thiên về nhạc dân ca như Viết Chung chẳng hạn...
Phạm Duy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét