Hồ Xuân Hương qua Xuân đường đàm thoại
Xuân Đường Đàm Thoại là một bài văn Đàm thoại (nghị luận)
hư cấu, uyên bác của một vị khoa bảng đỗ đầu ba kỳ thi Hương, thi Hội, thi
Đình, không phải là một tài liệu sử học, không thể dựa vào đó để tìm tiểu sử Hồ
Xuân Hương (1772-1822) có mất năm Tự Đức thứ 22 (1869)? hay xem Xuân Đường
Đàm Thoại như tác phẩm văn học dân gian (văn chương bình dân, văn học khuyết
danh) trong «một tiến trình huyền thoại dân gian hóa tiểu sử và thơ ca Hồ Xuân
Hương»? xem Hồ Xuân Hương có phải là một kỹ nữ ‘Nam Quốc Thúy Kiều‘. (theo Đào Thái Tôn, Hồ Xuân Hương, HNVxb Hà Nội 1999) Ông Đào Thái Tôn
đã cất dấu Lưu Hương Ký suốt hơn 40 năm để làm cái chuyện người xưa gọi
là đi tìm «lông rùa, sừng thỏ». Mục đích của Tam Nguyên
Vị Xuyên Trần Bích San khi viết Xuân Đường Đàm thoại năm 1869, là hư cấu cho
thi hào Nguyễn Du (1766-1820) « sống lại 49 năm sau» cùng Tiến Sĩ
Phạm Quý Thích (1760-1825) mỗi người làm một bài phúng điếu Hồ Xuân Hương và luận
bàn về chữ tình, tài, mệnh, giai nhân. Dĩ nhiên cả hai bài phú đều do Trần Bích
San viết và cái tài tình, uyên bác của tác giả là bắt chước phong cách văn
chương của hai nhân vật khác nhau danh tiếng đã khuất. Các nhân vật khác trong
truyện đều có tính cách tượng trưng như Hứa Ngô Ban tượng trưng cho người khách
chơi giàu có, giàu lòng từ tâm, như người khách viễn phương đã chôn cất Đạm
Tiên, các địa danh Từ Sơn, sông Đức Giang tượng trung cho núi từ, sông đức của
người giàu lòng thương, núi Nguyệt Hằng hay Hằng Sơn là một cách chơi chữ khác
đi của chữ Cổ Nguyệt, Trăng xưa, ghép lại thành chữ Hồ.
Loại văn này trước đó Đoàn Thị Điểm trong Tục Truyền Kỳ Tân
Phả có viết Tùng Bách thuyết thoại, (cuộc trò chuyện dưới rặng thông, trắc), lấy
cốt truyện Lưu Bình Dương Lễ, tạo ra hai nhân vật mới: chàng Hà, một thư
sinh thi hoài không đỗ, nhờ lấy vợ giàu, có ruộng nên chăm chỉ cày ruộng trở
nên giàu có và thư sinh họ Nguyễn, hai người gặp nhau dưới rặng tùng bách cùng
biện luận với nhau về Sĩ và Nông. Hà được vợ và Nguyễn thuyết phục trở về trường
học, sau đỗ đạt làm quan to, Nguyễn thi hỏng đến thăm, Hà hất hủi nhưng sai vợ
thiếp nuôi dưỡng, Nguyễn lại thi đỗ. Hai nhà gặp lại thân thiết với nhau.(Xem bản
dịch Bùi Hạnh Cẩn, Thăng Long thi văn tuyển. Văn Học Hà Nội 2010.tr 308-322) Cốt
truyện Lưu Bình Dương Lễ chỉ là cái cớ, và cái hay là những đoạn văn biện luận
về nông và sĩ. Trong Xuân Đường Đàm Thoại cái tinh túy là hai bài phúng điếu Hồ
Xuân Hương và những đoạn văn biện luận về chữ tài, chữ tình, chữ mệnh.
Trần
Bích San (1738-1877) hiệu Mai Nham, tự là Vọng Nghi, được vua Tự Đức tặng tên
Hy Tăng ví với Vương Tăng đời nhà Tống. Ông là con cụ Phó Bảng Trần Đình Khanh
tức Trần Doãn Đạt. Quê làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. (Cùng quê với
Tú Xương). Năm 1864 ông đỗ Giải Nguyên(đỗ đầu) trường Thi Hương Nam Định, năm
1865 đỗ Hoàng Giáp, đỗ đầu đầu kỳ thi Hội và đỗ đầu kỳ thi Đình tại Kinh đô Phú
Xuân, nên được xưng tụng là Tam Nguyên Vị Xuyên. Trong lịch sử khoa cử Việt Nam
hiếm người đạt danh hiệu này trước ông có Lê Quý Đôn 1743 đỗ Giải Nguyên, năm
1752 đỗ nhất giáp nhị danh tiến sĩ (Bảng Nhãn). Triều Nguyễn từ 1806 khoa thi đầu
tiên đến 1918 khoa thi cuối cùng, chỉ có ba Tam Nguyên là Trần Bích San, Nguyễn
Khuyến(1735-1909) đỗ Giải Nguyên năm 1864 nhưng đỗ Hoàng Giáp và Đình nguyên
năm 1871 và Vũ Phạm Hàm(1864-1906) đỗ Giải Nguyên năm 1884, đỗ Hoàng Giáp năm
1892.
Trần
Bích San giữ các chức vụ: Tu soạn Viện Hàn Lâm 1865-1867. Tri phủ Điện Bàn, Án
Sát Bình Định, Tri phủ An Nhơn 1867-1869. Biện Lý Bộ Hộ, Tham Biện Nội Các
1867-1870. Năm 1870 ông được cử làm Lễ Bộ Sự Vụ, sung vào sứ bộ sang Trung Quốc,
sau một thời gian về cư tang cha, ông được thăng Tả Thị Lang Bộ Lại, lĩnh chức
Tuần Phủ Trị Bình, rồi Tuần Phủ Hà Nội 1874-1877. Mùa thu năm 1877 ông được triệu
về kinh thăng Tả Tham Tri Bộ Lễ, dẫn đầu phái bộ ngoại giao sang Pháp, chưa kịp
đi thì mất, hưởng dương 39 tuổi được thăng hàm Tham Tri.
Tác phẩm
chính của ông có:
Nhân sự kim giám. Mai Nham thi thảo do cháu đich tôn là
Trần Đình Sóc sưu tập năm 1938 gồm 161 bài thơ, 1 bài phú và 4 bài văn.(Ngoài
ra có hai tác phẩm Thanh Tâm tài nhân quốc âm thi và Gia Huấn Ca trước người ta
cho là của ông, nay đã xác định là không phải). Nhân Sự Kim Giám là bộ sách chữ
Hán, do ông soạn khi làm tu soạn ở Viện Hàn Lâm. Bộ sách gồm 13 tập đã được khắc
in. Sách ghi nhiều chuyện nhân vật, nhiều danh ngôn trích trong kinh sử Trung
Quốc. Bộ sách đồ sộ, ông chọn lọc những tinh hoa sách sử Trung Quốc, nhưng khó
có thể tìm được những tư tưởng, quan điểm riêng của soạn giả. Mai Am thi thảo
trái lại phản ảnh được tình cảnh khổ sở của dân chúng triều Tự Đức và thể hiện
rõ thái độ của ông trước nguy cơ nước mất nhà tan, vạch trần tệ quan lại tham
nhũng. Trần Bích San là một người nghĩa khí, được người đời kính trọng và
thương tiếc.(Xem Nguyễn Văn Huyền. Trần Bích San nhà thơ yêu nước. Tạp chí Văn
Học số 6-1979 tr 73-83)
Bài
văn Xuân Đường Đàm Thoại, Trần Bích San viết năm 1869, năm ông 31 tuổi.
Bài
văn này được chép tay trong Danh thi tạp lục, do cháu nội đích tôn tác giả là
ông Trần Đình Sóc giữ, ông Trần Tường phát hiện và công bố trên Tạp Chí Văn Học
số 3 năm 1974, tr 130-137. Ông Trần Quát phiên âm và dịch với sự đóng góp của cụ
Trần Xuân Hảo. Bài văn được dịch như sau:
«Năm Kỷ Tỵ, Tự Đức thứ 22 (1869), cuối mùa đông đã lập
xuân rồi. Liễu sắp phơi xanh, đào toan trổ đỏ, xúc cảnh sinh tình, ngổn ngang
tâm sự. Bạn tao nhân cùng nhau họp mặt nói rằng: - Trời trong, trăng sáng,
đáng yêu, bọn ta nỡ phụ thời khắc tốt đẹp này sao? Vì thế anh em
chèo kéo, chén đầy, chén vơi, mâm bát bộn bề. Chuyện vui chưa dứt, chợt thấy một
người đi đến, vẻ mặt buồn rầu, thần sắc như sợ hãi, như mừng, như giận, vừa đến
nơi chưa kịp nói rõ điều được điều mất ra sao.
Tăng (Trần Bích San) này chợt nhận ra là người cùng hội, họ Hứa
tiểu hiệu Ngô Ban. Nhân thế nói rằng:
- Bác từ đâu lại? Có gì mới lạ cho nghe không? Có
làm được việc gì không? Sau đến gặp nhau muộn thế? Nên phạt vài
chén rượu.
Ngô Ban nghiêng chén đứng uống ngay, cười khà khà nói:
- Tôi từ Bắc Giang đến, có làm được một việc đáng cười mà cũng
đáng than!
- Việc gì? Có cho nghe được không?
Nghe hỏi ông băn khoăn chau trán mà nói rằng:
- Người
tài nữ tỉnh Nghệ An, hiệu Cổ Nguyệt Đường, tự Xuân Hương chết rồi. Tôi cùng một
vài người nhà đã chôn cất ở cạnh núi Nguyệt Hằng.
Ông
bèn ngâm rằng:
Đời
người đâu chẳng hội tương phùng,
Tài tử
giai nhân có thủy chung.
Trong cuộc hội có hai người, một người nghe nói thì mừng, một
người nghe nói thì thương. Người mừng là ai? - Là Hùng Lĩnh Xuân Mai. Người
thương là ai? - Là Hoa Đường Ngọc Như.
Người mừng dương mày trên chiếu, phất vạt áo trên tiệc, hớn hở
đọc ngay một câu rằng:
Giấc mộng
đoạn trường duyên đã dứt,
Cung
đàn bạc mệnh oán còn vương.
Người thương nhìn núi rừng như mất mát, cỏ cây như tang tóc,
trầm ngâm mà ngâm rằng:
Anh
hùng không lệ cũng lòng đau.
Người trong tiệc đồng thanh cất tiếng:
- Người
thượng trí vong tình, kẻ hạ ngu bất cập tình, mối tình chung đúc chính ở bọn ta
đây. Nay một nữ lưu chết, mà hai bác thương, mừng trái ngược nhau. Vong tình
chăng? Bất cập tình chăng? Hay là tình đã chung đúc nên chăng?. Người mừng
nói:
- Xuân
Hương là một nữ lưu phù hoa, vẻ mặt như hoa đào, nhan sắc như nước thu. Tôi lúc
trẻ đã có một lần giao du. Nào đàn, nào cờ, nào rượu nào thơ, có thể viết nên
thiên “Phong tình tân lục”. Có người nói rằng:
- Của
vưu vật khách giai nhân chính là các tài nữ này. Người trong dòng tài danh được
gặp thì bảo:
- An ủi
ba sinh là của ấy. Lại thêm:
- Ngàn
vàng sao xứng nụ cười duyên.
Thường thường nhiều người vì các nàng ấy mà đau buồn. Nàng mà
không chết, ai mà không mắc lụy? Nàng mà còn sống, ai mà vô tình được? Nay trời
bắt nàng chết mà không buộc nàng vật vã trong cuộc sống, đạt nàng vào cảnh nghỉ
ngơi mà không buộc nàng vào kiếp trôi nổi, đó không phải là cái may của nàng
sao? Lại không phải là cái may lớn của bọn tài tử sao. Đấy là cái mừng của ta
có nguyên nhân mà ta mừng. Lại nhân đấy mà ca rằng:
“Mặt trời, mặt trăng chừ sớm, tối,
Bầu trời mặt đất chừ âm dương.
Muôn vật là quán trọ chừ ai ra ngoài sống chết?
Ôi tài, ôi mệnh, ôi tình, ôi duyên chừ kiếp sống con người vì
bốn chữ ấy mà lận đận đau thương.
Xuân Hương, chừ Xuân Hương!
Nửa kiếp yên hoa nợ thôi vương,
Tiếng đàn của nàng chừ nghe hận sầu đau xót,
Nay bặt tiếng tơ chừ ai biết đâu là oán hận cung thương.
Vần thơ của nàng chừ người ta chê là trêu chọc,
Nay bặc tiếng ngâm, chừ ai biết đâu là trêu chọc, là văn
chương?
Ý mọn người ôi xin chuốt vận,
Tơ tình dời chuyển chẳng thay xoang,
Mây xanh xanh chừ trăng mơ màng,
Từ Sơn cao chừ Đức Giang trường!
Giờ đây chừ ở cạnh núi Hằng Sơn,
Giờ đây chừ bay về đỉnh Vu Sơn!
Quẩn quanh chừ dưới gốc tùng xanh ngắt,
Dong chơi chừ mây trắng bạt ngàn,
Mây trắng bạt ngàn chừ hạc lững lờ quên lối,
Dưới gốc tùng xanh chừ hạc xao xác tà dương.
Phản phất chừ dương xanh liễu biếc,
Dong chơi chừ múa khúc Nghê Thường,
Tiên trần hai cảnh không ràng buộc,
Mây bụi đôi đường chẳng vấn vương,
Ta vì nàng mà mừng. Ai vì nàng mà thương?»
Người thương nói:
- Xuân
Hương là một nữ lưu tài hoa, tiếng đàn trong vắt, vần thơ cao đẹp, tao nhân mặc
khách nấc nỏm khen kỳ tài. Dẫu lối vìết Ban Chiêu, cung đàn Sái Cơ, vần thơ Tô
Muội, khúc ngâm Tạ Uẩn cũng không thể vượt hơn. Chứa trong nhà vàng cũng không
phải là quá vậy. Ai bảo con người mang cái tài tình như thế mà bỗng đúc kết cái
tinh anh như thế!
Trời
mà vô tình sao nàng lại sinh? Trời mà có tình sao nàng lại chết? Giờ
đây trời phú cho nàng tài văn chương, lại làm giảm cho nàng phần tuổi thọ. Hồng
quân ghen ghét hồng nhan, sao mà lắm thế! Đây ta thương có nguyên nhân
mà ta thương. Lại nhân đây mà hát viếng rằng:
«Hỡi ôi! ghen tài là trời đất!
Ghét giỏi là âm dương!
Nữ lưu tài giỏi trên đời không ai bằng Cổ Nguyệt Đường!
Nữ lưu bạc mệnh trên đời không ai bằng Cổ Nguyệt Đường!
Cổ Nguyệt Đường! Cổ Nguyệt Đường!
Chủ nhân Cổ Nguyệt Đường chừ tiểu hiệu Xuân Hương!
Chuyến đi này của Xuân Hương chừ Nguyệt Đường xót
thương!
Dáng nàng chừ hoa khoe đẹp cúc khoe thơm!
Duyên nàng chừ lửa trong đá, sáng trong chớp,
Mệnh nàng chừ tùy thế cuộc mà tang thương!
Xua nàng vui vầy chừ gương ngọc hoà loan hoàng, trướng gấm
múa uyên ương.
Nay nàng hóa hạc ra đi chừ ai người tình lang?
Xưa nàng thưởng tâm chừ gác đón gió, phòng đùa trang.
Nay nàng cởi mây xa chơi chừ đâu là quê hương?
Xưa nàng đối khách chừ bỏ đai ngọc, nâng chén vàng,
Nay nàng cỡi gió mà về chừ ai người rót rượu viếng linh sàng?
Hỡi ôi! Hỡi ôi!
Hồng nhan bạc mệnh lẽ bình thường,
Gió tuyết trăng hoa hận một phương,
Đền đáp nụ cười ngâm dỡn khúc,
Mười ba ba chữ nặng đau thương.
Tiếng ca thanh khiết,
Câu viếng thảm thiết,
Lời động lòng người,
Phát từ tâm huyết.”
Người trong hội nhìn nhau mà nói rằng:
- Hiên ấm
náo nức, trời xuân cảnh vui. Tại sao hai bác lại thương, mừng như vậy? Người mừng
viết một thiên thật mừng. Người thương viết một thiên thật thương. Hay là trời
làm giảm bớt tuổi xanh mà để danh nàng dài lâu mãi mãi? Cho nên mượn hai bác
biện luận cái sở trường của nàng, mà nói hết được cái huyền diệu của nàng chăng? Chẳng thế thì bạn bè đang họp mặt vui vẻ như thế này, sao bỗng được nghe câu
chuyện mà động đến câu ca lời viếng thế sao!
Ôi!
người ta ai mà không chết? Chết mà xúc động lòng người, để thương để mừng
cũng ít có vậy. Cái chết của Xuân Hương đối với người vong tình, bất cập tình,
cố nhiên thương mừng, không phải là chuyện họ đáng nói. Còn cái thương, cái mừng
của người chung tình tưởng chẳng một mình Xuân Mai, Ngọc Như thôi.
Vậy mượn
bút ghi đây để đợi người quân tử sau này».
Chú thích:
Nhi nữ hữu duyên lân phận bạc, Anh hùng vô lệ diệc tâm bi
(Nhi nữ có duyên thương phận bạc, Anh hùng không lệ cũng lòng đau) thơ Vịnh Kiều
của Phạm Quý Thích.
Đoạn trường ký mộng căn duyên liễu. Bạc mệnh cầm chung oán hận
trường (Giấc mộng đoạn trường duyên đã dứt, Cung đàn bạc mệnh oán còn vương) Nằm
trong bài thơ Đề Vịnh Truyện Kiều của Phạm Quý Thích.
Vưu vật: vật hiếm và quý; Cung Oán ngâm khúc có
câu: Vẻ vưu vật trăm chiều chải chuốt. Ông Đào Thái Tôn đã hiểu lầm là vật
dâm tục.
Người thượng trí vong tình, kẻ hạ ngu bất cập tình: Các
bậc thượng trí, vì cứu độ chúng sanh, hay vì nước, quên tình nhà, không thiết đến
tình yêu vợ con. Kẻ hạ ngu chỉ biết khoái lạc, dâm dục không biết đến tình. Chỉ
có người bình thường là biết yêu đương, tình nghĩa gắn bó.
Vu Sơn: Tống Ngọc viết bài phú Cao Đường, viết về chuyến
đi chơi đầm Vân Mộng của Sở Tương Vương, gặp Thần Nữ núi Vu Sơn và giao hoan
cùng nàng,lúc từ biệt nàng nói: «Thiếp xin sớm làm mây, tối
làm mưa sớm tối dưới Dương Đài»
Nghê Thường: Vua Đường Minh Hoàng nằm mơ thấy lên cung
trăng gặp tiên nữ mặc áo ngũ sắc như móng trời, múa hát rất hay, tỉnh dậy nhớ lại
đặt ra khúc Nghê Thường dạy cung nữ múa hát.
Ban Chiêu: tự Huệ Cơ, con gái Ban Bưu, em Ban Cố, người
đất An Lăng đời Đông Hán, vợ Tào Thế Thúc. Được vua Hòa Đế triệu vào Đông Quan
Tàng Thư soạn tiếp bộ Hán Thư của cha và anh, có trước tác Nữ Giới, 7 thiên.
Tô Muội: Đời Tống, cha là Tô Lão Toàn, anh là Tô Thức
(Tô Đông Pha), Tô Triệt cả nhà đều có tài văn học, nổi tiếng trên đời.
Tạ Uẩn: Người con gái đời Tấn, có tiếng thơ hay thiên hạ
đều khen. Kiều: «Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này ».
Xuân
Hương mất khoảng năm 1822, sau Nguyễn Du hai năm (1820) và trước Phạm Quý
Thích ba năm (1825) cái chết trong âm thầm lặng lẽ, cái chết của vợ một người bị
tội tử hình, không một bài thơ, không một bài phú viếng nàng.
Hùng Lĩnh Xuân Mai tượng trưng cho Nguyễn Du quê ở Hồng Lĩnh,
làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh. Qua Xuân Đường Đàm Thoại, Trần
Bích San tiết lộ: «Xuân Hương là một nữ lưu phù hoa, vẻ mặt như
hoa đào, nhan sắc như nước thu. Tôi lúc trẻ đã có giao du. Nào đàn, nào cờ, nào
rượu, nào thơ, có thể viết nên thiên ‘Phong tình tân lục’». Sự kiện
này ngày nay chúng ta đã chứng minh được bằng những bài thơ đối đáp trao đổi giữa
Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du. Từ mối tình ba năm (1790-1793): Chữ tình chốc
đã ba năm vẹn, trong bài thơ Cảm Cựu Kiêm Trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu, Hầu
Nghi Xuân Tiên Điền nhân trong Lưu Hương Ký, và hai bài thơ Mừng gặp bạn trên
sông Hoàng Giang, Hoài cựu là những bài thơ cuối cùng cho cuộc tình này năm
1813. (xem cùng tác giả: Phạm Trọng Chánh. Hồ Xuân Hương, nàng là
ai? Khuê Văn Paris 2000. Nguyễn Du mười năm gió bụi và mối tình Hồ Xuân
Hương. Khuê Văn Paris 2011, hay bài viết Đi tìm Cổ Nguyệt Đường và mối tình Hồ
Xuân Hương - Nguyễn Du, trên site vanhoanghean, khoahocnet, chimvietcanhnam,
dongtac, langhue...)
Hoa Đường Ngọc Như là nhân vật thay cho Phạm Quý Thích
(1760-1825) tự là Dữ Đạo, hiệu Lập Trai, biệt hiệu Thảo Đường cư sĩ, sinh ngày
19-10 năm Canh Thìn âm lịch (25-12-1760) quê xã Hoa Đường, huyện Đường An, phủ
Thượng Hồng. Hải Dương sau ngụ ở phường Báo Thiên, huyện Thọ Xương, thành Thăng
Long. Môn sinh quan Thám Hoa Nguyễn Huy Oánh, (cha Nguyễn Huy Tự tác giả Hoa
Tiên), Nguyễn Huy Oánh, quê quán làng Trường Lưu, Hà Tĩnh, một danh nho, Theo
Phạm Đình Hổ là một trong ba nhà thơ lớn đương thời, cùng Nguyễn Tông Khuê, Hồ
Sĩ Đống. Trường Lưu học hiệu đã đào tạo 30 môn sinh đỗ Tiến Sĩ, một kỷ lục chưa
từng thấy trong lịch sử, ông để lại 60 tác phẩm, và Phúc Giang Thư Viện chứa
hàng vạn quyển sách, là thư viện duy nhất được triều đình sắc phong.
Năm 1779 Phạm Quý Thích đỗ Tiến Sĩ làm Thiêm Sai tri công
phiên. Khi Tây Sơn ra Bắc, ông trốn lánh. Đầu đời Gia Long (1802) ông giữ chức
Thị trung học sĩ, tước Thích An Hầu trông coi việc chép sử. Ít lâu sau ông cáo
về Thăng Long dạy học. Đầu đời Minh Mạng (1821) lại vời ông ra, ông đang bệnh lấy
cớ từ chối. Ông chăm lo việc dạy học đào tạo được nhiều trí thức danh tiếng
như: Nguyễn Văn Lữ, Nguyễn Văn Siêu(1799-1872), Châu Doãn Trí. Ông mất
ngày 29-3 Ất Dậu (16-5-1825) thọ 65 tuổi. Tác phẩm chính của ông gồm có:
Thảo Đường thi nguyên tập. Lập Trai văn tập. Thiên Nam Long thư liệt truyện.
Chu Dịch vấn đáp toát yếu. Ông là bạn thân thi hào Nguyễn Du, chính ông là người
đầu tiên đem truyện Kiều ra bình phẩm với học trò và làm các bài thơ Tổng Vịnh
Truyện Kiều, rồi lo việc ấn hành.
Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường,
Bán thế yên hoa trái vị thường.
Ngọc diện khởi ưng mai thủy quốc,
Băng tâm tự khả đối Kim Lang.
Đoạn trường mộng ký căn nguyên liễu,
Bạc mệnh cầm chung oán hận trường.
Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy,
Tân thanh đáo để vị thùy thương.
Bản dịch cổ (không biết của ai, dịch rất phóng túng như sáng
tác, có lẽ của tác giả)
Giọt nước Tiền Đường chẳng rửa oan,
Phong ba chưa trắng nợ hồng nhan.
Lòng tơ còn vướng chàng Kim Trọng,
Gót ngọc khôn đành giấc thủy quan.
Nửa gối đoạn trường tan giấc điệp,
Một dây bạc mệnh dứt cầm loan.
Cho hay những kẻ tài tình lắm,
Trời bắt làm gương để thế gian.
Trong
Xuân Đường đàm thoại, Trần Bích San đã cho nhân vật Hùng Lĩnh Xuân Mai thay cho
Nguyễn Du nói quan điểm người mừng:
“Thường thường nhiều người vì các nàng ấy mà đau buồn. Nàng
mà không chết ai mà không mắc lụy? Nàng mà còn sống, ai mà vô tình được? Nay
trời bắt nàng chết mà không buộc nàng vật vã trong cuộc sống, đặt nàng vào cảnh
nghĩ ngơi mà không buộc nàng vào kiếp trôi nổi, đó không phải là cái may của
nàng sao? Lại không phải là cái may lớn của bọn tài tử sao? Đấy là cái mừng của
ta có nguyên nhân mà ta mừng“.
Quả thật cuộc đời Hồ Xuân Hương chỉ có hơn hai năm hạnh phúc
ngắn ngủi với Trần Phúc Hiển (1816-1818). Từ lúc biết yêu lần đầu với Nguyễn
Du. Chữ tình chốc đã ba năm vẹn (1790-1793) rồi Nguyễn Du phải về xây dựng lại
làng Tiên Điền, rồi toan vượt biên theo chúa Nguyễn Ánh, bị bắt tù, mẹ gả Xuân
Hương cho anh Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, Xuân Hương không bằng lòng, nàng vẫn
thương nhớ Nguyễn Du, rồi anh Lang mất sớm (1796). Rồi mối tình với Mai Sơn Phủ
(1800-1801) chàng về quê cậy cha mẹ hỏi cưới thì biệt tích trong chiến tranh.
Xuân Hương lánh nạn lên Vĩnh Yên gặp Tổng Cóc Nguyễn Công Hòa(1802-1804), bắt đầu
cuộc đời mười năm lận đận, vợ cả ghen tuông, thân phận như nàng Tiểu Thanh, “Cầm
bằng làm mướn mướn không công”, tình cảm nàng cũng bi đát, Tổng Cóc hùng hổ như
chó ngao, nhưng làm tình như chuột vọc.: “Tiếc dĩa hồng ngâm cho chuột vọc, Thừa
mâm bánh ngọt để ngao vầy”. Dứt tình với Tổng Cóc trở về Tây Hồ thì Nguyễn Du
đã đi xa (1804). Xuân Hương mở hiệu sách ở phố Nam, buôn bán lỗ lã, con mất. Tốn
Phong đến tán tỉnh nhưng chàng chỉ là anh đồ nghèo chạy vạy dạy học khắp nơi
(1806). Xuân Hương “mẹ già, nhà túng” đi buôn khắp nơi, gặp Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ
Trần Quang Tĩnh, ngỏ lời cầu hôn, nàng chờ đợi thì Quang Tĩnh không thấy đến.(1809),
rồi loạn lạc với giặc Đặng Trần Siêu, Vũ Đình Lục(1810-1822) tình hình Sơn Nam
Thượng bất an, người bạn thân Tử Minh mất để lại lớp học làng Nghi Tàm, Xuân
Hương trở lại nghề dạy trẻ. Quan Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển cầu hôn,
đám hỏi chẳng bao lâu thì mẹ mất, phải cư tang mẹ, đến đầu năm 1816 Hồ Xuân
Hương mới về Yên Quảng được hai năm thì chồng bị bắt và kết án tử hình. Xuân
Hương đi tu rồi trở về làng Nghi Tàm chết trong cô đơn, không một bài thơ phúng
điếu. Cuộc đời Xuân Hương cũng như cuộc đời Vương Thúy Kiều thời gian hạnh phúc
ngắn ngủi, “ở không yên ổn, ngồi không vững vàng” vì bao “tinh hoa đã phát tiết
ra ngoài” một phụ nữ tài sắc vẹn toàn.. Qua nhân vật Hùng Lĩnh Xuân Mai, Trần
Bích San đã thay cho Nguyễn Du mừng cho nàng được vào cảnh nghĩ ngơi, không còn
cuộc đời trôi nổi.
Người
thương Hoa Đường Ngọc Như, thay mặt cho Phạm Quý Thích:
“Xuân Hương là một nữ lưu tài hoa, tiếng đàn trong vắt, vần
thơ cao đẹp, tao nhân mặc khách nấc nõm khen kỳ tài. Dẫu lối viết Ban Chiêu,
cung đàn Sái Cơ, vần thơ Tô Muội, khúc ngâm Tạ Uẩn cũng không thể vượt hơn. Chứa
trong nhà vàng cũng không phải là quá vậy. Ai bảo con người mang cái tài tình
như thế mà bỗng đúc kết cái tinh anh như thế!
Trời
mà vô tình sao nàng lại sinh? Trời mà có tình sao nàng lại chết? Giờ đây trời
phú cho nàng tài văn chương, lại làm giảm của nàng phần tuổi thọ. Hồng quân
ghen ghét hồng quần, sao mà lắm thế“.
Tiếc
là tôi chưa đọc được Thào Đường nguyên thi và Lập Trai Văn thi tập của Tiến Sĩ
Phạm Quý Thích để tìm ra mối liên hệ với Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du. Nhưng qua
những hành động đối với Truyện Kiều, Phạm Quý Thích xử sự như một người anh cả,
nâng đỡ khuyến khích Nguyễn Du sáng tác truyện Kiều, đem Truyện Kiều bình giảng
cho các học trò nghe, và lo cả chuyện in ấn tác phẩm. Việc Hồ Xuân Hương mở hiệu
bán sách báo, bút mực kế bên trường học của ông ở phố Nam thành Thăng Long năm
1805-1807 có lẽ cũng có sự giúp đỡ nhiệt thành của Phạm Quý Thích.
Phạm
Quý Thích là bạn thân, bạn tri âm của Nguyễn Du, tất nhiên là biết mối tình ba
năm vẹn của hai người. Phạm Quý Thích kính trọng Xuân Hương như những tài nữ
danh tiếng Trung Quốc: Ban Chiêu, Sái Cơ, Tiểu Muội, Tạ Uẩn.” Giá này dẫu đúc
nhà vàng cũng nên”, Phạm Quý Thích đồng ý với Nguyễn Du đối với nàng Kiều trong
thơ, và có lẽ ông cũng tiếc rẽ Nguyễn Du không có nhà vàng sớm hơn để cho Xuân
Hương Hồ Phi Mai. Khi yêu nhau ba năm, thì Nguyễn Du lênh đênh không nhà không
công danh sự nghiệp, lại tù tội... Khi vợ mất, Nguyễn Du tìm về Tây Hồ mong nối
lại duyên xưa năm 1804, thì Xuân Hương gian nan như nàng Tiểu Thanh trong mối
tình với Tổng Cóc Nguyễn Công Hòa. Khi gặp lại trên Thạch Đình bến sông Vị
Hoàng năm 1813 thì chàng là quan Chánh Sứ, bao công việc bề bộn nghi lễ đón
đưa, chỉ nhìn được chàng từ xa xa. Cuộc đời hai ngã rẻ tâm tình. Nguyễn Du chỉ
gặp lại người gảy đàn đất Long Thành, xưa là một cung nữ tài hoa trong cung điện,
một ca nhi quan tướng Tây Sơn vung tiền như rác khen thưởng, nay là một người
đàn bà tiều tụy rách rưới gảy đàn nơi góc chiếu. Nguyễn Du khóc cho cô Cầm và
cũng khóc cho người yêu mà chuyện tình có thể viết nên một thiên “phong tình
tân lục”.
Trần
Bích San đã cho Hùng Lĩnh Xuân Mai (Nguyễn Du) khóc Xuân Hương:
“Ôi tài, ôi mệnh, ôi tình, ôi duyên chừ kiếp sống con người
vì bốn chữ ấy mà lận đận đau thương.
Xuân Hương chừ Xuân Hương!
Nửa kiếp yên hoa nợ thôi vương,
Tiếng đàn nàng chừ nghe hận sầu đau xót,
Nay bặt tiếng tơ chừ ai biết đâu là oán hận cung thương.
Vần thơ nàng chừ người ta chê là trêu chọc.
Nay bặt tiếng ngâm, chừ ai biết đâu là trêu chọc, là văn
chương.”
Không biết Xuân Hương Hồ Phi Mai, có phổ trên phím đàn nguyệt
cầm một “thiên bạc mệnh” như nàng Kiều chăng?. Nguyễn Du dạy nàng đàn, đến
khúc Phượng Cầu Kỳ Hoàng, nàng chờ lời tỏ tình hỏi cưới, nàng chờ dạy,(Khúc
Hoàng tay Nguyệt còn chờ dạy) thì Nguyễn Du đã ra đi. Nguyễn Du từ lúc say mê
diễn nôm Kim Vân Kiều, với ai chàng cũng rao giảng chuyện Hồng nhan đa truân.
Phạm Đình Hổ đã trêu nàng Phi Mai, cô gái mới lớn, mới biết yêu Nguyễn Du, đứng
trước gương thường uốn éo như đứt ruột. Nào ngờ đâu cuộc đời nàng, “ma dẫn lối,
quỷ đưa đường, cứ tìm những chốn đoạn trường mà đi”. Xuân Hương không có cái
may mắn của Cô Đào với quan Binh Bộ Thượng Thư Nguyễn Công Trứ, trên chiếu, Cô
Đào về già nhắc lại: “Giang sơn một gánh giữa đồng, Thuyền quyên ứ hự anh hùng
nhớ chăng?”. Nguyễn Công Trứ nhớ lại thuở hàn vi, một thời theo đuổi nàng, đã
phải làm anh nhạc công vác đàn theo nàng, rồi thừa cơ một hôm đi hát đến giữa đồng,
bảo quên đàn, buộc tiểu đồng về lấy, chỉ còn một mình với nàng giữa đồng. Nguyễn
Công Trứ đã cảm động cưới lại người yêu xưa làm thiếp và chu cấp cho nàng.
Xuân
Hương vui tánh, thích làm thơ trêu chọc, nàng mất rồi, mà hai trăm năm sau, người
đời sau vẫn còn bàn tán, xôn xao vì tiếng cười của nàng. Trần Bich San cho Hoa
Đường Ngọc Như ca tụng nàng: “Nữ Lưu tài giỏi trên đời không ai bằng Cổ Nguyệt
Đường. Nữ lưu bạc mệnh trên đời không ai bằng Cổ Nguyệt Đường!” Thật vậy có những
nhà thơ lúc còn sống trên đời người ta tôn là thơ thần, thơ thánh, thơ vương,
thơ tướng... nhưng khi chết rồi chẳng ai nhớ đến một câu thơ. Riêng thơ Hồ Xuân
Hương thì đầy ắp trong lòng người, và nhân gian tiếp tục sáng tác một trường
phái thơ Hồ Xuân Hương, không còn biết đâu thơ thật và thơ đời sau.
Trần
Bích San trong bài tựa tập thơ mình đã viết về thơ: “Cái khó của việc học làm
thơ là trong bụng phải làu thông mấy trăm vạn kinh sách. Dưới mắt phải nhìn ngắm
mấy trăm vạn núi non tươi đẹp, trên đời phải lịch duyệt mấy trăm vạn nhân vật cổ
kim, trong cõi đời phải từng trải mấy trăm vạn sự biến rồi sau mới hiểu thấu,
lường mới xa, chí mới cao, khí mới mạnh và lời thơ từ đó toát ra mới tuyệt diệu.”
(Mai Nham thi thảo).
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương đã đạt đến cái khó, cái lịch duyệt
thi ca như Trần Bích San quan niệm. Nguyễn Du đã đọc thư viện họ Nguyễn Tiên Điền
không kém gì thư viện Trường Lưu. Sau trận chiến Nguyễn Quýnh, mười phần sách
cháy còn một hai, vẫn chất đầy bốn vách trong ngôi nhà trên bến Giang Đình.Theo
gương Lý Bạch tuổi trẻ đi chu du khắp Trung Quốc, ba năm Nguyễn Du đã đi giang
hồ: “Giang Bắc, Giang Nam cái túi không”; thành nhà sư Chí Hiên, đội mũ vàng,
lưng đeo trường kiếm như các nhà sư Thiếu Lâm, trong túi vải nâu một quyển Kinh
Kim Cương chú giải của Lê Quý Đôn. Tụng kinh làm công quả kiếm ăn bữa rau đậu,
cư ngụ từ chùa này sang chùa khác, ngày viếng danh lam thắng cảnh, đêm tụng
kinh Kim Cương trong suốt ba năm(1787-1790) từ Vân Nam, lên Trường An, lại xuống
Hàng Châu, lên Bắc Kinh rồi lại về Thăng Long. Bước đường hoạn lộ, của Nguyễn
Du đã làm nhiều người ngạc nhiên, mới ra làm quan mấy tháng đã được cất cử tiếp
sứ nhà Thanh sang phong vương vua Gia Long, chỉ đỗ Tam Trường (Tú Tài) mà được
làm Chánh Sứ, chức vụ xưa nay chỉ dành cho bậc Tiến Sĩ. Ba năm giang hồ khắp
Trung Quốc của Nguyễn Du đã cắt nghĩa được, đi một ngày đàng học một sàng khôn,
từ tiếng nói Trung Quốc, đến phong tục tập quán, mắt nhìn trăm vạn núi non tươi
đẹp, lịch duyệt mấy trăm vạn nhân vật cổ kim, tượng đồng bia đá trên đường đi rồi
nhồi luyện trong tâm hồn Nguyễn Du bao gian nan nguy khó, khi tù tội, khi phải
đi khuất thực đói rách người thương tâm, nó đúc kết tâm hồn Nguyễn Du thành những
vần thơ tuyệt diệu, đối đáp thi ca tài tình để đi sứ mà không hổ thẹn với nước
nhà. Không bị quan lại Trung Quốc khinh miệt là Nam di, giống dân mọi rợ phương
Nam. Qua Bắc Hành Tập Lục những bài thơ Nguyễn Du đã không chỉ phê phán những
anh hùng hào kiệt, những gian thần Trung Quốc, mà còn phê phán những nghèo nàn,
lạc hậu, đói khổ trong xã hội Trung Quốc.
Hồ Xuân
Hương với tủ sách họ Hồ của cha để lại nơi Cổ Nguyệt Đường, hết đọc sách đến
nhai trầu. Mười năm lận đận Xuân Hương đã đi buôn bán khắp nơi, lưu gót chân từ
Tuyên Quang, Hưng Yên, Ninh Bình, Nam Định đến Thanh Hóa., Quảng Ninh... Nhà thơ
Xuân Diệu đã ngạc nhiên một phụ nữ ngày xưa mà đã đi du lịch nhiều thế đi đâu
cũng dăm ba tiểu đồng? Nhưng thật ra Xuân Hương làm gì có tiền nhiều mà đi du
lịch mà vì “mẹ già nhà túng” nên phải đi buôn khắp nơi.
Hoa Đường
Ngọc Như đã ca tụng và khóc cho cuộc đời cô đơn của nàng:
Xuân Hương chừ Xuân Hương!
Dáng nàng chừ hoa khoe đẹp cúc khoe thơm!
Duyên nàng chừ lửa trong đá, sáng trong chớp!
Mệnh nàng chừ tùy thế cuộc mà tang thương..
Nay nàng hóa hạc ra đi chừ ai người tình lang?
Cô đơn trong
những ngày cuối cùng: ”Ngâm khách thế thần đâu sắc tướng, Tình ma không sức
đuổi sầu binh” (Bài Bán chẩm thư hoài- Nỗi niềm gối lẻ). Những người bạn ngâm
thơ, xướng họa có thần thế nay trốn mất biệt hết, tình nàng như tình với ma
không đủ sức đuổi nỗi sầu đến đông như lũ âm binh. “Sắc tức thị không, không tức
thị sắc” Câu kinh nhà Phật. Trong đau thương Hồ Xuân Hương vẫn viết ra những
câu thơ tuyệt vời. Đem chữ “sắc tướng” nhà Phật đối với “sầu binh” thật tài
tình.
Dương
Quảng Hàm trong Văn Học Việt Nam. SG.BQGGD 1961 về Hồ Xuân Hương ông viết: «Có
một lần hình như bà cũng muốn đi tu, nhưng một người tài tình như bà không thể
giam mình trong chốn am thanh vắng nên bà lại thôi».
Lê Dư
trong sách Nữ Lưu viết hồi ông biên tập Quốc Học Tùng San chép rằng:
«Hồ Xuân Hương góa chồng lần cuối năm 1819 rồi vài năm sau thì mất”.
Dương Quảng Hàm và Lê Dư cũng như các tác giả ngày xưa, ít cho biết xuất xứ điều
mình mách, không biết các ông ấy lấy những sự kiện ấy từ đâu, nhưng hai ông đều
là nhà biên khảo có kiến thức rộng, đúng đắn ta có thể tin điều đó.
Sự kiện
Hồ Xuân Hương muốn đi tu và có ở một thời gian trong một cảnh chùa ở núi Yên Tử,
là một sự kiện hợp lý sau khi Tham Hiệp Trần Phúc Hiển bị tội, tử hình, gia sản
bị tịch thu. Sau đó bà lại trở về lại làng Nghi Tàm nơi có những người bạn thân
thiết, là em gái, là vợ Tử Minh, là hai con trai Tử Minh, là các học trò của bà
trong đó có cô Nguyễn Thị Hinh (tức bà Huyện Thanh Quan).
Những bài thơ Thả thuyền chơi trăng, Chiếc Bách; Trăng Thu, Tự
tình I, I I. mang tâm sự những ngày cuối đời Hồ Xuân Hương.
Bài THẢ THUYỀN CHƠI TRĂNG
Hà Đông một giải nước trong veo,
Lãng đãng thuyền tình chở nặng chèo.
Gợn sóng nhấp nhô tăm cá lội,
In dòng giấp giới mảnh trăng treo.
Muốn trôi thư lá mà than thở,
Phải mượn tin băng để dập dìu.
Cây cỏ buồn lòng cho Thúy Ái,
Ái ân lênh láng biết bao nhiêu.
Bài thơ này trong Hồ Xuân Hương thi tập văn bản Antony Landes
do Lê Quý chép bằng chữ Nôm năm 1892. Lê Quý có biên lời dẫn như sau: “Hà Đông
tức Nhĩ Hà, xưa Xuân Hương đem theo năm sáu gái hầu, dòng thuyền chơi trên sông
Nhị. Xuân Hương ngồi giữa, gái hầu ngồi hai bên mà bơi. Bấy giờ trong tháng 9,
cuối mùa thu. Nước lũ đã hết, mà sông quạnh nước trong, trăng sáng gió thanh đầy
thuyền. Cảnh thật đẹp Xuân Hương thấy hai bên bờ sông có lâu đài đám hát, tiếng
be bé đưa lại. Mà nước sông thì trong, trên trời có trăng sáng sao thưa. Gió
thanh nhẹ thổi, mà thuyền thì càng đi càng nhanh. Xuân Hương thấy cá nhảy cảnh
xinh xinh, cho nên làm bài thơ này ghi chuyện bấy giờ”.
Bài viết Lê Quý tán cho đầy trang giấy để được thêm tiền, có
vẻ như Lê Quý chép lại bài thơ và nghe lời thuật của gia đình Tử Minh. Nhưng cốt
tủy cho ta thấy sự kiện. Sau khi trở về làng Nghi Tàm, Hồ Xuân Hương luôn luôn
buồn bã, để giải khuây các cô học trò, và bạn gái đưa Xuân Hương đi chơi trăng
cho quên nỗi buồn phiền. Trong bài thơ, Hồ Xuân Hương có nhắc đến sông Thúy Ái,
chuyện bà Phan Thị Thuấn trầm mình chết theo chồng Ngô Cảnh Hoàn (? - 1786) khi
được tin ông và hai con thua trận Tây Sơn chết trên sông này. Hồ Xuân Hương có
lúc cũng có ý nghĩ đen tối chết theo chồng chăng?
Bài Chiếc Bách cũng mang cùng tâm sự Chiếc Bách là thuyền bằng
gỗ bách (cây trắc bá diệp), một giống thông, tùng bách, do tích Cung Bá, Thái Tử
nước Vệ chết sớm, vợ thủ tiết có làm bài thơ “thuyền bách”, tỏ ý không tái giá, nên thường dùng để ví người đàn bà ở góa. Viết bài thơ Chiếc Bách, Xuân Hương
muốn ví mình như vợ Cung Bá thủ tiết theo chồng Trần Phúc Hiển. Bài này có
trong văn bản thơ Hồ Xuân Hương năm 1909.
CHIẾC BÁCH
Chiếc bách buồn về phận nổi nênh,
Giữa dòng ngao ngán nổi lênh đênh.
Lưng khoan tình nghĩa mong đầy đặn,
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.
Chèo lái mặc ai lăm đỗ bến,
Buồm lèo thây kẻ rắp xuôi duềnh.
Ấy ai tham ván cam lòng vậy,
Ngán nổi ôm đàn những tấp tênh.
Chú thích:
Ôm đàn: ôm đàn sang gảy thuyền khác, ý nói lấy chồng khác.
Bài Chiếc Bách, mang tâm sự buồn thảm của Hồ Xuân Hương sau
khi chồng bị tử hình. Buồn phận mình nổi nênh, lênh
đênh. Chỉ mong tình nghĩa được trọn vẹn đầy đặn, nào ngờ nửa chừng sóng gió bão
tố lại nổi lên. Cuộc đời đành phó mặc cho ai đổi bến, lèo lái xuôi dòng nước.
Vì ai tham ván bán thuyền, thôi cũng đành cam chịu vậy. Ngán nỗi mình từ nay ôm
đàn bơ vơ biết gảy cùng ai khúc tri âm.
Bài TRĂNG THU
Một trái trăng thu chín mõm mòm,
Nẩy vừng nguyệt quế đỏ lòm lom.
Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,
Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.
Ghét mặt kẻ trần đua cói móc,
Ngứa gan thằng cuội đứng lom khom.
Hỡi người bẻ quế là ai đó?
Đã có Hằng Nga ghé mắt dòm.
Chú thích:
Chiếc bích: chiếc ngọc bích hình tròn dẹt giữa có lỗ, người
ta hay gọi mặt trăng là bích nguyệt, trăng như ngọc bích.
Bẻ quế trong cung thềm: chỉ người đỗ đạt đại khoa, trong tâm
sự Hồ Xuân Hương có thể hiểu là Trần Phúc Hiển hay Trần Ngọc Quán..
Tâm sự Hồ Xuân Hương qua bài Trăng Thu, sau khi chồng bị tử
hình: nhìn trăng qua ngày 17, 18 đã bắt đầu khuyết, trăng chín mõm mòn. Xuân
Hương thấy trăng màu đỏ như máu. Dù có khuôn phép như ngọc bích, khuôn phép ấy
vẫn còn méo, dù ở ngoài cung vẫn có những kẻ khòm lưng xu nịnh. Xuân Hương ghét
mặt kẻ trần đua xói móc. Xuân Hương ghét Án Thủ Dung, ghét Tổng Trấn Lê Chất,
ghét những kẻ tiểu nhân đem nàng ra phỉ báng làm ngứa gan thằng cuội. Những kẻ
làm hại người anh tài tuấn kiệt đó có chị Hằng Nga chứng kiến soi xét.
Hai
bài Tự Tình cũng cùng một tâm sự này:
TỰ TÌNH I
Canh khuya văng vẳng tiếng canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn.
Xuyên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạt chân mây đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.
TỰ TÌNH II
Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử, văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom.
Chú thích:
Bom: là chòi canh, có bản chép trên vòm, vòm trời.
Mõm mòm: chín quá, chín nhũn, chín mõm.
Tài Tử: người có tài thơ văn.
Già tom: Già tóp người lại.
Canh
khuya văng vẳng tiếng trống canh, chồng mất bị tử hình, chỉ còn lại trơ phận
mình với non nước. Uống chén rượu khuây sầu, say rồi lại tỉnh. Nửa vầng trăng
khuyết ngả bóng, trăng vẫn chưa tròn. Buồn bã không bước ra khỏi nhà, rêu trước
sân không người đi mọc từng đám, chân mây chơ vơ, núi non như mấy hòn đá lạnh
lùng đâm toạt chân trời. Ngán nỗi mắy mùa xuân đi rồi về, biết cùng ai san sẻ mối
tình nhỏ bé của mình.
Canh
khuya thao thức, tiếng gà văng vẳng gáy sáng trên chòi canh. Nhìn ra khắp nơi
chỉ thấy lòng oán hận. Oán hận Án Thủ Dung xui dân Châu Vạn Ninh thưa kiện. Oán
hận Tổng Trấn Bắc Thành Lê Chất tìm diệt vây cánh Nguyễn Văn Thành, xử tử Phúc
Hiển, oán hận người bạn tình cũ Trần Quang Tỉnh lánh mặt. Trong lòng nàng nghe
như có tiếng mõ, không khua mà cũng cốc nghe buồn thảm. Dường như có tiếng
chuông sầu đánh trong lòng vang vọng những âm thanh om xòm. Nghe những tiếng
lòng thêm rầu rĩ, càng giận duyên số vì đâu mà ra thế này? Bao nhiêu văn nhân
tài tử ngày xưa tới Cổ Nguyệt Đường xướng họa ngâm thơ, nay sợ vợ một kẻ bị tội
tử hình đã lãng tránh xa. Nghĩ ciũng giận, thân này đâu đã chịu cảnh già tom
như thế này.
Hồ
Xuân Hương sống những ngày cuối cùng trong cô đơn, buồn bã và từ trần khoảng
năm 1822 tại Cổ Nguyệt Đường bên Hồ Tây, mộ phần trong khu nghĩa địa Đồng Táo
trước chùa Kim Liên, bên cạnh hồ sen. Ngày nay toàn khu nghĩa địa đã chìm trong
lòng nước Hồ Tây, do việc đấp đường Cổ Ngư đầu thế kỷ 20, chia hai Hồ Tây và Hồ
Trúc Bạch, mực nước lên một thước. Đám tang có lẽ trong cô đơn buồn bã, bên cạnh
Hồ Xuân Hương chỉ có gia đình Tử Minh, vợ, cô em gái và hai cháu trai và các học
trò láng giềng. Cái chết cô đơn lặng lẽ không một bài thơ, một bài điếu văn. Đó
là lý do 47 năm sau Tam Nguyên Trần Bích San, đã cho Thi hào Nguyễn Du và Tiến
Sĩ Phạm Quý Thích sống lại mỗi người làm một bài điếu văn thương tiếc Xuân
Hương Hồ Phi Mai.
1-10-2012
Phan Trọng Chánh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét