Tràng Giang của Huy Cận là bài thơ
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất
riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn
quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng
tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên
nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ
trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng tám, hồn thơ của ông
đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước
của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở
hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân
thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ
"Tràng Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của
Huy Cận trước Cách mạng tháng tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa
thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh
mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi
trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét
đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người
đọc.
Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợi tràng giang buồn
điệp điệp...
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện
đại cho bài thơ. "Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của
Huy Cận. Hai âm "anh" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm
giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ
"tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng
Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng
sông của tâm tưởng.
Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa:
Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới
thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên
nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi
ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ
đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm
được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống
dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát
ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng
khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa,
nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc
lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn
khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái
tim người đọc.
Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng
lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước
song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn
câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song
song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không
chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng
cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào,
miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp", nước
"song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi
đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh
mông của thiên nhiên, một dòng "tràng giang" dài và rộng bao la không
biết đến nhường nào.
Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người
cũng đầy ăm ắp trong lòng
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô,
nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa
cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi
nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều
"trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi
buồn vô hạn.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu
thơ đặc sắc: "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng
phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước
vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi
sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi,
bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi
khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp,
khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.
Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo,
tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ
mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét
tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ
đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành
khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở
tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.
Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của
không gian lạnh lẽo:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác
giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng.
"Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ.
Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh
lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên
"Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc
thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu
hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một
chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu
có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động
để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.
Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của
sông:
"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,Sông dài, trời rộng,
bến cô liêu."
"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng
về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi
nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận,
mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời,
của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi
thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những
gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu".
Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc
trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sông cón người thì buồn tẻ, chán
chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi
có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô
đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh
quẽ, đìu hiu:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng, Mênh mông không một chuyến đò
ngang. Không cần gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường
dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người
vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh
bèo, mà là "hàng nối hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người
rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh
hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở ra một không
gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có
con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định.
"... không... không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người.
Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi
nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông.
Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị
cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời
trên cao:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều
sa.
Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành
"lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được
ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và
lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của
Đỗ Phủ:
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến
mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra
mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ
thơ cổ điển quen thuộc.
Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình
trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều:
Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính
bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả
không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và
"bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong
thơ ca cổ điển.
Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét
tâm trạng hiện đại:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ
nhà.
"Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận,
chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước"
cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó
là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã
không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng
đau xót trước cảnh mất nước.
Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ
câu thơ: "Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai" của Thôi Hiệu. Xưa
Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần
ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu
quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.
Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ
đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua
cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như:
mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vận dụng các tứthơ cổ điển, gợi cho
bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.
Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của
nhà thơ như "sâu chót vót", dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng
lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm
trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành
bất lực, không làm gì được.
Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu
rất "Huy Cận", với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại
mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh năm 1915, mất năm 1951
một nhà văn hiện thực xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Xuất thân từ tỉnh
Hà Nam, nhà văn này đã từng viết rất thành công về cuộc sống của người trí thức
và người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng tám. Sau Cách mạng tháng tám, ông
lại tự rèn luyện mình, dứt khoát từ bỏ lối sống cũ để quyết tâm đi theo cách mạng.
"Đôi mắt", được Nam Cao sáng tác tết 1948, thời điểm nhận đường của
giới văn nghệ sĩ, thể hiện đầy đủ phong cách của ông sau Cách mạng tháng tám.
Ban đầu Nam Cao đặt tựa là "Tiên sử thằng Tào Tháo", sau đổi là
"Đôi mắt" vì ông nhận thấy vấn đề quan trọng hơn hết lúc bấy giờ là
cách nhìn của giới văn nghệ sĩ. Trong tác phẩm hai nhân vật chính, Hoàng và Độ,
có cách nhìn hoàn toàn trái ngược nhau, mới nổi bật là cách nhìn về người nông
dân, đã phần nào nói lên vấn đề quan điểm, lập trường của Nam Cao.
Hoàng và Độ là hai nhà văn, Hoàng là nhà văn anh, còn Độ thuộc
lớp đàn em. Cả hai có cách sống, cách suy nghĩ và cách nhìn đời, nhìn người đối
lập hẳn nhau, đặc biệt là khi nhìn người nông dân.
Hoàng sống phong lưu, xa hoa, tách rời với quần chúng nhân
dân nên anh có cách nhìn lệch lạc, sai trái, phiến diện một chiều về người nông
dân. Anh không thể nhìn ra được nét đẹp bên trong tâm hồn họ, mà chỉ thấy cái
ngố bề ngoài.
Trong mắt Hoàng những người nông dân nghèo khổ ấy đầy những
tính xấu: "Toàn là những người ngu đần, lỗ mãng, ích kỷ, tham lam, bần tiện
cả". Dường như với Hoàng mọi sự xấu xa của con người đã tập trung về cả
người nông dân. Anh nhìn thấy họ là một lũ lố lăng: "Cái ông thanh
niên, các bà phụ nữ lại còn nhố nhăng", anh phiền vì sự "nhăng xị"
của họ: "Viết chữ quốc ngữ sai vần mà lại cứ hay nói chuyện chính trị rối
rít cả lên. Không chỉ nhố nhăng họ còn lại hay nói chữ mở miệng ra "đề nghị,
yêu cầu, phê bình, cảnh cáo". Hoàng cho đó là chuyện thật nực cười. Anh
không thấy được sự cố gắng của người nông dân kém hiểu biết nhưng lại rất đỗi
yêu nước. Thấy người nông dân đọc thuộc lòng bài "ba giai đoạn", anh
cho đó là con vẹt biết nói, dây dưa, lôi thôi, mồm nói vội lắm vậy mà đọc cho
anh nghe "cả một bài dài đến năm trang giấy".
Anh lại càng phiến diện hơn khi nhìn người nói dân toàn là những
người tò mò, tọc mạch: "Anh chỉ giết một con gà, ngày mai cả làng này đã
biết". Hoàng khăng khăng với Độ: "Ngày mai, chuyện anh đến chơi tôi
thế nào cũng đã chạy khắp làng. Họ sẽ kể rất rạch ròi tên anh, tuổi anh, anh gầy
béo thế nào, có bao nhiêu nốt ruồi ở mặt, có mấy lỗ rách ở ống quần bên
trái". Có thể đó là sự thật, bởi Hoàng đã thề không hề bịa chuyện, và người
đọc cũng biết người nông dân có tính xấu đó. Nhưng Hoàng đã nói quá, đã thổi phồng
lên khiến người nông dân trở nên đầy xấu xa. Anh không hề có cái nhìn thông cảm.
Bởi thế, Hoàng mới cho người nông dân mới thật độc ác, tàn nhẫn = chị dâu đẻ mà
em bắt ra cái lều ngoài vườn. Hoàng không hề hay giả vờ không biết những tập tục
kiêng kỵ của người nông dân?
Tất cả những tính xấu của người nông dân hiện lên trong mắt
Hoàng, lại càng trở nên xấu xa. Hoàng không nhận ra đó là hoàn cảnh nghèo đói
đã biến hóa người nông dân, mà anh qui tất cả về bản chất. Anh bêu rếu, nói xấu,
mỉa mai chua chát nhưng người nông dân lương thiện đã cưu mang anh. Lối sống vị
kỷ, xa rời quần chúng đã đem đến cho Hoàng cách nhìn lệch lạc, một chiều, một
phía. Anh thấy người nông dân "quả là không chịu được, không chịu được".
Anh khinh bỉ họ đến cùng cực: "Nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài, theo
cái bĩu môi dài thườn thượt. Mũi anh nhăn lại như ngửi thấy mùi xác thối".
Là nhà văn đáng lẽ Hoàng phải có tấm lòng nhân ái, cảm thông,
nhưng đằng này anh lại hiện lên như một kẻ tàn nhẫn, ích kỷ. Bởi không chỉ là
nhà văn, Hoàng là một "tay chợ đen tài tình" sống phong lưu giữa cảnh
nghèo đói của dân tộc, giữa lúc những người nông dân nghèo vật chất nhưng giàu
tinh thần cũng lăn xả thân mình đóng góp cho đất nước. Hoàng không nhìn thấy
cái nguyên có thật đẹp đẽ bên trong, mà chỉ thấy cái ngố bên ngoài và đánh giá
họ qua một cái nhìn phiến diện không nên có ở một nhà văn. Chính vì không hề có
cái tâm, lòng nhân ái mà Hoàng đã chỉ thấy những gì xấu xa của người nông dân.
Hoàng tiêu biểu cho lớp nhà văn ích kỉ, sai lệch về cách nhìn, về thái độ đối với
người nông dân và cuộc kháng chiến lúc bấy giờ.
Trái hẳn với Hoàng, Độ lại có cái nhìn đầy cảm thông đối với
người nông dân. Anh nhận thấy lịch sử đã sang trang, thấy được sức mạnh quần
chúng, thấy được cốt lõi bên trong của người nông dân.
Trước đây, Độ cũng có cái nhìn lệch lạc, phiến diện như
Hoàng. Anh đã từng bi quan, chán nản. Nhưng khi cách mạng mở ra, Độ đã
"ngã ngữa người ra" vì thấy được sức mạnh thật sự của quần chúng, vẻ
đẹp tâm hồn người nông dân.
Độ nhận ra họ là những con người rất giàu lòng yêu nước, sẵn
sàng hi sinh vì Tổ quốc: "Vô số anh răng đen mắt toét, gọi lựu đạn là nựu
đạn, hát "Tiến quân ca" như người buồn ngủ cầu kinh mà lúc ra trận
thì xung phong can đảm lắm". Anh đã "đi khắp làng này đến làng
kia" để tìm hiểu ngõ ngách sâu kín trong tâm hồn người nông dân, anh khao
khát thấu được nét đẹp của họ, vì với anh thì những người nông dân "vẫn
còn là một bí mật". "bí ẩn", bởi Độ đã thấy được sức mạnh tiềm ẩn
của họ, chứ không như Hoàng, chỉ thấy phơi bày trước mắt bao nhiêu là tính xấu.
Độ biết người nông dân yêu nước lắm, vì thế, cùng một sự việc
anh thanh niên đọc thuộc lòng bài "ba gia đoạn". Độ không cho anh ta
là con vẹt biết nói, mà Độ thấy được bó tre anh thanh niên vác đi để ngăn quân
thù. Tấm lòng nhân hậu, đầy cảm thông của Độ đã nhìn thấu một trái tim yêu nước
bên trong "cái ngố bề ngoài".
Phải hòa nhập vào nông dân, phải trải qua những khó khăn,
gian khổ mà người nông dân chịu đựng, Độ mới cảm nhận và hiểu sâu sắc suy nghĩ,
tâm hồn của họ đến thế. Dù chỉ là một "anh tuyên truyền viên nhãi
nhép" nhưng có thể nói Độ đã đóng góp được rất nhiều cho đất nước. Anh đã
có cái nhìn đúng đắn, chân thật mà cũng đầy cảm thông, cái nhìn của một tấm
lòng nhân ái, chứ không phải của tâm hồn hẹp hòi, ích kỷ như Độ.
Nếu như Hoàng chỉ nhìn thấy vẻ bề ngoài rồi từ đó thổi phồng,
qui thành bản chất thì Độ cũng thấy sự thật rành rành, nhưng không dừng lại ở
đó, Độ nhìn thấu vào tận sâu thẳm bên trong tâm hồn người nông dân. Nếu như cái
nhìn của Hoàng là phiến diện, lệch lạc một chiều, một phía thì Độ có cái nhìn
tiến bộ, đúng đắn, đầy cảm thông.
Qua hai cái nhìn trái ngược, đối lập của hai nhân vật Hoàng
và Độ. Nam Cao đã bộc lộ quan điểm đầy tiến bộ về cái nhìn đời, nhìn người của
văn nghệ sĩ kháng chiến. Nhà văn phải "sống đã rồi hãy viết", phải
nhìn ra thấu hiểu trái tim con người, mà muốn làm được điều đó thì nhà văn cần
có một trái tim nhân hậu, có cái tâm.
Nhan đề "Đôi mắt" giản dị nhưng rất gợi mở, rất đặc
sắc đã thâu tóm được giá trị tư tưởng của cả bài. Tác phẩm không chỉ dừng lại ở
cách nhìn về người nông dân của Hoàng và Độ, mà còn mở rộng ra là cách nhìn đời
và người cho mọi người. Với tác phẩm này, đặc biệt qua hai cách nhìn tương phản,
đối lập. Nam Cao đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh những nhà văn ích kỷ, chỉ
quan tâm đến bản thân mình. Đồng thời ông cũng lên án những ai có cái nhìn phiến
diện một chiều lệch lạc, biểu dương cái nhìn đúng đắn, toàn diện. Ông quan niệm
nhà văn trước hết phải có tấm lòng để xác định đúng chổ, đúng lập trường. Từ đó
có cách nhìn đúng mà viết nên tác phẩm hay, có ích cho đất nước, nhân dân. Nếu
không, dù có tài giỏi đến mấy cũng chỉ là kẻ vô dụng, làm trò cười cho mọi người
và tác phẩm dù có hay đến mấy cũng sẽ không được đón nhận.
NGUYỄN HỒNG NGỌC LAM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét