Lục bát thời "Kinh tế thị trường"
Sau bao nhiêu năm “gồng mình” trong kháng chiến, nhiều thế hệ
nhà thơ đã từng đồng thanh cất lên bản anh hùng ca dân tộc thật khỏe khoắn vang
vọng, đến lúc được trở về với nhịp sống bình thường hình như lại có phần bỡ ngỡ,
thơ có phần chững lại... Vài chục năm qua, trong khi thơ nói chung còn mải mê
đi tìm tòi, trải nghiệm thi pháp thì riêng thể thơ Lục bát đã không lạ lẫm ngỡ
ngàng, không cần đăng đàn tranh luận, vẫn “xuất hiện ồ ạt, khiến ta phải ngỡ
ngàng” (Phan Diễm Phương) và vẫn dấn thân, khẳng định những nội lực mới của thể
loại.
Trong khi chờ có độ lùi về thời gian và có một sự tập hợp đầy
đủ để có một tổng kết, một đánh giá đầy đủ về Lục bát thời hậu chiến và thời
kinh tế thị trường, xin được mạo muội trao đổi với bạn đọc yêu Lục bát những cảm
nhận về sự phát triển của thể loại truyền thống này trong vài chục năm qua như
sau:
Phần 1: Một số vấn đề về nội dung cảm xúc và giọng điệu của Lục
bát:
Sau bản trường ca hào sảng mà thấm thía đau thương của đoạn
trường “nước non ngàn dặm”, hòa bình trở lại, con người trở về với nhịp sống
bình thường, với cảnh ngộ riêng của mình, Lục bát lại hòa trong nỗi niềm củi lửa
cháo rau và đi vào chiều sâu trữ tình.
Xét về đề tài và cảm xúc chủ đạo, nhìn chung Lục bát giai đoạn
vừa qua vẫn luôn là một cõi đi về của những nỗi niềm thân phận, những yêu
thương nhớ tiếc da diết, hoài vọng với người thân (Người mẹ, người chị, người vợ,
người cha còn sống hoặc đã mất), với người yêu, cố nhân, quê hương, cố hương hoặc
với một thời đã qua, một cái đẹp đã mất. Lồng trong đó hoặc bên cạnh đó nó cũng
thể hiện những cảm xúc với hiện thực cuộc sống hiện tại.
Nếu xem tuyển tập 300 bài Lục bát dự thi trên báo Văn nghệ trẻ
(NXB Hội nhà văn - năm 2002) là một lát cắt ngang tế bào của Lục bát đương đại
(tuy chưa phải cắt ngang vào hạt nhân tế bào) thì kết quả phép thống kê về chủ
đề và cảm hứng chủ đạo của 300 bài Lục bát trong tập thơ này có thể xem là một
căn cứ có ý nghĩa để có cái nhìn tổng thể sơ bộ về nội dung cảm xúc của Lục bát
đương đại:
STT
|
Chủ đề,
cảm hứng chủ đạo
|
Số
bài
Tỷ lệ %
|
1
|
Thiên
nhiên, quê hương đất nước, các giá trị văn hóa
|
54 bài - 18%
|
2
|
Hiện
thực cuộc sống, nỗi niềm thân phận, nhân tình thế thái và triết lý nhân sinh
|
59 bài 19,7%
|
3
|
Tình
yêu lứa đôi (yêu thương, nhớ nhung, tiếc nuối, trách hận, hoài vọng, buồn
đau)
|
114 bài 38,5%
|
4
|
Tri âm
với các thi nhân xưa, nhận thức lại các nhân vật văn học truyền thống, về thể
thơ LB, về Văn chương
|
17 bài - 57%
|
5
|
Tri ân
các anh hùng Liệt sĩ
|
8 bài - 2,7%
|
6
|
Đồng
đội, thời chiến tranh
|
5 bài - 1,7%
|
7
|
Tình
cảm gia đình
|
36 bài - 12%
|
8
|
Tình
bạn bè, trường lớp
|
5 bài - 1,7%
|
Phản ánh hiện thực không phải là chức năng chính của Lục bát
xưa nay. Trong tuyển tập trên và đăng rải rác trên báo chí hàng ngày trong khoảng
vài chục năm vừa qua số bài Lục bát trực tiếp viết về hiện thực cuộc sống chiếm
tỷ lệ không lớn nhưng qua việc bộc lộ tình cảm trong cảm hứng thân phận, gia
đình, quê hương, đất nước... cũng có thể nói rằng thể thơ dịu dàng này của truyền
thống này đã đi sát vào cuộc sống thực tại thời hậu chiến và thời kinh tế thị
trường, nhất là ở những mảng hiện thực còn nhiều điều phải suy nghĩ, ngùi ngẫm,
hoặc phải nói gay gắt và nghiêm khắc đấu tranh... Cuộc sống còn nhiều vất vả
đói nghèo, mặn chát mồ hôi nước mắt, thậm chí còn nhiều nỗi oái oăm trớ trêu đến
đau lòng... hiện lên thật nghẹn ngào trong thơ Lục bát. Đặc biệt tập trung ở
hình tượng người mẹ trong cuộc sống đời thường đầy vật lộn với áo cơm, với những
mất mát đã quá rõ và cả những nỗi đau âm thầm trong tinh thần, trong tình cảnh
không nói được thành lời:
Áo nâu phơi vẹo bờ rào
Cái phận đã bạc còn cào phải gai
Quả cà cõng mấy củ khoai
Con thút thít mẹ nghẹn hai ba lần
(Mẹ - Nguyễn Ngọc Oánh)
Chiều nghiêng bóng mẹ trên đồng
Như cây lúa trổ lép bông, héo gầy…
Chỉ riêng Lục bát Nguyễn Duy cũng đã có hàng mấy chục bài thật
thấm thía về cuộc sống cực nhọc, lam lũ, đói nghèo của người dân thời hậu chiến
và lật phơi ra những lối sống, những căn bệnh tiêu cực, những cơn gió độc mới nảy
nòi mà loang toàng trong xã hội thời kinh tế thị trường (Về làng, Vợ ốm, Em ơi
gió...). Nhiều bài thơ phản ánh các sự kiện xã hội đời sống dân sinh như: Việt
Nam có người bị nhiễm AIDS, lũ lụt đồng bằng sông Cửu Long, nàng Tô Thị bị kẻ xấu
hạ sát để nung vôi (đêm rằm tháng giêng năm Tân Mùi 1991)... và cả những vấn đề
chính trị nghiêm trọng của đất nước như chiến tranh biên giới Tây Nam, phía Bắc...
một cách nóng hổi như những ký sự, phóng sự ngắn hay những dòng tin vắn. Nhiều
khi chỉ đôi dòng thơ cũng thu vào đủ một bức tranh vừa có bề sâu hiện thực, vừa
nhay nhức lòng người ở cả nhân tình thế thái và tình trạng tư tưởng văn hóa xã
hội:
Từng đôi anh trước chị sau
từng bầy xe cúp lùa nhau trên đường
cũng là đi hội chùa Hương
nón mê chân đất thập phương gập ghềnh
(Đi chùa - Nguyễn Duy)
Có khi câu Lục bát (không kể dạng thơ châm) vút lên tiếng nói
đấu tranh trực diện khá nghiêm khắc:
Chân ai thậm thịch đường dài
Lòng ai nuốt mảnh tượng đài nàng đây
Vọng chi ở phía chân mây
Người xưa hóa đá người nay hóa gì?
(Vọng Tô Thị - Nguyễn Duy)
Nhưng thường thì nó nghiền ngẫm gửi vào những ví von, những ẩn
dụ thật gần gũi mà nói thật trúng, thật thấm thía sâu xa về bản chất của những
hiện tượng, những quan hệ cuộc sống; Nó thường nói bằng những cách nói thật mộc
mạc và cam chịu nhưng day dứt dai dẳng, lay thức con người hoặc thành những bài
học nhân sinh ghi xương khắc cốt:
Trớ trêu nỗi Hữu Nghị quan
Giá như máu chẳng lênh loang mặt đèo
A.Q túm tóc Chí Phèo
Để hai bác lính nhà nghèo cùng đau
(Nguyễn Duy)
Tươi cái mất, héo cái còn
Tôi đem nén những nỗi buồn làm dưa
Tưởng là chớm đến vị chua
Lại ra vị đắng chẳng ngờ vì đâu
Một thời mặn nhạt cho nhau
Xót xa nào nghĩ nát màu lá xanh...
Nó cũng nhìn thấy sự đổi thay nhanh chóng của cuộc sống thời
kỳ đổi mới nhưng thường là nó nhạy cảm với những mặt trái, những mất mát trong
chiều sâu văn hóa và đời sống tâm hồn người Việt khi làng lên phố, hoặc trai,
gái làng ra thành phố. Giọng điệu Lục bát lúc này tuy không van nài như chàng
trai chân quê Nguyễn Bính, nhưng dù viết về người yêu, cố nhân hay cha mẹ ông
bà, dù viết về quê hương hay đất nước thì hình ảnh làng quê với nhịp sống và lối
sống nhà quê vẫn mang mang khắp mọi vần lục bát, trong đó cái yêu thì quá tỏ tường,
nhưng cái buồn, cái lo, cái thảng thốt, cái tiếc nuối cũng bời bời, nhiều khi lại
như nín thở vì linh cảm thấy điều chẳng lành rồi sẽ xảy ra. Chẳng phải riêng
thơ Trương Vĩnh Tuấn mà rất rất nhiều bài Lục bát là “tiếng gọi văn hóa” (Đỗ
Minh Tuấn) đầy lo âu khắc khoải về những đổi thay, mất còn:
Bánh chưng, bánh lá, bánh khoai
Dẻo thơm liệu có hơn nơi thị thành,
Mai về với chốn hư danh
Lại tiền lại bạc, lại thành người dưng
(Hỏi em - Trương Vĩnh Tuấn)
Hỏi người còn nhớ ta không
Hay là ra biển ra sông mất rồi
Hay là gió cuốn mây trôi
Mà xanh như lá, bạc vôi quạnh trầu
(Câu hỏi - Trương Vĩnh Tuấn)
Lạ lùng hơn là con người thời hiện đại năng động, quyết liệt,
đam mê táo bạo lên bội phần nhưng khi đi vào dòng Lục bát lại tinh tế, dịu dàng
và mềm yếu đến... kính nể:
Trầu ơi trầu chớ đa tình
Ta mềm yếu lắm sợ mình dễ say...
Ăn trầu ăn cái câu cười
Ăn cái ánh mắt quệt lời đâu đâu...
Trầu hay bùa ngải nhớ mong
Ta mê mẩn cái... người không têm vào.
(Say trầu - Nguyễn Minh Khiêm)
Lại cực kỳ bình dị và thiết tha thủy chung, giữ lấy nét đẹp
truyền thống của quê hương, dân tộc:
Bao nhiêu là thứ bùa mê
Cũng không bằng được nhà quê của mình.
Câu thơ nấp ở sân đình
Nhuộm trăng trăng sáng, nhuộm tình tình đau
Nhuộm buồn những hạt mưa mau
Thành sao nở trắng vườn cau trước nhà.
(Bây giờ - Đồng Đức Bốn)
Có người còn quyết tâm bằng mọi giá, dốc tất hầu bao để giữ lấy
cái cần giữ cho một truyền thống Việt Nam:
Đỏ đen dốc tất hầu bao
Để mua cái dải yếm đào... hôm qua!
(Mua - Trịnh Anh Đạt)
Nhìn chung, trong việc phản ánh hiện thực, Lục bát có sự lớn
mạnh ở phạm vi hoạt động, ở tính thời sự và ở cái nhìn khám phá mới mẻ, đa chiều.
Nó đã xích lại gần và có “xâm chiếm” (Backhtin), đan cài vào các thể loại hiện
đại khác...
Về chất trữ tình, Lục bát giai đoạn này cũng khác trước rất
nhiều, chủ yếu là trữ tình hướng nội. Các nhà thơ (kể từ các tác giả mới đến những
tên tuổi quen thuộc trong làng Lục bát như Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Phạm Công
Trứ, Trúc Thông...) thường đi về với những tình cảm yêu thương cội nguồn, máu
thịt và thường biểu hiện bằng những điệu thức của ca dao, của Lục bát cổ điển
nên dòng thơ rất đỗi gần gũi mà thiêng liêng, quen thuộc mà mới lạ:
Cuộc đời buộc bụng thắt lưng
Mẹ như tằm nhả bỗng dưng tơ vàng...
Mẹ ra bới gió chân cầu
Tìm câu hát đã từ lâu dập vùi.
(Trở về với mẹ ta thôi - Đồng Đức Bốn)
Đặc biệt mạch thơ Lục bát đã lặn sâu vào những tự bạch, tự vấn
về những lỡ lầm, chậm trễ, vô tình, hờ hững và xót xa với mình, với người thân,
với đồng đội... Có khi nó dội lên những trăn trở nhức nhói nhưng thật đẹp đẽ:
Tôi ăn bao giọt - mồ - hôi
Mà sao thơ chẳng mặn mòi bao nhiêu...
Thưa sao với mẹ bây giờ
Bài thơ xưa kể như lừa mẹ tôi
(Tạ lỗi cánh đồng - Trương Nam Hương)
Nhiều khi day dứt, hối hận đến đắng đót xót xa vì những bổn
phận không tròn, những lỗi lầm - nợ nần không thể trả được:
Nợ trời nợ đất nợ em
Anh còn mang nợ tới nghìn năm sau
(Mắc nợ - Vũ Tú Nam)
Rồi những vỡ mộng, hụt hẫng đầy xót xa cho mình cho người,
cho đời trước cơn lốc xã hội thời kinh tế thị trường, một số những giá trị tinh
thần chân chính cao cả đã bị che lấp bởi những giá trị vật chất tầm thường ở những
kẻ thực dụng:
... Bây giờ xinh đẹp là em
Em ra thành phố dần quên một thời...
Gặp tôi em hỏi hững hờ:
“Anh chưa lấy vợ còn chờ đợi ai?”
Em đi để lại chuỗi cười
Trong tôi vỡ một khoảng trời pha lê...
(Lời thề cỏ may - Phạm Công Trứ)
Lăn xả vào cuộc đời từ cao sang chói lọi, đến bụi bặm dở
dang, Lục bát đã bước lên cả những điểm cheo leo gai góc đầy thử thách để nhận
thức lại hiện thực, nhận thức lại chính sự nhận thức của chúng ta về những thói
quen, những quan niệm đạo đức, những giá trị cuộc sống... mà ta đã từng cho là
tuyệt hảo, cả những chân lý mà một thời đã qua, thậm chí của cả bao nhiêu thế hệ
đi trước cho là tuyệt đối. Hàng loạt bài thơ đủ các thể loại trong đó không ít
bài Lục bát đã tập trung vào các nhân vật văn học đã từng được xem như là một hằng
số về giá trị đạo đức và lý tưởng thẩm mỹ hoặc những quan niệm nhân sinh truyền
thống của dân tộc, chính là để bày tỏ sự nhận thức lại đó: Gửi sao Thần Nông -
Võ Thanh An, các chùm thơ về Thị Kính, Thị Màu, Thị Đốp, về An Dương Vương - Mỵ
Châu - Trọng Thủy... của rất nhiều tác giả.
Này em em Thị Màu ơi
Phải chăng cái lẳng lơ trời cho em
Trong thiên hạ khối người thèm
Khối người cũng muốn theo em lên chùa …
Cái điệu tếu táo của Nguyễn Đình Cánh với Thị Màu đã bộc lộ một
cách táo bạo và lạ lẫm nhưng trung thực về một tinh thần nhân bản của con người
và về con người.
Tiêu biểu hơn là sự nhận thức lại số phận nàng Thúy Vân (Truyện
Kiều) qua bài Tâm sự nàng Thúy Vân của Trương Nam Hương:
Nghĩ thương lời chị dặn dò
Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh
Chị yêu lệ chảy đã đành
Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim...
Lấy người yêu chị làm chồng
Đời em để thắt một vòng oan khiên...
Em thành vợ của chàng Kim
Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao
Giấu đầy đêm nỗi khát khao
Kiều ơi, em đợi kiếp nào để yêu?
Đây là một sự nhận thức lại thật lạ lẫm, đớn đau nhưng thấu
đáo, công bằng trên một tinh thần dân chủ, nhân bản và nhân văn sâu sắc. Vì vậy,
thật cần thiết!
Thương mình, thương người; càng hiểu mình, hiểu đời. Mở rộng
chiều thời gian: Lục bát cảm thông bênh vực cho người trong quá khứ và gửi
thông điệp tới tương lai. Mở rộng chiều không gian, Lục bát không những đi mọi
miền đất nước mà còn theo người đi xuất ngoại để thương lấy cả những kẻ lạc
loài nơi đất khách:
Ngày đi Mat, đêm về Len
Mặt em thì dại, mặt tiền thì khôn
(Tình cờ gặp người quen trên tàu tốc hành Xêvaxtôpôn -
Matxcơva của Trần Nhuận Minh)
để thu nhận thêm cái lạ trời xa:
Nắng rồ sặc máu bê tông
Giá mà làm tượng tồng ngồng đứng chơi
Vịt giời phơi cái giời ơi
Giá mà rũ ruột ra phơi cái buồn
(Paris mùa phơi - Nguyễn Duy)
và cả để trào lộng nữa:
Bia lon thỗn thện người lon
Ễnh ềnh ệch hỏn hòn hon thùi lùi
Có điều rất đáng quý là trong cách nghĩ, cách cảm, cách thể
hiện: một mặt Lục bát cố gắng bứt phá cái cũ mòn để tìm đến cái mới tiến bộ hơn
một cách sắc sảo thì mặt khác nó lại luôn luôn hướng về cội nguồn: ca dao - dân
ca, Truyện Kiều để học tập và sáng tạo, trong đó giọng tập Kiều là một đặc sắc.
Dân tộc ta ở thời đại nào cũng thế, hình như hễ cứ chạm đến những bi kịch người
tài hoa (giai nhân hay thi sĩ), hễ cứ muốn nối lời hoặc đáp lời tri âm, hễ cứ
thổn thức cùng những nỗi đau, nỗi oái oăm không nói được bằng lời thì giọng tập
Kiều lại bật ra. Vừa như tất nhiên phải thế, vừa như là sự tự nhiên nhi nhiên.
Hình như, chỉ có giọng điệu như của Truyện Kiều, Lục bát hiện đại mới nói thấu
mọi nhẽ cho người, cho ta ở những trạng huống, những tình cảnh, những mức độ,
cung bậc của nỗi niềm đó. Với giọng tập Kiều, trong nhiều bài thơ hiện đại,
hình ảnh người trong truyện và người viết truyện, thi nhân xưa và thi nhân nay,
thơ và đời bỗng trở nên quyện hòa, ám ảnh mãi không thôi. Và hơn thế, kẻ mất
người còn, âm dương cách biệt, mặt không biết mặt mà lòng đau với lòng, tình
soi thấu tình. Thành kính thiêng liêng! Hễ cứ bắt vào giọng tập Kiều là tự
nhiên Lục bát có ngay một trường giao cảm thật đặc biệt mà không một thể loại
nào tiếp cận được. Đó không chỉ gọi là một phương tiện nghệ thuật mà là thứ độc
chiêu gia bảo của riêng dòng Lục bát mà có lẽ khó có một trường phái, một thể
loại nghệ thuật nào trên thế giới tạo ra được âm điệu như thế và gặp được một
“hộp cộng hưởng” từ phía người đọc ưu việt đến thế. Cảm thương sâu thẳm và khắc
khoải diệu vợi. Có lẽ phải gọi nó là thứ Siêu thơ, được sáng tác và thưởng thức
theo phương thức “lấy lòng mà tạ với lòng”. Và ý thức rất sâu sắc điều đó, thơ
Lục bát hiện đại, đương đại đã tìm về giọng tập Kiều để giãi bày những điều sâu
thẳm thiêng liêng nhất, hoặc khó nói nhất. Các bài Lục bát: Kính gửi cụ Nguyễn
Du - Tố Hữu, Bên mộ Nguyễn Du - Vương Trọng (trước 1975), Bên mộ thi nhân - Trần
Cao Sơn, Đọc thơ Xuân Diệu - Vũ Quần Phương, Tâm sự nàng Thúy Vân - Trương Nam
Hương là những tiêu biểu... Rồi phát triển hơn nữa, thơ Lục bát hiện đại còn có
cả giọng tập... các thi nhân (sau Nguyễn Du). Nào là tập Tú Xương, tập Tản Đà,
tập Nguyễn Bính, tập Xuân Diệu, tập Nguyễn Duy... (tập trung ở dạng thơ chân
dung nhà văn). Cuộc đời thi nhân nào càng gần Nguyễn Du ở sự tài hoa lận đận và
cống hiến cho thể Lục bát bao nhiêu thì càng được lòng người sau đáp lại bằng
giọng da diết tri âm tương ứng bấy nhiêu. Ví dụ viết về nhà thơ Nguyễn Bính
trong tập “Đến với thơ Nguyễn Bính” NXB TN - Hà Nội - Năm 1998 có 41 bài
thơ khóc và khắc họa chân dung thi sĩ chân quê này thì có tới 29 bài được viết
bằng thể Lục bát, trong đó nhại giọng Nguyễn Bính khá thành công, tương tự kiểu
tập Kiều.
Một lần lỡ bước xuống đò
Sang ngang đận ấy đến giờ còn đâu
Đức dầy, phận mỏng, sông sâu
Tuổi em, tuổi chị giãi dầu canh khuya
Thôi đừng khóc nữa chị đi
Nhân gian thế sự dặn gì nữa đây?
Úp mặt vào hai bàn tay
Nỗi niềm thi sĩ bấy chầy khôn nguôi
Nghiến răng nhận lấy cuộc đời
Vu vơ sóng nước đò trôi đến giờ
(Đọc Lỡ bước sang ngang - Giang Phong)
Quả là sao càng sáng, vệ tinh quay quanh nó càng nhiều. Duyên
trước đã mặn, duyên sau lại nồng.
Hơn thế, còn có cả những bài Lục bát hợp lưu cả hai giọng điệu:
vừa tập Kiều vừa tập thi nhân đời sau. VD: “Đọc thơ Xuân Diệu” của Vũ Quần
Phương. Cả bài là điệu tập Xuân Diệu, đoạn đầu thoáng một vài câu giọng tập Kiều
thôi đã thấy xót xa nghẹn ngào trong lời người tri âm:
Thơ tình tặng khắp người ta
Hại thay... trắng một vòng hoa trên mồ
Chân đi trăm núi nghìn hồ
Gửi hương cho gió bao giờ cho xong
Chữ trên mặt giấy phập phồng
Trái tim im lặng dưới vồng cỏ may...
Sự dung hợp đó khiến cho bài thơ chỉ không đầy một trang giấy
mà trải ra cả một nỗi thương cảm sâu sắc, thấm thía một sự tiếc nuối, trân trọng
đối với hồn thơ mãnh liệt, trẻ trung, khát yêu khát sống đến cháy rát, nặng
tình trăm phương mà duyên phận lỡ dở oái oăm của chàng thi sĩ họ Ngô tài hoa;
trong đó đồng vọng lời tri âm của muôn người, thấm thía tiếc nuối cái đẹp, cái
tài khi một trái tim lớn đã “im lặng dưới vồng cỏ may”. Biết đâu, mai này giọng
tập Kiều, tập thi nhân này sẽ trở thành một thể loại đặc thù dùng để khóc thi
nhân, hay để vĩnh biệt ng¬ười tài hoa khuất núi! Và 'Bộ sưu tập' này hẳn rất
nhiều thú vị!...
Như vậy, phạm vi hoạt động, chức năng biểu đạt nội dung và cả
uy lực của Lục bát từ sau 1975, nhất là từ giữa thập kỷ 80 đến nay đã lớn mạnh.
Từ tư duy nghệ thuật, phương pháp tiếp cận hiện thực đến bút pháp thể hiện đều
đổi mới; Lục bát trở nên sắc sảo, linh hoạt, rắn rỏi và khoáng đạt lên rất nhiều.
Riêng chất trữ tình, thơ Lục bát từ sau 1975 đến nay thật là phong phú, vừa nồng
hậu, đằm thắm vừa đầy những nghĩ suy tỉnh táo và vì vật thật thẳm sâu. Đó chính
là chất trữ tình đạt đến trình độ cảm xúc trí tuệ.
Trên phương diện hình thức và nội dung, chức năng và giọng điệu
thơ Lục bát những thập kỷ cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI đã đưa
linh hồn dân tộc lớn lên cùng thời đại, phản ánh khá trung thành và sâu sắc đời
sống và tâm lý, nhịp sống và điệu hồn con người Việt Nam. Nó cũng chứng tỏ được
sự lớn mạnh và bản lĩnh sống của một thể thơ truyền thống cũng như tài năng và
bản lĩnh của người Việt trong thời kinh tế thị trường.
Phần 2: Những cách tân về hình thức thể loại Lục bát từ 1975
đến nay:
Để chuyển tải cho hết những nội dung phong phú sinh động tinh
tế và nóng hổi của hiện thực tâm hồn con người hiện đại, Lục bát tiếp tục củng
cố những cách tân nghệ thuật thể loại từ thời Thơ mới về sự vắt dòng, chấm giữa
dòng, xếp câu Lục bát kiểu bậc thang, phối thanh, ngắt nhịp linh hoạt... Tuy
nhiên mức độ của những cách tân đó cao hơn, phổ biến hơn.
Về tổ chức và trình bày câu thơ: Hầu hết Lục bát đương đại đi
theo tổ chức kết cấu cặp Lục bát trên 6 dưới 8 nhưng có một số trường hợp có sự
cách tân như: hiện tượng câu lục rút lại, câu bát giãn ra một vài chữ có xảy ra
nhưng chỉ là cá biệt.
Ví dụ: Câu lục rút lại:
Cùng là hạt mưa rơi
Thôi đừng khóc nữa những lời ca dao
Dù trong dù đục thế nào
Cả ta nữa cũng tan vào hư không
(Trích theo Nguyễn Vũ Tiềm - 1000 câu thơ tài hoa)
Có hai hiện tượng xảy ra không phải cá biệt, rất đáng lưu ý
là việc trình bày cặp Lục bát có xu hướng mô đéc hóa (không thắt vào ở câu lục
và nở ra ở câu bát, mà thẳng một lối) và hiện tượng cắt mỗi câu lục, câu bát
làm đôi, làm ba và đặt thành hai dòng hoặc cả bài cùng một trục thẳng. Ví dụ:
Chẳng bao giờ
Trăng ngồi yên
Cứ trong văn vắt
Cứ nghiêng ngả trời
Thản nhiên trôi giữa dòng đời
Tỏa ra đến hết
Để rồi
Hiện tượng vắt dòng thơ cũng đẩy lên mức độ cao hơn rất nhiều;
không phải chỉ vắt nối 2 dòng mà có khi đến 4 dòng thơ mới trọn vẹn một đơn vị
cú pháp. Cá biệt lên đến 6 dòng. Nguyễn Duy đã đạt kỷ lục về sự vắt dòng tràn
lan từ nhan đề qua khổ thơ thứ nhất, kéo tiếp sang khổ thơ thứ 2 ở bài “Đám
mây dừng lại trên trời...”
Hiện tượng câu thơ trình bày theo kiểu bậc thang nhiều hơn Lục
bát của thơ mới (của giai đoạn 1945 - 1975) và đẩy đến những mức cheo leo. Câu
thơ xếp bậc thang liên tục mỗi chữ một dòng:
Chia cho em một đời thơ
Một lênh đênh
một dại khờ
một tôi
Chỉ còn cỏ mọc bên trời
Một bông hoa nhỏ
lặng
rơi
mưa
dầm...
(Không đề - Nguyễn Trọng Tạo)
Đây không phải chỉ là sự lạ hóa dòng Lục bát mà là gây ấn tượng
trực giác về sự tan nát của cõi lòng sau những mất mát chia lìa.
Hiện tượng chấm câu giữa dòng cũng phổ biến và tạo được hiệu
quả thẩm mỹ cao. Tuy nhiên có lúc nó bị lạm dụng đến mức cực đoan:
Sài Gòn. Nên thế vẫn mưa
Em đi trong ướt nên vừa qua may
Em đi. Trong ướt thân gầy
Hở lưng nên phải che đầy bàn tay
Giọt mưa. Như thể men say
(Sài Gòn - Lê Huy Quang)
Về nhịp thơ, Lục bát sau 1975 tiếp thu sự ngắt nhịp phối
thanh linh hoạt của Thơ mới và đẩy nó lên cao hơn. Có khi chỉ trong một đoạn
thơ thôi mà có câu phải đọc một hơi 6 âm tiết, lại có câu được cắt thành 5 - 6
hoặc 7 tiết tấu, trong đó có đến 4 - 5 hoặc 6 nhịp 1. Sự ngắt nhịp một cách
linh hoạt, nhiều dạng tiết tấu cùng đan xen này mang lại hiệu quả thẩm mỹ cao:
Dẫu tôi đã dán mắt nhìn
Dẫu tôi nghiêng ngó soi tìm quẩn quanh
Vẫn là mười ngón tay anh ( 6)
Vẫn là mắt ấy, mắt mình chứ ai! ( 4/4)
Úm ba la! - hóa... thiên tài (3/1/2)
Và tôi hóa kẻ nhầm, sai, dại, khờ. (5/1/1/1 hoặc 2/3/1/1/1)
Vỗ tay, tôi bỗng sững sờ (2/4)
Bởi yêu người - đã - dối - lừa - được - tôi. (2/1/1/1/1/1/1)
Kiểu cắt nhịp ấy gây ấn tượng rõ rệt về sự rã vụn, nát, rối của
lòng người sau khi vì yêu mà bị dối lừa.
Về phối điệu, gieo vần: cơ bản là theo quy tắc của truyền thống
nhưng LB hiện đại có xu hướng cãi lại truyền thống êm đềm của thể loại ở chỗ sử
dụng nhiều thanh trắc ở vị trí lẻ. Có một số trường hợp có sự phá cách gieo vần
ở tiếng thứ tư của câu bát như ca dao xưa theo một dụng ý nghệ thuật:
Tay ông đâu, chân ông đâu
Chuyện ở trong đầu đang nghĩ về ai
(Gửi sao Thần Nông - Nguyễn Thanh An)
Sự không bình thường trong cách gieo vần, phối thanh này gợi
sự không bình thường trong cái vị được gọi là Thần Nông mà cả chân tay đầu óc đều
không làm gì, nghĩ gì cho nhà nông. Rất quan liêu, vô trách nhiệm, và vì thế sự
bất bình của người làm thơ cũng được hiện ra. Cơ bản Lục bát hiện đại đều dùng
vần chính, vần bằng, rất hiếm thấy vần trắc nhưng sử dụng nhiều vần thông.
Tuy nhiên cái sôi động và phong phú nhất của phương tiện biểu
đạt trong thơ Lục bát hiện đại, phải nói là ở sự sử dụng phương diện ngôn ngữ rất
hiện đại. Là ngôn ngữ của đời sống, vừa bình dị vừa cập nhật đời sống văn hóa
và tâm lý thời đại, lại sắc sảo, linh hoạt và mang dấu ấn cá tính sáng tạo của
nhà thơ. Trong đó phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác là khâu then chốt đã tạo nên sự
lung linh, đa nghĩa đầy biến ảo của những bài thơ Lục bát. Ví dụ như “trái
tim mắc cạn”, “gánh mãi hoàng hôn một mình”, những là “nướng chiều thành
tro”, “hong khô lại nụ cười”, những là “sỏi ôm tiếng guốc đi nằm”, Quê nhà
ở phía ngôi sao/ xa xôi mượn khúc ca dao làm cầu… Đó là những ẩn dụ lạ lẫm, bất
ngờ và đầy hiệu quả nghệ thuật:
Đưa kim qua nỗi ưu phiền
Mẹ ngồi vá lại cho nguyên sự đời.
(Thi Hoàng)
Lối sử dụng từ, kết hợp từ táo bạo cùng với những phép tu từ
biến ảo như thế này trong lục bát gần đây tạo ra nhiều ấn tượng thẩm mỹ sâu sắc.
Ít nhất đó là những “cách nói phi thường” (Nguyễn Vũ Tiềm) làm cho thơ Lục bát
không phải chỉ hay ở nhạc mà còn hấp dẫn ở lời, ở hình ảnh ấn tượng và ý nghĩa
sâu xa.
Như vậy cả trên phương diện hình thức và nội dung, chức năng
và giọng điệu thơ Lục bát những thập kỷ cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ
XXI đã đưa linh hồn dân tộc lớn lên cùng thời đại, phản ánh khá trung thành và
sâu sắc đời sống và tâm lý, nhịp sống và điệu hồn con người Việt Nam. Nó cũng
chứng tỏ được sự lớn mạnh và bản lĩnh sống của một thể thơ truyền thống cũng
như tài năng và bản lĩnh của người Việt trong thời kinh tế thị trường.
Từ tháng 8 năm 2008 trang web Lucbat.com mở ra với nhiều
chuyên mục sát trúng đặc trưng thi pháp của thể loại và cách đặt tên giàu sức gợi,
chắc chắn càng có điều kiện cho thể loại phát triển từ gốc đến ngọn, từ lý luận
phê bình đến sáng tác phản ánh tư thế, tâm thế của tâm hồn Việt Nam thời @.
Ghi chú: Trong bài viết có dẫn thơ Lục bát theo trí nhớ,
có thể một vài chỗ chưa chính xác. Mong bạn đọc lượng thứ và đính chính giùm.
Xin chân thành cảm ơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét