Nỗi nhớ của con người thường gắn liền với một cái cớ nào đó.
Hễ gặp duyên cớ kia là nhớ nhung cứ thế mà thức dậy, mà da diết. Tôi thường nhớ
tới Nguyễn Bính mỗi độ xuân về. Nhất là lúc mưa xuân. Đấy cũng là lúc rời phố
xá, tôi trở về quê nhà ăn tết với người thân. Tôi cứ thấy Nguyễn Bính về theo từng
chấm mưa rắc bụi lên cỏ cây hoa lá, lên những võng tơ nhện óng ánh sương giăng
mắc vệ đường, vệ đê, bụi hoang nơi đồng nội. Bấy giờ những nẻo đường quê dường
như mềm hơn, mịn hơn. Những làn bụi từng bị rang khô dưới nắng hè, từng lầy lụa
trong mưa dầm tháng bảy, từng xáo cuộn cùng xác lá trong gió heo may tháng mười
giờ đã yên nằm trên mặt đường ẩm mát. Lấy móng tay gợi lên thì xốp tơi như lòng
khoai lang bột đồng màu. Những hàng xoan se mình tím tái trong suốt mùa đông bỗng
tươi da, nhựa đang chuyển mình lên những chồi hẹn nhú.
1. Nguyễn Bính trong mỗi chúng ta
Nỗi nhớ của con người thường gắn liền với một cái cớ nào đó.
Hễ gặp duyên cớ kia là nhớ nhung cứ thế mà thức dậy, mà da diết. Tôi thường nhớ
tới Nguyễn Bính mỗi độ xuân về. Nhất là lúc mưa xuân. Đấy cũng là lúc rời phố
xá, tôi trở về quê nhà ăn tết với người thân. Tôi cứ thấy Nguyễn Bính về theo từng
chấm mưa rắc bụi lên cỏ cây hoa lá, lên những võng tơ nhện óng ánh sương giăng
mắc vệ đường, vệ đê, bụi hoang nơi đồng nội. Bấy giờ những nẻo đường quê dường
như mềm hơn, mịn hơn. Những làn bụi từng bị rang khô dưới nắng hè, từng lầy lụa
trong mưa dầm tháng bảy, từng xáo cuộn cùng xác lá trong gió heo may tháng mười
giờ đã yên nằm trên mặt đường ẩm mát. Lấy móng tay gợi lên thì xốp tơi như lòng
khoai lang bột đồng màu. Những hàng xoan se mình tím tái trong suốt mùa đông bỗng
tươi da, nhựa đang chuyển mình lên những chồi hẹn nhú. Nước giếng khơi như bỗng
trong đầy. Hoa bưởi rắc phấn vàng xuống tóc người dừng bước... Ở đâu tôi cũng
thấy Nguyễn Bính. Cái gì cũng nhắc về Nguyễn Bính. ấy là lúc đã về tới cố
hương, về với tuổi thơ xưa. Nguyễn Bính cứ lãng đãng theo tôi trên mỗi bước đường
làng. Tôi trò chuyện cùng ông như với một cố nhân, một người vẫn ở mãi chốn
quê, chỉ có mình là bỏ quê phiêu dạt. Nguyễn Bính là làn mưa xuân rắc mình lên
chốn hương thôn, là lá dâu xanh dập dờn bướm vàng cuối bãi. Nguyễn Bính là chiếc
lá lìa cành đầu ngõ, là chiếc mo cau rụng vội góc vườn. Nguyễn Bính là sắc nắng
chiều man mác trên mỗi thân cau, là ngọn mồng tơi ngập ngừng nơi lưng giậu.
Nguyễn Bính là tiếng trống chèo động lòng đêm hội, là cỗ tam cúc thắc thỏm giao
thừa. Nguyễn Bính là mảnh khăn điều trẩy hội chùa, là cây lụa trắng đang về chợ
làng xa. Nguyễn Bính là nỗi hờn tủi của những con đò. Nguyễn Bính là tiếng thở
than của mỗi tấm liếp. Nguyễn Bính là những mảnh đời lỡ làng sau mỗi lũy tre lối
xóm. Nguyễn Bính là nỗi đoái trông của mỗi vườn cam mái gianh. Nguyễn Bính là
đôi mắt đau đáu trong thẳm sâu lòng người xa xứ... Tôi nhớ Nguyễn Bính như là
khắc khoải về xa xưa, về hiện tại của chính mình. Tôi, một đứa con sống trong
lòng Tổ quốc còn thế. Trách chi cái anh chàng Việt kiều Hoàng Chính nào kia ở
cuối thế kỉ hai mươi lênh đênh xứ người, nhớ về Tổ quốc là nỗi nhớ Tiếng Việt,
nhớ tiếng mẹ đẻ, là nhắc nhau nhớ đến Nguyễn Bính: Mười một năm trời đi biệt xứ/ Em còn nhớ tiếng Việt Nam không?/ Lòng còn xôn xao Thơ Nguyễn Bính?/ Chuyện "Thôn
Đoài ngồi nhớ thôn Đông" (Gửi vầng trăng lưu lạc). Nguyễn Bính là tiếng vọng
cội nguồn trong lòng kẻ lưu lạc. Nguyễn Bính là tiếng trở mình của rặng tre
trong lòng kẻ tha hương. Nguyễn Bính còn là cái tiếng Việt trong lòng đứa con
xa đất mẹ... Ai đó nói trong mỗi chúng ta đều có một người nhà quê. Sau bấy
nhiêu năm, tưởng cũng có thể nói, trong mỗi chúng ta đều có một Nguyễn Bính, kể
cả những ai muốn chối bỏ điều đó. Sức đeo bám của Nguyễn Bính trong hồn mỗi người
Việt lớn hơn chúng ta tưởng rất nhiều. Sau ca dao có lẽ chỉ Nguyễn Bính mới có
nổi sức đeo bám này. Hồn quê trong mỗi chúng ta bây giờ chẳng phải còn có tên
là Nguyễn Bính ư?
Và khi rời khỏi cố hương ra với đời sống của mình chốn đô thị,
tôi cũng luôn thấy nhớ Nguyễn Bính. Các đô thị càng mọc lên, các cao ốc càng chất
ngất, càng thấy nhớ Nguyễn Bính. Nguyễn Bính như là cái gì đang mất lại vừa như
một cái gì không thể mất. Là cái vô hình luôn hiện hữu, là cái hiện hữu mà vô
hình.
Nhưng cái tên Nguyễn Bính đến với tôi từ bao giờ?
Người ta thường thích nhớ về "cái thuở ban đầu lưu luyến
ấy". Tất nhiên, có khi nhớ được, có khi chẳng còn nhớ nổi, tất cả cứ nhoè
lẫn nhạt nhòa. Phần mình, với Nguyễn Bính, thì tôi chẳng thể nào quên. U tôi,
chị tôi có ru tôi bằng Nguyễn Bính hay không? Ký ức thuở nằm nôi, nằm võng
không thấy vọng lên câu nào. Còn như Kiều, Chinh phụ, Trương Chi, Hoàng Trừu, Tống
Trân, Phạm Tải... thấy nhiều hơn. Trong tuổi thơ tít tắp của mình ở xứ Thanh,
tôi thường đi phụ giúp u tôi làm trên lò gốm. U tôi là thợ vần, cả đời tay thì
vo đất sét, chân thì đạp bàn xoay, cùng thợ chuốt làm ra đủ thứ chum, vại, thửng,
hũ, cóng, ang... Các bà thợ vần, thợ chuốt vừa làm vừa tán đủ thứ chuyện, rồi
hát hò, ngâm thơ, rồi tranh cãi nhau về nghĩa lí của câu tục ngữ này, câu thành
ngữ nọ. Hôm ấy, một chị thợ chuốt còn trẻ, sau khi chuyện vãn, đã cất lời ngâm
một đoạn khá não nùng mùi mẫn: "Em ơi em ở lại nhà/ Vườn dâu em đốn mẹ
già em thương...". (Phải khi vào cấp ba tôi mới biết nó là "Lỡ bước sang
ngang"). Đến chỗ "đêm nay là trắng ba đêm...", chị ta ngâm tiếp
là "Chị thương chị kiếp con chim lạc đàn". Lập tức, tôi nghe thấy tiếng
phản đối của một bác thợ lò: "con chim lìa đàn chứ sao lại lạc". Đang
ngâm, bị cắt ngang, khác nào bị chẹn họng, và chắc là không chịu được cái giọng
chỉnh kẻ cả, chị kia cãi lại gay gắt: Cái ông này, vô duyên! Người ta nói chim
lạc đàn chứ ai nói lìa đàn bao giờ! Thế mà cũng đòi sửa! Bác thợ lò thấy cần phải
đè bẹp đối thủ, phải thắng triệt để nên ra điều sành sỏi chữ nghĩa: Lạc thì thường,
thì non nghĩa. Lìa mới lạ, mới già nghĩa, chữ mới chín. Đang bay cùng mà phải
lìa khỏi đàn, thì mới đau chứ...". Rồi bác ta còn bảo, nếu không chịu, mai
sẽ mang nguyên văn lên cho xem. Chị ngâm thơ đành ấm ức mà im lặng.
Cũng mãi sau này, tôi mới ngớ ra rằng, đó có lẽ là cuộc tranh
luận về ngôn ngữ thơ đầu tiên mà mình được chứng kiến.
Bởi cái lẽ "đầu tiên" ấy mà găm rất sâu vào lòng
trí non nớt của tôi cái hình ảnh con chim lìa đàn. Nó cô lẻ. Nó côi cút. Thoi
thót suốt tuổi thơ tôi. Lúc bấy, tôi không ngờ, và có lẽ ngay cả Nguyễn Bính
khi viết câu ấy cũng không thể ngờ "con chim lìa đàn" đã thành chân
dung tự họa (hay tự ám?) da diết nhất của Nguyễn Bính.
Thực ra, khi đọc thi sĩ này, thấy bướm trắng bướm vàng bay loạn
trong thơ ông, một đôi người bèn coi bươm bướm là biểu tượng chuẩn nhất cho
Nguyễn Bính. Đúng là hồn thơ này cũng có ngất ngây chuyện bướm hoa, cũng sinh
ra những bóng bướm quyến rũ. Nhưng cũng tựa như dáng chập chờn của nó, bươm bướm
chỉ thuộc vào cái phần tình tang lẳng lơ, phần bâng quơ phù hoa của vườn thơ
Nguyễn Bính thôi. Một lúc khác, Nguyễn Bính có ví nỗi cô đơn nhục nhằn trên đường
đời của mình với con ngựa và người chị với chiếc thuyền nan - Em vốn đường dài
thân ngựa lẻ/ Chị thì sông cái chiếc đò nan/ Quê người đứng ngóng mây lưu lạc/ Bến cũ nằm nghe sóng lỡ làng. Nguyễn Bính sinh năm Mậu Ngọ (1918). Ví mình
như con ngựa không chỉ là ý thức về thân thế long đong của mình, mà trong đó
còn chứa cả một ý niệm về cái bản mệnh giời đày của mình nữa. Vẫn biết thân ngựa
lẻ kia cũng chỉ là biến thể của cùng một cái tôi Nguyễn Bính. Song con chim lìa
đàn vẫn cứ ám hơn cả. Nó vận vào thân phận nhiều trái ngang của thi sĩ. Nó mới
thực sự là chân dung tinh thần chan chứa những sầu tủi của Nguyễn Bính. Mà trước
hết là chân dung tự họa của cái Tôi trữ tình thi sĩ. Đó chẳng phải là một cá
nhân đang tách ra khỏi bầy đàn, một cá thể đang tách khỏi đoàn thể, cái Tôi
đang tách khỏi cái Ta? Nhưng với con chim kia, đó không phải là một cuộc vùng
lên cao ngạo, bứt phá bướng bỉnh, vượt thoát bất cần. Mà đó là sự chia lìa. Nó
không thể không tách ra, nhưng cái nó cảm thấy rõ khi vừa tách ra không phải vũ
trụ dành riêng cho sự tung hoành, trái lại, là sự chơi vơi, là nỗi đơn côi. Lìa
đàn là đánh mất điểm tựa vững chắc, mất vòng tay ôm ấp chở che. Lìa đàn, chưa
tìm thấy mình đã đánh mất mình. Lìa đàn, bơ vơ giữa cõi, lưu lạc tìm đàn. Và
hình ảnh con chim lìa đàn ấy thực sự là một ám ảnh trong tâm thức thi sĩ. Nó
còn bay mãi trong hồn thơ Nguyễn Bính với những bóng dáng khác nhau: "Lẻ
loi thân nhạn sang nam ấy" ,"Thân em chẳng khác con chim non/ Bơ vơ
trong xứ người xa lạ", "Sầu nghiêng theo cánh chim lìa tổ/ Biết lạc
về đâu lòng hỡi lòng?"...
2. Ra đời trong biến thiên
Bằng lòng với những ấn tượng chủ quan, xem ra là điều không
thể. Cần phải trả Nguyễn Bính về với thời đại của ông, về với cuộc biến thiên
chưa từng có ở chốn nước non bình lặng này [1] hồi đầu thế kỷ trước. Nguyễn
Bính là con đẻ của cuộc biến thiên ấy hay nhân cuộc biến thiên này mà cái anh
chàng thôn dân nghìn đời đất Việt đã lỡ bước sang ngang, đã hoá con chim lìa
đàn mà thành ra Nguyễn Bính?
Cuộc biến thiên tầm cỡ như vậy, bao giờ cũng vừa là một cơn
bão tàn phá vừa là một cơn trở dạ của lịch sử. Nghĩa là bao giờ cũng có hai mặt
biện chứng: huỷ diệt và sinh thành. Sức mạnh phá hoại sẽ phá vỡ và phế bỏ nhiều
cái cũ, mặt khác cũng nhân đó mà nhiều cái mới nảy nở sinh sôi. Phá huỷ dọn đường
cho sinh thành, sinh thành biện minh cho hủy diệt. Nó chi phối thực tại đời sống
như một qui luật không thể cưỡng được. Tất cả đều bị cuốn vào quĩ đạo vừa vô
hình vừa hữu hình của nó. Cuộc biến thiên đó muốn đập vỡ một thế giới cũ để cho
một thế giới mới ra đời. Nên điều thật khó tránh là, trong những cái bị tàn phá
một cách say sưa, sẽ lẫn vào không ít những giá trị thiêng liêng thuộc vào hàng
bảo vật của giống nòi. Không chỉ trên qui mô toàn xã hội, mà ngay trong mỗi một
con người cũng đương diễn ra một cuộc biến thiên ngấm ngầm: con người mới đang
đòi phải phế bỏ con người cũ. Mà chia lìa con người cũ bao giờ cũng đau đớn. Bởi
thế trong xã hội cũng như trong mỗi cá thể, đều hình thành hai thế lực: cách
tân và bảo thủ, hai ham muốn: một đằng quyết giành quyền sống một đằng quyết giữ
quyền sống [2]. Tương ứng với nó là hai thái độ, hai tâm thế thời đại: háo hức
cái mới và lưu luyến cái cũ. Trong cái háo hức, bên cạnh sự táo bạo nhạy bén,
có cả những nôn nóng vội vàng. Trong niềm lưu luyến, song hành với thái độ thủ
cựu khư khư ôm lấy những phản giá trị đã cổ hủ, lỗi thời, kệch cỡm, là nỗi thiết
tha đến day dứt khắc khoải trước những giá trị có nguy cơ bị phá phách, tiêu hủy,
biến suy. Mỗi tâm thế đều là một nguồn mạch trữ tình lớn của thời đại. Niềm thiết
tha khắc khoải ngấm ngầm trong xã hội và lòng người kia cho đến 1918 đã tìm thấy
người thi sĩ của nó. Làng Thiện vịnh, xứ đồng trũng chiêm khê mùa thối Vụ bản,
Nam Định đã sinh ra cho nền thi ca Việt một cậu bé mà lớn lên sẽ lãnh cái sứ mạng
thi sĩ kia. Nguyễn Bính là sự cất tiếng của con người Việt nghìn đời trong cuộc
biến thiên vĩ đại mà đầy đau đớn đó. Và đây cũng là một lý do giúp ta hiểu vì
sao, thơ Nguyễn Bính vẫn luôn làm xao động mọi tấm lòng Việt, tâm hồn Việt.
Mà con người Việt nghìn đời trong mỗi chúng ta là ai nếu
không phải là con người tiểu nông với tất cả ưu nhược của nó? Trong một xã hội
mấy nghìn năm "không đổi nhưng mà trôi cứ trôi" đó, anh chàng tiểu
nông kia vẫn sống yên ổn. Đến nỗi ta những tưởng đó đã là cái bản thể bất di bất
dịch. Nhưng trước cơn biến thiên lung lay đến tận cội rễ, chàng tiểu nông không
thể còn yên ổn. Không thể như cũ, lại chưa thể theo mới. Ngậm ngùi với cái cũ,
hoang mang trước cái mới. Bồn chồn, xốc xáo, không yên định là cõi lòng của nó.
Nguyễn Bính là tiếng lòng bất an của anh chàng tiểu nông, là tiếng lòng bất an
của thời đại. Đứt rễ khỏi đất cũ, chưa bén rễ vào đất mới, lòng thời héo hon,
lá thời héo úa. Nguyễn Bính là tiếng lòng héo hắt của cuộc biến thiên kia.
Nền tảng tinh thần muôn đời của anh tiểu nông là con người cố
kết, ý thức bầy đàn. Bầy đàn là chỗ dựa cho mỗi cá thể. Bầy đàn là vướng víu,
nhưng bầy đàn là bình ổn. Bầy đàn là chốn giam thân, bầy đàn cũng là chốn nương
thân. Cá thể bay nhanh trong bầy đàn, cá thể bay chậm cùng bầy đàn. Bầy đàn nhất
nhất quyết định sức mạnh cá thể. Nhưng cơn biến thiên này đã khiến cá thể không
muốn và không thể dựa dẫm vào bầy đàn. Mỗi cá thể cần phải là chính nó. Kẻ háo
hức thì hân hoan thấy mình thoát khỏi kiềm toả của bầy. Kẻ nặng căn thì sầu tủi
vì thấy mình phải lìa khỏi đàn. Nguyễn Bính là tiếng nói sầu tủi của con chim
lìa đàn ấy.
Trong đời sống cổ truyền giá trị cá nhân được xác định dựa
vào việc làm tròn bổn phận. Bổn phận là lẽ sống, cũng là điểm tựa bao đời. Bổn
phận có thể là một ngáng trở, nhưng cũng là một bấu víu. Bổn phận vừa là cánh
tay bó riết vừa là vòng tay âu yếm. Bổn phận khiến cá nhân phải hi sinh, bổn phận
cũng làm nên sự cao cả cho cá nhân. Nhưng, trong cơn biến thiên này, tiếng nói
của khát vọng nhất tề trỗi dậy. Đôi cánh khát vọng muốn tuông ra khỏi dây nhợ bổn
phận. Thời trước, mỗi cuộc giao tranh giữa khát vọng và bổn phận thường được dẹp
yên bằng ý thức hy sinh. Còn giờ đây cá nhân lại xác định giá trị của mình ở tầm
vóc của khát vọng. Cho nên cuộc giao tranh hoặc biến thế giới tinh thần thành một
đấu trường đẫm máu không có hồi kết, hoặc kết thúc bằng thất bại tủi sầu của bổn
phận. Khát vọng chiến thắng. Nhưng là một chiến thắng đầy mặc cảm tội lỗi, dai
dẳng không nguôi.
Nguyễn Bính là tiếng nói của cái tôi mang nặng mặc cảm đó.
Nội dung bao trùm của mặc cảm kia là gì?
Có thể nói đó là mặc cảm lỡ dở.
3. Cái tôi lỡ dở
Hơn chục năm trước, khi khởi thảo những mẩu đầu tiên về Nguyễn
Bính (phân tích bài thơ Xa cách, viết với Nguyễn Đăng Điệp), tôi chủ trương
khái quát Nguyễn Bính bằng hai chữ "lỡ làng". Phần vì nó là chữ trở
đi trở lại rất nhiều trong Nguyễn Bính, phần vì thấy đây là một bi kịch lớn,
bao trùm lên thế giới thơ của thi sĩ này. Giờ đây, đọc vào Nguyễn Bính sâu hơn
rồi, nhận rõ hơn tầm vóc của thi sĩ, tôi thấy chữ "lỡ làng" đuối
nghĩa, đuối sức như con đò bé không còn chở Nguyễn Bính sang ngang được nữa. Chữ
"lỡ làng" hợp với phận gái hơn, lại quá nghiêng về chuyện tình duyên.
Trong khi, ngay cả lúc nước mắt lưng tròng - chỉ vài ngày hoen ướt đã hỏng mất
một khăn hồng - thì Nguyễn Bính vẫn cứ là phận trai. Với lại, nỗi sầu tủi của
Nguyễn Bính phải đâu chỉ có chuyện duyên phận lỡ làng, mà còn cả sự nghiệp dở
dang - "Em đi dang dở đời mưa gió/ Chị ở vuông tròn phận lãnh cung",
"Dang dở một thân nơi đất khách/ Tết này ta lại ngắm hoa suông "...
Vì thế tôi thấy chữ "lỡ dở" ưu thế hơn. Không phải vì muốn đổi một từ
láy sang một từ ghép cho nén, cho đúc. Mà quan trọng là phải chữ ấy mới cưu
mang được thân phận Nguyễn Bính, nghĩa là mới gồm được mọi hẩm hiu về cả duyên
phận lẫn danh phận của cái tôi kia. Tìm đến chữ này để gọi Nguyễn Bính, tôi giật
mình vì thấy: Tạ Tỵ trong cuốn Mười vẻ mặt văn nghệ đầu những năm 70 của thế kỷ trước đã tìm đến nó khi gọi Nguyễn Bính là "thiên tài lỡ dở". Nhưng
xem kỹ, thấy chữ Tạ Tỵ nghiêng về cái nghĩa chỉ con người thực: hoàn cảnh đã tạo
ra Nguyễn Bính như là một thi tài dở dang, với một thái độ tiếc rẻ gần với Phan
Ngọc - "Nguyễn Bính chỉ còn thiếu một hiểu biết Tây học nên không thành nổi
nhà thơ đầu đàn..." [3]. Và chỉ có thế.
Phần mình, dùng chữ "lỡ dở", tôi không chỉ muốn nói
thơ Nguyễn Bính là sự lên tiếng của những cảnh ngộ oan nghiệt, những thân phận
ngang trái. Mà quan trọng hơn, Nguyễn Bính là thi sĩ của cái lỡ dở, như một phạm
trù trữ tình vậy. Bởi vì "lỡ dở" đâu chỉ là chuyện của riêng Nguyễn
Bính, riêng của thời đại Nguyễn Bính, mà sau này và mãi mãi nó vẫn là một thảm
trạng phổ biến của cõi nhân sinh. Có phải trên thế gian, thân phận nào cũng may
mắn, cũng vinh hoa cả đâu. Ngay cả những kẻ nhiều hanh thông may mắn, có phải
không từng nếm mùi lỡ dở đâu! Song hành với sự thành đạt của nhân gian, bao giờ
cũng là sự lỡ dở. Mà đã lỡ dở, làm sao tránh khỏi tủi sầu bi phẫn. Bởi thế, đây
quả là một nguồn lệ vẫn ngấm ngầm đây đó trong lòng thế nhân. Có điều, ở Nguyễn
Bính, ở thời Nguyễn Bính, bi kịch ấy sắc sói hơn, đắng đót hơn. Ông sinh ra dường
như để dành cho sự lỡ dở. Trời đày ông để ông phải làm tròn cái sứ mệnh oái oăm
đó. Từ thân thế mình, Nguyễn Bính đã cất lên tiếng nói về một bi kịch trùm cả
thời thế, mà mở ra tới cùng, cũng là một bi kịch nhân thế. Nếu thân thế Nguyễn
Bính hanh thông, hẳn đã không có nghiệp thơ Nguyễn Bính.
Nghiên cứu tiểu sử nhiều nhà văn, lắm lúc thấy nghi ngờ cái
tín điều đã thành mặc nhiên trong truyền thống: văn là người. Thực ra, chẳng phải
nhọc lòng hoài nghi. Nó vẫn mặc nhiên là tín điều. Có chăng, cần phải hiểu thế
nào về người thôi. Sự đồng nhất giản đơn con người sinh hoạt với con người văn
chương thì rất dễ gây thất vọng, hẫng hụt. Bởi văn là sự lên tiếng của con người
tâm linh, con người khát vọng. Khát vọng chân chính của một con người chính là
biểu hiện tập trung cho bản chất của người ấy. Và do đó tầm vóc khát vọng cũng
quyết định phần lớn tầm vóc của cá nhân. Tôi chưa biết anh là ai, nhưng hãy bộc
bạch khát vọng của mình, tôi sẽ biết anh là ai. Cho nên, văn là người, là cái
con người ấy. Tức con người bên trong, con người bề sâu, con người khát vọng.
Nhà văn Nguyễn Khải có lần nói, không phải định thanh minh cho mình hay cho ai,
rằng: đối với anh nghệ sĩ, phần tốt đẹp, cao quý nhất của tâm hồn đã trút vào
văn chương hết rồi. Còn những gì thể hiện trong sinh hoạt đời thường, đôi khi
chỉ là phần cặn bã của hắn mà thôi. Nguyễn Bính cũng thế thôi. Người ta đã kể
ra chả ít chuyện nhếch nhác, bê tha, lôm loam của Nguyễn Bính trong sinh hoạt,
giao du. Đời thường lắm chỗ sao mà trái cựa trái khoáy với con người trong văn
chương đến thế. Nhưng bức chân dung tinh thần đích thực là thuộc về cái tôi bề
sâu của nghệ sĩ. Cái tôi ấy tự họa trong văn chương ngay cả khi nó không hề tự
giác. Nguyễn Bính đã trút vào thi ca tất cả những khát vọng sâu kín và cao quý nhất của mình. Cho nên chả vì cái bã bên ngoài mà nghi ngờ cái hồn bên trong.
Cũng bởi sự không thể đồng nhất này mà trong nghiên cứu nghệ thuật mới cần phân
biệt con người thi sĩ (ngoài đời) và cái tôi thi sĩ (trong văn). Cái tôi ấy là
sự chung đúc của khát vọng. Nói cách khác, cái tôi là khát vọng thi sĩ được
nhân hình hóa.
Và, theo tôi, cũng như những hình tượng nghệ thuật khác, hình
tượng cái tôi là một nhất thể được tạo bởi sự hòa hợp (gồm cả tương tranh và
chuyển hóa) của các đối cực.
Lỡ dở tạo nên cái tôi kia bắt đầu do sinh bất phùng thời. Hãy
xuất phát từ nền tảng nhân cách của cái tôi được gọi bằng anh chàng nhà quê, là
gã chân quê Nguyễn Bính: một thôn dân - nho sinh. Nhận diện cái tôi Nguyễn
Bính, nhiều người chỉ thấy đó là một thôn dân. Nghĩa là chỉ thấy một phía. Mà
chỉ thế thôi, thì chưa ra Nguyễn Bính. Không phải một thôn dân thuần túy, Nguyễn
Bính là thôn dân - nho sinh. Cái ta vẫn gọi là hồn quê Nguyễn Bính không phải một
đơn chất. Trái lại, là hợp chất: con người thôn dân và con người nho sinh quyện
với nhau trong một điệu hồn chung. Từ con người thực ngoài đời thành cái tôi
trong thơ ca, Nguyễn Bính không chỉ mang theo cái lai lịch "con nhà nho
cũ", mà chất nho sinh còn hiện rất rõ trong cốt cách của cái tôi ấy. Biểu
hiện tập trung nhất của nó hẳn là giấc mơ quan trạng.
Có thể nói, cái tôi ấy suốt đời vương vấn giấc mơ quan trạng.
Trong thơ Nguyễn Bính, giấc mơ quan trạng luôn song hành với giấc mơ thanh đạm
thanh bình. Bởi thế, nó trở thành giấc mộng đôi: cả con người nho sinh và con
người thôn dân cùng mơ chung một giấc mơ về "thời trước". Thời trước
với chàng thôn dân là thời "trai hiền bạn với gái đồng trinh", thời của
"Hoa và rượu" - " Đời say men rượu thơm hoa rụng", thời
"Thanh đạm" vợ chồng thuận hòa, bạn bè tri kỷ: "Nhà gianh thì sẵn
đấy/ Vợ xấu có làm sao/ Cuốc kêu ngoài bãi sậy/ Hoa súng nở đầy ao/ Mấy sào
vườn đất mới/ Giồng dâu và giồng cam/ Không ngại xa người tới/ Thăm tôi tôi
cám ơn/ Làng bên sẵn rượu ngon/ Đêm nay ta đối ẩm/ Tre nhà đương cữ ấm/ Tha
hồ là măng non/ Đường làng không tiện xe/ Sớm mai người hãy trẩy/ Cây nguyệt
nằm suông mãi/ Tôi xin đàn người nghe"... Cảnh sống êm đềm thế chẳng phải
là mơ ước nghìn đời của bất cứ thôn dân nào?
Còn với anh chàng con nhà nho cũ, thì "thời trước"
là thời vợ tần tảo tầm tang, chồng dùi mài kinh sử, thời của giấc mơ hồ điệp,
thời của hiển đạt vinh hoa. Hoặc trạng nguyên trở thành phò mã: "Ngựa bạch
buông chùng áo trạng nguyên... lòng trạng lâng lâng màu phú quý, chờ "công
chúa cài trâm thả tú cầu". Hoặc quan trạng vinh quy về làng: "Chồng
tôi cưỡi ngựa vinh quy/ Hai bên có lính hầu đi dẹp đường/ Tôi ra đứng tận gốc
bàng/ Chồng tôi cưỡi ngựa cả làng ra xem", hạnh phúc thật là trọn vẹn, đã
đầy, viên mãn: "Đêm qua mới thật là đêm/ Ai đem giăng sáng giãi lên vườn
chè"... Đó là cái thời lý tưởng mà nho sinh nào cũng hằng mơ ước, khát
khao, hy vọng. Thời ấy đáp ứng được cho con người cả chuyện công danh lẫn chuyện
nhân duyên, cả khao khát nhân sinh của một con người, cả nhu cầu thẩm mỹ của một
nghệ sĩ.
Dù đã vào thơ theo quy luật điển hình hóa, nhưng một cái tôi
bao giờ cũng nảy nở từ con người thực ngoài đời của thi sĩ. Vốn là con nhà nho
cũ gắn với thôn quê, "thời trước" đương nhiên là cái mẫu lý tưởng của
Nguyễn Bính. Nhưng cái "thời trước" kia chỉ còn trong cổ tích, trong
truyện nôm khuyết danh, trong những tích chèo mà không khí thanh bình vinh hoa
của nó từng tưới tắm cho mơ mộng của Nguyễn Bính một thời. Ngày thì theo đòi
búi tó củ hành với cậu ruột mình một nho sĩ thôn Vân, đêm thì chìm đắm trong những
hội chèo thôn Đoài làng Đặng. Giờ đây, cuộc biến thiên lạnh lùng này đã bứt thế
giới mộng kia khỏi hiện thời, thẳng tay ném vào dĩ vãng. Nó đã vĩnh viễn thành
thế giới của hoài niệm. Bi kịch của cái tôi ấy ở chỗ: là con người của "thời
trước", nhưng lại sinh ra ở thời này. Tây học đã trục xuất Hán học khỏi
đương thời, Hán học đành ôm hận lủi thủi đi về quá vãng. "Bây giờ thời thế
biến thiên/ Nhà vua không lấy trạng nguyên nữa rồi". Thậm chí,
"Khoa cử bỏ rồi thôi hết trạng/ Giời đem hoa cỏ trả vườn tiên. "Lỡ
duyên búi tó củ hành/ Trường thi Nam Định biến thành trường bay". Hình ảnh
đầy hấp dẫn của những Tống Trân, Nguyễn Hiền vĩnh viễn xa vời. Nhưng điều oái
oăm là: Nguyễn Bính chỉ có thể được sinh ra bởi cuộc biến thiên đầy mất mát ấy.
Giống như sự hỏng thi trường kỳ mới sinh ra Tú Xương vậy. Nếu không chúng ta có
thể có thêm một quan trạng một ông nghè ông cống nữa để rồi những học vị chức
danh ấy tan ra mây khói, và sẽ hoàn toàn không có một thi sĩ chân quê, không thể
nào có nổi một tác giả "Lỡ bước sang ngang".
Nhưng cái tôi Nguyễn Bính không chịu lìa bỏ hẳn. Và đây chính
là một khía cạnh điển hình cho tâm trạng lãng mạn. Chỗ này, cái nhìn lý giải
đòi hỏi chúng ta phải xem xét rộng hơn một chút. Trước kia, người ta thấy mối bất
hoà với thực tại chỉ là cơ sở tâm lý riêng của khuynh hướng lãng mạn. Thực ra,
bất hoà với thực tại là cơ sở tâm lý phổ biến của nghệ sĩ. Nếu niềm khát khao một
hình thái lý tưởng lúc nào cũng thiêu đốt lòng nghệ sĩ, thì cũng có thể nói, bất
hòa với thực tại phải được xem như thuộc tính nghệ sĩ. Tất nhiên chữ bất hoà cần
được hiểu với các cung bậc khác nhau: không thỏa mãn, không bằng lòng, không
hòa nhập, không chấp nhận thực tại. Nếu bằng lòng với thực tại, tức là lý tưởng
đã bị tiêu tan. Do đó niềm khát khao khiến anh thành nghệ sĩ cũng tiêu tan rồi.
Nhưng vì sao bất hòa? vì nghệ sĩ bao giờ cũng thấy thực tại chưa đáp ứng được cả
nhu cầu tồn sinh lẫn nhu cầu thẩm mỹ. Nghĩa là chưa đáp ứng được khát khao về hạnh
phúc và khát khao về cái đẹp. Thậm chí, trước một thực tại nào đó, ở mức cực
đoan tột cùng, nó còn thấy thực tại thù địch với hạnh phúc chân chính của con
người, thù địch với cái đẹp. Thế là, từ một gốc chung là mối bất hòa, mà các
khuynh hướng nghệ thuật có những ứng xử khác nhau. Sự khác nhau bao trùm của
các khuynh hướng, có thể nói, cũng bắt đầu từ những phép ứng xử. Lãng mạn thì
đào sâu vào chủ quan vẽ ra một thực tại trong mơ ước để thay thế thực tại bên
ngoài. Hiện thực lại đi thẳng vào thực tại ngoài đời để phân tích nó, phanh
phui nó, phê phán nó. Trong khi khuynh hướng cách mạng dường như lại muốn cải
biến nó. Vậy thực tại một kẻ lãng mạn mơ ước là thế nào? Đó là thực tại trong hồi
tưởng, huyễn tưởng, viễn tưởng. Hồi tưởng đưa nó về với quá khứ vàng son, với
thời oanh liệt, phục hiện lại những dư âm dư ảnh, những hình sắc còn sót lại của
một thời, mà nó cho rằng chỉ ở đó, cái đẹp và hạnh phúc mới tồn tại. Huyễn tưởng
dẫn nó vào cõi yêu, cõi tiên, cõi ma, cõi đạo, vào tiền kiếp. Viễn tưởng lại dẫn
nó đến một tương lai xán lạn mãi tận tít mù khơi... Cái tôi Lãng mạn Nguyễn
Bính thì tìm về đâu? Về "thời trước" - "Thời trước làm sao thật
thái bình". "Thời trước" thực là thiên đường đối với một thôn
dân - nho sinh. Chàng chỉ còn đến được với cái thiên đường riêng ấy của mình bằng
một cách duy nhất: mơ thôi. Nguyễn Bính đã không ít lần ngán ngẩm kêu lên:
"Nhưng mộng mà thôi, mộng mất thôi!". Tuy nhiên, mơ mộng lại là một đời
sống, một lối thoát tinh thần không thể thiếu của gã thôn dân - nho sinh lỡ thời
ấy.
Không thể thành quan trạng với giấc mộng vinh hoa, không thể ở
thôn hương với giấc mơ thanh đạm. Cả gã nho sinh lẫn gã thôn dân đều đã mất đi
cái đích của mình. Cả hai nhất trí đồng tâm rời khỏi quê mình, dấn thân vào quê
người. Trên con đường tha hương ấy, họ đã hòa vào một nhân cách mới, một diện mạo
mới: thi sĩ lãng tử. Và thế là mở ra một bi kịch mới. Nó là bi kịch tiếp nối mà
cũng là bi kịch nhân đôi. Gã thi sĩ giang hồ này muốn nhập cuộc mà không xong.
Đời sống giang hồ đòi hỏi kẻ lãng tử phải quăng thân vào phong trần cát bụi, lấy
lênh đênh làm đời sống, làm hạnh phúc. Muốn thế, phải có máu phiêu lưu. Trong
khi đó, phiêu lưu lại không có sẵn trong gien tiểu nông của gã giang hồ bất đắc
chí này. Nên tình trạng tinh thần của gã là sợ phiêu lưu mà lại dấn bước giang
hồ. Chàng thi sĩ này không tìm thấy chất thơ thông thường của tiêu dao tang bồng,
không thấy cái thú siêu thoát lãng mạn của ngao du sơn thủy. Trái lại, mỗi bước
lênh đênh là một bước long đong. Dù chỉ là "giang hồ vặt", thì kẻ
giang hồ vẫn luôn chỉ thấy mình bị vây khốn giữa bao bất trắc, chỉ thấy cám cảnh
cho cái phận nổi trôi giời đày của mình, chỉ cảm thấy thật chua chát: giang hồ
là một cuộc đày ải - "Cúi mặt soi gương chén rượu đầy/ Bốn mắt nhuộm
chung màu lữ thứ... Không hiểu vì đâu hai đứa lại/ Chung lưng làm một chuyến đi
đày".
Cũng không có sẵn trong gien tiểu nông kia cái cao ngạo của một
cá nhân khi thoát ly khỏi bầy đàn. Rời bỏ mái nhà sinh trưởng, cái tôi lên đường,
sau cái khoảnh khắc cảm thấy tự do hết sức ngắn ngủi, nó lập tức cảm thấy trống
phía sau lưng, hẫng dưới chân bước. Tình trạng của nó là tình trạng của một con
diều đứt dây. Bơ vơ là cái thường xuyên dày vò nó. "Bơ vơ trong xứ người
xa lạ", "Trơ vơ trên bến nước sông đầy "... Lòng nó không có cái
hùng tâm tráng chí kiểu trượng phu hành đạo vì nghĩa lớn, đã đành. Mà ngay cả
cái lâng lâng khoái thú của một cái tôi đang lên đường tìm kiếm bản thân cũng
không có. Không có phấn hứng thấy thế là mình đã trưởng thành, đã tách khỏi
"bầu nước ối" của mái nhà sinh trưởng. Cái mà nó thấy đúng là: Xểnh
nhà ra thất nghiệp, như bao người mẹ tiểu nông vẫn ái ngại cho con cái.
Trong cái gien tiểu nông đó cũng không có sẵn cái lạnh lùng của
kẻ sẵn sàng khước từ bổn phận để mặc sức đuổi theo khát vọng. Khi ở thì thấy
khát vọng là trên hết, bổn phận là vướng víu. Khi đi bỗng thấy khát vọng là ích
kỷ, bổn phận mới thiêng liêng. Thế là mặc cảm lỗi đạo hành hạ nó, càng bước đi
xa càng nặng nề trầm trọng. Lỗi đạo với quê hương, lỗi đạo với gia đình. Nó thấy
mình là kẻ tệ bạc, phụ bạc: "Bỏ lại vườn cam bỏ mái gianh/ Tôi đi dan díu
với kinh thành", Đứa thương cha yếu thằng thương mẹ/ Cha mẹ chiều chiều
con nước mây", nhiều khi cái tôi ấy đã nức nở trong day dứt vì té ra mình
là đứa con hư đốn bất nghĩa: "Con đi mười mấy năm trời/ Một thân bé bỏng
nửa đời gió sương/ Thầy đừng nhớ mẹ đừng thương/ Cầm như đồng kẽm qua đường
đánh rơi/ Thầy mẹ ơi! Thầy mẹ ơi/ Tiếc công thày mẹ đẻ người con hư...".
Tóm lại, là giang hồ trong mặc cảm. Mặc cảm bơ vơ. Mặc cảm lỗi đạo, tệ bạc. Khí
chất và lương tâm của con người tiểu nông cổ truyền trong thâm căn cố đế của
cái tôi kia bị xốc xáo lên trong cơn biến thiên đó.
Có thể nhận rõ hơn diện mạo của cái tôi Nguyễn Bính trong
tương quan với đương thời.
Cái Tôi Thơ mới thường nghiêng về sự hả hê bởi được giải
phóng khỏi cái Ta. Nếu cô đơn, thì thường là khi phải đối diện với vũ trụ mênh
mông, khi không có một cái Tôi khác để gắn bó. Nguyễn Bính khác. Trước hết, về
Nguyễn Bính mà nói bằng cô đơn, không ra. Nguyễn Bính là nỗi đơn côi. Khác nhau
có một chữ, nhưng là hai hồn vía. Không phải ngẫu nhiên mà mặc cảm chia lìa, mặc
cảm bơ vơ lại bám riết lấy tâm tư Nguyễn Bính suốt cả đời không chịu buông tha.
Nhìn đâu cũng thấy chia lìa: "Con sào đẩy sóng thuyền nan lìa bờ",
"Chị thương chị kiếp con chim lìa đàn", "Chán chường như lũ tàn
quân lìa thành", "Những cuộc chia lìa khởi tự đây", "Anh em
li tán lâu dần thành ra", "Lìa cành theo gió lá luồn qua song",
"Sầu nghiêng theo cánh chim lìa tổ"... Nhìn đâu cũng thấy côi cút,
đơn chiếc, vô định: "Hồn đơn chẳng có nơi nương tựa", "Hồn đơn
quằn quại xác gầy", "Muôn vàn đơn chiếc đổ vào đầu tôi", "Một
người đi mấy mươi người nhớ thương", "Ta đi nhưng biết về đâu chứ",
"Anh đi đó! Anh về đâu?", "Nào biết về đâu kẻ ngước xuôi",
"Biết lạc về đâu lòng hỡi lòng" ... Điều này không thể không có
nguyên uỷ sâu xa từ ẩn ức mồ côi của Nguyễn Bính (mới ba tháng đã mất mẹ, rồi cha
đi bước nữa, phải ở với người cậu, dù có được bù đắp đến đâu thì bản tính đa cảm
của thi sĩ vẫn cứ trầm mình trong mặc cảm côi cút, bơ vơ). Nhưng mặc cảm này,
oan trái thay, lại khiến cho hồn thi sĩ cảm nhập được và mang chở được nỗi niềm
lỡ dở của cả thời đại ấy. Nghĩa là nỗi côi cút đầy bất hạnh kia bỗng trở thành
cái giá oan nghiệt mà Nguyễn Bính phải trả cho cái nghiệp thi sĩ của mình. Hay
nói theo giọng khách quan thì nhờ bi kịch cá nhân mà Nguyễn Bính đã cảm thông với
bi kịch của thời đại. Vì thế, cái Tôi Nguyễn Bính là nỗi đơn côi vì mất đi điểm
tựa thiêng liêng nơi cái Ta. Lìa khỏi cái Ta, cái Tôi ấy dày vò về Mất hơn là tự
mãn về Được. Đơn côi trong tình ái. Đơn côi giữa xứ người. Đơn côi giữa đô thị.
Đơn côi cả khi đã về tới cố hương.
Về bình diện văn hóa, Nguyễn Bính là con đẻ của cuộc hôn nhân
đầy lỡ dở giữa nền văn minh đô thị hiện đại với văn minh thôn dã cổ truyền.
Khác xa với những cái tôi thuần đô thị, Nguyễn Bính là cái tôi - phản - đô - thị.
Lúc nào cũng mang nặng mối "sầu đô thị". Cứ tưởng Nguyễn Bính chỉ là
đứa con ra đời từ cuộc hôn phối giữa làn mưa xuân trong lành với giậu mồng tơi
dân dã. Nào ngờ lẫn trong làn mưa kia có chút bụi kinh thành. Cái chút bụi mơ hồ
đã âm thầm lớn lên thành ý hướng giang hồ. Và chính nó đã xúi giục Nguyễn Bính
lên đường dấn thân vào cát bụi với những cuộc giang hồ vặt, khi sa vào bất đắc
chí. Sang đò, bước lên bậc bến thứ nhất để vào thế giới đô thị quê người, Nguyễn
Bính đã gửi lại bên kia bờ tất cả vườn cam mái gianh, bướm trắng tơ vàng, giàn
giầu hàng cau... Nhưng rốt cuộc, Nguyễn Bính lại bắt đầu cuộc tìm kiếm chính những
thứ ấy giữa phố xá đô thành mà không tự biết. Hẳn nhiên, làm sao có thể thấy những
thứ ấy trong cát bụi chốn này. Con đường kiếm tìm loanh quanh kia tất lại dẫn
cái tôi ấy trở về với nơi mình từ giã.
Nhưng, một khía cạnh rất đáng nói là: bi kịch của cái tôi kia
không có tận cùng. Sinh ra từ cuộc tình đương giữa hồi dang dở giữa Đô thị và
Thôn quê như thế, Nguyễn Bính đã cố chạy theo tìm sự cưu mang của từng phía,
nhưng cả hai đều chối bỏ, mỗi bên phụ phàng theo một cách riêng. Thoạt đầu ánh
sáng kinh thành huyễn hoặc, anh chàng chân quê đã tưởng có thể gửi mình vào đó,
tìm thấy trong hứa hẹn của nó những vinh hoa. Nhưng cuối cùng, chỉ là phù hoa:
"Phồn hoa thôi hết mộng huy hoàng/ Sớm nay sực tỉnh sầu đô thị".
Chán chường, chàng tìm lại chốn quê. Nguyễn Bính về quê không phải như Đào Uyên
Minh "qui khứ lai từ" bởi quá chán ngán cảnh luồn cúi nơi trường đào
mận. Không phải như một nhà nho thành đạt và chán ngán, về quê theo lẽ xuất xử
hành tàng, về ở ẩn lánh đời. Mà cái Tôi Nguyễn Bính về quê như một người suốt đời
băn khoăn đi kiếm cách sống cho mình, suốt đời tìm kiếm công danh và chỗ đứng
trong cái cuộc sống văn minh đô thị. Mà cuối cùng tay trắng vẫn hoàn tay trắng.
Công danh dở dang, duyên phận lỡ làng. Cố hương ngỡ bình lặng muôn đời là thế
cũng không dung được một kẻ đã ngập hẳn về thôn ổ mà chẳng thể rửa sạch khỏi
lòng mối sầu đô thị ăn sâu. Yêu lắm lắm những gì chân mộc của cố hương, nhưng
giữa kẻ hồi hương và đất cũ đã có những ngăn cách vô hình không thể vượt qua:
Không còn ai ở lại nhà/ Hỏi còn ai nữa? để hoa đầy vườn/ Trăng đầy ngõ, gió đầy
thôn/ Anh về quê cũ có buồn không anh?... Một lần lỡ bước sang ngang là đơn
côi vĩnh viễn. Nguyễn Bính là cái lỡ dở muôn đời ấy. Nó là một bi kịch không
biên giới.
Trên bình diện đạo đức đơn thuần, cái tôi Nguyễn Bính là con
đẻ từ sự lỡ dở của bổn phận và khát vọng, của chữ hiếu và chữ tình.
Thời ấy, chữ tình được viết hoa và tô đậm hẳn lên, chữ hiếu mờ
hẳn đi lùi lại sau hàng. Chữ tình muốn chia bào giã từ chữ hiếu, "em ơi em
ở lại nhà/ vườn dâu em đốn mẹ già em thương... Miếu thiêng vụng kén người thờ/ Nhà hương khói lạnh chị nhờ cậy em". Nhưng vừa quay gót đã gục đầu xuống,
úp mặt vào hai bàn tay mà nức nở tức tưởi: "úp mặt vào hai bàn tay/ Chị
tôi khóc suốt một ngày một đêm". Cái Tôi muốn khẳng định mình, nhưng khi từ
giã mái nhà sinh trưởng, xa rời vòng tay của cái Ta, nó vừa thấy đơn côi yếu ớt
lại vừa thấy mình là kẻ phụ rẫy đáng chê trách. Những bổn phận thiêng liêng
ngày trước ràng buộc là thế. Mỗi khi cần chọn lựa, bao giờ nó cũng giành được vị
thế độc tôn, tất cả những thứ khác đều phải nhượng bộ hy sinh. Nay khát vọng cá
nhân bùng nổ, nó thấy mình là hơn hết thảy. Nó đòi phải được sống đã đầy. Nhưng
ở trường hợp Nguyễn Bính, nó dứt áo ra đi chỉ để đạt được sự lỡ làng, còn bản
thân nó thì luôn luôn dang dở. Lỡ bước sang ngang, bổn phận đã không tròn, khát
vọng cũng chẳng thành. Dang dở vĩnh viễn. Nói ý thức cá nhân ở Nguyễn Bính khác
xa với những trường hợp khác là thế. Nó không phải tiếng nói tự tôn, tự kiêu, tự
đại một chiều cực đoan. Không phải cái Tôi hiếu thắng khi thoát khỏi cái Ta. Mà
nó là cái tôi đầy mặc cảm. Lúc nào nó cũng thấy mình là kẻ tệ bạc với cái Ta
đó. Thèm được thoát ly khỏi cái Ta cố kết. Nhưng chưa thoát ly đã lập tức thấy
mình là kẻ sao mà bạc tình. "Mẹ cha thì nhớ thương mình/ Mình đi thương
nhớ người tình xa xôi". Nhưng mà lại không thể khác. Cho nên mỗi bước đi
trên đường đời là một bước ngoái lại thăm thẳm phía sau,"Thầy ơi đừng chặt
vườn chè/ Mẹ ơi đừng bán cây lê con giồng"... mỗi cuộc đi là một cuộc dày
vò đày ải chính mình. Hành trình lìa quê cũng là hành trình của ăn năn, của khắc
khoải cố hương. Chưa đi đã thấy ngay là mình vừa đánh mất một cái gì thiêng
liêng hệ trọng nhất của đời mình, của cuộc sống này.
Tóm lại, cái tôi Nguyễn Bính từ bỏ quê để luôn khắc khoải nhớ
quê, tìm vào đô thị để chán chường đô thị, tìm kiếm công danh chỉ gặp dở dang,
theo đuổi tình duyên chỉ gặp lỡ làng. Dứt bỏ bổn phận để chạy theo khát vọng: bổn
phận không tròn, khát vọng tan vỡ. Cái gì của nó cũng lỡ dở. Cho nên Nguyễn
Bính là cái tôi lỡ dở của thời đại ấy. Tôi cho rằng chính Nguyễn Bính, chứ
không phải ai khác, mới là nhà Thơ Mới mang đầy đủ tấn bi kịch của thời đại
mình. Một tâm trạng bất đắc chí mênh mông dằng dặc.
Cái tôi Nguyễn Bính vẽ ra trong thế giới nghệ thuật của mình
là một người cả đời cứ lang thang kiếm tìm chính mình. Càng đi, dường như càng
lầm lạc, càng đi càng không thấy. Mọi hứa hẹn đều chỉ là ảo ảnh. Công danh, Hạnh
phúc đều không thấy? Đều không dành cho mình? Đều không có? Cuối cùng cái tôi ấy
hi vọng tìm thấy mình (tìm thấy mình hay tìm lại được mình? có lẽ là cả hai)
khi đã về lại nơi mà mình đã từ bỏ một cách vội vàng nông nổi. Nhưng rồi Nguyễn
Bính đã không tìm thấy. Không có chỗ nào cho mình. Đô thị không. Thôn quê
không. Quê người không. Quê mình cũng không. Lìa đàn cũng có nghĩa là lạc loài.
Nguyễn Bính là sự lỡ dở trọn kiếp con chim lìa đàn không chỉ trong cái thời đại
lỡ dở đó.
4. Cố hương, cố nhân, cố viên
Tôi vẫn cho rằng thế giới nghệ thuật của một thi sĩ lãng mạn,
xét đến cùng, là sự đan dệt của ba hệ thống hình tượng cơ bản: Tôi - Người tình
- Thế giới. Trong đó đóng vai trò trung tâm và quyết định đến toàn bộ diện mạo
của thế giới nghệ thuật ấy phải là hình tượng cái Tôi. Bởi vì, cũng lại xét đến
cùng, toàn bộ thế giới nghệ thuật của một nghệ sĩ chính là thế giới tâm tình của
nghệ sĩ được tượng hình hoá, hình sắc hóa mà thôi. Hình tượng Người Tình, về thực
chất là một đối ảnh của chính cái tôi thi sĩ. Còn thế giới xung quanh bao giờ
cũng là thế giới thuộc về cái tôi: hoặc cái tôi ấy đang phổ lòng mình vào thế
giới, hoặc cái tôi ấy thấy thế giới xung quanh vận vào mình. Đối với một nam
thi sĩ, bộ ba ấy là Tôi - Em - Thế giới. Chúng chẳng qua chỉ là tam diện nhất
thể mà thôi. Nói một cách khác, thế giới nghệ thuật của nghệ sĩ là một cõi thống
nhất, trong đó bất cứ một hình sắc nào cũng mang khí huyết hồn vía của cái Tôi
kia. Thế giới Nguyễn Bính không nằm ngoài quy luật chung đó. Cái Tôi Nguyễn
Bính sẽ phổ những lỡ dở của nó vào mọi hình sắc của cõi thơ ấy, mà đồng hóa tất
cả thành những vang bóng của cùng một cái tôi, kể cả cố nhân, cố hương và cố
viên.
Tôi muốn phức tạp hóa một chút xung quanh chữ "cố".
Chữ cố đầu tiên với Nguyễn Bính phải là "cố thủ". Phải, thi sĩ của hồn
quê đã cố giữ cho được chân quê. Chân quê với hồn thơ Nguyễn Bính tựa như đất mẹ
đối với thần Ăngtê vậy. Nó là truyền thống, là giá trị văn hoá, là lẽ sống, là
nguồn sống đối với hồn thơ quê. Nó là "của tin còn một chút này", là
vật thiêng, là bảo vật của đất quê. Cố giữ với hi vọng nó sẽ thoát khỏi cơn biến
thiên. Vật đổi sao dời, tao đoạn qua đi, rồi vẫn sẽ còn chân quê thuần khiết.
Nhưng ngay cả lúc "van em em hãy giữ nguyên quê mùa", thi sĩ cũng đã
thấy thật khó tin là nó không thay đổi. Trong cơn biến thiên ấy, "cả đến ông
giời cũng đổi thay".... kia mà! Nếu quả có một đức tin bất di bất dịch rằng
chân quê bất chấp thời thế, dù có biến thiên thế nào, nó vẫn cứ là một hằng số,
thì chắc chắn đã không có Nguyễn Bính. Thơ Nguyễn Bính là tiếng nói của lo âu
chứ không phải của đức tin. Nó nghiêng về bồn chồn, phấp phỏng, hoang mang hơn
là đinh ninh, xác tín, kiên định. Cơn biến thiên đang làm cho tất cả những gì
Nguyễn Bính cố níu giữ trở thành xưa cũ. Nó gỡ khỏi tay, giằng khỏi tay Nguyễn
Bính tất cả những gì thân thương nhất ném trả vào dĩ vãng.
Vì thế, mới có chữ "cố" thứ hai. Cố là
"cũ", là "xưa". Phải, nói đến Nguyễn Bính là phải nói đến
"Cố hương", "cố nhân". Mà nằm sâu trong lòng cố hương là
"cố viên" (vườn cũ, vườn xưa), và nơi lưu giữ những kỷ niệm từng có với
cố nhân cũng là "cố viên". Cố hương, cố nhân và cố viên là những hình
bóng da diết nhất trong cái vẫn được gọi bằng chân quê của Nguyễn Bính.
Một trong những nét giúp chúng ta phân biệt rất rõ Nguyễn
Bính với các nhà Thơ Mới khác là quan niệm luyến ái. Quan niệm luyến ái của
Nguyễn Bính nghiêng về truyền thống: tình yêu gắn liền, thậm chí đồng nhất với
hôn nhân. Nhân duyên trong thơ Nguyễn Bính không có chủ trương những cái tình gần
gũi, cái tình xa xôi, cái tình trong giây phút, cái tình ngoài thiên thu [4]... theo điệu sống hiện đại mà những cái tôi thuần đô thị bấy giờ chủ trương và
hăng hái. Trái lại, chưa gì đã toan tính chuyện trăm năm. Cứ thích trói buộc
nhau vào hôn nhân với những cau trầu "Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông/ Cau
thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào!". Vì thế mà, phải đận cau héo, giàu
vàng thì đôi bên trầm luân trong nước mắt của mặc cảm phụ phàng. Thế giới tình
yêu của chàng thôn dân - nho sinh là một thế giới hoà hợp êm đềm dựa trên một
luyến ái quan truyền thống. Nhưng cơn biến thiên đã làm cho cái thế giới tình
yêu cổ truyền kia bị vỡ vụn. Cái tôi thành một tình nhân lỡ dở. Thế là tất tật
mọi thứ đều lỡ dở theo.
Ngoài hình tượng cái tôi, nhân vật của Nguyễn Bính thuộc về
hai đối tượng lớn: tình nhân lỡ dở và những thân phận lỡ dở khác. Nghĩa là, thế
giới Nguyễn Bính đều là những mảnh đời lỡ dở. Tình nhân lỡ dở có hai dạng: thứ
nhất, không có được - do lỡ dở mà giai nhân chẳng thành tình nhân; thứ hai,
không giữ được - do một lỡ dở nào dó mà tình nhân đã trở thành cố nhân. Tất cả
khiến cho mọi cuộc tình của cái tôi ấy [5] đều dang dở lỡ làng.
Này là những giai nhân có tên: nào Oanh (Oanh, Nhớ Oanh), nào
Dung (Oan nghiệt), nào Nhi (Hoa và rượu)... Này là những giai nhân không tên:
nào cô hái mơ già, người con gái ở lầu hoa, những cô gái miền sông Hương núi Ngự,
người hàng xóm, người con gái vườn Thanh... Có những trường hợp do nàng lạnh
lùng quá, giấc mộng nhân duyên cứ thế trôi xuôi rồi tuột mất: "Cô hái mơ
ơi/ Chẳng trả lời nhau lấy một lời/ Cứ lặng mà đi rồi khuất bóng/ Rừng mơ
hiu hắt lá mơ rơi", "Rồi như sông Nhuệ lạnh lùng trôi/ Cô lạnh lùng
đi chẳng trả lời/ Những tiếng lòng chàng tha thiết gọi/ ở trên gác vắng lạnh
lùng ơi!". Có lúc chính những dẩm dở không đâu đã làm ra dang dở. ấy là
cái đám cô nàng nhà lắm bưởi nhiều hoa. Ngày nào cũng cất công "đường gần
tôi cứ đi vòng cho xa" rồi, thế mà ma xui quỉ khiến thế nào lại "lên
cơn sĩ diện hão", suy bụng ta ra bụng người: "Một hôm thấy cô cười cười/ Tôi yêu yêu quá nhưng hơi mất lòng/ Biết đâu rồi chẳng nói chòng:/ Làng này
khối đứa phải lòng mình đây", thế là lỡ duyên: "Từ ngày cô đi lấy chồng/ Gớm sao có một quãng đồng mà xa/ Bờ rào cây bưởi không hoa/ Qua bên nhà thấy
bên nhà vắng teo". Cũng có khi do nàng bèo bọt quá "Nàng bèo bọt quá
em lăn lóc", "Em đi dệt mộng cùng người/ Lẻ loi xuân một góc trời
riêng anh", vả chăng, em cũng không phải là không bèo bọt: "Hàng xóm
có người con gái lẻ/ ý chừng duyên nợ với nhau đây/ Chao ôi ba bốn tao ân ái/ Đã đủ tan tành một kiếp trai/ Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ/ Đành phụ nhau
thôi kẻo đến ngày/ Khăn gói gió đưa sang xứ lạ/ Ai cười cho được lúc chia
tay". Mà thường khi là do những cách trở xa xôi "Nhớ Oanh tôi nhớ cô
Oanh/ Xa xôi cách trở hỏi tình thắm phai". Rất nhiều khi là bởi những
cách trở không đâu: "Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái giậu mùng tơi
xanh rờn". Có thế thôi mà hai người đành sống giữa cô đơn, và rồi cuối
cùng mùng tơi cách trở đã hoá thành âm dương cách trở: "Đêm qua nàng đã
chết rồi/ Nghẹn ngào tôi khóc qủa tôi yêu nàng". Họ vĩnh viễn chẳng thể
thành đôi lứa. Đau đớn tiếc thương thì đà quá muộn. Cũng không ít cuộc họ đã có
được nhau, họ đã thề thốt đủ đằng, nhưng rồi những dự cảm mơ hồ về rủi ro, những
ám ảnh khôn nguôi về nghèo túng, lo sợ vì đồng tiền làm cho khốn đốn, hay đơn
giản chỉ vì những xui khiến tối tăm nào đó... thế là kẻ lỡ duyên, người lỡ thì,
đâm ra lỡ cả đôi đường. Giai nhân lỡ dở hoá thành cố nhân: "Xây bao nhiêu
mộng thế mà/ Đến nay phải gọi người là cố nhân".
Không biết do mình lỡ dở nên chỉ toàn chú ý đến những phận lỡ
dở - đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu? đồng bệnh tương liên? "cùng
một lứa bên trời lận đận"? - hay do những kiếp lỡ dở cứ ám vào mình, mà thế
giới nhân vật Nguyễn Bính toàn những mảnh đời lỡ dở. Người mẹ góa này tiễn con
đi lấy chồng (Lòng mẹ), người mẹ goá khác đang dằn lòng ủy thác bầy con dại
cho đứa con gái lớn để mình đi bước nữa (Bước đi bước nữa), ông chồng chết non
trăng trối người vợ trẻ những lời đắng chát (Giối giăng), cô gái miền rừng van
xin người yêu: "Nhà em cách bốn quả đồi/ Cách ba ngọn suối cách đôi cánh rừng/ Nhà em xa cách quá chừng/ Em van anh đấy anh đừng thương em". Cô gái phải
cầm lòng từ chối lời ngỏ của người yêu vì gia cảnh nặng nề, "Chưa trọn đạo
con, tròn nghĩa chị/ Lòng nào dám tưởng đến duyên tơ". Rồi thì cô lái đò,
anh lái đò dang dở giấc mộng tình duyên, dở dang giấc mơ quan trạng, dở dang đến
mọi toan tính đường đời: "Lang thang anhdạm bán thuyền/ Có người giả
chín quan tiền lại thôi". Rồi nàng trinh nữ vội lìa đời khi mới chớm xuân
xanh, ngang trái tang thương đến nỗi cái tôi ấy tưởng như cả "kinh thành
Hà Nội chít khăn xô"...
Nhưng có lẽ điển hình nhất cho những mảnh đời lỡ dở đó phải là cô gái trong "Mưa xuân" và người chị "Lỡ bước sang ngang" (Nhiều bài khác Nguyễn Bính sẽ gọi đích danh là chị Trúc - Thư gửi chị Trúc, Khăn hồng, Xuân Tha Hương, Xuân lại tha hương, Xuân vẫn tha hương). Một cô bé vừa mới thành thiếu nữ khi những hạt mưa xuân đầu tiên lất phất bay về, lòng phơi phới nhận lời hẹn đầu tiên, vội vàng đến với cuộc hò hẹn đầu đời. Thế mà lỡ: "Chờ mãi anh sang anh chả sang/ Thế mà hôm nọ hát bên làng/ Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn/ Để cả mùa xuân cũng lỡ làng". Thật là sái! Cuộc lỡ dở đầu đời ấy rồi sẽ như cái điềm chẳng lành, cái dớp định mệnh dễ làm dang dở cả những mùa xuân sau. Mình em lầm lụi trên đường về/ Nào ngắn gì đâu một dải đê/ áo mỏng che đầu mưa nặng hạt/ Một mình thêm tủi với canh khuya". Một người chị "đã liều nhắm mắt đưa chân" đến hai lần sang ngang mà lỡ bước vẫn hoàn lỡ bước. Cuộc tình thứ nhất kết thúc bằng: "Mười năm gối hận bên giường/ Mười năm nước mắt bữa thường thay canh/ Mười năm đưa đám một mình/ Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên/ Mười năm lòng lạnh như tiền/ Tim đi hết máu cái duyên không về". Thế rồi một chàng nghệ sĩ xuất hiện. Và chị lại quyết định sang ngang. Nhưng rồi tình cũng đoạn: "Rồi đêm kia lệ ròng ròng/ Tiễn đưa người ấy sang sông, chị về/ Tháng ngày qua cửa buồng the/ Chị về nhặt cánh hoa lê cuối mùa", "Thế là tàn một giấc mơ/ Thế là cả một bài thơ não nùng"... Những mảnh đời lỡ dở, ngang trái, oan nghiệt cứ châu tuần xung quanh cái tôi ấy. Mỗi bước đi trên đường đời là lại gặp những số phận dang dở lỡ làng. Thế giới thơ Nguyễn Bính chan đầy nước mắt đau thương. Đọc thơ Nguyễn Bính ai cũng phải mủi lòng cám cảnh.
Nhưng có lẽ điển hình nhất cho những mảnh đời lỡ dở đó phải là cô gái trong "Mưa xuân" và người chị "Lỡ bước sang ngang" (Nhiều bài khác Nguyễn Bính sẽ gọi đích danh là chị Trúc - Thư gửi chị Trúc, Khăn hồng, Xuân Tha Hương, Xuân lại tha hương, Xuân vẫn tha hương). Một cô bé vừa mới thành thiếu nữ khi những hạt mưa xuân đầu tiên lất phất bay về, lòng phơi phới nhận lời hẹn đầu tiên, vội vàng đến với cuộc hò hẹn đầu đời. Thế mà lỡ: "Chờ mãi anh sang anh chả sang/ Thế mà hôm nọ hát bên làng/ Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn/ Để cả mùa xuân cũng lỡ làng". Thật là sái! Cuộc lỡ dở đầu đời ấy rồi sẽ như cái điềm chẳng lành, cái dớp định mệnh dễ làm dang dở cả những mùa xuân sau. Mình em lầm lụi trên đường về/ Nào ngắn gì đâu một dải đê/ áo mỏng che đầu mưa nặng hạt/ Một mình thêm tủi với canh khuya". Một người chị "đã liều nhắm mắt đưa chân" đến hai lần sang ngang mà lỡ bước vẫn hoàn lỡ bước. Cuộc tình thứ nhất kết thúc bằng: "Mười năm gối hận bên giường/ Mười năm nước mắt bữa thường thay canh/ Mười năm đưa đám một mình/ Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên/ Mười năm lòng lạnh như tiền/ Tim đi hết máu cái duyên không về". Thế rồi một chàng nghệ sĩ xuất hiện. Và chị lại quyết định sang ngang. Nhưng rồi tình cũng đoạn: "Rồi đêm kia lệ ròng ròng/ Tiễn đưa người ấy sang sông, chị về/ Tháng ngày qua cửa buồng the/ Chị về nhặt cánh hoa lê cuối mùa", "Thế là tàn một giấc mơ/ Thế là cả một bài thơ não nùng"... Những mảnh đời lỡ dở, ngang trái, oan nghiệt cứ châu tuần xung quanh cái tôi ấy. Mỗi bước đi trên đường đời là lại gặp những số phận dang dở lỡ làng. Thế giới thơ Nguyễn Bính chan đầy nước mắt đau thương. Đọc thơ Nguyễn Bính ai cũng phải mủi lòng cám cảnh.
Nhìn kỹ có thể thấy họ vừa là nạn nhân của cơn biến thiên
trong thời ấy, vừa là nạn nhân của một thứ tiền duyên nghiệp chướng nào đó.
Trong những năm được học chữ Hán cùng người cậu, hẳn các môn "nho y lý số",
chẳng ít thì nhiều, cũng đã nhập tâm vào cái anh chàng con nhà nho cũ kia. Để rồi
lớn lên, cái nhìn lý số cũng nhuốm lên nhỡn quan của Nguyễn Bính, khiến thi sĩ
nhìn nhận và lý giải cả mình và những thân phận lỡ dở như là bi kịch trớ trêu của
số mệnh: "Trót đà mang số sinh ly/ Bao giờ tôi mới được về cố
hương?", "Còn tôi giời bắt làm thi sĩ", "Mẹ thì mất sớm giời
đày làm thơ", "Ai bảo mắc vào duyên bút mực/ Suốt đời mang lấy số
long đong"... Tất cả những con người ấy đều bị số phận đày đoạ trong nỗi lận
đận bởi chữ tình chữ duyên. "Đoái thương thân chị lỡ làng/ Đoái thương phận
chị dở dang những ngày", "Mẹ cũng không mong sướng lấy mình/ Nhưng
mà số phận bắt điêu linh "... Điều này cho thấy bi kịch lỡ dở biểu hiện
trong thế giới thi ca Nguyễn Bính dường như vượt ra ngoài vòng thời thế, mà nó
là chuyện của nhân thế. Nói cách khác, định mệnh đã chọn cái thời ấy để đày họ
vào vòng trầm luân của cơn biến thiên.
Cũng phải thấy thêm rằng, thế giới nhân vật Nguyễn Bính rất gần
gũi với những thân phận đau khổ trong văn học dân gian, đặc biệt là bao người
phụ nữ tủi phận tủi duyên trong những bài hát than thân. "Thân em như hạt
mưa sa/ Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày", "Em như giếng nước bên
đàng/ Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân", "Thân em như miếng
cau khô/ Người thanh tham mỏng người thô tham dày","Nụ tầm xuân nở
ra xanh biếc/ Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay", "...", ... Các
môtip dân gian đã từ ca dao dân ca nhập thân vào thơ Nguyễn Bính. Những mảnh đời
lỡ dở hôm nay như là sự nối dài tự nghìn xưa. Những số phận nổi chìm, lận đận
dang dở về công danh, lỡ làng về tình duyên nghìn đời nay sau những lũy tre,
bên những bến nước, những dòng sông... bao giờ cũng khiến con người xót xa cám
cảnh. Vào cuộc biến thiên ấy, có thể họ có thêm những màu sắc mới, nhưng họ vẫn
là những chị em ruột rà của những cô gái xưa, từng gửi lòng vào những tiếng hát
than thân làm héo hắt những luỹ tre, dang dở những cánh đồng, góa bụa những
thân cò thân vạc... Đúng là Nguyễn Bính viết nhiều về những mối duyên quê,
nhưng là mối duyên lỡ dở oan trái. Nguồn lệ chảy trong thơ Nguyễn Bính vẫn chảy
bao đời trong tiếng hát than thân.
Vì tha hương nên mới có cố hương. Cố hương chính là quê hương
trong lòng kẻ tha hương. Có lẽ luôn ở trong nỗi khắc khoải của đứa con xa nên
hình ảnh quê hương mới thân thương đến thế. Tôi không muốn nói rằng, trong lòng
những người tại quê thì quê hương không đẹp. Nhưng đúng là niềm canh cánh, nỗi
day dứt, cùng những đau đáu khắc khoải đã choàng lên hình sắc quê kiểng những
chất thơ mà người không phải xa quê chẳng thể nào có được. Có thể vì miếng cơm
manh áo, vì những xô đẩy trong đời, con người phải rời bỏ quê hương bản quán,
phải ly hương. Tiếng gọi bức xúc nhất bấy giờ là một tiếng gọi có phần ích kỷ:
làm sao để sướng hơn. Nhưng rồi xa quê, con người nhân bản, con người tình
nghĩa thức dậy. Nó thức dậy khi trong lòng ta vỡ ra một khoảng trống không gì
bù lấp được. Khoảng trống thăm thẳm ấy chính là nỗi quê. Là nỗi vắng thiếu một
điểm tựa trong tâm linh. Nó là một nỗi mồ côi. Mồ côi quê quán. Và nỗi hoài
hương trở dậy, cồn lên trong lòng. Bấy giờ trong lòng con người lại thống thiết
một tiếng gọi khác, tiếng gọi hoàn thiện nhân cách, bản ngã. Như thế, thời ấu
thơ ta sống trong lòng quê, khi đi xa, quê sống trong lòng ta. Càng đi xa, quê
càng thao thức trong lòng. Càng khổ nghèo càng thương nhớ. Quê thức dậy nghĩa
là quá khứ thức dậy. Nghĩa là con người đang sống về ngày trước. Nhớ quê cũng
chính là nhớ mình. Nhớ quê là đời sống bản thể, nếu như ai cũng thật sự có một
bản thể. Nhớ quê là nhớ một phần đời của mình. Là nhớ cái thiên đường tuổi nhỏ.
Vì thế, kẻ nhớ quê là kẻ bị mất thiên đường và đang khao khát trở lại thiên đường.
Không phải chỉ được sống tuổi thơ trong sung sướng, trong tươi đẹp thì nó mới
là thiên đường. Niềm luyến tiếc những phần đời đã qua bao giờ cũng có chức năng
cải biến tất cả thành thiên đường hạnh phúc, bất chấp những cay đắng khổ ải.
Không ai yêu sống, thiết tha sống bằng một người sắp phải lìa bỏ cuộc sống.
Cũng như thế, có lẽ không ai yêu quê nhớ quê bằng một kẻ phải xa quê, mất quê.
Nguyễn Bính là tiếng nói cố hương trong kẻ xa xứ. Nguyễn Bính là nỗi hoài hương
dằng dặc trong lòng kẻ ly hương.
Tô Hoài đã thật tinh nhậy khi khẳng định rằng: "Chỉ có
quê hương mới tạo nên được từng chữ từng câu Nguyễn Bính (...) Thơ và cuộc đời
ràng buộc nhà thơ. Trước sau và mãi mãi, Nguyễn Bính vốn là nhà thơ của tình
quê, chân quê, hồn quê" [6] . Niềm thiết tha với quê hương là cội rễ của
những sáng tạo Nguyễn Bính nhất. Nhưng, phải nói thêm, niềm thiết tha kia chỉ
thực sự thức dậy khi cái tôi ấy xa quê. Quê hương trong Nguyễn Bính chính là cố
hương. Hơn thế nữa, là cố hương trong mặc cảm lỡ dở lưu đày: "Trót đà mang
số sinh ly/ Bao giờ tôi mới được về cố hương". Mặc cảm ấy đã khiến cho
Nguyễn Bính tạo ra hình tượng thế giới trong thơ với diện mạo tổng quát như là
trường lưu lạc lưu đày của những thân phận lỡ dở: "Em vốn đường dài thân
ngựa lẻ/ Chị thì sông cái chiếc đò nan/ Quê người đứng ngóng mây lưu lạc/ Bến
cũ nằm nghe sóng lỡ làng".
Đã thành trường lưu lạc thì đương nhiên mặc cảm này cũng sẽ
khiến cảm quan thi ca Nguyễn Bính làm nốt phần việc tiếp theo: phân lập thực tại
thành hai miền không gian đối lập: quê mình - quê người. Cái tôi luôn là kẻ
trôi dạt từ miền không gian này đến miền không gian kia như những chuyến giang
hồ nhưng thực ra là những chuyến lưu đày, vừa bởi chuyện áo cơm, vừa do sự đẩy
đưa của cảnh đời, sự run rủi của số phận. Đến đâu cũng chỉ toàn lỡ dở. Chân bước
tới quê người, lòng gửi nơi quê nhà. Quê người có khi được gọi theo đúng lời kẻ
quê là "thiên hạ", có khi là "xứ người": "Bơ vơ trong
xứ người xa lạ", "Mấy thu mưa gió ngoài thiên hạ", "Quê người
đắng khói, quê người cay men" . Trong cái gọi là "quê người" ấy,
đô thị là vùng nhân sinh gây sầu tủi nhất. Có lẽ trong cảm nhận của cái tôi
kia, đô thị là hoàn toàn tương phản, thậm chí thù địch với thôn hương. Nếu quê
mình là thiên đường thì quê người là chốn lưu đày. Nếu quê mình là nơi đoàn tụ,
thì quê người là chốn lưu lạc. Nếu quê mình là vun trồng nuôi dưỡng, thì quê
người, nhất là đô thị lại tàn phá tiêu hủy. Nếu quê mình là thanh đạm bình ổn,
thì đô thị quê người là nhiễu loạn bấp bênh. Nếu quê mình là thôn ổ nghĩa tình,
thì quê người là "cái biển tiền người ta". Nếu quê mình là đất lành
nôi ấm, thì quê người là cái "sòng đời". Hình tượng thế giới trong
thơ Nguyễn Bính là sự đối lập ấy, nhiều khi cực đoan đến gay gắt. Coi cái tôi
Nguyễn Bính là cái - tôi - phản - đô - thị, một phần không nhỏ còn bởi chính điều
đó.
Quê mình, quê nhà của Nguyễn Bính hiện lên tập trung nhất ở
gương mặt của thôn Vân, từ cảnh sắc đến con người, từ nhịp sống đến mọi nguồn
sinh thú, tất tật đều bình dị mà thần tiên: "Thôn Vân có biếc có hồng/ Hồng
trong nắng sớm, biếc trong vườn chiều/ Đê cao có đất thả diều/ Giời cao lăm lắm
có nhiều chim bay/ Quả lành nặng trĩu từng cây/ Sen đầy ao cá cá đầy ao sen/
Hiu hiu gió quạt trăng đèn/ Với dăm trẻ nhỏ thả thuyền ta chơi/ Ăn gỏi cá
đánh cờ người/ Thần tiên riêng một góc trời thôn Vân./ Ơi thôn Vân hỡi thôn
Vân/ Nơi nao kết dải mây Tần cho ta/ Từ nay khi nhớ quê nhà/ Thấy mây Tần biết
đó là thôn Vân.". "Ở đây vô số những trời xanh/ Và một con sông chảy
rất lành/ Và những tâm hồn nghe rất đẹp/ Từng chung sống dưới mái nhà tranh/
Sao chẳng về đây múc nước sông/ Tưới cho những luống có hoa trồng/ Xuân sang
hoa nụ rồi hoa nở/ Cánh bướm vờn hoa loạn phấn hương/ Sao chẳng về đây có bạn
hiền/ Có hương có sắc có thiên nhiên/ Sống vào giản dị ra tươi sáng/ Tìm thấy
trong lòng một cảnh tiên". Ở chính giữa thôn Vân thân thương ấy là
"Nhà tôi": "Nhà tôi có một vườn dâu/ Có giàn đỗ ván có ao cấy cần? Hoa đỗ ván nở mùa xuân /Lứa dâu tháng tháng, lứa cần năm năm/ Em tôi là gái
mười lăm/ Quét sân chạy chợ chăn tằm sớm trưa/ Thầy tôi dạy học chữ nho/ Dạy
dăm ba đứa học trò loanh quanh/ Có gì, tiếng cả nhà thanh/ Cơm ăn đủ bữa, áo
lành đủ thay...".
Có thể nói đó là thiên đường chân quê của Nguyễn Bính. Người
ta vẫn thấy, trong dòng thơ quê, nổi lên những gương mặt Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá
Lân, Anh Thơ... Ai cũng viết về quê với những nét thật trìu mến. Đoàn Văn Cừ trội
về tập tục quê, Bàng Bá Lân nổi về sinh hoạt quê, Anh Thơ vẫn được coi là mạnh
về cảnh quê. Còn Nguyễn Bính dường như thâu gồm tất cả vào mình thành một thứ
là hồn quê. Nguyễn Bính không thiếu cảnh sắc, không thiếu phong tục, cũng không
thiếu đời sống trốn quê kiểng. Nhưng viết về bất cứ cái gì, Nguyễn Bính cũng gọi
dậy cái hồn. Chính niềm thiết tha khắc khoải của một kẻ tha hương đã là ngọn
gió nâng đỡ cho cánh diều hồn quê trong Nguyễn Bính luôn bay lượn. Chính niềm
khắc khoải ấy mới mang lại hồn vía cho mỗi nét bút viết về chân quê của Nguyễn
Bính. Căn nhà kia, mảnh ao kia, mảnh vườn kia, luống hoa, ruộng dâu nữa... có
gì ghê gớm đâu mà bỗng nhiên lay động đến vậy? Đúng thế, chúng không được vẽ
theo lối mĩ lệ hoá, tân kỳ hóa. Nhưng chúng sống trong một khí quyển riêng, hiện
ra trong một vầng sáng riêng của mảnh hồn Nguyễn Bính. Mảnh hồn mang trong nó
những dự cảm lo âu, những nỗi bất an của kẻ tha hương, nỗi bơ vơ của kẻ mất
thiên đường. Nó chỉ còn biết tìm ở chốn kia, ở những thứ quê mùa kia sự bấu víu
duy nhất. Đó cũng là mảnh hồn mồ côi bản quán hương thôn.
Có lẽ, cố viên là điểm tụ day dứt nhất của hồi ức cố hương.
Viết về Nguyễn Bính, nhiều người đã đề cập đến vườn, như một môtip lặp đi lặp lại,
một tín hiệu mang nhiều giá trị thẩm mĩ của thi sĩ. Điều ấy cho thấy việc tiếp
cận Nguyễn Bính đã đi vào chiều sâu. Tiếc rằng, việc hình dung về nó đôi khi lại
chệch ra ngoài vùng thi cảm Nguyễn Bính. Đúng là đối với một thôn dân, nếu ruộng
nghiêng về chức năng sản xuất, thì vườn lại nghiêng về chức năng văn hóa. Nhưng
dùng ký ức tập thể của tộc người Việt để giải thích, rằng quá trình dịch chuyển
của người Việt là đi từ vườn xuống ruộng, theo nguyên lý tâm linh cái gì cũ hơn
thì thiêng hơn, nên Nguyễn Bính viết về vườn nhiều hơn ruộng, thì đã thông thái
một cách vô lối. Thơ Tagor (Ấn Độ), Thơ Lorka (Tây Ban Nha), thơ Puskin,
Êxênhin, Paxternac (Nga), thơ Ôcxtaviô Pat (Mêhicô), thơ Rôngxa,Veclen,
Apôline, (Pháp)... cũng đầy rẫy những vườn thì sao? Rồi cũng là thi sĩ Việt
nam, những Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa... viết
rất nhiều về ruộng thì sao? Trong họ không có ký ức tập thể của người Việt ư?
Tôi cho rằng cần phải tìm nguyên nhân ở chỗ khác. Trước hết là từ đặc trưng của
khuynh hướng Lãng mạn. Cũng hướng tới cái Khổ của con người, nhưng khuynh hướng
lãng mạn chưa quan tâm nhiều đến cái khổ của lao động. Lao động chưa phải là đề
tài thực sự của lãng mạn.
Cái họ quan tâm nhiều hơn là nỗi khổ vì cô đơn của con người. Nếu quan tâm đến nỗi khổ trong lao động, hẳn nó phải nói đến ruộng nhiều hơn, vì nỗi nhọc nhằn trong vườn chẳng thấm gì so với trên ruộng. Đây cũng là điều phân biệt Nguyễn Bính với ca dao dân ca. Và quan trọng hơn là nguyên nhân từ chính Nguyễn Bính. Là thôn dân, nhưng Nguyễn Bính thuộc tip thôn dân - nho sinh. Đời sống hàng ngày ít gắn với ruộng, trái lại, gắn với vườn nhiều hơn. Đồng thời, nó cũng còn là cái tạng riêng của mỗi tâm hồn nữa. Có thể cùng trong một môi trường sinh trưởng, nhưng người này nặng nợ với vườn, người kia lại tha thiết với ruộng. Bởi vậy mà chúng có những vị thế khác nhau trong ký ức và trong thi ca từng người.
Cái họ quan tâm nhiều hơn là nỗi khổ vì cô đơn của con người. Nếu quan tâm đến nỗi khổ trong lao động, hẳn nó phải nói đến ruộng nhiều hơn, vì nỗi nhọc nhằn trong vườn chẳng thấm gì so với trên ruộng. Đây cũng là điều phân biệt Nguyễn Bính với ca dao dân ca. Và quan trọng hơn là nguyên nhân từ chính Nguyễn Bính. Là thôn dân, nhưng Nguyễn Bính thuộc tip thôn dân - nho sinh. Đời sống hàng ngày ít gắn với ruộng, trái lại, gắn với vườn nhiều hơn. Đồng thời, nó cũng còn là cái tạng riêng của mỗi tâm hồn nữa. Có thể cùng trong một môi trường sinh trưởng, nhưng người này nặng nợ với vườn, người kia lại tha thiết với ruộng. Bởi vậy mà chúng có những vị thế khác nhau trong ký ức và trong thi ca từng người.
Nói ngay Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, cả ba đều có những
ám ảnh vườn, nhưng mỗi vị một khác. Với Xuân Diệu là vườn tình, nó có bóng dáng
của những hoa viên, nơi dành riêng cho luyến ái trần thế. Với Hàn Mặc Tử, vườn
lại là "chốn nước non thanh tú", có bóng dáng những vườn Êđen trong
Kinh thánh, hay Đào nguyên trong văn chương Đạo giáo. Dù là tình tiên duyên tục
thì vẫn cứ là vườn tình. Còn Nguyễn Bính, vườn là quê. Dù nhiều khi gắn với giấc
mơ quan trạng, về thời trước (Thời trước, Xóm ngự viên, Bóng bướm, Truyện cổ
tích, Hoa và rượu...), thì vườn vẫn là gốc quê, chân quê: "Hoa chanh nở giữa
vườn chanh/ Thầy u mình với chúng mình chân quê". Vườn là cố hương:
"Sương phủ lưng đồi rặng núi xa/ Thương ôi, lữ khách nhớ quê nhà/ Mấy
thu mưa gió ngoài thiên hạ/ Vườn cũ còn chăng cúc nở hoa?". Vườn là cái
nôi của tình mẫu tử: "Vườn cũ hoa mai chắc nở rồi/ Cánh mai an ủi đến xa
xôi/ Mẹ ơi! một sớm thăm hoa rụng/ Nhặt giữ giùm con dăm cánh thôi!". Vườn
là hương hoả tiên tổ, là chốn đi về, là nơi bén rễ đầu tiên, cũng là nơi bám rễ
cuối cùng của đứa con trôi dạt chân trời góc biển: "Xin thầy mẹ cứ yên tâm/ Đừng thương nhớ một vài năm con về/ Thầy ơi đừng chặt vườn chè/ Mẹ ơi đừng
bán cây lê con trồng". Trong lời van xin ấy, ta có thể nghe thấy rõ nỗi bất
an của một linh hồn trước nguy cơ bị bật gốc khỏi cố hương, nguy cơ bị tước đi
điểm bấu víu cuối cùng. Ta có thể thấy rõ hơn về ý nghĩa của cố viên đối với
Nguyễn Bính, khi cái tôi ấy có ý thức rành mạch mà chua xót về vườn nhà mình
(quê mình) và vườn nhà người (quê người): "Em giồng được một cây lê/ Hẹn
bốn năm nữa thì về hái hoa/ Nhưng là vườn đất người ta?. Mình là khách trọ một
và đêm thôi". Dù hoa có đẹp thì lòng vẫn cứ dửng dưng, lạnh lẽo, vì đó là
hoa vườn người, nở cho người, mang tết đến cho người, chứ đâu phải cho mình:
"Hoa mai quán trọ trắng như sương/ Chen với hoa đào dưới khóm dương...
Quán trọ xuân này hoa lại nở/ Lại ngồi xem tết tết người ta". Nỗi chua
xót này là mối tâm cảm của một lữ thứ, một kẻ đơn côi. Nhưng ta cũng thấy âm u ẩm
ướt trong ấy, mối xúc động kiểu tâm lý tư hữu thuộc con người tiểu nông - chỉ
thực sự thấy an vui khi nó là "của mình". Lãng mạn Nguyễn Bính, căn bản,
vẫn là lãng mạn tiểu nông.
Mà, nhớ về vườn thì không thể vắng thiếu những cây cỏ thảo mộc
thân thương. Đọc thơ Nguyễn Bính có thể thấy hiện tượng phổ biến này: mỗi thi
phẩm thường có một nền tảng không gian vườn tược, và mỗi một mối tình hay gắn với
một cái cây. Vườn kia, cây kia có khi là nơi nảy nở, có khi là chốn tiêu tan,
có khi là chứng nhân, có khi là nạn nhân của một mối duyên lỡ dở nào đó. Nào là
cây chanh: "Hoa chanh nở giữa vườn chanh", cây cam: "Ra vườn nhặt
những hoa cam rụng/ Về bỏ đầy nồi cất nước hoa", cây bưởi: "Bờ rào
cây bưởi không hoa/ qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo", cây mai:
"Nhà nàng ở gốc cây mai trắng", cây dương: "Nhà ta ở dưới gốc
cây dương", nào là cây cau, giàn giầu: "Nhà em có một giàn giầu /Nhà
anh có một hàng cau liên phòng", cây chè: "Sáng giăng chia nửa vườn
chè/ Một gian nhà nhỏ đi về có nhau", cây dâu: "Cành dâu cao lá dâu
cao/ Lênh đênh bóng bườm trôi vào mắt em", cây mùng tơi: "Nhà nàng ở
cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn", rồi thì cây xoan:
"Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy... Bữa ấy
mưa xuân đã ngại bay/ Hoa xoan đã nát dưới chân giày", cây lê:
"Tháng ngày qua cửa buồng the/ Chị ngồi nhặt cánh hoa lê cuối mùa",
mà chả ít khi là cây không tên: "Ngày qua ngày lại qua ngày/ Lá xanh nhuộm
đã thành cây lá vàng "... Không ít tứ thơ được lập theo cách xoay quanh những
cái cây nào đó (Chân quê, Qua nhà, Tương tư, Mưa xuân, Cô hái mơ, Người hàng
xóm, Thời trước v.v...).
Lối cấu tứ ấy khiến cho không gian trong mỗi bài thơ Nguyễn
Bính từa tựa như một sân khấu nhỏ, trên đó bài trí một cảnh quê, mà ở trung tâm
của cảnh bao giờ cũng phải là một cái cây nào đó, vừa để tạo cảnh trí, vừa như
một đạo cụ để nhân vật của một mối duyên quê lỡ dở tựa vào mà thổ lộ tâm tư. Ví
như thi phẩm "Ngày trước", cấu tứ xoay quanh vườn chè, "Mưa
xuân" xoay quanh hoa xoan, "Cô hái mơ" xoay quanh rừng mơ, hay
"Qua nhà" xoay quanh cây bưởi: Thi phẩm mở ra những hứa hẹn với cây
bưởi đầy hoa: "Lối này lắm bưởi nhiều hoa/ Đi vòng để được qua nhà đấy
thôi", nhưng rồi lỡ dở. Nàng đi lấy chồng mất rồi, thế là bưởi ta cũng
không ra hoa nữa. Những thứ khác cũng buồn lây mà cô quạnh trống không: "Bờ
rào cây bưởi không hoa/ Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo". Đặc điểm này
cho thấy phần sâu sắc nhất trong hồn thơ Nguyễn Bính hoàn toàn thuộc về đất
quê. Quê không chỉ đi vào cảnh vào tình, mà đã can thiệp rất sâu vào cấu trúc
hình tượng cũng như cấu tứ của các thi phẩm.
Niềm thiết tha với cố hương cũng đem lại cho hồn thơ Nguyễn
Bính một phân lập tương ứng về thời gian. Trong bốn mùa, Nguyễn Bính nghiêng về
Xuân hơn cả. Mùa hạ thường đem lại cho thi sĩ những ức chế, mùa thu mùa đông khắc
sâu niềm mất mát khổ đau. Chỉ có mùa xuân mới thực là mùa của hồn thơ Nguyễn
Bính. Điều này cũng dễ hiểu. Mùa xuân là lúc thời gian bắt đầu một vòng quay mới.
Đất quê lại vào kỳ mang mẻ sinh sôi. Cả xứ đồng lại khởi sắc. Thiên nhiên hồi
sinh sau những ngày tháng già cỗi tiêu điều. Lộc xuân nảy nở trong đất, trong
cây, trong hồn người. Sau những nhọc nhằn vất vả, người quê được chút mát mặt
đón xuân.
Người ta tạm quên đi những nỗi lo đồng tiền bát gạo tháng ba ngày tám để sống trong rộn ràng lễ hội. Những đêm tình mùa xuân đây đó nơi những đám hội chèo, bên những vệ đê, trong những vườn cam, dưới những gốc bưởi... Mùa xuân còn là mùa của cuộc đoàn tụ thiêng liêng đối với kẻ tha hương. Nhất là vào dịp tết, vẫn cứ trôi dạt xứ người thì cái tôi ấy càng thấm thía nỗi đơn côi. Những lúc như thế, tỉnh rượu tàn canh, tiếng gọi cố hương càng dội sâu vào cõi lòng trống hoang cô quạnh. Mùa xuân là mùa của nỗi hoài hương dằng dặc (Xuân tha hương, Xuân lại tha hương, Xuân vẫn tha hương...). Ta hiểu vì sao, cái duyên quê của cố hương trong thơ Nguyễn Bính chỉ đậm đà vào lúc xuân về: "Đã thấy xuân về với gió đông/ Với trên màu má gái chưa chồng/ Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm/ Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong/ Từng đàn con trẻ chạy xun xoe/ Mưa tạnh trời quang nắng mới hoe /Lá nõn cành non ai tráng bạc/ Gió về từng trận gió bay đi/ Thong thả nhân gian nghỉ việc đồng/ Lúa thì con gái mượt như nhung/ Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng/ Ngào ngạt hương bay bướm vẽ vòng/ Trên đường cát mịn một đôi cô/ Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa/ Gậy trúc dắt bà già tóc bạc/ Tay lần tràng hạt miệng nam mô".
Người ta tạm quên đi những nỗi lo đồng tiền bát gạo tháng ba ngày tám để sống trong rộn ràng lễ hội. Những đêm tình mùa xuân đây đó nơi những đám hội chèo, bên những vệ đê, trong những vườn cam, dưới những gốc bưởi... Mùa xuân còn là mùa của cuộc đoàn tụ thiêng liêng đối với kẻ tha hương. Nhất là vào dịp tết, vẫn cứ trôi dạt xứ người thì cái tôi ấy càng thấm thía nỗi đơn côi. Những lúc như thế, tỉnh rượu tàn canh, tiếng gọi cố hương càng dội sâu vào cõi lòng trống hoang cô quạnh. Mùa xuân là mùa của nỗi hoài hương dằng dặc (Xuân tha hương, Xuân lại tha hương, Xuân vẫn tha hương...). Ta hiểu vì sao, cái duyên quê của cố hương trong thơ Nguyễn Bính chỉ đậm đà vào lúc xuân về: "Đã thấy xuân về với gió đông/ Với trên màu má gái chưa chồng/ Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm/ Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong/ Từng đàn con trẻ chạy xun xoe/ Mưa tạnh trời quang nắng mới hoe /Lá nõn cành non ai tráng bạc/ Gió về từng trận gió bay đi/ Thong thả nhân gian nghỉ việc đồng/ Lúa thì con gái mượt như nhung/ Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng/ Ngào ngạt hương bay bướm vẽ vòng/ Trên đường cát mịn một đôi cô/ Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa/ Gậy trúc dắt bà già tóc bạc/ Tay lần tràng hạt miệng nam mô".
Có thể nói, khi phân lập thành quê mình - quê người, Nguyễn
Bính đã có những quan niệm thật dứt khóat. Quê người có thể có các mùa, nhưng
không thể có mùa xuân. Đặc biệt, khi quê người lại là đô thị, kinh kỳ thì nhất
định: "Kinh kỳ bụi quá xuân không đến". Chẳng những không có xuân,
mà đó còn là chốn chôn vùi những mùa xuân: "Giữa nơi thành thị gió mưa
phai/ Chết dần từng nấc, rồi mai mốt/ Chết cả mùa xuân, chết cả đời".
Mùa xuân chỉ về với quê mình. Mùa xuân là độc quyền của quê mình. Quê mình như
một xứ sở vĩnh viễn xuân. Đó không hẳn là sự thiên vị trong cảm nhận thời gian
của cái tôi tiểu nông nhất nhất coi "làng mình là hơn cả". Xét đến
cùng, nó xuất phát từ mặc cảm lỡ dở, mặc cảm đơn côi của một con chim lìa đàn
"bơ vơ trong xứ người xa lạ", hoài niệm cố hương đã làm cho mảnh đất
quê hiện lên với bao ưu ái. Như là nơi cứu rỗi cho linh hồn côi cút bơ vơ.
Đối với Nguyễn Bính, chất thơ quyến rũ nhất của đất trời xuân
chính là mưa xuân. Mưa xuân là đặc sản của thiên nhiên xứ bắc, cũng là đặc sản
của hồn thơ Nguyễn Bính. Hoàn toàn có thể gọi Nguyễn Bính là thi sĩ của mưa
xuân. Trong màn mưa xuân, cố hương hiện lên thân thương thế mà cũng thần tiên đến
thế. Trong số những thi sĩ viết về mưa xuân, chỉ có Nguyễn Bính mới có cái ngơ
ngác này: "Nào ai nhìn thấy rõ mưa xuân/ Tơ nhện vừa giăng tơ trắng ngần/ Bươm bướm cứ bay không ướt cánh... Lá ngửa lòng tay hoa đón mưa", cũng chỉ
có Nguyễn Bính nghe ra giọng chuông ẩm ướt, mới nhận thấy thời gian luyến không
gian, luyến cảnh bằng màn tơ phảng phất lơ lửng, nửa như sương đậm nửa mưa thưa
ấy: "Làng bên ẩm ướt giọng chuông mờ/ Chiều xuân lưu luyến không đành hết/ Lơ lửng mù sương phảng phất mưa". Không biết Nguyễn Bính phải cám ơn mưa
xuân hay mưa xuân phải mang ơn Nguyễn Bính, khi những lời thơ mang được hồn mưa
nhập vào hồn Việt. Nhất là những câu: "Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy". Đọc những câu như thế mới thấy ngay trong
cả những gì mơ hồ không đâu nhất, vẫn cứ rưng rưng lên những điệu hồn quê, phơi
phới lên những nét duyên quê. Quyện trong hơi thơ ấy có nhịp tim đầy hy vọng của
cô gái quê sắp đi đến cuộc hò hẹn đầu đời, mà xem ra còn lẫn cả nỗi phấp phỏng
của một cái tôi vốn đầy dự cảm lo âu về những lỡ dở cứ đợi con người đâu đó nữa.
Tôi muốn nói, ngay trong từng hạt mưa xuân hư thoảng đương tô điểm cho cố
hương, cũng mang một phần hồn cái tôi lỡ dở. Nó khiến cho niềm cố hương tha thiết
đến se lòng.
Chú thích:
Chú thích:
[1] Chữ dùng của Hoài Thanh, trong Thi nhân Việt Nam
[2] Chữ của Hoài Thanh, trong Thi nhân Việt Nam
[3] Phan Ngọc, "Ảnh hưởng văn học Pháp tới văn học Việt
Nam trong giai đoạn 1932-1940", Tạp chí Sông Hương, số 3+4/1992.
[4] Chữ dùng của Lưu Trọng Lư, Bài diễn thuyết tại nhà khuyến
học Quy Nhơn (tài liệu đã dẫn)
[5] Phải nói là "của cái tôi ấy" là để tránh đánh đồng
con người thi sĩ ngoài đời và cái tôi thi sĩ trong thơ. Nhà thơ Trúc Đường, anh
trai Nguyễn Bính, tiết lộ rằng: Nguyễn Bính chỉ hiện ra như một nạn nhân đáng
thương trong thơ thôi. Còn ngoài đời, Nguyễn Bính "gặt hái" không phải
là ít.
[6] Tô Hoài, "Lời giới thiệu", Tuyển tập Nguyễn
Bính, NXB Văn học Hà Nội, 1986, tr.19-23.
5. Giọng điệu của hồn quê
Đọc Nguyễn Bính, có lẽ người Việt nào cũng cảm thấy rõ tiếng
thơ ấy mang đậm bản sắc dân tộc, mang đậm hồn quê. Người ta nhận ra điều này rất
sớm, ngay khi những tiếng thơ đầu tiên của Nguyễn Bính vừa mới cất lên. Nhưng mảnh
hồn quê đó là thế nào thì thật khó hình dung, khó nắm bắt. Hoài Thanh và nhiều
người nghiên cứu khác cũng cho rằng đó là vấn đề không thể hiểu được bằng lí
trí [1].
Nhưng chẳng nhẽ lại chỉ bằng lòng với những cảm nhận thuộc về
cảm tính? Trên thực tế nhiều người nghiên cứu sau Hoài Thanh đã cất công tìm kiếm.
Người ta phát hiện ra cách Nguyễn Bính bộc lộ tâm tình của mình gắn liền với
cây cỏ thảo mộc chốn thôn quê: cây chanh, cây bưởi, cây cam, cây chè, giàn giầu,
hàng cau, giậu mồng tơi, khóm cải hoa vàng, hoa cỏ may... với các địa danh đặc
quê: thôn Đoài, thôn Đông, thôn Vân, làng Đặng... với những vật cảnh hương
thôn: giếng thơi, giếng đá, đầu đình, bến đò, con sông, vệ đê, bãi đay, vườn
dâu... với những bóng dáng thôn dân: anh lái đò, cô lái đò, cô gái dệt, gã thư
sinh, cô hái mơ, cô hàng xóm, người mẹ già tầm tang tấm mẳn... với những tập tục:
ngày tết quê, cảnh vinh qui, cảnh vu quy, đám hội chèo, đám lễ chùa, lễ kỳ an...
Đành rằng trong mỗi một sự vật dù nhỏ nhoi nhất đều ít nhiều
mang chút hồn quê. Nhưng dầu sao đó mới chỉ là một phía, phía đối tượng.
Mình đối tượng không thôi, chưa đủ đem lại hồn vía cho một
thi phẩm cũng như cho một tiếng thơ. Vả chăng, nếu chỉ do đối tượng thì trong
thơ của các thi sĩ khác thuộc dòng thơ quê đương thời và cả sau này nữa đều
nhan nhản những đối tượng ấy, nhưng sao ta không thấy đậm đà hồn quê. Như thế,
nhân tố quyết định không phải là đối tượng. Mà phải là chủ thể: chủ thể phải có
được điệu hồn quê. Nghĩa là tuy điệu hồn kia thuộc về cá nhân thi sĩ, cất lên
từ cá nhân Nguyễn Bính, nhưng nó phải là điệu tâm hồn chung (hoặc một nét sâu sắc
thuộc điệu hồn chung ấy) của dân quê từ bao đời nay. Không có nó bao trùm lên
toàn bộ những cảnh vật kia thì khó mà dậy lên được hồn vía trong mỗi tiếng thơ
quê của Nguyễn Bính.
Thực tế, điệu tâm hồn cũng là một khái niệm không kém phần
"mông lung".
Tuy vậy, tạo nên cái gọi bằng điệu tâm hồn có vẻ "bất khả
tri" kia, không thể không có một yếu tố ít nhiều xác định: điệu cảm xúc.
Chữ "điệu" vẫn được dùng trong tiếng ta vốn nhiều nghĩa. Nét nghĩa được
nói đến ở đây chính là những đặc điểm về hình thức, là việc hình thức hoá thành
những kiểu cách, những mẫu hình ổn định. Chữ "điệu" trong các chữ
dáng điệu, nhịp điệu, vần điệu, giai điệu, làn điệu, nhạc điệu, thanh điệu, ngữ
điệu, giọng điệu... về căn bản theo nghĩa đó. Cho nên điệu cảm xúc, có thể hiểu
là những dạng cảm xúc đã được điệu thức hóa, hình thức hóa.
Gần mười năm trước, trong tham luận "Về bản sắc dân tộc
và một hướng kiếm tìm nó trong thơ", trình bày tại Trường viết văn Nguyễn
Du, nhân hội thảo về "Vấn đề tính dân tộc trong thơ" (4-1994) [2],
tôi có nói đến một hướng tìm bản sắc qua khái niệm "điệu thơ". Dường
như mỗi một dân tộc vẫn có một (hoặc một số) điệu thơ đặc trưng của mình. Người
ta thường phải tìm nó trong thơ ca dân gian. Bởi thơ ca dân gian của một dân tộc
bao giờ cũng thể hiện đậm nhất tâm hồn riêng của dân tộc ấy. Khảo sát thơ ca
dân gian Việt Nam, tôi thấy nổi lên hai điệu cơ bản: một là, điệu than (phổ biến
nhất trong những câu ca than thân); hai là, điệu ghẹo (phổ biến trong những câu
ca giao duyên). Hai điệu này song hành và nhiều khi cũng hoà trộn vào nhau. Mà
trong đó, điệu than có phần đậm hơn. Đây là điệu thơ dễ làm động lòng người, dễ
làm mủi lòng người Việt nhất. Đơn giản vì nó cất lên từ cuộc sống cơ khổ dằng dặc
của người Việt nghìn xưa. Ngọn nguồn của điệu than là nỗi cơ cực khốn khổ truyền
kiếp của người tiểu nông bao đời. Giới nghiên cứu văn học dân gian cũng có một
nhìn nhận gần gũi về nguồn gốc và nội dung của ca dao dân ca. Một nhà nghiên cứu
viết: "cảm nghĩ về thân phận mình là thấy buồn, thấy khổ và tiếng hát cất
lên thành tiếng hát thở than về mọi nông nỗi khổ đau và bất hạnh của kiếp người",
"Dân ca - ca dao dẫu khai thác bao nhiêu đề tài, rút lại căn bản cũng là
những biến tấu của hai "lời" ấy: dân ca - ca dao xưa chủ yếu là tiếng
hát than thân phản kháng và là tiếng hát yêu thương tình nghĩa của tất cả những
người lao động và bị áp bức trong xã hội cũ" [3]. Đời này qua đời khác,
điệu than náu sẵn trong hồn người như một dây tơ lòng, có thể ví như dây đàn bầu
vậy, chỉ thoảng nghe một hơi thơ phảng phất điệu than thở, là dây tơ ấy động
ngay, rung ngay. Nói khác đi, điệu than chính là một mảnh hồn Việt.
Tôi muốn minh họa thêm bằng trường hợp bài ca dao "Cày đồng
đang buổi ban trưa" qua cách luận giải rất đáng chú ý của Hoài Thanh để thấy
ý nghĩa thực sự của điệu thơ này đối với việc đánh động những tấm lòng Việt:
"Cày đồng đang buổi ban trưa/ Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày/ Ai
ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần". Đọc bài ấy,
Hoài Thanh đã "yên trí đó là một trong những bài ca dao hay nhất của xứ ta
từ trước". Đến lúc có người bảo bài ấy gốc ở thơ Đường, con người sành thơ
này đã rất ngạc nhiên. Ông tìm đọc và thấy đúng là như vậy, Lý Thân đời đường
có bài: "Sừ hòa nhật đương ngọ/ Hãn trính hòa hạ thổ/ Thùy niệm bàn
trung xan/ Lạp lạp giai tân khổ". Khương Hữu Dụng dịch: "Xới lúa, trời
đứng bóng/ Mồ hôi đổ xuống ruộng/ Ai biết cơm trong mâm/ Hạt hạt đều cay đắng".
So sánh, nhà phê bình đi đến kết luận "ý thơ rất giống: chắc không phải là
sự trùng hợp ngẫu nhiên. Còn giọng thơ lại khác. Câu hai của bài ca dao thêm tiếng
"mồ hôi thánh thót". Câu ba thêm một tiếng kêu "ai ơi". Câu
bốn thêm cái ý "dẻo thơm" khiến cay đắng thêm bội phần cay đắng. Do
đó mà toàn bài bỗng có cái giọng réo rắt, ai oán đã từng gặp phổ biến trong các
bài ca dao của ta như: "Lao xao gà gáy rạng ngày/ Vai vác cái cày, tay dắt
con trâu/ Bước chân xuống cánh đồng sâu/ Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu ra cày/ Ai
ơi bưng bát cơm đầy/ Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng? "... Và Hoài Thanh
khẳng định: "Có lẽ do ảnh hưởng của những câu ca dao ấy mà bài thơ Lý Thân
đã trở thành tiếng kêu của người nông dân xứ ta ngày trước" [4]. Như vậy
là nhờ giọng điệu thơ thay đổi nên nó không chỉ thay hình đổi dạng mà đã thực sự
thay da đổi thịt, thay hồn đổi vía. Trong bài ca dao này, vậy là đã cư trú một
mảnh hồn Việt. Trường hợp này, mảnh hồn Việt được phổ vào đó chủ yếu qua giọng
thơ, điệu thơ, cụ thể là điệu than. Ta có thể thấy nó đặc biệt phổ biến trong
tiếng hát than thân của người phụ nữ:
"Thân em như miếng cau khô/ Người thanh tham mỏng, người
thô tham dày", "Thân em như dải lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào
tay ai", "Thân em như hạt mưa rào/ Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn
hoa/ Thân em như hạt mưa sa/ Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày "... Một
tiếng thơ Việt đậm đà cái phong vị gọi bằng "hồn quê", hay "hồn
xưa đất nước" cũng thường được cất lên bằng điệu thơ ấy.
Điệu thơ về một mặt nào đó cũng là giọng điệu thơ. Khái niệm
này hiện đang được nói đến khá nhiều, nhưng cách hiểu về nó chưa phải đã thống
nhất. Đặc biệt, việc tìm kiếm ở nhiều người, thấy đi vào những yếu tố hoặc
chung chung mờ nhòe, hoặc riêng lẻ vụn vặt. Tôi cho rằng giọng điệu là sự hòa hợp
giữa nội dung cảm xúc và hệ thống chất liệu, mà trước hết là hệ thống sắc thái
ngữ điệu. Nói như vậy để khẳng định: cái gọi là giọng điệu phải nằm ở sự hoà hợp
thành một thể, một điệu thức nhuần nhị, chứ không phải là phép cộng giản đơn của
từng yếu tố một.
Thơ Nguyễn Bính chủ yếu được viết bằng điệu than và điệu ghẹo,
nhất là điệu than. Hãy đi vào những nét chính cấu thành từng giọng ấy. Đối với
điệu than, nội dung cảm xúc căn bản của nó phải là xót thương và hờn oán.
Thương người và thương mình, hờn giận bản thân và oán trách số kiếp. Bởi vậy
nguyên ủy của nó căn bản là nỗi bất hạnh trong đời. Đơn giản là: có Khổ thì có
Than. Chúng ta đều biết, nỗi bất hạnh bởi lao động nhọc nhằn và bởi bất công xã
hội chưa phải là mối quan tâm hàng đầu của các thi sĩ Lãng mạn - khuynh hướng
Hiện thực quan tâm đến nó nhiều hơn. Nỗi bất hạnh ám ảnh ngòi bút chàng thi sĩ
lãng mạn Nguyễn Bính nhiều nhất là nỗi lỡ dở của con người. Cụ thể là lỡ làng
trong tình duyên và dở dang trong sự nghiệp. Đây không chỉ là nỗi bất hạnh của
chính cái tôi Nguyễn Bính, mà còn là nỗi bất hạnh dằng dặc giáng xuống bao kiếp
đàn bà đàn ông cơ khổ lầm lụi sau những luỹ tre nghìn đời nay. Họ đã từng trút
những lời thở than sầu tủi vào những câu ca buồn, đã úp mặt vào hai bàn tay của
ca dao dân ca mà vùi sâu những tiếng nấc nghẹn. Cho nên hướng tới mối bất hạnh
này cũng là sự tiếp nối một nguồn lệ từ nghìn xưa, là mang vào thơ mình những
nông nỗi bao đời của người Việt trên đồng đất nước này.
Nội dung cảm xúc kia tự nó chưa thể trở thành điệu than, nếu
như chưa tìm tới một hình thức biểu cảm phù hợp. Muốn thành điệu than, ít nhất
nó phải chuyển tải bằng hai sắc thái ngữ điệu là kể lể và than vãn. Một nông nỗi
là hậu quả của một cảnh ngộ, muốn than thở, trước tiên phải kể lể, giãi bày cái
cảnh ngộ ấy, cái nông nỗi ấy để người nghe có thể thấu được khúc nôi. Vì điều
này mà thơ Nguyễn Bính bao giờ cũng có yếu tố tự sự: cụ thể là có sự và có một
giọng kể và lời kể. Nhà văn Tô Hoài đã có lý khi hình dung Nguyễn Bính giống
như một người có tài kể chuyện: "ở mỗi xóm mỗi làng, thường thấy những bác
thợ cày, thợ cối, thợ rèn, thợ ngõa, bà hàng nước vối, hầu như vùng nào cũng có
những người giỏi đặt vè, nói tiếu lâm, pha trò, kể chuyện khéo đến nỗi
"con kiến trong lỗ cũng phải bò ra", ai cũng thích nghe, ví như cuốn
truyện hay, đọc chẳng bao giờ muốn thấy trang cuối. Nguyễn Bính là một người
tương tự", "Nguyễn Bính chẳng khác một người tài kể chuyện, cứ nhẩn
nha nói về mọi thứ quen thuộc quanh mình mà khiến ta phải chú ý" [5]. Đọc
Nguyễn Bính có thể thấy hạt nhân của mỗi thi phẩm thường là một cái sự nào đó.
Tất nhiên, vẫn là sự lỡ làng, sự dang dở từ một mảnh đời lỡ dở nào đó, mà thường
khi là của chính cái tôi lỡ dở Nguyễn Bính. Này là sự lỗi hẹn ở mưa xuân, này
là sự lỗi thề của người khách tình xuân, sự lỗi ước với tình quân của cô lái
đò, này là sự bỏ lỡ cơ duyên với người hàng xóm, này là sự dở dang, lỡ làng mãi
mãi của chị Trúc một lần Lỡ bước sang ngang "Đoái thương thân chị lỡ làng/ Đoái thương phận chị dở dang những ngày "... Mạch thơ được triển khai do
vận động của những cái sự như thế. Nên mạch liên kết của các thi phẩm Nguyễn
Bính chủ yếu dựa vào một cái cốt (truyện) nào đó. Và mạch được dẫn dắt bởi những
lời kể, mà đặc trưng của nó là trần thuật, tái hiện lại sự kiện như những tình
huống diễn ra trong không gian thời gian: "Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách
nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn...", "Em là con gái trong khung cửi/
Dệt lụa quanh năm với mẹ già/ Lòng trẻ còn như cây lụa trắng/ Mẹ già chưa bán
chợ làng xa...", "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín nhớ
mười mong một người", "Xuân đã đem mong nhớ trở về/ Lòng cô lái ở bến
sông kia/ Cô hồi tưởng lại ba xuân trước/ Trên bến cùng ai đã nặng thề...",
"Nhưng em ơi, một đêm hè/ Hoa xoan nở, xác con ve hoàn hồn/ Dừng chân
trên bến sông buồn/ Nhà nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang...". Có lẽ vì
ham kể lể mà thơ Nguyễn Bính thường bộc lộ một cái tật: dông dài, và không hiếm
bài đến mức dầm dề tựa như giời mưa ở Huế đúng như cảm nhận của chính thi sĩ vậy.
Song song và đan xen với kể lễ, phải là than vãn. Nghĩa là
luôn thốt lên những lời cảm thương cho nỗi đau khổ, bất hạnh để mong có được sự
đồng cảm xót thương. Đương nhiên, lối biểu cảm trực tiếp bằng thán từ, lối nặng
nề hóa, trầm trọng hóa bằng cách cường điệu sẽ được sử dụng như là thủ pháp chủ
đạo: "Lá ơi! và gió ơi! tôi biết/ Tình chửa song đôi đã lỡ làng",
"Hai tay ôm lá vào lòng/ Than ôi! chiếc lá cuối cùng là đây",
"Bao nhiêu ân ái thế là thôi/ Là bấy nhiêu oan nghiệt hỡi trời",
"Nhưng mộng mà thôi mộng mất thôi/ Hoa thừa rượu ế ấy tình tôi",...
Lối đay đả, chì chiết, chua chát được sử dụng như để làm cho giọng than vãn trở
nên lâm ly hơn thống thiết hơn: "Mình cô làm bận mấy mươi người",
"Mẹ phải xa con khổ mấy mươi", "Một đi bảy nổi ba chìm/ Trăm
cay nghìn đắng con tim héo dần", "Khốn nạn tưởng yêu thì khó chứ/
Không yêu thì thực dễ như không", "Nàng đi Hà nội buồn như chết/ Hà
Nội buồn như một lỡ làng", "Nàng có ngờ đâu đến nỗi này? Lỡ làng chôn
hết cả thơ ngây", "Ngày qua ngày lại qua ngày/ Lá xanh nhuộm đã
thành cây lá vàng", "Chờ mãi anh sang anh chả sang/ Thế mà hôm nọ
hát bên làng/ Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn/ Để cả mùa xuân cũng lỡ
làng", "Chị nay sống cũng bằng không? Coi như chị đã ngang sông đắm
đò "... Thơ Nguyễn Bính cứ như lời than thân trách phận, lời tủi phận tủi
duyên cho mình và cho người. Và thơ Nguyễn Bính, do vậy, có cái điệu bao trùm
là kể lể sự tình. Điệu thơ này quả là một ma lực đối việc chinh phục trái tim đại
chúng, nhất là thôn dân. Nó dễ đồng điệu với điệu tâm hồn của người tiểu nông xứ
ta. Tuy nhiên, than vãn tự nó cũng đã bao hàm một mặt trái. ấy là khi lạm dụng
thở than, thì thơ lênh láng những nước mắt. Y như thơ của một người quá mau nước
mắt vậy. Có lẽ Nguyễn Bính thiếu nhất sự tiết chế của một thi sĩ. Ông cũng ý thức
khá rõ về điệu than thở của hồn mình: "Tôi rót hồn tôi xuống mắt nàng/ Hồn
tôi là cả một lời van". Nhiều lúc muốn chấm dứt, cho hồn mình đỡ u ám,
lòng mình đỡ nặng nề vì chính nước mắt than van của mình: "Em không khóc nữa
không than nữa/ Đây một bài thơ hận cuối cùng/ Không than chắc hẳn hồn tươi lại/ Không khóc tha hồ đôi mắt trong". Nhưng khốn nỗi, nếu không than thở,
thì Nguyễn Bính cũng không còn thực là Nguyễn Bính nữa. Bởi nó là điệu hồn của
thi sĩ rồi.
Đọc Nguyễn Bính còn thấy một sắc điệu khác cũng rất đậm chất
dân gian: ghẹo. Về thực chất đó là lối chòng ghẹo trong đời sống giao tiếp được
đưa vào thơ ca. Nội dung cảm xúc thường là niềm khao khát kết đôi, kết duyên.
Sát sạt hơn là khao khát "xé rào" ngăn cản, xoá bỏ khoảng cách,
"mở lối" đến đối tượng, khai thông mối luyến ái. Ghẹo thực sự trở
thành nhịp cầu đôi lứa bao đời. Chẳng thế mà trong dân ca có cả một loại hình
là "hát ghẹo". Nếu than nghiêng về âm tính - buồn, thì ghẹo lại
nghiêng về dương tính - vui. Đằng là điệu cảm xúc của cái tôi khi đã lỡ dở, đằng
lại là điệu tâm hồn lúc cái tôi đang "lăm le xâm lược". Đằng thì
thán, đằng thì tán. Phương tiện của nó là lối nói đùa vui, trêu chọc, đôi khi cả
cợt nhả, bông phèng, miễn sao có thể lấn tới. Những cách nói lấp lửng, vòng vo,
bóng gió, thậm chí cả nói "quàng xiên" nữa luôn được sử dụng như là
"vũ khí" của giọng đùa ghẹo: " Đôi ta cùng ở một làng/ Cùng đi
một ngõ vội vàng chi anh/ Em nghe họ nói mong manh/ Hình như họ biết chúng
mình... với nhau", "Bao giờ bến mới gặp đò/ Hoa khuê các bướm giang
hồ gặp nhau", "Cái ngày cô chửa lấy chồng/ Đường dài tôi cứ đi vòng
cho xa/ Lối này lắm bưởi nhiều hoa/ Đi vòng để được qua nhà đấy thôi/ Một
hôm thấy cô cười cười/ Tôi yêu yêu quá nhưng hơi mất lòng/ Biết đâu rồi chả
nói chòng/ Làng này khối đứa phải lòng mình đây", "Hồn anh là hoa cỏ
may/ Một chiều cả gió bám đầy áo em", "Mọi người hớn hở ra xem/ Chỉ
duy có một cô em chạnh buồn", "Đêm qua mới thực là đêm/ Ai đem giăng
sáng giãi lên vườn chè", "Đàn tôi đứt hết dây rồi/ Không người nối lại,
không người thay cho... Có cô lối xóm hàng năm/ Trông dâu tốt lá chăn tằm hơn
tơ/ Năm nay đợi đến bao giờ/ Dâu cô tới lứa tằm cô chín vàng/ Tơ cô óng chuốt
mịn màng/ Sang xin một ít cho đàn có dây", "Nàng về làm dâu nhà tôi/ Vườn dâu nó thẹn với đôi tay ngà"... Người đọc thấy trong đó bóng dáng
những lối nói ghẹo của những anh trai quê lém lỉnh, "tán như xiếc"
trong ca dao xưa: "Đêm qua tát nước đầy đình/ Bỏ quên chiếc áo trên cành
hoa sen/ Em được thì cho anh xin/ Hay là em để làm tin trong nhà... Mai mượn
cô ấy về khâu cho giùm/ Khâu rồi anh sẽ trả công/ Đến khi lấy chồng anh sẽ
giúp cho", "Trên trời có đám mây xanh/ ở giữa mây trắng xung quanh
mây vàng/ Ước gì anh lấy được nàng/ Để anh mua gạch Bát Tràng về xây?/ Xây dọc
rồi lại xây ngang/ Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân/ Có rửa thì rửa chân
tay/ Chớ rửa lông mày chết cá ao anh"...
Giọng điệu bao giờ cũng là sự biểu hiện của thái độ cảm xúc.
Nó là cảm xúc đã được hình thức hoá, điệu thức hoá. Mà cảm xúc chính là yếu tố
quyết định đến cái hồn của một thi phẩm, cũng như của mọi thi phẩm. Vì thế tìm
kiếm hồn quê trong thơ Nguyễn Bính không thể không quan tâm đến giọng điệu. Nếu
điệu than - và cả điệu ghẹo nữa - được xem là những điệu thơ phổ biến trong dân
gian, mang đậm mảnh hồn Việt, thì chính nó cũng là điệu thơ chủ đạo của Nguyễn
Bính, là điệu hồn Nguyễn Bính. Thế giới thơ Nguyễn Bính thấm đượm điệu hồn ấy,
chính là bởi Nguyễn Bính đã phổ điệu hồn mình vào trong từng sự vật quê kiểng,
vào từng mảnh đời quê. Cho nên nó cứ man mác, bàng bạc đây đó, tưởng như nó
hoàn toàn bên ngoài ta mà hình như lại có sẵn đâu đó trong mỗi chúng ta.
6. Con đẻ của câu lục bát nổi chìm nơi đồng quê
Về hình thức đơn thuần, Nguyễn Bính là đứa con được sinh ra
khi ca dao ngầm giao duyên cùng Thơ Mới. Nhưng trong đứa con ấy, gien trội vẫn
thuộc về ca dao. Nên Nguyễn Bính là tiếng đàn bầu vẫn lặng lẽ ngân rung trong
lúc giàn giao hưởng tân nhạc của thơ đương thời đang diễn tấu mải mê dưới chiếc
đũa chỉ huy của người nhạc trưởng toàn năng là cái Tôi cá thể. Song, nó không
có cái mặc cảm lạc lõng, lạc thời. Trái lại, nó vẫn diễn tấu theo lối của mình,
bằng dây tơ riêng của mình, kiên trì, tự tín. Vẫn cất lên điệu riêng của mình
mà khiến người nghe phải chú ý, phải say mê. Tôi muốn nói, trong lúc phần đông
đương cuốn theo sức hút khó cưỡng lại được của thơ tự do, thơ hiện đại, cải
cách thơ mình theo lối mới, thì Nguyễn Bính về lại với câu lục bát dân gian vẫn
chìm nổi bao đời nay nơi đồng quê. Về với nó, đối với Nguyễn Bính là về với
hương đồng gió nội, về với chân quê.
Khách quan mà nói, những bài thơ hay của Nguyễn Bính thuộc về
cả thất ngôn lẫn lục bát. Những câu vào loại hay nhất của Nguyễn Bính cũng có cả
lục bát lẫn thất ngôn. Trong đó có những cặp thất ngôn mà người ta khó có thể
quên được, ví như: "Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rụng
vơi đầy", "Sớm Đào, trưa Lý, đêm Hồng phấn/ Tuyết Hạnh, sương Quỳnh,
máu Đỗ Quyên", "Sầu nghiêng mái quán mưa tong tả/ Chén ứa men lành lạnh
ngón tay", "Chín hẹn đã sai mười: bạn quý/ Nghìn voi không được một:
người yêu/ Bá Nha thuở trước còn Chung Tử/ Kim Trọng ngày nay hết Thuý Kiều"...
Tuy nhiên, ở thất ngôn, cái khí sắc Nguyễn Bính không đậm đặc, không nổi trội bằng
ở lục bát. Có lẽ lục bát vốn ăn sâu vào lòng quê, bởi thế bản thân nó đã chứa đựng
ít nhiều duyên quê, hồn quê rồi. Cho nên chỉ ở lục bát, hồn vía Nguyễn Bính mới
nhập với hồn quê đến vậy, cả hai mới đồng thể, cất lên cùng một tiếng nói nhuần
nhị nhất. Đến nỗi Nguyễn Bính đang nói những lời quê, hay hồn quê đang cất lời
qua Nguyễn Bính thật khó mà phân biệt. Hồn vía Nguyễn Bính đã ký thác nhiều nhất
vào lục bát. Nói đơn giản, ở lục bát Nguyễn Bính được là mình hơn cả. Nhiều người
bạn Nguyễn Bính đã xác nhận rằng Nguyễn Bính làm lục bát dễ như người ta viết
văn xuôi thường vậy.
Điểm mặt những cây bút lục bát nổi nhất của phong trào Thơ Mới,
người ta vẫn nhắc nhiều đến hai gương mặt với hai phong cách khác nhau là Huy Cận
và Nguyễn Bính. Nếu tác giả Lửa thiêng nghiêng về lục bát cổ điển, thì tác giả
Lỡ bước sang ngang lại nghiêng về lục bát dân gian. Cả các nhà nghiên cứu và
chính Huy Cận cũng tự thấy như thế. Nếu có sự phân biệt câu thơ thành "điệu
nói" và "điệu ngâm", thì có thể thấy: Huy Cận là lục bát điệu
ngâm [6], còn Nguyễn Bính là lục bát điệu nói. Điều này cho thấy Thơ Mới trong
khi căn bản đổi sang điệu nói, vẫn không quên mang theo hành trang của nó cả điệu
ngâm để làm giàu cho mình. Và, không phải đến Thơ Mới, thi ca mới biết đến điệu
nói. Điệu nói từ lâu đã là hình thức sẵn có của câu thơ dân gian. Nếu xem điệu
nói là dấu hiệu hiện đại, thì câu thơ dân gian, tự nó đã chứa đựng tính hiện đại.
Phải chăng vì mang sẵn trong mình yếu tố hiện đại ấy mà ca dao dân gian cứ trẻ
mãi, cứ bất chấp các thời đại, bất chấp các cuộc biến thiên cả trong lịch sử lẫn
thơ ca? Và qua trường hợp Nguyễn Bính, ta thấy: cứ đi sâu mãi vào truyền thống
cũng là một hướng đổi mới? Thì trở lại những tinh hoa trong ngọn nguồn với một
nhỡn quan mới cũng chính là một cách đổi mới chứ sao!
Nói kỹ hơn, câu thơ dân gian chưa gắn với chủ thể là cái tôi
cá nhân cá thể, "điệu nói" của nó mới chỉ có được yếu tố là "cấu
trúc lời nói" trong giao tiếp đời sống, gần với khẩu ngữ. Nhưng đó là yếu
tố khá căn bản của hình thức câu thơ. Nguyễn Bính đã đưa vào câu lục bát dân
gian hơi thở của thời đại Thơ Mới. Đó là, mang vào nó "yếu tố cá
nhân". Cụ thể, cùng với những khía cạnh như cảm xúc trở thành đối tượng mô
tả, câu lục bát Nguyễn Bính đã được gia tăng những yếu tố lời nói, ngữ điệu, giọng
điệu cá nhân. Có thể thấy Nguyễn Bính đã đưa giọng điệu thở than từ bi kịch lỡ
dở của hồn mình vào lục bát, đưa cả điệu đùa ghẹo đa đoan vào lục bát. Cho nên,
dưới ngòi bút của thi sĩ, lục bát đã mang cái hồn của Nguyễn Bính. Cơ sở nào
trong lục bát có thể làm nội ứng cho điệu than Nguyễn Bính có thể nhập vào thể
loại ấy nhuần nhuyễn đến vậy? Cặp lục bát, xét đơn thuần về nhạc tính, tự nó đã
là một khúc thức chặt chẽ. Cụ thể là một tổ hợp nghiêng hẳn về thanh bằng [7],
nó thuận hơn đối với việc diễn tả những trạng thái tâm tình ít gai góc, ít đột
biến, thất thường. Và hết sức sở trường đối với những khúc ngâm, khúc tự tình,
những lời than thở lâm ly và những lời giao duyên ong bướm tình tứ. Một thi sĩ
như Nguyễn Bính dường như có khả năng tư duy bằng lục bát. Lục bát tương hợp với
những bước tư duy của một người thích trầm mình vào những mặc cảm tủi sầu,
tương hợp với điệu hồn ưa than thở (Hồn tôi là cả một lời van). Nói một cách
khác, điệu than đã tìm thấy trong thể loại lục bát cái tiết điệu vàng, dường
như sinh ra để dành cho nó. Nên, hình dung theo cách của Hồ Xuân Hương, thì điệu
than và lục bát đã phải duyên phải kiếp với nhau nên thắm lại liền: "Hai
tay ôm lá vào lòng/ Than ôi! chiếc lá cuối cùng là đây", "Ngày qua
ngày lại qua ngày/ Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng", "Cách mấy
mươi con sông sâu/ Và trăm ngàn vạn nhịp cầu chênh vênh/ Cũng là thôi cũng là
đành/ Sang ngang lỡ bước riêng mình chị sao"... Tất cả nhuần nhuyễn đến mức,
Nguyễn Bính làm thơ như nói. Xuất khẩu thành thơ. Hễ cất lời là mây trôi nước
chảy. Tự nhiên như nói thường, nói bông lơn, thậm chí nói trạng. ấy thế mà
thành lục bát hay: "Dừng chân qua cửa nhà nàng/ Thấy hoa vàng với bướm
vàng hôn nhau", "Cành dâu cao, lá dâu cao/ Lênh đênh bóng bướm trôi
vào mắt em", "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín nhớ mười
mong một người", "Ai làm cả gió đắt cau/ Mấy hôm sương muối cho giầu
đổ non", "Hội làng mở giữa mùa thu/ Giời cao gió cả giăng như ban
ngày", "Đêm qua mới thật là đêm/ Ai đem giăng sáng giãi lên vườn
chè". "Thấy tình duyên của đôi ta/ Đến đây là... đến đây là... là
thôi"...
Những ai am tường lục bát đều thấy lục bát dễ làm mà khó hay.
Lúc nào nó cũng chênh chao trên một sợi chỉ mỏng manh giữa một bên là thơ bên
kia là vè. Lục bát điệu ngâm cũng thế, mà lục bát điệu nói càng thế. Thực mà
nói, do đúc chữ, nén chữ, coi trọng ý, tứ, lấy uyên súc làm đầu nên lục bát điệu
ngâm có thể có nguy cơ chật chội, nặng nề, thiếu tự nhiên, nhưng ít có nguy cơ
thành vè. Trong khi đó, lục bát điệu nói lại coi trọng giọng nói, lời nói, hơi
thở xúc cảm, lấy tính tự nhiên làm trọng, nên thường giãn chữ, nới chữ. Do vậy,
trở thành vè là một nguy cơ rất cao. Bản lĩnh của người viết lục bát chính là sự
vững vàng ngay trong từng cái nhón chân trên sợi dây mỏng manh đó. Đọc Nguyễn
Bính, người sành lục bát nào cũng phải ngả mũ thán phục trước những thành công
tuyệt diệu của thi sĩ. Có lúc, tôi đã nghĩ, Nguyễn Bính giống như một nghệ sĩ
xiếc tinh xảo của bộ môn đi trên dây, khi tạo ra những câu lục bát dễ như không
mà thực khó vô ngần: "Cái gì như thể nhớ mong/ Nhớ nàng, không, quyết là
không nhớ nàng", "Một nghìn năm, một vạn năm/ Con tằm vẫn kiếp con tằm
vương tơ", "Hồn anh là hoa cỏ may/ Một chiều cả gió bám đầy áo
em", "Láng giềng đã đỏ đèn đâu/ Chờ em chừng giập miếng giàu em
sang"... Nhưng có lẽ không hẳn. Sâu xa hơn chuyện nghề nghiệp, siêu hình
hơn chuyện bản lĩnh, là bản năng. Nguyễn Bính có một bản năng lục bát. Thơ lục
bát Nguyễn Bính là sự cất lời của một bản năng lục bát vô tận. Không thế, làm
sao có thể có được những câu lục bát cứ như không mà lại ma quái đến vậy:
"Anh đi đó, anh về đâu/ Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm",
"Chừ đây bên nớ bên tê/ Sương thu xuống gió thu về bồng bênh"...
Nguyễn Huy Thiệp, khi đọc lục bát đã có một sự phân chia là lạ: lục bát
"trí năng" và lục bát "ngộ năng" [8]. Loại thứ nhất có thể
hiểu nôm na là loại "có thể" - người chịu khó trau dồi nghiệp lục bát
vẫn có cơ một ngày nào sẽ đạt tới. Loại thứ hai là "không thể" -
không thể bằng tinh thông nghề nghiệp mà đạt tới được, nó là tặng vật của trời
ban cho một số ít nào đó, và cũng vào những khoảnh khắc xuất thần hiếm hoi nào
thôi. Loại thứ nhất của người, loại thứ hai của trời. Và nhà văn này đã xếp
Nguyễn Bính vào loại thứ hai. Tôi nghĩ là xác đáng.
Tuy nhiên, nói một thi sĩ có bản năng thi ca mạnh mẽ là đề
cao, nhưng chỉ "ăn nhờ" vào bản năng không thôi thì lại là hạn chế.
Tôi ngờ rằng Nguyễn Bính đã có những kiểu cách riêng để hoàn thiện câu lục bát
đậm cá tính của mình. Nhìn sâu vào sở trường của từng điệu, có thể thấy lục bát
điệu ngâm vẫn nệ ý hơn, vì thế, ý thường lanh chanh với nhạc trong việc dẫn dắt
hơi thơ, triển khai câu thơ. Còn lục bát điệu nói lại chuyên chú ở hơi thơ, nên
ý luôn nhường quyền dẫn dắt cho nhạc, tiết điệu lục bát thường thanh thoát tự
nhiên, gần với tiết điệu sinh động trong dòng ngữ lưu của khẩu ngữ giao tiếp. Nắm
được "tính nết" này thì làm chủ được lục bát điệu nói. Nguyễn Bính đã
đánh thức dậy những tiềm năng vô song của điệu nói ấy. Lối ngắt nhịp cho thật gần
với tiết điệu của lời nói thường: " Cái gì như thể nhớ mong// Nhớ nàng/
không/ quyết là không/ nhớ nàng". Cái nhịp 2/1/3/2 ở câu bát này là tiết
nhịp của khẩu ngữ, thể hiện tâm lý đầy mâu thuẫn của chủ thể. Nó bật lên sao lại
ăn nhập đến vậy giữa tiết nhịp của chuỗi lời nói và tiết điệu của chuỗi lời
thơ. Lối ngắt nhịp quyện chặt với lối trùng điệp hết sức táo bạo, đến ngỡ như đùa
bỡn với ngôn ngữ, thế mà lại tự nhiên đến mức "quá quắt", khiến cho
câu lục bát có cái hay đến là nghịch lí: quen đến mức lạ lùng, giản đơn đến mức...
cầu kỳ: "Anh đi đó, anh về đâu?/ Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm..."
[9] . Lối chơi chữ tưởng rắc rối điệu đàng mà thực ra lại tự nhiên; nhịp thơ đầy
lấp lửng, lúng liếng, đong đưa đã góp phần tạo ra hình tượng một khuê phụ lòng
đầy xáo động, xao xuyến: "Buồng hương bóng bóng mình mình/ Gió hiu hiu hắt
qua mành mành hoa".
Lối dùng tiểu đối pha trộn với chơi chữ, lối dùng lấp láy, lối ngắt những nhịp tràn lướt khiến cho điệu lục bát tạo ra những hình động ngỡ cầu kỳ mà vẫn thanh nhã, trôi thoát rất ngon lành: "Đèo cao cho suối ngập ngừng/ Nắng thoai thoải nắng chiều lưng lửng chiều"... ở thế hệ sau, người đi tiếp nẻo đường lục bát này với nhiều thành quả là Bùi Giáng, Nguyễn Duy, rồi Đồng Đức Bốn..., họ lại mang hơi thở của thời đại mình, thế hệ mình vào lục bát. Khiến cho lục bát điệu nói vẫn luôn là một cuộc chạy tiếp sức của các thế hệ thơ Việt Nam nhằm gìn giữ và làm mới một lối thơ đã trở thành hương hỏa của giống nòi, để lục bát vẫn mãi là một thể loại thơ giàu sinh lực [10].
Lối dùng tiểu đối pha trộn với chơi chữ, lối dùng lấp láy, lối ngắt những nhịp tràn lướt khiến cho điệu lục bát tạo ra những hình động ngỡ cầu kỳ mà vẫn thanh nhã, trôi thoát rất ngon lành: "Đèo cao cho suối ngập ngừng/ Nắng thoai thoải nắng chiều lưng lửng chiều"... ở thế hệ sau, người đi tiếp nẻo đường lục bát này với nhiều thành quả là Bùi Giáng, Nguyễn Duy, rồi Đồng Đức Bốn..., họ lại mang hơi thở của thời đại mình, thế hệ mình vào lục bát. Khiến cho lục bát điệu nói vẫn luôn là một cuộc chạy tiếp sức của các thế hệ thơ Việt Nam nhằm gìn giữ và làm mới một lối thơ đã trở thành hương hỏa của giống nòi, để lục bát vẫn mãi là một thể loại thơ giàu sinh lực [10].
7. Lời quê, lời Việt
Lời thơ Nguyễn Bính là lời Việt trong vẻ đẹp chân quê.
Khép lại kiệt tác Truyện Kiều, Nguyễn Du viết một câu mà nó
đã được truyền tụng bởi nhiều khía cạnh khác nhau: "Lời quê chắp nhặt dông
dài/ Mua vui cũng được một vài trống canh". Nhưng có lẽ đó chỉ là sự
khiêm nhường của thiên tài thuộc văn học bác học. Trong Truyện Kiều, vẻ đẹp của
tiếng Việt không phải là lời quê. Có chăng, là lời quê đã được tinh luyện theo
một thứ công nghệ bác học nào đó. Có lẽ chỉ ở Nguyễn Bính, mới có thứ lời quê
còn nguyên hương đồng gió nội của nó.
Tạo ra cái ngôn ngữ được gọi là lời quê, không chỉ có vai trò
của lời, với nghĩa là từ vựng. Lời quê còn phải được dùng theo lề lối quê nữa
thì nó mới thực là chân quê, mới dậy lên cái hồn quê. Một bình diện lớn tạo nên
cái lề lối ấy hẳn phải là điệu nói. Hãy lấy một so sánh. Cũng một hình ảnh vầng
trăng xẻ đôi biểu hiện cho sự chia lìa, gắn với điệu ngâm, đầy những trau chuốt,
đúc chữ nén ý, lẫn vào ngữ cảnh bàng bạc từ Hán Việt, nó đã hoàn toàn mất đi
hương vị quê mùa: "Vầng trăng ai xẻ làm đôi/ Nửa in gối chiếc nửa soi dặm
trường". Nhưng cũng vầng trăng ấy, nằm trong cấu trúc của lời nói gần với
khẩu ngữ - một nét khá chủ đạo của điệu nói, và với lối ví von sánh đôi sánh cặp
thuộc lề lối quê, mà ở câu ca này hương đồng gió nội vẫn vẹn nguyên: "Vầng
trăng ai xẻ làm đôi/ Đường trần ai rẽ ngược xuôi hỡi chàng?". Tôi cho rằng,
nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt mà bỏ qua lề lối quê của việc dùng ngôn ngữ, tựa
như một thứ "ngữ pháp quê", thì chắc chắn đã bỏ sót một vẻ đẹp thuộc
về bản sắc của tiếng Việt. Tiếc rằng, chưa có một công trình ngôn ngữ học nào
quan tâm thực sự đến vấn đề này.
Cắm rễ rất sâu vào ca dao, Nguyễn Bính không chỉ giàu lời
quê, mà còn rất nhuyễn lề lối quê nữa. Người ta đã khảo ngôn ngữ Nguyễn Bính và
thấy ra chất quê ở nhiều mặt. Lối đo đếm không gian bằng thước đo cụ tượng đến...
siêu hình: Thôn Đoài cách có một thôi đê. Trong thước đo đặc biệt ấy, ta thấy
cái tĩnh và cái động quyện vào nhau. "Một thôi đê" bao gồm cả "một
quãng đê" (tĩnh) nối thôn Đoài với thôn Đông, lại gồm cả "một quãng
đi", tức là nhịp di chuyển gắn với tốc độ bước của con người (động) dọc theo
lối đê nữa. Vậy là, do sự hoà quyện ấy mà, trong cách đo kia vừa có dùng không
gian để ướm vào khoảng cách không gian, vừa dùng cả thời gian để áng chừng
không gian nữa. Chỉ có Nguyễn Bính dùng loại thước đo này. Đo đếm thời gian
cũng theo lề lối quê: "Xóm giềng đã đỏ đèn đâu/ Chờ em chừng giập miếng
giầu em sang". Đơn vị tính là quãng thời gian đủ để ăn (hoặc giã) giập một
miếng giầu. Nghĩa là, thời gian được tính bằng loại công việc quen thuộc với tất
cả những người quê. Vậy là trong mỗi người quê đều có chung một thứ đồng hồ quy
ước. Hoặc phép tính thời gian bằng thứ "đồng hồ cây cỏ": "Ngày
qua ngày lại qua ngày/ Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng". Lối đong đếm
những cái hoàn toàn ảo như lòng sầu nhớ bằng những đơn vị độ dài, đơn vị dung
tích hoàn toàn thực đầy tính cụ tượng và quen thuộc của người quê: "Ví
chăng nhớ có như tơ nhỉ/ Em thử quay xem được mấy vòng/ Ví chăng nhớ có như vừng
nhỉ/ Em thử lào xem được mấy thưng", "Mẹ bảo mùa xuân đã cạn
ngày"... Lối vòng vèo lấp lửng: "Em nghe họ nói mong manh/ Hình như
họ biết chúng mình... với nhau". Lối ví von cụ tượng đầy bóng gió mà thâm
thuý vô chừng: "Ai làm cả gió đắt cau/ Mấy hôm sương muối cho giầu đổ
non", "Tơ cô óng chuốt mịn màng/ Sang xin một ít cho đàn có
dây", "Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông/ Cau thôn Đoài nhớ giầu không
thôn nào?"... Vẻ đẹp của tiếng Việt trong lời quê là thế, nó bình dị đến
nôm na, nhưng nó cũng trong sáng, sâu xa đến kinh ngạc. Nó chân mộc ngỡ thô sơ
mà lại lung linh giàu thi vị. Nắm được cái nghịch lý đó, mới có thể nắm được
cái hồn của lời quê. Hãy đọc một đoạn thơ này xem, tiếng Việt trong lời quê của
Nguyễn Bính thực đã đến độ trong vắt: "Từ ngày cô đi lấy chồng/ Gớm sao
có một quãng đồng mà xa/ Bờ rào cây bưởi không hoa/ Qua bên nhà thấy bên nhà
vắng teo/ Lợn không nuôi, đặc ao bèo/ Giàu không dây chẳng buồn leo vào giàn/ Giếng thơi mưa ngập nước tràn/ Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều". Mọi
chữ ở đây đều là lời quê, đều là những tiếng thuần nôm, thuần quê. Lối dùng
cũng là lề lối chân quê, tất tật đều là hương đồng gió nội. Từ cái cách biểu cảm
(Gớm sao...), đến lối dùng các hệ thống ngôn từ đối lập để cùng tạo ra một
không khí cho khung cảnh, nhất nhất đều rất quen thuộc, rất quê, nghĩa là rất
giản đơn, mộc mạc, nhưng mà chữ nào cũng có linh hồn, tất cả lại chứa được cái
linh hồn của cảnh. Để gợi ra sự trống vắng của cảnh, nỗi trống không của lòng,
Nguyễn Bính thường hay dùng cái có gợi cái không, cái thừa gợi cái thiếu, cái đầy
gợi cái rỗng, cái còn gợi cái mất. Ví như: "Em ở mình đây nhà trống trải/
Giăng vàng đầy ngõ gió mênh mông", hay "Giăng đầy ngõ gió đầy thôn/
Anh về quê cũ có buồn không anh?"... Nhưng ở đoạn thơ trên, tất cả dường
như tụ cả vào, đậm đặc, ấn tượng đến kỳ lạ. Người xưa nói: vắng con người thì
có con tạo. Không biết Nguyễn Bính có hấp thu điều ấy không khi viết đoạn thơ ấy,
mà thi sĩ đã gợi cái vắng mặt của con người, bằng những gì có mặt của con tạo.
Người đi rồi làm trống hoang cả cảnh, cảnh hoang hóa đã làm hoang liêu cô quạnh
cả chốn này. Đường thì xa, nhà thì vắng, quạnh nhất là vắng teo. Những từ mang
sắc thái phủ định chỉ cái vắng, cái không: không hoa, không nuôi, chẳng buồn
leo... sóng đôi với hệ thống những từ chỉ cái có, cái đầy: đặc ao bèo, mưa ngập,
nước tràn... nhất là câu "Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều" đã làm
cho không gian này đầy cả một nỗi trống không. Cái này càng đầy, cái kia càng
trống.
Một người ra đi đã làm côi cút cả cảnh vật, đơn côi khắp cả không gian lẫn thời gian. Những lời nôm na mà đầy ắp cảm xúc của chủ thể. Đến nỗi sau bao nhiêu năm người đọc vẫn chưa hết tê tái trước nỗi trống không dâng lên từ những lời quê mộc mạc đó.
Một người ra đi đã làm côi cút cả cảnh vật, đơn côi khắp cả không gian lẫn thời gian. Những lời nôm na mà đầy ắp cảm xúc của chủ thể. Đến nỗi sau bao nhiêu năm người đọc vẫn chưa hết tê tái trước nỗi trống không dâng lên từ những lời quê mộc mạc đó.
Nhưng nói đến lời quê của Nguyễn Bính phải nói đến tài dùng
thành ngữ và tạo từ theo lối thành ngữ. Trong một vài tài liệu nghiên cứu văn học
dân gian, thành ngữ đã từng được xếp vào ô: "lời ăn tiếng nói của dân
gian". Tôi không bàn ở đây tên gọi của khái niệm cũng như tính lôgic của
nó trong hệ thống khái niệm kia, mà chỉ muốn khẳng định rằng: thành ngữ thuộc về
cái kho lời quê. Dùng thành ngữ có thể khiến lời thơ nặng tính ước lệ dân gian,
lời dễ bị mòn. Nhưng thành ngữ khi được dùng nhuần nhuyễn, bao giờ nó cũng làm
cho lời thơ trở nên mềm mại, thuần thục, thuận chèo mát mái, người nghe rất dễ
thông khi tiếp nhận. Bởi thành ngữ không chỉ là một ngữ liệu bình thường. Trái
lại nó là ngữ liệu đặc biệt. Trong đó kết tinh rất đậm nét mĩ cảm, mĩ học của
người quê. Khi được dùng, nó có sự cộng cảm, mau chóng truyền lan những tín hiệu
thông tin và thẩm mĩ theo những kênh quen thuộc trong tâm thức dân ta. Người đọc
nắm bắt lời thơ trong thành ngữ bằng con người văn hóa truyền thống ăn sâu như
một thứ gien văn hóa sẵn bao đời trong cõi sâu kín của hồn mình vậy. Chỉ nói
riêng thành ngữ số từ, có thể thấy lời thơ Nguyễn Bính chân quê đến nhường nào.
Bài Lỡ bước sang ngang chẳng hạn, hẳn là nó đã không đi sâu được vào lòng người
quê, người Việt đến thế, nếu câu chuyện lâm ly của người chị lỡ dở ấy không cậy
nhờ được vào vốn thành ngữ số từ nhuần nhuyễn đến "dễ sợ" của thi sĩ:
"Mẹ già một nắng hai sương/ Chị đi một bước trăm đường xót xa... Vui cùng
chị một vài giây cuối cùng... Một vai gánh vác giang san/ Một vai nữa gánh
muôn vàn nhớ thương... Cách mấy mươi con sông sâu/ Và trăm ngàn vạn nhịp cầu
chênh vênh... Tuổi son nhạt phấn phai đào/ Đầy thuyền hận có biết bao nhiêu
người... Một đi bảy nổi ba chìm/ Trăm cay nghìn đắng con tim héo dần/ Dù em
thương chị mười phần/ Cũng không ngăn nổi một lần chị đi... Ba gian trống, một
mảnh vườn xác xơ... Một lầm hai lỡ keo sơn... Chị tôi khóc suốt một ngày một
đêm", v.v...
Người nghệ sĩ ngôn từ chân chính nào cũng muốn làm giàu ngôn
ngữ của mình bằng việc nắm cho được cái thần, cái hồn của tiếng mẹ đẻ, nắm cho
được cái phép tinh luyện ngôn từ của cha ông. Nhưng điều này thật khó. Có người
nỗ lực cả đời vẫn chưa có được bao lăm. Nhà văn Tô Hoài có lần than rằng, nhiều
nhà văn không chú trọng luyện chữ nên không có chữ. Văn của họ có ý mà không có
chữ. Trong các nhà văn hiện đại có lẽ chỉ Tô Hoài, Kim Lân, Nguyễn Thi, Nguyễn
Duy, Trần Đăng Khoa... là có chú trọng luyện chữ theo lề lối quê một cách rõ rệt
và có thành tựu nhất. Ở lối đi này, hẳn Nguyễn Bính luôn là một tấm gương lớn.
Nhờ học được lời quê mà thơ Nguyễn Bính mới mang được cái hồn quê trong mỗi câu
mỗi chữ, mới lưu được cái hồn quê trong vẻ đẹp của tiếng Việt chúng ta.
Chú thích:
[1] Trong Thi nhân Việt Nam 1932-1941, Tác giả có phê phán những
"nhà thông thái thời nay" khi họ xem thường thơ Nguyễn Bính, rồi viết:
"Họ có ngờ đâu đã bỏ rơi một điều mà ta không thể hiểu được bằng lý trí, một
điều quý vô ngần: hồn xưa của đất nước". (Tài liệu đã dẫn, tr.344)
[2] Sau in trong Tạp chí Văn học, tháng 11/1994
[3] Đỗ Bình Trị, Văn học 10, Ban KHXH, Nxb Giáo dục, 1993,
tr.123.
[4] Hoài Thanh, Từ thơ Đường đến Ca dao, Báo Văn nghệ,
26-4-974.
[5] Tô Hoài, Lời giới thiệu, Tuyển tập Nguyễn Bính (Tài liệu
đã dẫn, tr.20)
[6] Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, trong bài "Thơ mới và sự
đổi mới thi pháp thơ trữ tình Việt Nam" - Sách Nhìn lại một cuộc cách mạng
trong thi ca, Nxb Giáo dục, 1993, cho rằng: "Thơ mới đã căn bản cải tạo lại
thơ trữ tình tiếng Việt từ câu thơ "điệu ngâm" sang câu thơ "điệu
nói". (tr.165).
[7] Nếu nhìn ở dạng chuẩn mực, thì một cặp lục bát khi phân bố
tiết tấu theo nhịp phổ biến là 2/2/2 - 2/2/2/2 thì sẽ có sự hòa phối tiết tấu bằng
trắc là: bằng/ trắc/ bằng - bằng/ trắc/ bằng/ bằng. Tỷ lệ giữa bằng trắc
là 5/2. Rõ ràng trong lục bát, thanh bằng hoàn toàn lấn át.
[8] Cách gọi của Nguyễn Huy Thiệp có vẻ mù mờ, nhưng về mặt ý
tứ có thẻ hiểu được. Song, vận dụng nó để chỉ ra câu nào "trí năng",
câu nào "ngộ năng" thì lại không dễ gì thuyết phục.
[9] Một so sánh nhỏ với câu lục bát trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du (thuộc điệu ngâm cổ điển): "Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền
ai thấp thoáng cánh buồm xa xa", có thể thấy thêm vẻ đẹp của câu thơ Nguyễn
Bính. Tôi không bàn chuyện hơn kém, mà chỉ phân biệt những nét riêng của mỗi
người. Cả hai vị đều hướng tới một cảnh khá gần gũi nhau là hình ảnh con thuyền
ngoài xa. Câu thơ Nguyễn Du trọng hình và ý nên đã tái hiện lại khá đầy đủ một
bức tranh. Chữ "buồn trông" gợi ra hình ảnh đôi mắt buồn trông vời trời
nước của Thúy Kiều (bấy giờ đang ngồi trước lầu Ngưng Bích). Chữ "cửa bể"
gợi ra một không gian, chữ "chiều hôm " gợi ra một thời gian. Cả hai
hợp lại thành một khung cảnh thật trống trải rợn ngợp. Hình ảnh con thuyền hiện
lên trực tiếp qua chữ "thuyềnai", rồi được làm rõ hình hài hơn bằng
hình ảnh cánh buồm với những sắc thái mô tả trực tiếp "thấp thoáng",
"xa xa". Cả cặp lục bát chữ nào cũng là "chữ đúc" giàu
nghĩa, không có sự lăp lại của ngôn từ, nó uyên súc. Cảnh vật được vẽ theo lối
trực tiếp bằng chất liệu của hình, của ý. Nó chứa đựng nỗi hoang mang sâu thẳm
của Thúy Kiều trước cái mênh mông vô định của cuộc đời. Giờ đây, nàng hoàn toàn
trơ trọi trước biển đời đầy sóng gió, chẳng tìm đâu trong thế giới bất định kia
một bám víu nào, một điểm tựa nào.
Còn Nguyễn Bính lại tạo hình gián tiếp bằng giọng và lời. Giọng
điệu được hiện ra rất rõ qua ngữ điệu và nhịp điệu đặc biệt của hai câu này. Cả
hai câu có khuôn nhịp 3/3 - 3/3/ 2. Như vậy, bốn nhịp 3 nối tiếp nhau tạo ra một
cảm giác chuyển động. Điều này càng rõ hơn nhờ lối trùng điệp: sự lặp lại của
các vế câu. Trong câu lục: "Anh đi đó, anh về đâu?", vế sau là sự lặp
lại nguyên vẹn về số lượng (3/3), chủ từ (anh), chỉ khác về hướng chuyển động
(đi/ về), về từ để trỏ (đó/ đâu), và khác về ngữ điệu: vế trước là xác định việc
anh đi là sự thực, đã nhổ neo rồi; vế sau: băn khoăn - nhổ neo rồi đó nhưng sẽ
về đâu? "đi" thì đã rõ, còn "về" thì mông lung (ở một bài
khác Nguyễn Bính có câu: "Ta đi nhưng biết về đâu chứ/ Nào biết về đâu kẻ
ngược xuôi?". Đằng sau câu hỏi kia là cả một nỗi ái ngại của kẻ lữ thứ thấy
đời vô định, thấy mình bơ vơ). Nhưng đáng nói hơn là hai vế ấy hô ứng nhau, tiếp
nối nhau tạo ra một chuyển động của con thuyền. Như vậy nhịp thơ góp phần gợi
ra một hình động, một chuyển động. Câu bát thần tình hơn. Cả câu viết theo lối
lặp, lối điệp, mà vừa có phần điệp nguyên vẹn, vừa có phần điệp giảm bớt:
"Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm".
Thủ pháp tạo hình và chuyển động của Nguyễn Du là dùng các
tính từ mô tả trực tiếp, hoàn toàn thuộc về thị giác, cụ thể là những từ láy
"thấp thoáng", "xa xa". Thủ pháp của Nguyễn Bính chủ yếu
dùng nhịp lục bát và lối điệp để tạo ra chuyển động của con thuyền đang ngày một
xa dần. Từ câu trên đến câu dưới, với bốn nhịp 3 kế tiếp, con thuyền từ chỗ rời
bến đến chỗ càng lúc càng xa dần, xa dần. Nguyễn Bính cũng gợi ra được ánh mắt
của kẻ trông vời nhưng không phải bằng hình ảnh trực tiếp "buồn
trông", mà gián tiếp qua ngữ điệu hỏi. Thủ pháp của Nguyễn Bính là phối hợp
ngắt nhịp (3/3 - 3/3/2) với lối điệp vế câu, và lối làm mất màu: ban đầu còn thấy
màu của cánh buồm nâu, cuối cùng chỉ còn nhận ra đó là cánh buồm thôi, mà không
còn nhìn rõ màu sắc của nó nữa. ấy là lúc con thuyền đã đi xa hút tầm mắt. Con
thuyền thì lênh đênh vô định, người đoái trông thì ái ngại lo âu.
Tóm lại, giọng điệu đã được Nguyễn Bính sử dụng như phương tiện
chủ yếu để triển khai và tạo hình trong câu thơ của mình. Vì thế, tạo cảm xúc bằng
giọng là đích chủ đạo của việc sáng tạo lời thơ. Câu thơ hoàn toàn như một lời
nói thường, đậm chất khẩu ngữ, mà độ hàm súc và tài hoa không hề thua kém các bậc
tiền nhân, nếu không nói là còn có những điẻm độc đáo chưa thấy ở người đi trước.
[10] Tôi đã có dịp nói về thơ lục bát của những thế hệ sau,
nhất là của Nguyễn Duy, xin xem bài "Nguyễn Duy thi sĩ thảo dân", Tạp
chí Nhà văn số 2-2003.
12/5/2018
CHU VĂN SƠN
Nguồn: http://nguvan.hnue.edu.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét