Khái quát văn học Việt Nam
Chương 1:
KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ÐOẠN 1945-1954
Trong
quá trình 30 năm phát triển của văn học cách mạng (1945-1975), giai đoạn
1945-1954 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ðây vừa là thời kỳ mở đầu, đắp nền
cho văn học mới vừa là bước chuyển tiếp lịch sử ghi nhận nhiều thay đổi triệt để
và sâu sắc, từ quan niệm nghệ thuật cho tới thực tế sáng tác. Vượt qua những thử
thách khắc nghiệt của hoàn cảnh chiến tranh, văn học chín năm kháng chiến chống
Pháp đã khẳng định sự tồn tại và phát triển với tầm vóc xứng đáng. Tuy những
thành tựu còn ở mức độ ban đầu nhưng đóng góp chính của nó là mang đến một sắc
thái độc đáo, làm bừng lên khí thế mới chưa từng có trong đời sống văn học dân
tộc.
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ - XÃ HỘI
-
Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước - kỷ
nguyên độc lập, tự chủ. Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Ðình, Hồ Chủ Tịch đọc
bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ách nô lệ bị
đập tan, con người Việt Nam được giải phóng; bừng lên một niềm hạnh phúc lớn
lao đến thiêng liêng, như kết quả tất yếu từ khát vọng tự do và quyết tâm cứu
nước của cả dân tộc.
-
Nhưng chính quyền cách mạng non trẻ, ngay lúc đó, đã phải đương đầu với muôn
vàn khó khăn trên tất cả các phương diện của đời sống. Nền kinh tế hầu như kiệt
quệ với hệ thống kho tàng trống rỗng, nông nghiệp lạc hậu, mất mùa vì lũ lụt;
các ngành công thương nghiệp, thủ công nghiệp bị đình đốn hoặc phá sản. (Hậu quả
thảm khốc là nạn đói xảy ra, làm chết hơn hai triệu người, ngót 1/10 dân số nước
ta bấy giờ). Trình độ dân trí, văn hóa giáo dục thấp kém với hơn 80% dân số mù
chữ. Cùng lúc, các thế lực thù trong giặc ngoài lăm le chờ thời cơ để gây rối,
hòng làm suy yếu và lật đổ nhà nước Cách mạng. Ðược Anh mở đường, thực
dân Pháp trở lại gây căng thẳng ở Nam Bộ. Quân Tưởng Giới Thạch kéo vào miền Bắc.
Trong nước, các tổ chức Việt Nam cách mệnh đồng minh của Nguyễn Hải Thần
(Việt Cách) và Việt Nam quốc dân đảng của Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam
(Việt Quốc) núp bóng quân Tưởng, bất hợp tác với Cách mạng, liên tục quấy phá;
lớp địa chủ, tư sản cũng ngóc dậy, ngấm ngầm chống đối.
-
Vượt qua mọi khó khăn, chính quyền dân chủ nhân dân không những được giữ vững
mà còn ngày càng củng cố, mạnh mẽ hơn. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Ðảng và Hồ
Chủ Tịch, bằng nhiều biện pháp kịp thời nhân dân ta đã chặn đứng nạn đói, phát
động một cao trào bình dân học vụ diệt giặc dốt và phong trào tình nguyện nhập
ngũ để bảo vệ nhà nước Cách mạng, bảo vệ sự toàn vẹn của tổ quốc. Ngày
6-1-1946, quốc hội đầu tiên được bầu qua tổng tuyển cử. Hiếp pháp được công bố.
Những thế lực thù địch lần lượt bị khuất phục bằng chính sách ngoại giao kiên
quyết về nguyên tắc nhưng uyển chuyển về sách lược của ta: hai trăm ngàn quân
Tưởng Giới Thạch phải rút về nước kéo theo sự tán loạn của bọn phản động tay
sai; hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) và Tạm ước (14-9-1946) giúp nhân dân tranh thủ
được thời gian hòa hoãn để chuẩn bị lực lượng đương đầu lâu dài với thực dân
Pháp.
-
Khi mọi biện pháp ngoại giao không còn hiệu quả trước dã tâm của Pháp nhằm áp đặt
chế độ thuộc địa lên nước ta một lần nữa, cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu.
Ðáp lời kêu gọi ngày 19-12-1946 của Hồ Chủ Tịch, cả đất nước đã đứng lên, vừa
đánh giặc vừa củng cố lực lượng, huy động sức mạnh dân tộc không chỉ ở hiện tại
mà cả từ truyền thống quật khởi bốn nghìn năm.
-
Từ năm 1947, liên tiếp những chiến thắng quan trọng đã làm thay đổi cục diện,
tương quan lực lượng giữa ta và địch: chiến thắng Việt Bắc thu đông (1947) chặn
đứng sức tiến công của giặc, chuyển cuộc kháng chiến từ thế phòng ngự sang cầm
cự; chiến thắng Biên giới (1950) phá vỡ thế phong tỏa, mở đường thông với phe
xã hội chủ nghĩa; chiến thắng Hòa Bình (1952) mở rộng vùng giải phóng,... Cuối
cùng, chiến thắng Ðiện Biên Phủ (7-5-1954) làm lịm tắt ý đồ xâm lược của thực
dân Pháp, buộc chúng phải chấp nhận thương lượng và ký kết hiệp định Giơnevơ về
Ðông Dương (20-7-1954).
Cuộc
kháng chiến chín năm đã kết thúc thắng lợi. Một nửa nước được giải phóng. Chính
quyền kiểu mới ở các cấp từng bước được củng cố. Tổ chức Ðảng vững mạnh hơn nhiều.
Ðại hội Ðảng lần 2 (1951) xác định đúng đắn đường lối cho kháng chiến. Năm
1953, Hồ Chủ Tịch ra sắc lệnh giảm tô và cải cách ruộng đất. Tuy có nơi có lúc
còn cực đoan, thái quá nhưng về cơ bản cuộc Cách mạng phản phong này đã thực sự
giải phóng đất đai và người nông dân, thủ tiêu triệt để quan hệ sản xuất cũ,
đem lại cho kháng chiến một động lực mạnh mẽ. Nền kinh tế tự túc đảm bảo được
những nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân trong kháng chiến.
-
Trong hoàn cảnh chiến tranh hết sức khó khăn, văn hóa giáo dục vẫn không ngừng
được nâng cao. Nạn mù chữ cơ bản được thanh toán (phổ cập cấp 1 trong toàn
dân). Tiếng Việt trở thành ngôn ngữ chính thức giảng dạy trong tất cả các cấp học.
Một số trường Ðại học được mở ra để đào tạo nhân tài cho đất nước (y khoa, sư
phạm)...
Tất
cả những phương diện của tình hình lịch sử - xã hội nêu trên đã có ảnh hưởng trực
tiếp, tạo nên những thuận lợi và khó khăn riêng cho sự phát triển, quyết định
diện mạo của văn học giai đoạn này.
II. TÌNH HÌNH VĂN HỌC
1. Những thuận lợi và khó khăn đối
với sự phát triển của văn học:
|
1)
Trước hết, phải kể đến sự lãnh đạo và quan tâm giúp đỡ thường xuyên của Ðảng.
Thông qua hoạt động của các tổ chức văn nghệ, Ðảng đã đề ra chủ trương
chính sách tích cực, giúp chấn chỉnh kịp thời những lệch lạc; phát động các cuộc
thi để kích thích phong trào sáng tác, phát hiện tài năng mới; động viên văn
nghệ sĩ thâm nhập thực tế,... (Hội văn nghệ Việt Nam được thành lập, ra tạp chí
Văn nghệ - năm 1948; tổ chức giải thưởng văn nghệ các năm 1951-1952,
1954-1955,...)
-
Cách mạng tháng Tám đã giải phóng dân tộc, đồng thời cũng giải phóng cho văn học
khỏi những trói buộc của quan niệm cũ. Tính dân chủ được nâng cao, văn học
không còn là sở hữu riêng của một lớp người mà thành giá trị chung cho tất cả mọi
người. Quan niệm nghệ thuật tiến bộ được khẳng định, đưa văn học trở về với ngọn
nguồn đích thực là đời sống rộng lớn của nhân dân, hứa hẹn một sự khởi sắc rực
rỡ.
-
Lực lượng sáng tác được tập hợp đông đảo, có sự góp mặt đầy đủ và bổ sung lẫn
nhau giữa các thế hệ. Dưới ngọn cờ của Ðảng, văn nghệ sĩ dù ở thế hệ nào cũng
hướng về lý tưởng chung, soi sáng cuộc đời và công việc sáng tạo nghệ thuật. Mặc
dù còn phải tiếp tục giải quyết nhiều vướng mắc về lập trường, quan điểm, về tư
tưởng nghệ thuật nhưng nhìn chung ngay từ buổi đầu, đa số lớp trước Cách mạng đều
phát huy tinh thần dân tộc, hăng hái đi theo kháng chiến bằng lương tâm và
trách nhiệm cao nhất của người nghệ sĩ chân chính. Bên cạnh đó, phải kể đến lớp
nhà văn trưởng thành từ quân đội, từ phong trào sáng tác quần chúng.
Sáng tác của họ mang đậm đà hơi thở đời sống, tạo nên sức trẻ cho nền văn học,
có sức động viên, khích lệ tinh thần nhân dân rất mạnh mẽ.
-
Trình độ học vấn, đời sống tinh thần, năng lực thẩm mỹ được nâng cao, quần
chúng trở thành nhân tố quan trọng cho sự hồi sinh của văn học. Nhân dân là đối tượng
phản ánh, là độc giả và cũng chính là người trực tiếp sáng tạo nghệ thuật. Giới
văn chương được mở rộng, sinh hoạt văn nghệ sôi nổi hẳn lên. Mặt
khác, chín năm kháng chiến khổ nhục mà vĩ đại - một hiện thực hoành tráng, giàu
chất sử thi - là nguồn đề tài phong phú cho sáng tác. Cuộc sống mới, quan hệ xã
hội mới với bao nhiêu cung bậc tình cảm của con người Việt Nam tự do đã gợi lên
những cảm hứng mãnh liệt, điều kiện cần thiết trước hết cho sáng tác.
-
Tuy khởi đầu cho một thời kỳ mới nhưng văn học 1945-1954 không hoàn toàn tách rời
mà gắn bó chặt chẽ, kế thừa những thành tựu của giai đoạn trước Cách mạng.
Những năm 40 là thời kỳ khủng hoảng cao độ của chế độ thuộc địa, xã hội bế
tắc, hoang mang, không tìm được hướng đi. Tình hình văn học, do đó hết sức phức
tạp với nhiều khuynh hướng, nhiều giá trị biểu hiện khác nhau. Văn học kháng
chiến chống Pháp có đầy đủ điều kiện để tiếp nhận phần tinh hoa, thành tựu cũng
như loại trừ những yếu tố không có lợi cho sự nghiệp chung. Ðặc biệt, phải kể đến
những cách tân về phương diện nghệ thuật của văn chương lãng mạn, giá trị hiện
thực và nhân đạo của văn học hiện thực phê phán, tính chiến đấu mạnh mẽ của văn
học Cách mạng (chủ yếu là thơ ca trong tù của Bác Hồ, Tố Hữu, Sóng Hồng, Lê Ðức
Thọ,...)
2)
Trong bối cảnh chung thời chiến tranh, văn học chín năm chống Pháp phải đương đầu
với những khó khăn, thiếu thốn về nhiều mặt: điều kiện in ấn, phát hành rất hạn
chế, thời gian và công sức của văn nghệ sĩ dành cho sáng tác không nhiều, sự khủng
bố của kẻ thù,... Nhiều cây bút đang độ sung sức đã ngã xuống, gây nên mất mát
không gì bù đắp được (Trần Ðăng, Nam Cao, Thôi Hữu,...)
Mặt
khác, về phía chủ quan, tuy hầu hết văn nghệ sĩ đã tán thành quan niệm sáng tác
mới, nhưng để biến nhận thức ấy thành xúc động nghệ thuật, thành hình tượng nghệ
thuật có sức lay động lòng người thì quả không phải chuyện giản đơn một sớm một
chiều. Tình cảm bao giờ cũng chuyển biến chậm hơn. Không ít lần, nhất là ở những
khúc quanh của lịch sử (thời kỳ đầu kháng chiến, trong cải cách ruộng đất),
hàng ngũ sáng tác có biểu hiện hoang mang, dao động. Ðây chính là lý do giải
thích vì sao mãi đến gần cuối cuộc kháng chiến, văn học Cách mạng mới có được
những thành tựu đáng kể.
2. Các chặng đường phát triển:
|
Có
thể khảo sát quá trình phát triển của văn học giai đoạn này qua hai chặng cụ thể
như sau:
1)
1945-1946: Ðây là năm bản lề, văn học chuyển mình hòa vào dòng thác Cách mạng.
Văn học Cách mạng dần trở thành trào lưu chủ đạo. Ðội ngũ sáng tác nòng cốt vẫn
là những cây bút đã khẳng định tên tuổi từ trước. Trừ một số ít tỏ ra lạc lõng,
hầu hết tự nguyện đứng vào hàng ngũ văn nghệ sĩ mới với niềm hạnh phúc lớn lao: được hai lần giải phóng. (Hội văn hóa cứu quốc được thành lập).
Nhìn
chung, sáng tác thời kỳ này tập trung vào hai chủ đề lớn. Thứ nhất, ngợi ca thắng
lợi vĩ đại của Cách mạng và bộc lộ niềm phấn khởi, tự hào tột độ của toàn dân
(Vui bất tuyệt, Hồ Chí Minh - Tố Hữu, Ngọn quốc kỳ - Xuân Diệu, kịch Bắc
sơn - Nguyễn Huy Tưởng). Thứ hai, tái hiện lại thực trạng xã hội tăm tối trước
Cách mạng để tố cáo tội ác dã man của thực dân và tay sai, đánh tan những ảo tưởng
cuối cùng vào sự lừa mị của chúng ; từ đó, giáo dục ý thức trân trọng, thiết
tha với chế độ mới (Mò sâm banh - Nam Cao, Lò lửa và địa ngục - Nguyên Hồng, Một
lần tới thủ đô - Trần Ðăng, Chùa Ðàn - Nguyễn Tuân).
Ðược
viết do sự thôi thúc của nhiệt tình, trách nhiệm công dân mà chưa có độ sâu sắc,
độ lắng đọng từ phía cảm xúc người nghệ sĩ nên phần lớn tác phẩm dễ rơi vào
quên lãng. Nhiều văn nghệ sĩ còn quá bỡ ngỡ trước cuộc sống mới, yêu mến nhưng
chưa hiểu Cách mạng bao nhiêu nên chưa thật sự gắn bó và đồng cảm với quần
chúng. Một số vẫn chưa hết băn khoăn, đắn đo như Chế Lan Viên sau này tâm sự:
Cách mạng làm tôi vui nhưng cũng làm tôi lo lắng. Tôi có còn được tự do?
Văn học Cách mạng có phải là văn học? (Văn nghệ, 18-9-1976).
2)
1947-1949: Kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Ðông đảo văn nghệ sĩ tự nguyện tham
gia. Xuất hiện kiểu nhà văn - chiến sĩ, những người vừa trực tiếp chiến đấu vừa
dùng ngòi bút như một thứ vũ khí để đấu tranh với kẻ thù và động viên, cổ vũ quần
chúng. Có thể kể: Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Quang Dũng, Hồ Phương,... Tuy
có thừa nhiệt tình và vốn sống thực tế nhưng do những cây bút trẻ này còn thiếu
kinh nghiệm sáng tác nên chất lượng tác phẩm của họ thường không đồng đều. Dù sao,
cũng đã có tín hiệu lạc quan của những phong cách mới, mang đậm đà hương sắc từ
cuộc sống kháng chiến.
Sự
chuyển biến của văn nghệ sĩ lớp trước Cách mạng ở những năm đầu chặng
này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của kháng chiến. Chưa đủ những điều kiện cần
thiết (thời gian, thực tế kháng chiến) để họ gắn bó máu thịt, nắm bắt được tâm
tư nguyện vọng của quần chúng. Do đó, những tác phẩm hay vẫn chưa nhiều. Tiêu
biểu: thơ của Tố Hữu (Cá nước, Phá đường, Bà mẹ Việt Bắc, Bầm ơi); truyện
ngắn: Ðôi mắt - Nam Cao, Làng - Kim Lân, Thư nhà - Hồ Phương, truyện và
ký sự của Trần Ðăng.
Nhằm
tạo bước phát triển đáng kể cho văn nghệ, Ðảng đã tiến hành hàng loạt biện pháp
tích cực: tổ chức học tập, thảo luận những báo cáo quan trọng có tính định hướng
(Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam - Trường Chinh, 1948; Xây dựng nền văn
nghệ nhân dân - Tố Hữu, 1949), tổ chức nhiều hội nghị tranh luận về các vấn
đề văn nghệ (Hội nghị văn nghệ bộ đội - 4/1919, Hội nghị tranh luận văn nghệ
tại Việt Bắc- 3/1949). Tổ chức của văn nghệ sĩ từng bước được kiện toàn. Hội
văn nghệ Việt Nam được thành lập (1948). Với phương châm Cách mạng hóa tư
tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt, nhằm xây dựng một nền văn nghệ Dân tộc,
khoa học, đại chúng, văn nghệ sĩ hăng hái xốc ba lô tham gia kháng chiến. Những
đợt đi thực tế ra mặt trận được tổ chức trang nghiêm, tưng bừng đã gây ấn tượng
rất sâu sắc đối với người cầm bút vốn xuất thân từ tầng lớp trí thức.
Những
tác động ấy đã giúp văn nghệ sĩ dần rũ bỏ những ám ảnh của nếp sống, nếp nghĩ
cũ; tạo một thái độ chân thành, gắn bó máu thịt với cuộc sống; giúp giải quyết
thỏa đáng những vấn đề còn vướng mắc về tư tưởng và phương pháp sáng tác như:
viết cái gì? viết cho ai? viết như thế nào?.
Trong
khi bộ phận chuyên nghiệp còn đang loay hoay nhận đường thì, đặc biệt, phong
trào văn nghệ quần chúng vốn manh nha từ những ngày đầu Cách mạng, giờ phát triển
sôi nổi hẳn lên và giữ vai trò chủ yếu trong sinh hoạt văn nghệ kháng chiến.
Không khí khẩn trương và hoàn cảnh đặc biệt của kháng chiến rất thích hợp với
những hình thức tự biên tự diễn, phục vụ kịp thời như kịch lửa trại, vè độc tấu,
ca dao diệt đồn, thơ báng súng.... Cho dù chất lượng nghệ thuật còn hạn chế
nhưng không thể phủ nhận rằng vào thời điểm bấy giờ, văn nghệ quần chúng đã đáp
ứng thỏa đáng nhu cầu đời sống tinh thần người Việt Nam trong kháng chiến.
3)
1950-1954: Ðây là những năm văn học gặt hái được nhiều thành tựu rực rỡ, nhất
là thơ ca. Các nhà thơ: Tố Hữu, Nông Quốc Chấn, Hoàng Trung Thông, Chính Hữu,
Trần Hữu Thung, Minh Huệ,... đều có tác phẩm hay. Ở lĩnh vực văn xuôi, tiểu
thuyết đã có những thể nghiệm bước đầu đáng khích lệ với Con trâu (Nguyễn
Văn Bổng), Xung kích (Nguyễn Ðình Thi), Vùng mỏ (Võ Huy Tâm).
Phong
trào văn nghệ quần chúng sôi nổi và ngày càng sâu rộng vẫn là món ăn tinh thần
chính yếu của nhân dân. Thơ bộ đội, thơ của các cây bút dân tộc ít người có một
số tác phẩm nổi bật (Dọn về làng - Nông Quốc Chấn, Nhớ vợ - Cầm Vĩnh Ui, Em tắm
- Bạc Văn Ùi). Các loại hình sân khấu truyền thống cũng bước đầu được phục hồi
tuy vẫn còn nặng về hình thức và hiếm kịch bản có giá trị văn học cao.
III. THÀNH TỰU NỔI BẬT Ở CÁC THỂ LOẠI:
1. Thơ ca:
|
Ðây
là thể loại phát triển thành cao trào mạnh hơn cả với nhiều thành tựu nổi bật.
Truyền thống yêu thơ của dân tộc và đặc điểm lịch sử cụ thể của chín năm kháng
chiến đã quyết định thực tế ấy. Thơ ca tiếp tục gắn bó với đời sống buồn vui,
lúc hạnh phúc cũng như khi gian lao, vất vả của con người Việt Nam. Nhà phê
bình Hoài Thanh đã có nhận xét xác đáng: Hầu hết những người mang ba lô lặng
lẽ đi trên các nẻo đường kháng chiến trong một quyển sổ tay nào đó thế nào cũng
có ít bài thơ... Trong cuộc chiến tranh nhân dân của chúng ta, tiếng súng, tiếng
nhạc, tiếng thơ cùng hòa điệu. (Nói chuyện thơ kháng chiến).
1)
Có thể nhận thấy sự khởi sắc của thơ giai đoạn này, trước hết, qua khảo sát
phong trào và lực lượng sáng tác. Từ sau Cách mạng tháng Tám, thơ không còn là
vương quốc riêng của các nhà thơ chuyên nghiệp. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp đồng thời cũng giải phóng cho nhà thơ, trong cuộc đời cũng
như trong sáng tạo nghệ thuật. Sự gặp gỡ giữa lý tưởng Cách mạng và lý tưởng thẩm
mỹ của dân tộc là điều kiện khách quan cho sự xuất hiện hình mẫu người nghệ sĩ
kiểu mới. Có thể nói: không có thế hệ nhà thơ kiểu mới thì không có thơ ca
Cách mạng. Giờ đây, anh cán bộ chính trị, anh cán bộ quân sự, anh công an,
anh bình dân học vụ, anh thông tin, anh hỏa thực, các chị phụ nữ, các em thiếu
nhi, hết thảy đều làm thơ. (Hoài Thanh - Nói chuyện thơ kháng chiến).
Không
khí quần chúng sôi nổi một mặt tạo điều kiện thử thách và khẳng định các tài
năng trẻ, mặt khác, góp sức cùng cao trào cách mạng tác động mạnh mẽ vào tâm tư
tình cảm của các nhà thơ lãng mạn, giúp hồn thơ họ hồi sinh. Với kinh nghiệm và
tài năng đã được khẳng định, đóng góp của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lưu Trọng
Lư, Tế Hanh, Huy Cận,... tuy chưa thật sự là hơi thở mãnh liệt của thời đại
nhưng vẫn có ý nghĩa sâu sắc: khơi gợi lòng yêu nước, hào khí đấu tranh và
lòng tự hào dân tộc. Việc hầu hết các nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới
tìm đến với Cách mạng, tiếp tục phát huy năng lực sáng tạo, luôn có mặt ở vị
trí hàng đầu trận tuyến văn nghệ Cách mạng là một hiện tượng đặc sắc.
Ðiều đó chứng tỏ tính ưu việt, sức hấp dẫn mạnh mẽ của chế độ mới và đường lối
văn nghệ Cách mạng.
-
Ở năm đầu sau Cách mạng, thơ tập trung thể hiện niềm vui lớn của dân tộc, ca ngợi
Ðảng và Bác Hồ, ca ngợi con người mới, chế độ mới. Nổi bật nhất phải kể đến Tố
Hữu với Huế tháng Tám, Vui bất tuyệt, Hồ Chí Minh;... Xuân Diệu với hai trường
ca Ngọn quốc kỳ và Hội nghị non sông.
Kháng
chiến toàn quốc bùng nổ. Hòa vào lòng người hăm hở trên trận tuyến chung, có đội
ngũ chỉnh tề, khỏe khoắn của các nhà thơ. Mấy năm đầu, nhiều thi sĩ còn gặp khó
khăn. Tâm hồn họ chưa hòa nhịp kịp với đời sống kháng chiến sôi nổi, sống động.
Các nhà thơ vẫn còn vương vấn với những thi đề quen thuộc, những tình cảm tiểu
tư sản xốc nổi, đậm màu sắc anh hùng cá nhân; cách biểu hiện sáo mòn,... Sương
mù của bầu trời tinh thần cũ giờ vẫn còn lẩn quẩn trong vườn thơ Cách mạng, biểu
hiện ở những Ðạo rớt, Mộng rớt, Buồn rớt,.... Giữa cảm xúc thơ trong Ngày về
(Chính Hữu), Màu tím hoa sim (Hữu Loan), Tây tiến (Quang Dũng) với tình cảm
chân chất, phơi phới lạc quan trong tư thế anh hùng thời đại mới của quần
chúng - còn một khoảng cách nhất định. Bởi lẽ, một khi nhận thức lý trí chưa thật
sự hóa thành rung động tình cảm chân thành thì hình tượng nghệ thuật khó có sức
lay động mạnh mẽ.
Thực
tế kháng chiến đã thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và củng cố lập trường tư tưởng
của các nhà thơ, giúp họ ngày càng gần gũi, gắn bó với nhân dân. Lớp trước cách
mạng dần bắt kịp và hòa nhập vào đời sống mới. Bên cạnh đó, các nhà thơ trẻ
không ngừng tự khẳng định bằng sáng tác có giá trị. Những tác phẩm tiêu biểu thời
kỳ này: Việt Bắc (Tố Hữu); Nhớ, Ðất nước (Nguyễn Ðình Thi); Bài ca vỡ đất,
Bao giờ trở lại (Hoàng Trung Thông) ; Ðồng chí (Chính Hữu); Nhớ (Hồng
Nguyên); Thăm lúa (Trần Hữu Thung); Ðêm nay Bác không ngủ (Minh Huệ); Dọn
về làng (Nông Quốc Chấn); Nhớ máu (Trần Mai Ninh)....
-
Một trong những thành tựu thơ ca kháng chiến nổi bật là sáng tác của Bác Hồ.
Người làm thơ vừa để cổ vũ, động viên mọi tầng lớp nhân dân (Thơ tặng các
cháu thiếu nhi, Khuyên thanh niên, Tặng các cụ du kích, Gửi nông dân), vừa nhằm thỏa
mãn một phần nhu cầu đời sống tinh thần phong phú của mình (Cảnh rừng Việt
Bắc, Cảnh khuya, Nguyên Tiêu, Báo tiệp, Thu dạ, Ðăng Sơn). Những sáng tác
này góp phần làm nổi rõ ở Bác một tâm hồn nghệ sĩ hết sức tinh tế, nhạy cảm trước
vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước và con người Việt Nam.
2)
Về nội dung tư tưởng, thơ ca 1945-1954 luôn gắn bó chặt chẽ, phản ánh chân thực
và sinh động hiện thực kháng chiến hoành tráng. Lần giở những trang thơ, có thể
gặp lại bước đường của lịch sử. Khác với thơ lãng mạn trước đó, thơ ca kháng
chiến phát triển trên nền hiện thực tâm trạng của nhân dân. Từ chỗ thơ Mới chỉ
bộc lộc cái Ðẹp trong từng con người riêng lẻ, trường cảm xúc giờ đây được mở rộng; phạm vi phản ánh cũng bao gồm từ nơi sâu kín tâm hồn người cho tới khoảng rộng
bao la của cả đất nước, dân tộc.
-
Các thi sĩ đã đưa được không khí thời đại mới mẻ, khỏe khoắn vào thơ. Khuynh hướng
sử thi ngày càng nổi rõ. Thơ tập trung thể hiện tâm tình phơi phới tin yêu, lạc
quan, tự tin, tự hào của người Việt Nam được giải phóng; những ước mơ, khát vọng
cháy bỏng ; những sắc thái tình cảm cao cả trong cuộc chiến đấu tuy gian khó
nhưng vô cùng anh dũng.
-
Cảm hứng thơ chủ yếu hướng ngoại, chú ý nhiều đến tình cảm công dân nên ít nói
tới con người trong đời sống riêng tư. Tình yêu lứa đôi cũng như mọi cung bậc
tình cảm khác đều được cảm nhận thông qua tình đồng chí. Do đó, trong khi mặt
chói sáng của hiện thực được phản ánh sinh động thì chiều sâu đời sống, ở đó có
nỗi buồn mất mát, chia lìa - chất bi tráng - lại chưa được quan tâm đúng mức.
Tuy nhiên, sự phiến diện ở đây là tự giác và cần thiết. Hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi
mỗi cá nhân phải biết hi sinh cái riêng tư, vì vận mệnh đất nước. Thơ ca không
thể đứng ngoài sự hi sinh vĩ đại ấy. Không có gì quý hơn độc lập tự do, các nhà
thơ sẽ chẳng được ngợi ca nếu chỉ chuyên tâm sáng tác nhiều thơ mà để nước mất,
dân nô lệ một lần nữa.
-
Nhân vật trữ tình trong thơ kháng chiến nghĩ suy và hành động chủ yếu hướng về
số phận tổ quốc. Các nhà thơ đặc biệt khơi gợi, đề cao tinh thần yêu nước, lòng
tự hào dân tộc, ý thức làm chủ và quyết tâm xả thân (Ðất nước - Nguyễn
Ðình Thi; Bao giờ trở lại - Hoàng Trung Thông; Bên kia sông Ðuống - Hoàng Cầm; Ðôi mắt người Sơn Tây - Quang Dũng).
Tình
yêu nước, trước hết, được thể hiện rất đậm nét qua tình cảm đối với những con
người trong kháng chiến. Ðó là những con người vừa bình thường, chân chất vừa
phi thường, chói sáng. Truyền thống cha ông và khí phách của giai cấp vô sản được
kết tinh ở người anh hùng thời đại mới. Tiêu biểu hơn cả là hình ảnh người Vệ
quốc quân. Tầm cao tư tưởng và chiều sâu tâm hồn của hình tượng người Việt Nam
được tập trung làm nổi bật ở hai phương diện: phẩm chất cách mạng tốt đẹp và
tình nghĩa quân dân thắm thiết.
Ðặc
biệt, tình yêu nước còn được thể hiện đầy xúc động qua lòng kính yêu Chủ Tịch Hồ
Chí Minh. Rất nhiều bài thơ hay về Bác: Hồ Chí Minh, Sáng tháng Năm (Tố Hữu); Ảnh cụ Hồ, Thơ dâng Bác (Xuân Diệu); Bộ đội ông Cụ (Nông Quốc Chấn);
Ðêm nay Bác không ngủ (Minh Huệ). Tất cả góp phần xây lên hình tượng cao đẹp về
lãnh tụ, đó là một con người tài năng kiệt xuất, có lòng nhân ái mênh mông và lối
sống giản dị, khiêm tốn.
3)
Nghệ thuật biểu hiện của thơ ca 1945-1954 cũng có những vận động, biến chuyển mới
- trên cơ sở phát huy thành tựu của thời kỳ trước - để tương ứng với nội dung
tư tưởng, tình cảm mới. Dưới ánh sáng của quan niệm nghệ thuật cách mạng, yêu cầu
về tính đại chúng, tính dân tộc được đặc biệt chú trọng.
-
Thể thơ ngày càng phong phú. Các thể thơ cổ (thất ngôn tứ tuyệt, bát cú, cổ
phong) hiện diện bên cạnh những tìm tòi mới mẻ (thơ không vần, phá thể, hợp thể,
tự do). Những thể truyền thống như lục bát, ngũ ngôn được sử dụng phổ biến.
-
Hình tượng thơ, cảm hứng thơ không còn màu sắc yêng hùng, lãng mạn của những
năm đầu kháng chiến; trở nên gần gũi, bình dị, phù hợp với quan niệm về người
anh hùng thời đại mới.
-
Ngôn ngữ thơ chuyển dần từ tình trạng hoa mỹ, cầu kỳ, tượng trưng, ước lệ sang
đời thường, tự nhiên, phong phú đến vô cùng. Lời ăn tiếng nói của quần chúng
hàng ngày được chú ý vận dụng trong quan niệm thẩm mỹ mới mẻ.
(Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Không ít tác
phẩm sẽ bất tử với thời gian. Tuy nhiên, xét trên đại thể, vì là thời kỳ mở đầu
của nền văn học mới, nên không thể tránh khỏi một số hạn chế nhất định. Cảm xúc
rất tinh nhạy, mãnh liệt nhưng đôi khi lại chưa sâu, chưa chín; thành ra thơ
thường có sức vang xa, ít vọng sâu. Mặt khác, nhiệt tình công dân và cảm xúc
nghệ thuật ở người nghệ sĩ không phải lúc nào cũng đạt đến độ hài hòa cần thiết.
2. Truyện ký:
|
1)
Hiện thực cách mạng là mảnh đất màu mỡ, vô tận. Mẫu người lý tưởng của thời đại
mới dần khẳng định trên khắp các lĩnh vực đời sống. Truyện ký có điều kiện tốt
để phát triển, vạm vỡ hẳn lên với hai chặng cụ thể như sau:
-
1946-1948: thời kỳ nhận đường. Văn nghệ sĩ đang trong quá trình vận động, giải
quyết dứt khoát những ám ảnh cũ để đến với nhân dân, với kháng chiến. Sáng tác
chủ yếu là ký: Nhật ký (Nguyễn Huy Tưởng); Ở rừng (Nam Cao); Một đêm
vào tề, Tháp Rùa giữa rừng (Nguyễn Tuân). Một số truyện ngắn nổi bật:
Làng (Kim Lân); Ðôi mắt (Nam Cao).
-
1949-1954: thời kỳ được mùa, đánh dấu bằng nhiều tác phẩm đặc sắc, ở nhiều thể
loại. Ký: Trận phố Ràng (Trần Ðăng); Voi đi (Siêu Hải); Ðường vui, Tình
chiến dịch (Nguyễn Tuân); Ngược sông Thao (Tô Hoài); Ký sự Cao lạng (Nguyễn
Huy Tưởng); Truyện ngắn: Thư nhà (Hồ Phương); Truyện Tây Bắc (Tô Hoài); Xây dựng
(Nguyễn Khải);... Tiểu thuyết Xung kích (Nguyễn Ðình Thi); Vùng mỏ (Võ
Huy Tâm); Con trâu (Nguyễn Văn Bổng);....
2)
Truyện, ký thời kỳ này thể hiện một khuynh hướng tiếp cận, khám phá đời sống mới
mẻ, cả ở bề rộng lẫn bề sâu.
-
Những năm đầu sau cách mạng, nhiều vấn đề có tính thời sự được đặt
ra: sự đổi thay về quan niệm sống và sáng tác (Ngày đầy tuổi tôi
cách mạng, Lột xác - Nguyễn Tuân); cuộc đấu tranh giằng co giữa hai khuynh hướng
cũ - mới trong việc nhận đường (Ðôi mắt - Nam Cao). Một số tác phẩm trở lại với
đề tài xã hội tăm tối trước 1945, nhằm đánh tan ảo tưởng vào trật tự cuộc sống
cũ và giáo dục lòng yêu mến chế độ mới (Lò lửa và địa ngục - Nguyên Hồng; Mò
sâm banh - Nam Cao; Vợ nhặt - Kim Lân; Truyện Tây Bắc - Tô Hoài). Càng về
sau, đề tài của văn xuôi càng phong phú hơn, bao quát hầu hết các vấn đề nổi
cộm của đời sống: chiến đấu và sản xuất, phản đế và phản phong, tiền tuyến và
hậu phương, nỗi đau mất mát và niềm vui chiến thắng,...
-
Cuộc sống chiến đấu, nổi bật lên hình tượng người lính cụ Hồ là mảng đề tài tập
trung nhiều tâm huyết của các nhà văn. Vẻ đẹp chân chính toát ra từ hình tượng
là chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng. (Một lần tới thủ đô,
Trận phố Ràng, Một cuộc chuẩn bị - Trần Ðăng; Ðường vui, Tình chiến dịch - Nguyễn
Tuân; Ký sự Cao Lạng - Nguyễn Huy Tưởng; Xung kích - Nguyễn Ðình Thi; Thư nhà
- Hồ Phương).
-
Nông thôn và người nông dân kháng chiến được phản ánh trong tầm tư tưởng mới, vừa
truyền thống vừa hiện đại. Con người mới trong sản xuất, xây dựng được chú ý
phát hiện và đề cao (Làng - Kim Lân; Con trâu - Nguyễn Văn Bổng).
-
Hình tượng con người mới trong văn xuôi 1945-1954 có những đặc điểm khá nổi bật.
Lần đầu tiên trong văn học, lớp lớp con người bình thường, chân chất xuất thân
từ nhiều tầng lớp khác nhau (trí thức, nông dân, công nhân) được xây dựng thành
nhân vật trung tâm. Họ tượng trưng cho sự quật khởi đầy ý thức của giai cấp và
tiêu biểu cho sức mạnh, vẻ đẹp của dân tộc, thời đại. Thông qua hình tượng đám
đông, văn học làm rõ những nét tính cách, tâm lý chung rất dân tộc và cách mạng: thủy chung tình nghĩa không chỉ với gia đình, người thân, làng xóm mà cả với
đất nước, quê hương; không chỉ yêu nước, căm thù giặc trên cơ sở tình dân tộc,
nghĩa đồng bào mà còn mở rộng đến ý thức vô sản ở tầm quốc tế.
Mối
quan hệ giữa con người và hoàn cảnh đã khác trước. Con người không còn là nạn
nhân đáng thương hoặc phản kháng tự phát trước hoàn cảnh mà đã xuất hiện trong
tư thế chủ nhân chân chính, giác ngộ ngày càng sâu sắc, tự giải phóng mình và
góp phần giải phóng dân tộc, giai cấp (Xung kích, Vùng mỏ, Con trâu, Truyện
Tây Bắc).
3)
Thể loại của văn xuôi cũng có những phát triển đáng ghi nhận. Nếu trong mấy năm
đầu, ký và truyện ngắn chiếm ưu thế, thì dần về sau, xuất hiện những thể loại
dài hơi hơn như truyện vừa, tiểu thuyết. Theo đó, khả năng bao quát hiện thực -
biểu hiện sự trưởng thành của văn xuôi kháng chiến - được khẳng định.
IV. PHẦN KẾT LUẬN:
Văn
học Việt Nam 1945-1954 đã phát triển mạnh mẽ và độc đáo theo cách riêng, với phẩm
chất mới về nội dung và hình thức. Văn học thực sự trở thành món ăn tinh thần,
vừa thể hiện khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng vừa bồi đắp thêm niềm tin cho
quần chúng cách mạng.
Trong
quá trình phát triển, văn học có sự kết hợp hài hòa giữa phổ cập và nâng cao,
giữa truyền thống và sáng tạo. Hình tượng nghệ thuật ngày càng phù hợp với cuộc
sống chứng tỏ tính ưu việt của phương pháp sáng tác mới. Văn học vận động theo
hướng dân tộc hóa, đại chúng hóa.
Năm
tháng qua đi với nhiều biến động lịch sử ảnh hưởng tới đời sống văn học nhưng,
cho đến nay và chắc chắn nhiều năm nữa về sau, thơ văn kháng chiến chống Pháp vẫn
còn vang vọng sâu xa trong tâm hồn chúng ta. Bằng những hình tượng nghệ thuật
sinh động, văn học đã góp phần đắc lực vào sự nghiệp chung; giáo dục tinh thần
yêu nước và động viên ý chí chiến đấu, bảo vệ tổ quốc. Trong ý nghĩa của bước
khởi đầu, giai đoạn 1945-1954 đặt được nền móng vững chắc,
đảm bảo sự phát triển rực rỡ của văn học cách mạng những năm về sau.
Chương 2: TỐ HỮU
Con ong làm mật, yêu hoa
Con cá bơi, yêu nước; con chim ca,
yêu trời
Con người muốn sống, con ơi
Phải yêu đồng
chí, yêu người anh em
I. NHỮNG NÉT CHÍNH VỀ TIỂU SỬ VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT:
1)
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4/10/1920 tại làng Phù Lai, huyện
Quảng Ðiền, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên Huế). Truyền thống văn hóa, văn
chương của quê hương và gia đình là những nhân tố quan trọng trong sự hình
thành hồn thơ Tố Hữu.
-
Năm lên 12 tuổi, mẹ mất. Năm 13 tuổi, vào trường Quốc học (Huế). Tại đây, được
trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng Cộng sản qua sách báo tiến bộ của Mác, Ăngghen,
Lênin, Hồ Chí Minh, Goocki... kết hợp với sự vận động, giác ngộ của các Ðảng
viên ưu tú bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Ðăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu), người thanh niên
Nguyễn Kim Thành sớm nhận ra lý tưởng đúng đắn. Gia nhập Ðoàn thanh niên, hăng
hái hoạt động, được kết nạp Ðảng năm 1938.
-
Tháng 4/1939, bị bắt, bị tra tấn dã man và đày đi nhiều nhà lao. Trong tù, người
chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi luôn giữ vững khí tiết, tiếp tục hoạt động cách mạng
ở mọi hoàn cảnh.
-
Cuối 1941, vượt ngục (về hoạt động bí mật ở Hậu Lộc - Thanh Hóa). Khi Cách mạng
tháng Tám bùng nổ, là Chủ tịch ủy ban khởi nghĩa của thành phố Huế. Năm 1946,
là bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ,
tuyên huấn. Từ đó, luôn giữ những trọng trách trong công tác văn nghệ, trong bộ
máy lãnh đạo Ðảng và nhà nước (1948: Phó tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam;
1963: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam; tại đại hội Ðảng
lần II/02-1951: Ủy viên dự khuyết Trung ương; 1955: Ủy viên chính thức; tại
đại hội Ðảng lần III/9-1960: vào Ban Bí thư; tại đại hội Ðảng lần IV/1976: Ủy
viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên
truyền Trung ương, Phó Ban Nông nghiệp Trung ương; từ 1980: Ủy viên chính thức
Bộ Chính trị; 1981: Phó Chủ Tịch Hội đồng Bộ Trưởng).
2)
Thơ Tố Hữu là đỉnh cao thơ trữ tình chính trị Việt Nam (Trần Ðình Sử). Có thể tìm
thấy ở đó những nét tiêu biểu của quan niệm nghệ thuật Cách mạng.
-
Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thơ chân chính phải không ngừng
phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng; xác định thật rõ ràng tầm nhìn,
cách nhìn. Tự nguyện gắn bó chân thành là yêu cầu cao nhất đối với người nghệ
sĩ trong quan hệ với đất nước, với nhân dân. Ngoài ra, các nhà thơ Cách mạng
còn phải kiên quyết đấu tranh, không khoan nhượng trước những biểu hiện lệch lạc,
với cái xấu, cái ác. Tóm lại, phải xứng đáng là người chiến sĩ xung kích trên mặt
trận văn hóa tư tưởng.
-
Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn chương sẽ không
là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi
tới của văn học. Với Tố Hữu, thơ là Tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng
chí; làm cho người ta không còn thấy giới hạn của câu chữ, khi cái tình
thật mãnh liệt. Màu sắc dân tộc đậm đà cũng là yêu cầu hàng đầu đối với thơ
hay, cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật. Dân tộc mà hiện đại, hiện
đại trên cơ sở dân tộc, truyền thống.
II. QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC:
* Tác phẩm của Tố Hữu:
-
Thơ: Từ ấy (1946), Việt Bắc (1954), Gió lộng (1961), Ra trận (1972), Máu và Hoa
(1977); Một tiếng đờn (1993).
-
Tiểu luận: Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, với thời
đại ta (1973), Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (1981).
1. TỪ ẤY:
|
-
Tập thơ đầu tay, gồm 71 bài, sáng tác trong 10 năm (1936-1946).
-
Chia thành ba phần, phản ánh rõ nét quá trình giác ngộ và trưởng thành của người
chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi. Máu lửa gồm 27 bài, là thơ của thời kỳ Mặt trận Dân
chủ; tập trung vào những vấn đề lớn của thời đại như chống phát xít, phong kiến; đòi hòa bình, cơm áo; vấn đề quyền sống con người và cách mạng giải phóng
dân tộc. Xiềng xích gồm 30 bài, viết trong tù; thể hiện nỗi buồn đau và ý chí,
khí phách của người chiến sĩ cách mạng trong chốn lao tù. Giải phóng gồm 14
bài, viết từ lúc vượt ngục đến một năm sau ngày độc lập; chủ yếu ngợi ca lý tưởng,
quyết tâm đuổi giặc, cứu nước và niềm vui chiến thắng.
-
Trong Từ ấy, không chỉ có tiếng chim rộn rã và hương hoa của niềm vui vừa bắt gặp
lý tưởng, mà còn có lời an ủi, động viên chân tình đối với những số phận bất hạnh.
Và sau cùng, nhân danh cách mạng, Từ ấy là tiếng thét đầy hờn căm, là hồi kèn
xung trận thôi thúc mọi người xông lên, vào trận chiến mất còn với kẻ thù để
giành lại quyền sống.
-
Tập thơ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng: khẳng định vai trò lãnh đạo của Ðảng cộng
sản trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, tạo bước ngoặt lớn cho quá trình phát
triển của thơ ca Việt Nam hiện đại. Tố Hữu không phải là nhà thơ của riêng
tôi, mà là nhà thơ của tất cả thanh niên, nhà thơ của tương lai (K và T trên
báo Mới, 1/5/1939).
-
Những bài thơ tiêu biểu: Mồ côi, Hai đứa bé; Ði đi em; Vú em; Dửng dưng; Tiếng
hát sông Hương; Từ ấy; Tâm tư trong tù; Trăng trối; Dậy mà đi; Hồ Chí Minh; Vui bất tuyệt,....
2. VIỆT BẮC:
|
-
Sáng tác chủ yếu trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954), gồm tổng cộng
24 bài (trong đó có 06 bài dịch, 03 bài sáng tác sau 1954).
-
Là bức tranh tâm tình của con người Việt Nam trong kháng chiến, thể hiện quyết
tâm bảo vệ sự toàn vẹn của đất nước. Cuộc kháng chiến thật nhộn nhịp, hồ hởi
nhưng vô cùng gian khổ, đau thương. Nổi bật nhất là hình ảnh quần chúng nhân
dân, những người gánh cả cuộc kháng chiến trên vai. Ðó là anh Vệ quốc quân hiên
ngang như thiên thần, là em bé liên lạc Mồm huýt sáo vang. Như con chim
chích. Nhảy trên đường vàng. Trên hết là hình ảnh Bác Hồ, lãnh tụ kính yêu
- vừa cao cả, lớn lao vừa bình dị, gần gũi.
-
Ðánh dấu một bước phát triển của thơ Tố Hữu về giọng điệu, ngôn ngữ. Chất dân tộc
đậm đà trong thi liệu bình dị, thể thơ quen thuộc.
-
Những bài thơ tiêu biểu: Phá đường, Bà mẹ Việt Bắc; Bầm ơi; Lượm; Sáng tháng
Năm; Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên; Việt Bắc; Ta đi tới.
3. GIÓ LỘNG
|
-
Gồm 25 bài, sáng tác trong 06 năm (1955-1961); tập trung vào hai nhiệm vụ chiến
lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ Ngụy, thống
nhất đất nước ở miền Nam.
-
Tập thơ mở ra niềm vui lớn vì nửa nước được giải phóng, nhưng là niềm vui chưa
trọn vẹn vì:
Ðường
giải phóng mới đi một nửa
Nửa
mình còn trong nước lửa sôi
Một
thân không thể chia đôi
Lửa
gươm không thể cắt rời núi sông
(Ba
mươi năm đời ta có Ðảng)
Cái
tôi trữ tình sôi nổi được bộc lộ trên nền hiện thực hoành tráng của cuộc sống mới.
Gió lộng còn là thơ của lòng tri ân, nghĩa tình đối với Ðảng, Bác Hồ, với nhân
dân. Tinh thần quốc tế vô sản cũng được đề cập (qua tình cảm đối với Liên Xô,
Lê Nin).
-
Giọng anh hùng ca ngày càng khẳng định, đề tài có sức bao quát hiện thực, ý thơ
mang tầm tư tưởng cao.
-
Những bài thơ tiêu biểu: Trên miền Bắc mùa xuân; Với Lê Nin; Người con gái
Việt Nam; Thù muôn đời muôn kiếp không tan; Em ơi ... Ba Lan; Ba mươi năm đời
ta có Ðảng; Tiếng ru; Bài ca xuân 1961; Mẹ Tơm.
4. RA TRẬN:
|
-
Gồm 31 bài, sáng tác trong 10 năm chống Mỹ (1962-1971).
-
Hai dòng thơ mở đầu (ở bài thứ nhất) thể hiện cảm hứng chủ đạo của cả tập thơ:
Tôi
muốn viết những dòng thơ tươi xanh
Vẫn
nóng viết những dòng thơ lửa cháy
Vốn
là hồn thơ của yêu thương, nghĩa tình, Tố Hữu ao ước được làm thơ ngợi ca thanh
bình. Nhưng khi miền Nam, rồi cả nước, chìm trong nước sôi lửa bỏng thì Có thể
nào yên, có thể nào khuây.... Dành phần lớn tâm huyết để ngợi ca chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, do đó, giọng điệu tập thơ thấm đẫm chất hùng ca.
Những
bài thơ tiêu biểu: Có thể nào yên; Miền Nam; Trên đường thiên lý; Hãy
nhớ lấy lời tôi; Tiếng hát sang xuân; Chiếc áo xanh; Mẹ Suốt; Êmily, con...; Kính gửi cụ Nguyễn Du; Tấm ảnh; Bác ơi;
Theo chân Bác.
5. MÁU VÀ HOA
|
-
Gồm 13 bài, sáng tác trong 6 năm (1971-1977); có ý nghĩa tổng kết quá trình
phát triển của dân tộc, của Cách mạng Việt Nam - một hành trình đầy máu, đầy
hoa, Năm mươi năm máu đỏ thành hoa.
-
Máu: biểu tượng của nỗi đau uất hận trong hàng nghìn năm nô lệ và sự hy sinh,
xả thân vì nghĩa lớn, xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ. Hoa: biểu tượng cho vẻ đẹp
của lý tưởng cộng sản, của chủ nghĩa anh hùng và niềm vui ngày chiến thắng.
-
Xuất hiện nhiều bài thơ trường thiên với cảm xúc tổng hợp, bao quát hơn nửa thế
kỷ đấu tranh (Nước non ngàn dặm; Với Ðảng, mùa xuân).
-
Những bài thơ tiêu biểu: Việt Nam máu và hoa; Nước non ngàn dặm; với Ðảng,
mùa xuân; Một khúc ca xuân.
6. MỘT TIẾNG ÐỜN:
|
-
Gồm 72 bài, xuất bản năm 1993; được giải thưởng của Asian.
-
Là những dòng tâm tư, trăn trở từ mạch cảm xúc trong thời hòa bình. Ðời thôi lửa
cháy, nên xuất hiện những dòng thơ tươi xanh - mang đậm cảm hứng thế sự. Ðề tài
thơ phong phú, đa dạng: ngợi ca vẻ đẹp của quê hương, con người; công cuộc
xây dựng đất nước đầy phức tạp; tình yêu và số phận con người;... Âm hưởng
thơ bớt vang xa (hướng ngoại) mà vọng sâu hơn (hướng nội)
Em
ơi nghe đó, trong đêm lạnh
Ðằm
thắm bên một tiếng đờn
-
Ngoài giọng anh hùng ca vốn có, thêm giọng trầm lắng, đôi khi xót xa:
Mới
bình minh đó, đã hoàng hôn
Ðang
nụ cười tươi, bỗng lệ tuôn
Ðời
thường sớm nắng chiều mưa vậy
Khuấy
động lòng ta biết mấy buồn!
(Một
tiếng đờn)
-
Những bài thơ tiêu biểu: Một khúc ca; Ðêm cuối năm; Ðêm thu quan họ; Ðảng
và thơ; Một tiếng đờn; Lạ chưa?; Xuân hành 92; Ta lại đi; Anh cùng em.
Nhận xét:
1)
Con đường thơ của Tố Hữu và quá trình phát triển của Cách mạng Việt Nam là song
hành. Bám thật chắc vào hiện thực đời sống, ở những khúc quanh, những bước ngoặt
quan trọng, thơ Tố Hữu thường tỏ ra thích ứng rất nhanh nên cắm được nhiều cột
mốc lịch sử. Tố Hữu là người viết sử Việt Nam hiện đại bằng thơ.
2)
Tố Hữu là hình ảnh tiêu biểu của một kiểu nhà thơ mới - nhà thơ trữ tình chính
trị. Giữa nhà thơ - chiến sĩ ấy và quần chúng nhân dân không có một khoảng gián
cách không gian hoặc tâm tưởng nào. Nhưng không phải một sớm một chiều, cái tôi
trữ tình của Tố Hữu có được ngay sự hòa hợp nhuần nhị tuyệt vời với đời sống. Cần
một quá trình lâu dài, với nỗ lực không ngừng của bản thân và sự hỗ trợ từ cuộc
sống mới tốt đẹp Người yêu người sống để yêu nhau.
III. NHỮNG ÐẶC ÐIỂM CHÍNH CỦA PHONG CÁCH THƠ:
1) Ðỉnh cao của thơ trữ tình chính trị trong văn học
Việt Nam hiện đại.
|
Ở đó, có sự kế tục truyền thống thơ
văn yêu nước thời Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, thơ ca Xô Viết Nghệ Tĩnh; kết
hợp với những cách tân nghệ thuật theo xu hướng hiện đại hóa. Thơ Tố Hữu là tiếng
lòng của một kiểu nhà thơ mới, đứng giữa lòng cuộc sống mà cất lời kêu gọi đấu
tranh. Qua tâm hồn chan chứa yêu thương của nhà thơ, các vấn đề và sự kiện
chính trị liên quan tới vận mệnh cả dân tộc - đều thành nguồn xúc cảm nghệ thuật
mãnh liệt. Do đó, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn bao trùm phần lớn sáng
tác của Tố Hữu. Nhân vật trữ tình luôn nhân danh Ðảng, nhân danh cộng đồng; tập
hợp những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp; được nâng lên tầm vóc mới
- nên nhiều khi mang vẻ đẹp phi thường.
2) Thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn.
|
+
Thế giới quan của Tố Hữu, ngay từ buổi đầu, đã mang bản chất cách mạng. Khi được
Mặt trời chân lý chói qua tim, nhà thơ nhận ra con đường giải thoát duy nhất
cho dân tộc Việt Nam: Cách mạng Vô sản. Bao chông gai thử thách đang chờ đón,
nhưng có hề gì, người thanh niên ấy đã nguyện Dâng tất cả để tôn thờ chủ
nghĩa. Lý tưởng cách mạng tiên tiến của thời đại làm sục sôi nhiệt huyết
trong trái tim chan chứa yêu thương. Giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc,
đem lại hạnh phúc cho mọi người đã trở thành sự nghiệp, lẽ sống tha thiết, thôi
thúc nhà thơ hiến dâng trọn cuộc đời. Quyết tâm dấn thân vì nghĩa lớn và lòng
trung thành tuyệt đối tạo nên chất men say kỳ diệu, có sức lôi cuốn tự nhiên,
lâu bền.
+
Thơ Tố Hữu thể hiện niềm vui, nỗi buồn và thái độ yêu-ghét đúng đắn. Ðó là tâm
trạng của một người nguyện gắn bó máu thịt với nhân dân. Là tiếng nói đồng ý, đồng
tình, tiếng nói đồng chí. Thơ ấy, đã vui thì vui bất tuyệt, còn đau khổ thì Có
khổ đau nào đau khổ hơn. Trái tim tự xát muối, cô đơn. Nhân sinh quan của Tố Hữu
cũng mang bản chất cách mạng sâu sắc: yêu đất nước, con người và cái Thiện;
ghét kẻ thù phi nhân, ghét cái ác. Nhưng không phải kiểu yêu - ghét suông có
màu sắc cải lương, bao giờ cũng dẫn đến hành động quyết liệt: tranh đấu tới
cùng để bảo vệ chính nghĩa; lên án, tiêu diệt những thế lực phản cách mạng,
thù địch với con người.
3) Giọng điệu tâm tình ngọt ngào,
tha thiết, hồn nhiên.
|
+
Dù là những dòng thơ tươi xanh hay những dòng thơ lửa cháy, giọng thơ Tố Hữu vẫn
một điệu sôi nổi, mãnh liệt. Nhà thơ đặc biệt rung động với nghĩa tình cách mạng
sâu nặng, luôn hướng đến đồng bào đồng chí mà chân thành giãi bày tâm sự, kêu gọi,
nhắn nhủ. Giọng thơ có cái duyên riêng của hồn thơ xứ Huế.
+
Sống và chiến đấu, tất cả cho Tổ quốc, Tố Hữu không mảy may so hơn tính thiệt
cho riêng mình. Mối quan hệ giữa nhà thơ với quần chúng bao giờ cũng rất mực gần
gũi, thủy chung, tin yêu tuyệt đối. Do đó, trong ước vọng về một thiên đường
trên mặt đất - "Người yêu người sống để yêu nhau, tiếng lòng của nhà thơ
được bộc lộ một cách hồn nhiên.
4) Nghệ
thuật thơ vừa giàu tính dân tộc vừa rất hiện đại.
|
Dân
tộc chủ yếu ở hình thức (thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh, kết cấu). Hiện đại chủ yếu
trong đề tài, tư tưởng chủ đề (các giá trị truyền thống được cảm nhận và thể hiện
trên tinh thần mới mẻ).
IV. KẾT LUẬN CHUNG
+
Tố Hữu là nhà thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Trải qua một khoảng thời
gian dài hơn nửa thế kỷ, tiếng thơ ông đã có tác động sâu xa đến tư tưởng và
tình cảm của độc giả nhiều thế hệ. Con đường thơ ấy là hành trình đi tìm và bắt
gặp sự kết hợp diệu kỳ giữa Cách mạng và dân tộc trong nghệ thuật thơ ca.
+
Sự nghiệp sáng tác đồ sộ của Tố Hữu là một bộ phận không thể thiếu trong vốn
văn hóa tinh thần của quần chúng Cách mạng. Từ góc nhìn, thời điểm khác nhau, sẽ
phát hiện những tầng ý nghĩa khác nhau của kho tàng nghệ thuật ấy. Có thể đôi
chỗ còn thô ráp, thiếu sự gọt dũa cần thiết hoặc ồn ào, sáo mòn. Nhưng trên đại
thể, bằng quan điểm cụ thể lịch sử và lập trường Cách mạng, hoàn toàn có thể khẳng
định: thơ Tố Hữu là một giá trị. Tất nhiên, nó sẽ bất tử.
Chương 3: NGUYỄN TUÂN
NGUYỄN TUÂN (1910 - 1987)
Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị,
vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng
thức. (Vũ Ngọc
Phan)
Cho
đến nay và mãi nhiều năm về sau nữa, chắc chắn không ai nghi ngờ vị trí hàng đầu
trong làng văn Việt Nam hiện đại của Nguyễn Tuân. "Ông là một trong mấy
nhà nhà văn lớn mở đường, đắp nền cho văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX" (Nguyễn
Ðình Thi). Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một giá trị hiển nhiên, gợi nhắc một
vùng trời riêng, xôn xao thanh âm ngôn ngữ dân tộc. Sáng tác của ông tồn tại vừa
như những giá trị thẩm mỹ độc lập vừa gợi ý, kích thích tìm tòi, sáng tạo nên
các giá trị mới.
1) Nguyễn Tuân sinh ngày
10-7-1910 tại phố Hàng Bạc, Hà Nội. Gia đình có truyền thống nho học. Nhưng lúc
này nho học đã thất thế, nhường chỗ cho Tây học. Cả một thế hệ vốn gắn bó với cửa
Khổng sân Trình bỗng dưng trở nên lỗi thời trước xã hội giao thời Tây - Tàu nhố
nhăng; sinh ra tư tưởng bất đắc chí (trong đó có cụ Tú Hải Văn, thân sinh của
Nguyễn Tuân). Bối cảnh xã hội, không khí gia đình đặc biệt ấy đã ghi lại dấu ấn
sâu sắc trong cá tính, tư tưởng cũng như phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn
Tuân. Là một trí thức giàu tinh thần dân tộc, Nguyễn Tuân đã phải trải qua những
năm tháng vô cùng khổ sở, có lúc bế tắc, tuyệt vọng.
-
Năm 1929, bị đuổi học và không được vào làm việc ở bất cứ công sở nào trên toàn
cõi Ðông Dương (vì tham gia bãi khóa chống giáo viên Pháp nói xấu người Việt
Nam, tại trường trung học Nam Ðịnh). Cùng một nhóm bạn, vượt biên giới sang
Lào; bị bắt ở Thái Lan, đưa về giam ở Thanh Hóa. Hơn một năm sau, ra tù. Ði
trái phép vào Sài Gòn, đến Vinh thì bị bắt và bị quản thúc ở Thanh Hóa. Kể từ
đây, Nguyễn Tuân lâm vào tình trạng khủng hoảng tinh thần sâu sắc. Ông lao vào
con đường ăn chơi trụy lạc, thành kẻ "đại bất đắc chí", như một người "hư
hỏng hoàn toàn".
-
Năm 1938, tham gia vào đoàn làm phim "Cánh đồng ma", quay tại Hồng
Kông.
-
Từ 1942 đến 1945, ngày càng bế tắc, suy sụp; đã có ý định tự sát.
* Cách mạng tháng Tám đã cứu sống
cuộc đời cũng như trang viết Nguyễn Tuân. Ông hân hoan chào đón cuộc đổi đời lịch
sử, tự "lột xác" và chân thành đứng vào hàng ngũ nhà văn Cách mạng.
-
Năm 1950, vào Ðảng Cộng sản Ðông Dương. Từ 1948-1958, là tổng thư ký Hội Văn
nghệ Việt Nam.
-
Luôn hăng hái tham gia vào hai cuộc kháng chiến. Tiếp tục đi nhiều, có mặt ở
tuyến lửa ác liệt, dùng văn chương ngợi ca đất nước và cùng nhân dân đánh giặc.
* Nguyễn Tuân mất ngày
28-7-1987 tại Hà Nội.
2) Nguyễn Tuân là một trí thức
dân tộc rất mực tài hoa, uyên bác. Ông am tường cả Hán học lẫn Tây học, đặc biệt,
có lòng say mê thiết tha đối với tiếng Việt. Rất mực đề cao và chú tâm gìn giữ
nhân cách nghệ sĩ, nên Nguyễn Tuân căm ghét thói xấu xa đê tiện, rởm đời, vô
văn hóa.
Ðọc
văn ông, người đọc không chỉ có khoái cảm thẩm mỹ từ nghệ thuật ngôn từ mà còn
được bồi dưỡng thêm tri thức về nhạc, họa, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử, địa
lý, điện ảnh,... Thực tế ấy chứng tỏ Nguyễn Tuân là một tài năng phong phú, có
năng lực ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật.
3) Ðời viết văn hơn nửa thế kỷ của Nguyễn
Tuân là một quá trình lao động nghệ thuật thật sự nghiêm túc. Về sau, khi đã ở
đỉnh cao nghề nghiệp, ông vẫn không bao giờ tỏ ra lơi lỏng, hời hợt; mà ngược
lại, luôn nghiêm khắc với chính mình. Ðây là một nhà văn "suốt đời đi tìm
cái Ðẹp, cái Thật" (Nguyễn Ðình Thi), tự nhận mình là người "sinh ra
để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa".
-
Trước Cách mạng tháng Tám, trong bối cảnh nước mất, xã hội đảo điên "lộn
tùng phèo" mọi thứ quan niệm, mọi giá trị, Nguyễn Tuân đã đứng hẳn về phía
dân tộc và truyền thống dũng cảm chống lại sức công phá của lối sống xu thời.
Sáng tác của ông thời kỳ này dồn sức chủ yếu vào việc phục hiện lại các giá trị
văn hóa thuộc lĩnh vực tinh thần và xã hội. Trên trang viết Nguyễn Tuân, những
"vẻ đẹp xưa" chợt sống dậy trong niềm xót xa tiếc nuối khôn nguôi. Dù
điều kiện bấy giờ không cho phép nhà văn bộc lộ trực tiếp tâm sự u hoài đối với
dân, với nước, người đọc vẫn cảm nhận được một tấm lòng chân thành và rất mực
thủy chung. Ông đã ghé vai vào chống chỏi, hàn gắn, sắp xếp lại với kỳ vọng gìn
giữ những giá trị thiêng liêng nhất vốn hun đúc nên quốc hồn, quốc túy Việt
Nam. Nếu có thể ví trang sách như tấm lá chắn hữu hiệu thì nhà văn Nguyễn Tuân
- giai đoạn trước 1945 - chính là người cảm tử quân đang chiến đấu với cái Ác,
tử thủ ở thành trì Chân - Thiện - Mỹ.
-
Từ sau 1945, Nguyễn Tuân viết đều đặn, càng tỏ ra sâu sắc trong tư tưởng nghệ
thuật. Nhà văn có dịp đi nhiều, vừa đi vừa mở lòng đón nhận bao nhiêu thanh sắc
của cuộc sống mới đang từng giây từng phút sinh sôi. Nếu trước kia
chỉ có thể bộc lộ tâm sự yêu nước thương dân một cách kín đáo, thì giờ đây con
người tài hoa uyên bác ấy như được tháo cũi sổ lồng, phát huy hết mọi sở trường,
cất cao lời ngợi ca đất nước và con người Việt Nam trong thời đại mới.
Nếu
trước Cách mạng tháng Tám, quan niệm về cái Ðẹp của Nguyễn Tuân đậm màu sắc chủ
quan, "không bà con gì với luân lý thời đại" thì giờ đây, đã có sự
hài hòa cần thiết. Bởi cái Ðẹp giờ hiện hữu trong thực tại, là đời sống muôn
màu của Nhân Dân; như có thể cầm lên tay mà nâng niu ngắm nghía. Hoài cổ không
còn mang ý nghĩa níu kéo dĩ vãng mà được nâng lên thành ý thức về sự góp mặt của
dĩ vãng ở hiện tại.
II. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC:
* Tác phẩm tiêu biểu:
-
Trước 1945: Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939), Ngọn đèn dầu lạc
(1939), Thiếu quê hương (1940), Tàn đèn dầu lạc (1941), Chiếc lư đồng mắt cua
(1941), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943), Tóc Chị Hoài (1943), Nguyễn (1945).
-
Sau 1945: Chùa Ðàn (1946), Ðường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Thắng càn
(1963), Tùy bút kháng chiến và hòa bình (Tập I/1955, tập II/1956), Sông Ðà
(1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), Ký (1976), Hương vị và cảnh sắc đất nước
(1978), Tuyển tập Nguyễn Tuân (1994).
1) Nguyễn Tuân có một khoảng thời gian thử
bút ở một số thể loại trước khi dừng lại và tỏa sáng với tùy bút.
-
Do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Hán học, sáng tác của ông, cho đến trước năm 1937,
hầu hết được viết theo bút pháp cổ điển. Những sáng tác buổi đầu ấy chưa gây được
tiếng vang. Tuy nhiên, có thể bắt gặp ở một số trang viết tiêu biểu như
"Giang hồ hành" (thơ), "Vườn xuân lan tạ chủ" (truyện ngắn)
những tín hiệu của một phong cách nghệ thuật lớn. Ðó là tinh thần hoài cựu,
luôn chăm chút nhặt nhạnh những vẻ đẹp xưa dù đã tàn tạ, cuối mùa; là hệ thống
nhân vật tài hoa tài tử, nhuốm chút ngông nghênh kiêu bạc; là lối văn cầu kỳ
trúc trắc mà uyên bác hơn người.
-
Ðến 1937, Nguyễn Tuân lại xuất hiện trên các báo với những truyện ngắn hiện thực
trào phúng, ở đó thường vỡ ra những tràng cười châm biếm thoải mái, đậm đà
phong vị dân gian (Ðánh mất ví, Một vụ bắt rượu, Mười năm trời mới gặp lại
cố nhân). Tuy nhiên, do trào lưu hiện thực phê phán lúc bấy giờ đã phát
triển rất mạnh với nhiều tên tuổi lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên
Hồng, Nam Cao,... cho nên thật không dễ dàng đối với Nguyễn Tuân trong việc tìm
một vị trí có hạng trên văn đàn. Vả chăng, có lẽ hơn ai hết, Nguyễn Tuân sớm nhận
ra rằng thể loại truyện ngắn vẫn chưa phù hợp với sở trường của mình.
-
Nguyễn Tuân chỉ thực sự công nhận như một phong cách văn chương độc đáo kể từ
tùy bút - du ký "Một chuyến đi", năm 1938. Tác phẩm là tập hợp những
trang viết từ chuyến du lịch không mất tiền sang Hương Cảng để tham gia thực hiện
bộ phim "Cánh đồng ma" - một trong những phim đầu tiên của Việt Nam.
Nét đặc sắc nhất ở "Một chuyến đi" chính là giọng điệu. Có thể nói đến
đây Nguyễn Tuân mới tìm được cách thể hiện giọng điệu riêng, một giọng điệu hết
sức phóng túng, linh hoạt đến kỳ ảo: "Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi
thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa
bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ
cũng rất đỗi tài hoa" (Nguyễn Ðăng Mạnh). Nhân vật chính trong tác phẩm
là cái "tôi" ngông nghênh kiêu bạc của nhà văn. Một cái
"tôi" sau quá nhiều đắng cay tủi cực đã hầu như hoài nghi tất cả, chỉ
còn tin ở cái vốn tình cảm, ý nghĩ, cảm xúc sắc sảo và tinh tế của mình tích
lũy được trên bước đường xê dịch.
-
Một năm sau, 1939, bằng tập truyện "Vang bóng một thời" Nguyễn Tuân
đã vươn đến đỉnh cao của sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm gần đạt đến độ
"toàn thiện toàn mỹ" ấy (Vũ Ngọc Phan) góp phần đưa nghệ thuật
văn xuôi Việt Nam phát triển thêm một bước mới trên con đường hiện đại
hóa. "Vang bóng một thời" vẽ lại những cái "đẹp xưa" của thời
phong kiến suy tàn, thời có những ông Nghè, ông Cống, ông Tú thích chơi lan
chơi cúc, thích đánh bạc bằng thơ hoặc nhấm nháp chén trà trong sương sớm với tất
cả nghi lễ thành kính đến thiêng liêng. Cũng vào thời ấy, tên đao phủ còn chém
người bằng đao, người ta còn đi lại trên đường bằng võng, bằng cáng; vừa đi vừa
dềnh dàng đánh cờ bằng miệng,... Thời gian hầu như chưa trở thành nỗi ám ảnh lớn
đối với con người, bởi nó còn được đo bằng mùa, bằng tiết. Nhưng những vẻ đẹp
có màu sắc truyền thống ấy đang có nguy cơ bị mai một. Ðau đớn nhận ra điều đó,
Nguyễn Tuân ra sức níu giữ, gom góp và phục chế lại bằng tất cả tấm lòng thành
kính. "Vang bóng một thời", vì thế, có thể được xem như một bảo
tàng lưu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.
-
Từ sau "Vang bóng một thời" đến năm 1945, sáng tác của Nguyễn Tuân dần
đi vào ngõ cụt. Nếu như ở "Thiếu quê hương" (1940), "Chiếc lư đồng
mắt cua" (1941) tuy mải mê với những lạc thú trần tục, cái "tôi"
vẫn còn đầy tự trọng và giữ được ý thức về bản thân mình thì từ 1942, tình hình
có khác đi. Vẫn cái "tôi" ấy nhưng đã có vẻ mất tự tin và niềm tin
vào cuộc sống. Trong những năm đen tối này, đời sống tinh thần của Nguyễn Tuân
lâm vào tình trạng ngày càng khủng hoảng sâu sắc. Những trang viết thưa dần.
Bên cạnh những đề tài cũ (vẻ đẹp xưa, đời sống trụy lạc), xuất hiện thêm các đề
tài mới hướng về thế giới của yêu tinh, ma quỷ. Ngay tiêu đề các tác phẩm:
"Xác ngọc lam", "Ðới roi", "Rượu bệnh",
"Loạn âm" cũng đủ nói lên tình trạng bế tắc của ngòi bút Nguyễn Tuân
thời kỳ này.
* Dõi theo quá trình sáng tác của
Nguyễn Tuân giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, thật dễ nhận ra sự thay đổi rõ
rệt về tư tưởng nghệ thuật, nhất là từ "Vang bóng một thời" trở về
sau. Ðiều này hoàn toàn có thể lý giải được nếu nhìn vào quy luật của chủ nghĩa
lãng mạn : bao giờ cũng khởi đầu thật ấn tượng bằng việc khám phá và đề cao cái
"tôi" cá nhân, để rồi sau giây phút choáng ngợp ấy tất cả vụt trở nên
nhỏ nhoi, trống vắng và buồn chán đến nao lòng. Dẫu sao, những trang viết của
Nguyễn Tuân vẫn luôn được đón nhận bằng thái độ trân trọng và thông cảm sâu sắc;
bởi độc giả nhận ra ở đấy một tấm lòng chân thành, cả trong những thời điểm khắc
nghiệt nhất.
2) Những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám,
ngoài một vài tùy bút ngắn ghi lại tâm trạng vừa hoang mang vừa đầy ắp hy vọng
của một trí thức tự "lột xác" để dấn thân vào cuộc đời mới (Vô đề,
Ngày đầy tuổi tôi Cách Mệnh), Nguyễn Tuân còn có "Chùa Ðàn" - một tác
phẩm được viết khá công phu và đầy tâm huyết. "Chùa Ðàn" là truyện về
một nhân vật mắc căn bệnh cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ đến tàn nhẫn; nhưng từ sau
1945, như được uống liều thuốc cải lão hoàn đồng, tự cải tạo vươn lên thành con
người mới, sống chan hòa với xung quanh. Có nhiều ý kiến đánh giá chưa thật thống
nhất đối với tác phẩm này. Mới đọc qua, dễ có ấn tượng về một quá trình đổi
thay có vẻ giản đơn, công thức. Nhưng nếu xem xét tác phẩm trong cả quá trình
sáng tác của nhà văn thì không thể không công nhận "Chùa Ðàn" là một
cố gắng đáng trân trọng.
-
Tiếp theo, hai tập tùy bút: "Ðường vui" (1949) và "Tình chiến dịch"
(1950) - ghi nhận chuyển biến thật sự sâu sắc của ngòi bút Nguyễn Tuân. Ðáp lời
kêu gọi của Ðảng, Nguyễn Tuân hăng hái xốc ba lô lên vai dấn thân khắp các nẻo
đường chiến dịch. Cái "tôi" giờ đây không còn phá phách, ngông nghênh
nữa mà rưng rưng hòa nhập, sẻ chia với đồng bào đồng chí. Giọng điệu văn chương
trở nên sôi nổi tin yêu, tràn ngập một tình cảm chân thành đến hồn nhiên đối với
quê hương đất nước, với Cách mạng và kháng chiến. Ngỡ như sau phút dừng chân
bên đường để định phương hướng, Nguyễn Tuân lại tiếp tục bôn ba trên hành trình
đi tìm cái Ðẹp, cái Thật. Có điều khác là những giá trị ấy giờ đây không phải mất
công tìm kiếm ở cõi quá vãng hoặc vô hình nào mà hiện hữu ngay trong cuộc đời
thực đang từng giây từng phút sinh sôi cuồn cuộn trước mắt. Nguyễn Tuân như chuếnh
choáng say sưa trước niềm hạnh phúc vô biên ấy. Ông vốc từng vốc lớn chất liệu
hiện thực và bày biện một cách hết sức tài hoa, tinh vi lên trang viết để thết
đãi cả nhân dân mình. Hàng loạt tùy bút đặc sắc ra đời trong mạch cảm hứng ấy:
"Phở", "Cây Hà Nội", "Con rùa thủ đô", "Tìm
hiểu Sê Khốp",...
-
"Sông Ðà", viết từ 1958 đến 1960, là cái mốc quan trọng, đỉnh cao mới trong
sáng tác của Nguyễn Tuân từ sau Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm như một dòng thác
lớn thanh âm ngôn ngữ, cảm xúc, tư tưởng được khơi đúng nguồn mạch chính, hệt
con sông Ðà "hung bạo và trữ tình", chảy băng băng qua vùng Tây Bắc
hùng vĩ và ngạo nghễ với thời gian. Ðọc "Sông Ðà", thấy trữ lượng cái
Ðẹp - chất "vàng mười" của đất nước và con người Việt Nam trong cuộc
sống mới - quả là nhiều vô kể. Cánh cửa tâm hồn tài hoa, lãng tử của Nguyễn
Tuân như mở toang ra cho cái Ðẹp ùa vào:
"Ðời
sống Tây Bắc ngày nay là một tấm lòng tin tưởng không bờ bến, tin mình tin
người, mấy chục dân tộc miền cao và đồng bằng tin cậy lẫn nhau, và nhất là tin
chắc vào cái chế độ đẹp sáng do tay mình đắp cao mãi lên trên chỗ cao nguyên tiềm
tàng sức sống này".
-
Từ sau "Sông Ðà", Nguyễn Tuân tiếp tục đi và viết nhiều, chủ yếu vẫn ở
thể tùy bút, được tập trung in trong các tác phẩm tiêu biểu: "Hà Nội ta
đánh Mỹ giỏi" (1972), "Ký" (1976), "Hương vị và cảnh sắc
đất nước" (1978). Nhìn chung, sáng tác thời kỳ này có thể phân thành
hai mảng chính: mảng thứ nhất viết về tình cảm Bắc - Nam và đấu tranh chống Mỹ
- Ngụy chia cắt đất nước; mảng thứ hai tiếp tục khai thác vẻ đẹp của đất nước
và con người Việt Nam, của truyền thống văn hóa Việt Nam trong thời đại mới.
Công cuộc chống Mỹ đã đưa dân tộc ta lên tầm cao của thời đại mới. Tinh thần
quyết thắng từ tầm cao lịch sử ấy là âm hưởng chung của văn học thời kỳ này.
Tuy nhiên, Nguyễn Tuân đã thể hiện tinh thần ấy theo một cách riêng. Dưới ngòi
bút của ông, người Việt Nam vừa đánh Mỹ vừa sản xuất trong tư thế ung dung,
sang trọng và đầy tài hoa; tư thế của một dân tộc không chỉ giành được chính
nghĩa trong chiến đấu giữ nước mà còn có bề dày truyền thống văn hóa lâu đời.
Nhiều bài ký khiến người đọc phải ngỡ ngàng trước một sức bút kỳ lạ với vốn sống
ngồn ngộn, tinh tế; vừa đầy ắp liên tưởng bất ngờ, thú vị vừa nóng hổi tính thời
sự. Giai đoạn này, bọn xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai như lọt vào đúng tầm ngắm của
Nguyễn Tuân. Sự đối lập rõ rệt giữa truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta
với dã tâm của kẻ thù tạo nên nguồn cảm hứng lớn cho sáng tác. Ông đã nã những
phát cực kỳ lợi hại, bóc trần bản chất xảo quyệt của chúng, dù được chúng ngụy
trang rất khéo léo; góp phần động viên và tăng cường nhận thức của quần chúng
về chiến tranh chống Mỹ, cứu nước.
III. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT:
1) Giáo sư Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận định:
"Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong
một chữ ngông. Cái ngông vừa có màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất
đắc chí của những Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà,... và trực tiếp hơn là cụ Tú
Lan, thân sinh nhà văn; vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống
triết lý nổi loạn của xã hội tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm
về con người cao đẳng, thuyết hiện sinh...”
Ngông
là biểu hiện của sự chống trả mọi thứ nền nếp, phép tắc, định kiến cứng nhắc, hẹp
hòi của xã hội bằng cách làm ngược lại với thái độ ngạo đời.
Trước
Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân chơi ngông một cách cực đoan. Mọi sở thích,
quan niệm riêng đều được đẩy lên thành các thứ chủ nghĩa: chủ nghĩa duy mỹ, chủ
nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa ẩm thực,.... Thực ra, chủ nghĩa độc
đáo trong đời sống cũng như trong nghệ thuật mà biểu hiện là thú chơi ngông của
Nguyễn Tuân không chỉ đơn thuần là phản ứng tâm lý của một cá nhân trước tấn kịch
xã hội. Nó còn bao hàm cái khí khái của người trí thức yêu nước không cam tâm
chấp nhận chế độ thực dân, tự đặt những nghịch thuyết để tách mình ra và vượt
lên trên cái xã hội của những kẻ xu thời, thỏa mãn với thân phận nô lệ. Như vậy,
từ bản chất, cái ngông đó bao hàm một nội dung luân lý đạo đức truyền thống.
Sau 1945, Nguyễn Tuân không còn lý do để mà gây sự, mà ném đá vào đời như trước
nữa. Cái ngông tự mất đi phần cực đoan, chỉ giữ lại cái cốt cách vốn tạo nên
nét độc đáo cho trang biết. Thói quen và sở thích tìm cách nói mới lạ, không giống
ai khiến ngòi bút ông luôn tràn đầy sáng tạo và có sức hấp dẫn mạnh mẽ. Do đó,
hoàn toàn có thể khẳng định: cái ngông tồn tại như hạt nhân, chi phối toàn bộ
các phương diện khác của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân; từ đề tài, hệ thống
nhân vật cho đến thể loại, giọng điệu, ngôn ngữ.
2) Mới, lạ, không giống ai - là những đặc
điểm dễ nhận thấy ở hệ thống đề tài. Mọi thứ Nguyễn Tuân bày biện đều có hương
vị đặc sản, từ những nguồn "chưa ai khơi" nên thường tạo được cảm
giác rất mạnh, ấn tượng rất sâu. Ðến với những trang viết của ngòi bút tài
hoa ấy một mặt người đọc thấy say sưa trước cảnh, tình và tri thức phong phú
các các loại được bày biện một cách đẹp đẽ; mặt khác, khi cảm giác nhất thời
qua đi, bao giờ người ta cũng thấy như quý yêu thêm một chút, tự hào thêm một
chút về dân tộc mình, về thời đại mình đang sống. Hóa ra những điều tưởng chừng
tủn mủn, lặt vặt kia được Nguyễn Tuân gọi về để làm sống dậy trong chúng những
ý nghĩa có tính tư tưởng cao cả, chứ không nhằm thỏa mãn cảm giác hiếu kỳ, hời
hợt.
Hệ
thống nhân vật của Nguyễn Tuân bao giờ cũng mang dáng vẻ riêng, độc đáo và rất
đẹp - vẻ đẹp của tài hoa, của nhân cách. Ở cả hai giai đoạn sáng tác, nhà văn
luôn trân trọng những "đấng tài hoa" và say mê miêu tả, chiêm ngưỡng
họ. Mỗi nhân vật thường sành hơn người ở một thú chơi hoặc một ngón nghề nào
đó, đầy tính nghệ thuật. Ðó là cụ Kép, cụ Sáu, cụ Nghè Móm, ông Phó Sứ, ông Cử
Hai,... những nghệ sĩ bậc thầy của nghệ thuật uống trà, uống rượu, chơi đèn kéo
quân và đánh bạc bằng thơ (trong "Vang bóng một thời"). Là ông Thông
Phu lắm tài nhiều tật, cuối cùng đã gục chết trên một ván cờ đất vì uất ức (trong
"Chiếc lư đồng mắt cua"). Tài hoa, một khi đi kèm với nhân cách cao
thượng thì càng đáng kính trọng. Nhân vật Huấn Cao tài hoa với khí phách, nghị
lực phi thường là một tính cách tiêu biểu, được Nguyễn Tuân rất mực yêu thích.
Sự
chuyển dịch của ý thức nghệ thuật theo hướng đưa văn học về với cuộc sống, phục
vụ công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước đã dẫn tới việc mở rộng thế giới nhân
vật của trang viết Nguyễn Tuân. Nhưng không vì thế mà nhà văn đánh mất tính độc
đáo, bất biến của phong cách.Ðó là niềm say mê phát hiện và ngợi ca những vẻ đẹp
của tài hoa, khí phách, của văn hóa dân tộc: "Có cái như là Hoa Kỳ vừa
đánh Hà Nội, vừa thử tài sức và trí lực Hà Nội. Trong cuộc đọ súng đọ lửa với
giặc Hoa Kỳ, quân và dân thủ đô càng đánh càng phát huy truyền thống chống xâm
lược của dân tộc mình. Chắc tay súng, đúng tầm đạn, chiều 5 tháng 5 vừa qua, tất
cả cỡ súng Hà Nội có nòng và tên lửa không nòng đã quần cho một trận tơi bời
(...). Chợ Ngọc Hà không phải vỡ chợ, mà chính là xác thù đã vỡ tan trên một buổi
chợ chiều: mớ rau, xóc cua đồng, mẹt tôm riu đều nhấp nhánh mảnh vụn đuy ra
F.105. Cô gái trại hàng hoa vứt đó cái ô-dòa sắp tưới vườn chiều, cầm vội tay
súng và theo dõi trận mưa đuy-ra đang phá vườn hoa hợp tác".
Hình
ảnh người lao động mới trong "Sông Ðà (1960) cũng thật đẹp đẽ, lung linh
giữa vùng hào quang của tài hoa. Chính họ, chứ không ai khác, là những kỹ sư,
nghệ sĩ đang tự nguyện tự hào góp cái tài cái trí của mình để đắp xây cuộc sống
mới, nền văn hóa nghệ thuật mới.
3) Tìm đến với tùy bút cũng là con đường tất
yếu của cá tính và phong cách Nguyễn Tuân. Dường như ông chỉ có thể gắn bó với
lối văn nào thật sự tự do và chấp nhận những cảm xúc đậm màu sắc chủ quan.
Trong tay ông, thể tùy bút đã đạt đến đỉnh cao của khả năng ghi nhận và thể hiện
đời sống.
-
Xét đến cùng, cái duyên riêng không lẫn lộn, không ai bắt chước được của tùy
bút Nguyễn Tuân chính ở sự linh hoạt, phong phú đến thần tình của giọng điệu
văn chương. Có nhiều chi tiết tưởng rất bình thường nhưng bằng giọng điệu độc
đáo, khả năng quan sát sắc sảo, thông minh, hóm hỉnh cộng với hệ thống lý lẽ
khúc chiết, những triết lý có chiều sâu - nhà văn đã khiến nó trở nên lung linh
kỳ ảo, gợi mở nhiều liên tưởng mới lạ. Giọng điệu của tùy bút Nguyễn Tuân thường
là giọng kể. Người dẫn chuyện luôn đóng vai trò quan trọng, trực tiếp tham gia
vào câu chuyện và có quan hệ thân mật, tin cậy với các nhân vật khác. Người ấy
thường có giọng lịch lãm, đôi khi tỏ ra hoài nghi, đùa bỡn nhưng vẫn đảm bảo độ
mãnh liệt của cảm xúc và tầm cao tư tưởng bằng rất nhiều từng trải.
Ðặc
điểm nổi bật của giọng điệu tùy bút Nguyễn Tuân chính là sự phong phú, đa
thanh, thỏa mãn đến hoàn hảo những sắc thái tình cảm tinh tế nhất. Trong mọi
tình huống nhà văn luôn có cách nói phù hợp, không chung chung, tạo được không
khí cần thiết cho ý đồ nghệ thuật của mình. Dường như một khi đã bắt đúng giọng
thì không còn giản đơn là viết nữa, nhà văn trở thành nghệ sĩ, mặc sức vẫy vùng
múa lượn trên đỉnh cao sáng tạo nghệ thuật. Như dòng sông Ðà "vừa hung bạo
vừa trữ tình", mạch văn có lúc cuồn cuộn, ầm ào, gân guốc; có lúc đằm thắm,
sâu lắng, thiết tha:
"Còn
xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to
mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi
lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một
ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá
tung rừng lửa, rừng lửa càng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái
thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời
đá".
"Con sông Ðà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây
trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt
nương xuân".
-
Nguyễn Tuân có lối ví von, so sánh thật chính xác, mới lạ; sự vật được miêu tả
trong trường liên tưởng, cảm giác chuyển đổi tinh tế, bất ngờ:
"Nước
bể Cô Tô sao chiều nay nó xanh quá quắt đến như vậy? (...) Cái màu xanh luôn
luôn biến đổi của nước bể chiều nay trên biển Cô Tô như là thử thách cái vốn từ
vị của mỗi đứa tôi đang nổi gió trong lòng. Biển xanh như gì nhỉ? Xanh như lá
chuối non? Xanh như lá chuối già? Xanh như mùa thu ngả cốm làng Vòng? Nước
biển Cô Tô đang đổi từ vẻ xanh này sang vẻ xanh khác. Nó xanh như cái màu áo
Kim Trọng trong tiết Thanh Minh? Ðúng một phần thôi. Bởi vì con sóng vừa dội
lên kia đã gia giảm thêm một chút gì, đã pha biến sang màu khác. Thế thì nước
biển xanh như cái vạt áo nước mắt của ông quan Tư Mã nghe đàn tì bà trên con
sóng Giang Châu thì có đúng không? (...) Sóng cứ kế tiếp cái xanh muôn vẻ mới,
và nắng chiều luôn luôn thay mầu cho sóng. Mà chữ thì không tài nào tuôn ra kịp
với nhịp sóng".
Nhà
văn như mê mẩn trong ma lực của ngôn từ và truyền được trọn vẹn đến người đọc
chất men say nhiều khi kỳ quái ấy. Nguyễn Tuân có một kho từ vựng hết sức phong
phú do cần cù tích lũy cả đời, với lòng yêu say mê tiếng mẹ đẻ. Không chỉ góp
nhặt những từ sẵn có, ông còn luôn có ý thức sáng tạo từ và cách dùng từ mới, lạ.
Rất nhiều từ ngữ tưởng như đơn nghĩa hoặc cũ mòn, nhưng khi vào tay ông, chợt
trở nên dồi dào sức biểu hiện. Hãy xem cách ông dùng hai từ "góa bụa"
và "lõa lồ":
"Hiu
quạnh sống trong người mình và chung quanh mình, cái gì cũng gợi đến những
ý vắng, lạnh và cũ và mỏi và ngừng hết. Ngồi ăn một mình cả một mâm cơm chiều
nay, tự nhiên tôi có cái cảm tưởng gở dại là mình đã trở nên một người góa bụa,
hoàn toàn góa bụa. Góa vợ con, thân thích, anh em bạn, góa nhân loại, góa tất cả.
Bát cơm và vào miệng, chỉ là những miếng thê lương".
"Mãi
đến bây giờ về gần đến Phố, tôi mới nhớ ra trong xe còn có thêm một hành khách
nữa. Ấy là một người đàn bà, một thứ đàn bà tồi. Tồi ở chỗ lõa lồ trong câu nói
tiếng cười. Tồi ở cái cách phục sức rẻ tiền mà cứ gắng làm ra lộng lẫy cho kỳ
được".
Vốn
từ vựng ấy, có lúc Nguyễn Tuân dùng để chơi ngông với đời, hoặc để trêu ghẹo
thiên hạ và xót xa cho thân mình. Ông tự nhận xét: "Ngôn ngữ của Nguyễn
lủng cà lủng củng, dấm dẳn cứ như đấm vào họng. Ðọc lên nghĩa tối quá lời sấm
ông trạng. Nguyễn cứ lập ngôn một cách bướng bỉnh vì đời nó ngu thế thì không
bướng bỉnh sao được". Từ sau Cách mạng tháng Tám, không còn cực đoan nữa,
Nguyễn Tuân dùng ngôn từ như công cụ đắc lực để cất cao lời ngợi ca tổ quốc, ngợi
ca nhân dân mình và giáng những đòn thật cay độc vào bản chất tàn bạo của kẻ
thù.
IV. KẾT LUẬN:
Trong
nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân thật xứng đáng ở tầm cỡ nhà văn lớn.
Nói đến ông, người ta nghĩ ngay đến một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, rất mực tài
hoa và độc đáo. Không thể tưởng tượng nổi sẽ lạnh lẽo và tiêu điều tới mức nào
nếu đại ngàn văn chương dân tộc thiếu vắng những nghệ sĩ ngôn từ bậc thầy như
nhà văn Nguyễn Tuân.
Ðặc
biệt, Nguyễn Tuân "lớn" ở cả hai thời kỳ, từ cuộc đời cũ đến cuộc đời
mới; vừa là cây bút nổi bật của xu hướng văn học lãng mạn trước năm 1945 với đủ
thứ "tật bệnh điển hình", vừa ở trong hàng ngũ những nhà văn thành
tâm chào đón và chân thành đi theo Cách mạng đến cùng. Trong hành trình gian khổ
hơn nửa thế kỷ ấy có lúc va vấp, có lúc chênh vênh, cũng có lúc phải tự "lột
xác" đớn đau, nhưng nhà văn vẫn luôn giữ vẹn được nhân cách, bản ngã của
mình. Cái ngông, suy đến cùng, lại như một giá trị, được đảm bảo bởi sức bền vững
của tài hoa và tầm cao tư tưởng nghệ thuật. Trên đỉnh cao sáng tạo vừa chói lòa
vinh quang vừa cực kỳ cheo leo hiểm trở, nhà văn phải dốc đến kỳ cùng sức lực để
không trở nên nhạt nhẽo, vẫn luôn giữ được nét độc đáo của phong cách nghệ thuật.
Tinh
thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành trì cái Ðẹp là biểu hiện sinh động của
một nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn Nguyễn Tuân "đặc Việt Nam" (chữ
dùng của Vũ Ngọc Phan) từ quan niệm cho tới thực tế sáng tác. Chất văn hóa như
sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là cái phần cơ bản nhất làm nên giá trị vĩnh hằng cho
văn nghiệp của ông.
Do
đó, vẻ đẹp của trang viết Nguyễn Tuân là kết quả tất yếu từ một cách viết mang
chiều sâu, bề rộng và tầm cao văn hóa. Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, đặc
biệt biểu hiện ở thái độ thành kính trân trọng tiếng mẹ đẻ và các giá trị truyền
thống chính là động lực bên trong, thôi thúc nhà văn không ngừng tìm tòi, khơi
nguồn vốn cũ và sáng tạo nên giá trị mới. Ông xứng đáng được mệnh danh là
"chuyên viên cao cấp tiếng Việt", là "người thợ kim hoàn của chữ"
(Ý của Tố Hữu). Trong lâu đài văn chương nghệ thuật dân tộc Việt Nam ở thế kỷ
20, rất dễ nhận ra phần chạm trổ tinh xảo của người nghệ sĩ ngôn từ Nguyễn
Tuân.
Chương 4: HUY CẬN
Ðời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng, ta đi tìm bề
sâu. Nhưng càng đi sâu, càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu
trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan
Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền,
điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy
Cận. (Hoài Thanh)
I- TIỂU SỬ:
Huy
Cận tên thật là Cù Huy Cận, sinh ngày 31-5-1919 tại xã Ân Phú, huyện Hương
Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay là huyện Ðức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Bố là nhà nho, đậu tam
trường, làm hương sư, sau về quê dạy chữ Hán. Mẹ là một cô gái ở vùng quê có
nghề dệt lụa truyền thống (xã Tùng Ảnh, huyện Ðức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Cả hai đều
yêu văn chương và rất thuộc truyện Kiều.
-
Quê Huy Cận là một vùng bán sơn địa, đẹp và nghèo; cảnh vật hùng vĩ, còn giữ
nguyên vẻ hoang sơ. Người dân ở đây rất mê hát ví dặm, kể truyện thơ Nôm.
-
Không khí gia đình thường nặng nề với nhiều xung đột giữa các thế hệ. Cậu bé
Huy Cận rất thích lang thang giữa trời đất bao la cùng những trò chơi dân dã
(thả diều, đánh trống đất); được gần gũi với đất đai đồng ruộng và cuộc sống
người nông dân; từ đó, năng lực nhạy cảm trước những biểu hiện tinh tế của tạo
vật và lòng yêu mến, trân trọng thiên nhiên, con người có điều kiện nảy nở.
Có thể nói hồn thơ Huy Cận thành hình và được
vun đắp bởi truyền thống văn hóa của gia đình, quê hương:
Tôi
sinh ra ở miền sơn cước
CÓ
NÚI LÀM XƯƠNG CỐT THÁNG NGÀY
Ðất
bãi tơi làm da thịt mát
Gió
sông như những mảnh hồn bay
- Học chữ Hán với bố và học đến lớp tư ở
quê. Từ lớp năm đến hết tú tài toàn phần: học ở Huế. Kết bạn với Xuân Diệu từ
1936. Năm 1939, ra Hà Nội học Cao Ðẳng Nông Lâm. Từ 1941, vừa học vừa tham gia
mặt trận Việt Minh.
- Cách mạng tháng Tám thành công, giữ chức
Bộ trưởng Canh Nông trong chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ
tháng 5 đến tháng 11- 1946: Thứ trưởng Bộ Nội Vụ. Trong kháng chiến chống Pháp:
Thứ trưởng Bộ Canh Nông, rồi Thứ trưởng Bộ Kinh Tế. Từ 1955, chuyển sang công
tacï lãnh đạo văn hóa với chức vụ Thứ trưởng thường trực Bộ Văn hóa. Từ 1984 đến
1987: Bộ trưởng đặc trách công tác văn hóa nghệ thuật tại văn phòng Hội Ðồng Bộ
trưởng, kiêm Chủ tịch Ủy ban trung ương Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật.
Hiện nay, Huy Cận là Phó chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học
nghệ thuật Việt Nam.
- Ngoài những hoạt động chính trị, kinh tế,
văn hóa trong nước, Huy Cận còn là nhà hoạt động quốc tế năng động với nhiều
đóng góp lớn. Ông từng là đồng Chủ tịch Ðại hội nhà văn Á Phi họp ở Ai Cập
(02-1962), đồng Chủ tịch Ðại hội văn hóa toàn thế giới họp tại Cu Ba (01-1968),
Ủy viên Hội đồng chấp hành Unesco (1978-1983), Ủy viên Hội đồng cao cấp các nước
nói tiếng Pháp.
II- QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC:
Tác phẩm tiêu biểu:
* Trước 1945: Lửa thiêng (1940), Vũ trụ ca (1942),
Kinh cầu tự (văn xuôi triết lý, 1942).
**
Sau 1945: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Ðất nở hoa (1960),
Bài
thơ cuộc đời (1963), Hai bàn tay em (1967),
Những
năm sáu mươi (1968), Cô gái Mèo (1972),
Chiến
trường gần đến chiến trường xa (1973),
Ngày
hằng sống, ngày hằng thơ (1975), Hạt lại gieo (1984),
Tuyển
tập (1986).
1. Thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám:
|
a. Tập thơ Lửa Thiêng:
*
Huy Cận bắt đầu sáng tác từ năm 1936 bằng những bài bình luận văn học đăng trên
các báo Tràng An, Sông Hương; với bút danh Hán Quỳ.
-
Từ 1938, Huy Cận có thơ trên báo Ngày nay. Tập thơ đầu tay Lửa Thiêng ra mắt
độc giả vào tháng 11-1940, (bằng tiền tái bản tập Thơ Thơ của Xuân Diệu).
Ðây là thời gian Huy Cận cùng sống với Xuân Diệu tại số 40 Hàng Than - Hà Nội.
-
Gồm 50 bài, một số đã đăng báo, Lửa Thiêng nhanh chóng được độc giả nhiệt liệt
đón nhận. Chính ngọn lửa thiêng thắm đượm tình người, tình đời đã giúp Huy Cận
có được vị trí tiêu biểu trong làng thơ Mới, giai đoạn cực thịnh của nó.
*
Lửa Thiêng trước hết là tiếng lòng của một thanh niên mới lớn (21 tuổi) đang thể
hiện niềm vui, nỗi buồn của chính mình. Như đa số thơ Mới, tập thơ lấy tuổi trẻ
và tình yêu làm đề tài chủ yếu. Nhưng giữa lúc độc giả đã quá quen thuộc với giọng
nỉ non, sầu não trong thơ Mới thì những cung bậc tình yêu dễ thương ở lứa tuổi
học trò, lứa tuổi còn nhiều e ấp vẩn vơ, chưa nhuốm mùi nhục cảm - có sức hấp dẫn
mới lạ:
Ðường
trong làng: hoa dại với mùi rơm
Người cùng tôi đi giữa đường thơm
Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng
Ðất thêu nắng, bóng tre rồi bóng phượng
Lần lượt buông màn nhẹ vướng chân lâu
... Một buổi trưa không biết ở thời nào
Như
buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao
Có
cu gáy, có bướm vàng nũa chứ
Mà
đôi lứa đứng bên vườn tình tự
(Ði
giữa đường thơm)
*
Nhưng tình yêu ấy vẫn không bền, nhanh chóng rơi vào vô vọng. Bởi có một nỗi u
hoài thường trực trong tâm hồn, bắt nguồn sâu xa từ bi kịch bế tắc, vỡ mộng.
Thành ra, thơ Huy Cận vừa hồn nhiên nhất vừa buồn nhất trong các nhà thơ Mới.
Hỡi
Thượng đế! Tôi cúi đầu trả lại
Linh
hồn tôi đà một kiếp đi hoang
Sầu
đã chín, xin người thôi hãy hái
Nhận
tôi đi, dầu địa ngục, thiên đường
-
Buồn thương, sầu não là âm hưởng chính khiến Lửa Thiêng như bản ngậm ngùi dài.
Tập thơ dằng dặc một nỗi buồn nhân thế, một nỗi đau đời. Nhà thơ đã gọi dậy cái
hồn buồn của Ðông Á,... đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm
trong cõi đất này (Hoài Thanh). Nỗi buồn như kết quả của quá trình lắng
nghe tinh tế nhịp tuần hoàn vũ trụ và nỗi ngậm ngùi nhân gian. Ðó là tấm lòng... tủi nắng sầu mưa. Cũng đất nước mà nặng buồn sông núi.
-
Cái buồn trong Lửa Thiêng không xuất phát từ bi kịch cá nhân nhà thơ mà gắn nhiều
hơn với tâm trạng xã hội, với ý thức về thân phận nô lệ của cả một thế hệ.
Trong lời tựa cho lần xuất bản đầu tiên, Xuân Diệu có nhận xét: Chàng than nỗi
tháng ngày vùn vụt, bảo rằng hoa xuân không đậu, đời thoảng mùi ôi, trong
khi mình chưa sống hết tuổi xuân, đang độ trẻ măng của đời người! Cái tiếc sớm,
cái thương ngừa áy chẳng qua là sự trá hình của lòng ham đời, là cái tật dĩ
nhiên của kẻ yêu sự sống.
-
Triền miên trong buồn thương nhưng Huy Cận không mất hút vào cõi siêu hình hay
chán chường, tuyệt vọng - như không ít nhà thơ Mới. Nhà thơ vẫn tha thiết, chân
thành hướng về phần thiên lương cao đẹp của cuộc đời; cảm nghe được hồn thiêng
đất nước, hương vị nồng đượm của quê hương và nhựa sống tiềm tàng trong nhành
cây ngọn cỏ:
Luống
đất thơm hương mùa mới dậy
Bên
đường chân rộn bước trai tơ
Cành
xanh cành đẹp xui tay với
Sông
mát tràn xuân nưóc đậm bờ
(Xuân)
Lửa
Thiêng được viết bằng một nghệ thuật vững vàng, độc đáo. Âm hưởng chủ đạo:
nhẹ nhàng, thâm trầm, hướng vào nội tâm. Lời thơ, ý thơ tự nhiên, không cầu kỳ
rắc rối. Cảnh sắc ít đường nét, giản ước, thanh thoát; tạo được ấn tượng về
một không gian bàng bạc, xa vắng, đậm đà phong vị Ðường thi (Tràng giang,
Buồn đêm mưa). Ngoài những thể thơ Mới khá phổ biến, Huy Cận đặc biệt
thành công ở thể lục bát truyền thống. Với âm hưởng phong phú, hình ảnh mới mẻ,
nhà thơ đã góp phần khẳng định khả năng biểu hiện tinh tế của thể thơ dân tộc
này (Ngậm ngùi, Buồn đêm mưa, Thuyền đi, Trông lên, Chiều xưa,...).
Những bài thơ tiêu biểu: Tràng giang, Buồn
đêm mưa, Ngậm ngùi, Vạn lý tình, Ði giữa đường thơm, Tình tự, Thuyền đi,
Chiều xưa, Ðẹp xưa, Trình bày, Mai
sau.
b.
Từ sau Lửa Thiêng:
-
Trong bối cảnh xã hội ngày càng đen tối, thơ Mới dần đi vào ngõ cụt. Mỗi nhà
thơ loay hoay tìm lối thoát cho riêng mình. Huy Cận thoát ly vào vũ trụ và
thiên nhiên. Ông hoàn chỉnh cả một hệ thống triết lý ngợi ca niềm vui siêu
thoát ấy trong tập văn xuôi Kinh cầu tự, năm 1942. Nhà thơ kêu gọi mọi người trở
về hòa nhập vào tạo vật, tìm nguồn vui từ thiên nhiên vũ trụ: Có lẽ tạo vật đau thương,
đất trời vắng lạnh vì nỗi lòng ta xa cách tạo vật đó thôi. Ta hãy trở về, ta
hãy nhập cuộc, có nhịp sống đưa nâng, có dòng đời xô đẩy, cái vui lớn, cái vui
trọng đại dâng sóng tràn khắp cõi đời.
-
Triết lý ấy được thể hiện đầy đủ, cụ thể trong Vũ trụ ca - tập thơ viết năm
1942, chưa in thành sách. Thoát vào vũ trụ, hồn thơ Huy Cận - với những cảm xúc
mới lạ - trở nên khoáng đạt, mạnh mẽ hơn. Nhà thơ say sưa với cái vô cùng của
trời đất, trăng sao. Nhiều tứ thơ hay, nhiều hình ảnh rực rỡ xuất hiện:
+
Trời thắm duyên rằm vừng nhạc mở
Chuông
sao rung nhớ, tiếng vàng bay
Lượng
vui muôn kiếp cân đầu sóng
Biển
rủ rê lòng nhập cuộc say
(Lượng
vui)
+
Trời xanh ran lá biếc
Biển
chóa ngập buồm vàng
Gió
thổi miền bất diệt
Mây
tạnh đất hồng hoang
(Trời,
Biển, Hoa,
Hương)
Huy Cận như gặp lại niềm vui thuở trước, lại
hân hoan, hồ hởi và rạo rực những khát khao của tuổi trẻ:
Ta
vận tấm xuân đi hớn hở
Tâm
tư ngào ngạt hiến dâng đời
Thân
cũng hát lừng cao nhịp lửa
Hoa
thiên thu hẹn nở cùng
môi. (Áo
xuân)
-
Nhưng một điều rất dễ nhận ra: cái vui trong Vũ trụ ca là vui gượng, cố vui nên
không trọn vẹn, vẫn mang vẻ chông chênh, vô vọng. Cho nên đôi khi để đạt ý đồ
nghệ thuật, tác giả rơi vào cường điệu, cầu kỳ; hình ảnh đậm màu sắc tượng
trưng. Tình thì mới nhưng ý tứ dễ đơn điệu, cũ mòn. Ðiều này là tất nhiên, bởi
dù có trốn tận đâu vẫn không chạy khỏi chính mình. Chính cái Tôi giàu cảm xúc, nặng
tình với đất nước, dân tộc đã không để yên nhà thơ trong sự huyễn hoặc:
Về
đâu những bước thời gian đã
In
dấu mong manh trên cánh đào?
Về
đâu hạt bụi vàng thao thức
Theo
bánh xe quay vòng khát khao?
Về
đâu?... Câu hỏi cứ lặp đi lặp lại như một ám ảnh, day dứt khôn nguôi về
ngày mai, về ý nghĩa của kiếp người.
Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận là một trong số những
nhà thơ tiêu biểu của thơ Mới. Thơ ông là tiếng lòng thiết tha gắn bó với
quê hương đất nước, khao khát được hiến dâng tuổi trẻ và tài năng; nhưng khi vấp
phải thực trạng xã hội, những kỳ vọng ấy đã tan vỡ hoàn toàn. Như nhiều nhà thơ
lãng mạn khác, Huy Cận giai đoạn này ít thơ vui hơn thơ buồn. Luôn có một nỗi sầu
thường trực trên từng trang thơ của ông, nhưng đó là biểu hiện sinh động của bi
kịch tâm trạng; đáng được cảm thông, trân trọng.
2- Thơ Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám:
|
Sau khi Lửa Thiêng ra đời một năm, Huy Cận
tìm đến với Cách mạng (hoạt động trong mặt trận Việt Minh). Như vậy, ánh sáng của
lý tưởng Cộng sản đã manh nha trong hồn thơ mang mang thiên cổ sầu ấy từ khá
lâu trước 1945. Và sự đổi đời tháng Tám có ý nghĩa như một bước ngoặt lịch sử,
đưa trang thơ Huy Cận vượt khỏi những ám ảnh, những giới hạn chật hẹp do mặc cảm
nặng nề về thân phận nô lệ tạo nên. Như đa số các nhà thơ Mới, Huy Cận rưng
rưng chân thành trở về hòa nhập với cuộc sống.
Quan điểm nghệ thuật, lập trường tư tưởng
đã thay đổi căn bản; nhưng như thế vẫn chưa thể có thơ hay. Cần một khoảng thời
gian nhất định - tùy tình trạng tâm tưởng của mỗi nghệ sĩ - để những rung động
ban đầu được nung, được nén lại thành cảm xúc nghệ thuật. Mặt khác, mọi sự thay
đổi đều cần được thử thách qua thực tế. Thơ Huy Cận sau 1945 thể hiện rõ quá
trình đấu tranh tự khẳng định sự góp mặt của một nhà thơ lớp trước, vào cuộc sống
mới. Mười ba năm sau, 1958, mới có một tập thơ (Trời mỗi ngày lại sáng), rõ
ràng hành trình từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui ở Huy Cận không
giản đơn chút nào.
a. Thơ Huy Cận từ 1945 đến kháng chiến chống
Mỹ:
Khoảng thời gian này, có 04 tập thơ tiêu biểu,
ghi nhận quá trình chuyển biến và sự hồi sinh mãnh liệt của hồn thơ Huy Cận: Trời
mỗi ngày lại sáng (1958), Ðất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963), Hai
bàn tay em (1967).
- Phải mất hơn mười năm trăn trở, phấn đấu
không ngừng tự vượt lên thoát khỏi ám ảnh cũ, hồn thơ Huy Cận mới hồi sinh và
khởi sắc. Vốn quen quanh quẩn sống bằng ảo vọng, thích phiêu diêu vô định lánh
đời trong vũ trụ, giờ bừng mắt giữa cuộc đời thực; vui đấy, nhưng không khỏi ngỡ
ngàng, mặc cảm. Ngập ngừng, dè dặt khoác ba lô lên vai, Huy Cận đi vào kháng
chiến. Hồn thơ ông thắm hồng da thịt trở lại cùng với sự hồi sinh vĩ đại của cả
dân tộc.
- Thế giới thơ Huy Cận trước kia hầu như
thiếu hơi người, vắng những sắc màu âm thanh bình thường của sự sống, nên hoang
sơ cô tịch. Chỉ còn một mình nhà thơ rợn ngợp giữa không gian, chìm khuất trong
nỗi mang mang thiên cổ sầu. Giờ đây, nhà thơ mở rộng tâm hồn cho cuộc sống ùa
vào. Vẫn còn đó năng lực cảm nghe tinh tế mạch đời bền bỉ, vẫn không nguôi niềm
khắc khoải không gian, nhưng giữa con người với thiên nhiên đã có mối giao hòa
kỳ diệu:
Giọt
mưa cũ ố vàng thơ phú
Triều
mưa nay đoàn tụ lúa xanh
Cũng
là thức giữa năm canh
Mưa
xưa lạnh lẽo, an lành mưa nay
(Mưa
mười năm)
- Huy Cận phát huy sở trường bằng việc phát
hiện chất thơ biểu hiện tinh vi, phong phú trong đời thường. Dường
như mọi biểu hiện của cuộc sống bình dị - qua cái nhìn của nhà thơ - đều nên nhạc,
nên thơ. Ông say sưa ngợi ca một khu nhà mới, đoàn thuyền đánh cá, những ngày hội
mùa xuân,...Con người mới trong lao động xây dựng đất nước thành hình tượng thật
khỏe khoắn, lạc quan, chan chứa nghĩa tình:
Anh
tặng em buổi sáng hôm nay
Có
hoa sen nở hồ Tây trắng hồng
Tặng
em trời mát như sông
Trong
veo chảy giữa đôi dòng cây xanh
(Buổi
sáng hôm nay)
- Chính nhờ hút nhụy từ đời sống xanh tươi,
hồn thơ Huy Cận có được nguồn sinh lực mới. Cuộc sống mới giúp nhà thơ nhận ra
chân giá trị của lao động và vẻ đẹp chân chính của người lao động. Thiên nhiên
tạo vật không còn đối lập với con người mà cùng con người hợp thành bức hoành
tráng chói chang, rạng rỡ (Ðoàn thuyền đánh cá).
* Thời kỳ này đánh dấu một bước chuyển biến
mới của hồn thơ Huy Cận. Mỗi tập thơ là một nỗ lực lớn, tự vượt lên để khẳng định
sự góp mặt vào cuộc đời mới. Với ý nghĩa đó, thơ Huy Cận còn củng cố nhận thức
về cuộc đổi đời lịch sử và bồi đắp những tình cảm trong sáng, lành mạnh.
b. Thơ Huy Cận trong kháng chiến chống Mỹ:
Trong kháng chiến chống Mỹ, Huy Cận đã góp
tiếng thơ mình vào việc phản ánh những sự kiện, những vấn đề trọng đại của chiến
tranh. Bằng nhiều chuyến đi thực tế vào tuyến lửa, nhà thơ kịp thời chuyển biến
cách nhìn, cách nghĩ cho phù hợp với giai đoạn cách mạng mới. Liên
tiếp ra đời nhiều tập thơ có giá trị: Những năm sáu mươi (1968); Chiến trường gần
đến chiến trường xa (1973); Những người mẹ, những người vợ (1974); Ngày hằng
sống, ngày hằng thơ (1975).
- Trong khuynh hướng chung của thơ chống Mỹ,
thơ Huy Cận tăng cường tính thời sự và tập trung vào việc khẳng định, ngợi ca
chủ nghĩa anh hùng cách mạng miền Nam. Từ thế đứng hùng vĩ và tầm vóc lớn lao của
dân tộc trên tuyến đầu chống Mỹ, Huy Cận càng có điều kiện để suy ngẫm về quá
khứ và hướng về tương lai; từ truyền thống dân tộc đến quan hệ với thế giới, với
thời đại. Giữa ngất trời đạn bom, cái nhìn của nhà thơ vẫn hướng về öphía khái
quát để phát hiện ra những tầng sâu văn hóa truyền thống của đời sống con người
Việt Nam:
Sống
vững chải bốn ngàn năm sừng sững
Lưng
đeo gươm, tay mềm mại bút hoa
Trong
và thật: sáng hai bờ suy tưởng
Sống
hiên ngang mà nhân ái chan hòa
(Ði
trên mảnh đất này)
- Tính chính luận, suy tưởng thể hiện rõ
trong nhiều bài thơ. Xuất phát từ những sự kiện chính trị-xã hội hay những chi
tiết cụ thể của đời sống, nhà thơ mở rộng liên tưởng để khám phá bề sâu triết
lý của vấn đề.
Trước ngã ba Ðồng Lộc - một trọng điểm trên
tuyến đường vào Nam, nơi ghi dấu sự hy sinh dũng liệt của 10 cô gái phá bom -
Huy Cận nghĩ đến ý nghĩa quyết định của những ngã ba trong đời mỗi người, mỗi
dân tộc:
Qua
trái tim ngã ba Ðồng Lộc
Máu
qua tim máu lọc
Xe
vượt ngã ba xe xốc tới miền Nam
... Những
ngã ba Việt Nam
Trên
đường dài kẻ địch còn găm
Nhiều
bom nổ chậm
... Ðường
sẽ thông xe đi về Cách mạng
(Ngã
ba Ðồng Lộc)
Bằng những hình ảnh giản dị, cụ thể, Huy Cận
tập trung ngợi ca sức quật khởi, sức sống bất diệt và phong thái ung dung của
con người Việt Nam. Nhà thơ đi đến một khái quát có ý nghĩa nhân văn sâu sắc về
cuộc kháng chiến chống Mỹ: đây là cuộc chiến đấu và chiến thắng của nhân nghĩa
trước bạo tàn phi nghĩa, của sự sống trước sự hủy diệt. Nhận thức này thấm sâu
trong cảm xúc và hình tượng thơ, tạo nên tâm thế bình tỉnh, tự tin của cả một
dân tộc anh hùng trước những thử thách ác liệt. Trong Giờ trưa, cuộc sống vẫn
êm đềm diễn ra với tiếng chim hót, nhện giăng tơ, gà cục tác,... bất kể sự lồng
lộn của con ma Mỹ
Buổi
trưa ấm lại bốn bề tiếp tục
Con
gà mái lại đâu đây cục tác
Báo
với đời thêm một trứng tròn to
Anh
bộ đội ngoái đồng ngồi trên mâm pháo bóng tròn vo
Chân lý góp thêm một cách nghĩ, thật giản dị,
nhưng đầy triết lý về cuộc kháng chiến trường kỳ
Ðủ
tháng năm ta sẽ đánh giặc xong
Trái
chín cây đâu phải chín nóng lòng
- Quê hương đất nước, nông thôn Việt Nam
luôn là đề tài quen thuộc, không thể thiếu trong thơ Huy Cận. Thời chống Mỹ, đó
là những làng quê yên ả với nhịp sống tưởng như bình lặng nhưng luôn có nhiều
xao động tinh tế. Vẻ đẹp truyền thống đang có nhiều đổi thay cho phù hợp với thời
đại mới
Gà
gáy trong mưa vẫn tiếng vang
Giọng
kim, giọng thổ rộn vang đồng
Ðược
mùa giống mới, gà no bữa
Tiếng
gáy tròn như lúa nặng bông
(Gà
gáy trên cánh đồng Ba Vì được mùa)
*** Hai bàn tay em (tập thơ cho thiếu nhi):
Huy Cận rất yêu mến và quan tâm đến trẻ
con. Nhà thơ dành hẳn một tập thơ cho các em. "Hai bàn tay em" khai
thác đề tài từ những sự vật, khung cảnh gần gũi với cuộc sống của trẻ con (con
cóc, con ve, con dế, cái chong chóng, buổi trưa hè,...); những khía cạnh tình cảm
gia đình thân thuộc (cha mẹ-con cái, anh chị-em, ông bà-cháu); những câu chuyện
lịch sử, những tấm gương thiếu niên anh hùng.
Tập thơ như những bài học nhằm giáo dục các
em lòng yêu quê hương đất nước, yêu con người, yêu lao động, tinh thần đoàn kết,...Không
là những lời giáo huấn khô khan, tiếng thơ Huy Cận rất hồn nhiên, ngộ nghĩnh
nên dễ đi vào tâm trí trẻ thơ:
- Buổi
trưa lim dim
Nghìn
con mắt lá
Bóng
cũng nằm im
Trong
vườn êm ả
- Bé
gọi con dế
Quen
nấp đầu hồi
Dế
kêu the thé
Giật
mình bưởi rơi
*Từ 1975 đến nay, Huy Cận vẫn sáng tác đều đặn. Gác lại chuyện
chiến tranh, tâm hồn nhà thơ trở về với mạch cảm xúc quen thuộc của cuộc đời
hàng ngày quanh mình; lại say mê thiên nhiên, vũ trụ và nghiền ngẫm, suy tư về
sự sống con người. Những tập thơ tiêu biểu: Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại
gieo (1984), Chim làm ra gió (1989), Lời tâm nguyện cùng hai thế kỷ (1997).
Thơ Huy Cận tiếp tục phát triển theo hướng
suy tưởng, hướng nội hơn; có khuynh hướng chiêm nghiệm về ý nghĩa nhân sinh cao
cả từ những biểu hiện bình dị của đời thường:
Yêu
mãi, yêu rồi, đâu hết yêu
Cuộc
đời như miếng đất phì nhiêu
Trồng
bao nhiêu vụ còn tươi tốt
Hạt
gặt xong rồi, hạt lại gieo
(Hạt
lại gieo)
III. PHONG CÁCH THƠ HUY CẬN
1. Huy Cận có năng lực cảm nhận cuộc sống
thật đặc biệt, có thể nghe được từ những biểu hiện tinh vi của tạo vật đến những
biến đổi lớn lao trong vũ trụ vô cùng vô tận. Ðây là nhà thơ có "cái
nghiêng tai kỳ diệu"(Xuân Diệu). Huy Cận cảm nhận được trọn vẹn từ những
mùi vị dân dã của đất đai đồng ruộng đến lời ru của gió, nhịp thở của biển, để
rồi nói lên linh hồn của cảnh sắc thiên nhiên bằng giai điệu trong trẻo, dễ
rung động lòng người.
+ Trước 1945, tuy vật vã với nỗi sầu đau
nhưng thiên nhiên trong thơ Huy Cận vẫn thấm thía tình người, tình đời (Ngậm
ngùi, Tràng giang, Buồn đêm mưa):
- Ðêm
mưa làm nhớ không gian
Lòng
run thêm lạnh nỗi hàn bao la
Tai
nương nước giọt mái nhà
Nghe
trời nặng nặng nghe ta buồn buồn
- Nắng
chia nửa bãi, chiều rồi
Vườn
hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu
Sợi
buồn con nhện giăng mau
Em
ơi hãy ngủ, anh hầu quạt đây
Từ sau Cách mạng tháng Tám, tiếng thơ trở
nên đằm thắm, sâu nặng nghĩa tình; cảnh sắc thiên nhiên ấm áp, xôn xao hơn nhiều:
Chiều
thu trong, lá trúc vờn đẹp quá
Lá
mía xanh nhung quạt vào mái rạ
Tiếng
lao xao như ai ngả nón chào
Hoa
mướp cuối mùa vàng rực như sao
Giếng
trong lẻo, trời xanh in thăm thẳm
(Chiều
thu quê hương)
+ Năng lực ấy không chỉ có được bằng sự
tinh nhạy của các giác quan (rèn dũa trong những năm tháng tuổi thơ, sống ở quê
hương) mà còn xuất phát từ chiều sâu tâm hồn nhà thơ - một tâm hồn luôn rộng mở
để đón nhận đủ đầy âm vang mọi phía đời sống.
+ Có thể nói: thiên nhiên, quê hương đất nước
là nguồn cảm hứng vô tận trong thơ Huy Cận. Nếu ở Xuân Diệu, thiên nhiên thường
sực nức hương vị và ngôn ngữ ái tình thì ở Huy Cận, núi sông cây cỏ bao giờ
cũng lặng lẽ, bình thản như tâm hồn tác giả. Không thể hình dung được thơ Huy Cận
sẽ ra sao nếu thiếu đi nắng vàng, trời xanh, gió biếc, biển rộng, sông dài,...
Nhưng thơ ấy không thuộc loại thơ điền viên, bởi trước sau tác giả vẫn luôn nặng
lòng đời, luôn có ý thức phát hiện rồi khẳng định sự hài hòa giữa con người với
tự nhiên; để mở rộng biên giới những xúc cảm, nâng tầm nhận thức về sự tồn tại
của con người. "Thơ viết về đất nước, thiên nhiên và quê hương là một điểm
mạnh của Huy Cận. Dường như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc
sâu xa, cao đẹp nhất của tâm hồn mình" (Xuân Diệu).
2. Hồn thơ Huy Cận luôn vận động giữa nhiều
đối cực: vũ trụ-cuộc đời, sự sống-cái chết, nỗi buồn-niềm vui, hiện thực-lãng mạn.
+ Vũ trụ và cuộc đời luôn song hành tồn tại,
thành hai cực hấp dẫn hồn thơ Huy Cận. Thơ ông ngày càng gắn bó với đời, nhưng
cảm hứng về cuộc đời không tách rời cảm hứng về vũ trụ. Vươn lên tìm hiểu những
bí ẩn của không gian vô cùng cũng đồng thời nhìn về trái đất để hiều hơn chính
mình. Khát vọng ấy mang bản chất triết lý, nhân văn cao cả. Bởi đích đến cuối
cùng của nó không phải cõi siêu hình nào mà chính là mặt đất, cõi sống của con
người.
+ Huy Cận viết khá nhiều về cái chết, về sự
tương phản nghiệt ngã giữa hữu hạn đời người với cái vô hạn của tạo hóa. Sự sống
là bất tử, vũ trụ là vô cùng nhưng con người không thể tránh được cái chết.
Nghĩ đến lúc từ giã cõi đời, nhà thơ không khỏi xót xa nuối tiếc. Nhưng đó
không là biểu hiện của thái độ ham sống sợ chết tầm thường mà là của khát vọng
được cống hiến hết mình, được tái sinh:
Rồi
một ngày kia giã cõi đời
Xin
cho gieo hạt hết trong tay
Chứ
tay còn nắm chưa vơi hạt
Mà
phải ra về cực lắm thay
(Hạt
lại gieo)
Ðời
thân yêu, một ngày mai ta chết
Cho
ta đi khi hè chói chang trưa
Ðể
ta hiểu giã từ chưa phải hết
Nằm
đất quen như hạt chín sang mùa
(Say
mùa hè)
+ Nỗi buồn và niềm vui ở Huy Cận đều được đẩy
đến cực đoan: lúc buồn-buồn đến ảo não, thê thiết; khi vui-vui tràn trề, dào dạt.
Hành trình tâm tưởng của Huy Cận đi từ nỗi buồn sâu đến niềm vui lớn. Cảm nhận,
thể hiện rõ hai đối cực này chứng tỏ nhà thơ rất thiết tha với cuộc đời và ý thức
đầy đủ về thân phận con người. Khi nỗi buồn được ý thức, hóa thành nỗi đau đời;
khi niềm vui được ý thức, sẽ thành hạnh phúc, tin yêu.
+ Cảm hứng nghệ thuật của Huy Cận, trước
1945, có sự phân cực khá rõ giữa hiện thực và lãng mạn. Từ sau 1945, hai đối cực
ấy dần dần đạt đến độ hòa hợp cần thiết, trên cơ sở sự thống nhất giữa lý tưởng
và hiện thực trong cuộc sống mới.
3. Huy Cận là nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn
tầm cỡ thế giới. Tuy am hiểu nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại, hồn thơ
ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Suối nguồn thơ ca truyền thống đã rót vào tâm hồn
Huy Cận những giai điệu du dương, khiến cho tiếng thơ - những khi đạt đến độ
thuần thục - rất dễ đi vào lòng người. Thể thơ lục bát truyền thống, thể thơ
năm chữ của dân ca Nghệ Tĩnh - trong tay Huy Cận - vừa mộc mạc chân tình vừa lắng
đọng, hàm súc; sắc thái biểu hiện được phát huy rõ rệt. Chất suy nghĩ bàng bạc
khắp các tứ thơ. Hình ảnh thơ Huy Cận thường không sắc sảo, gây ấn tượng mạnh
mà thâm trầm, khơi gợi; như len nhẹ, như ngấm sâu vào tâm hồn và trí tuệ người
đọc. Những bức tranh thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường rất ít đường nét, giản
ước theo bút pháp cổ điển, gợi nhiều hơn tả. Do đó, có thể nói: ấn tượng không
gian có được - trước hết - nhờ phong vị Ðường thi.
IV. KẾT LUẬN CHUNG:
Con đường thơ của Huy Cận khá tiêu biểu cho
lớp nhà thơ thuộc thế hệ thứ nhất, văn học Việt Nam hiện đại. Từ một thành viên
xuất sắc của phong trào thơ Mới, Huy Cận đến với Cách mạng, tìm thấy mục đích,
lý tưởng chân chính cho tiếng nói nghệ thuật của mình và trở thành một trong những
nhà thơ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại.
Với vốn văn hóa sâu rộng, năng lực xúc cảm,
suy nghĩ phong phú và quan điểm nghệ thuật rõ ràng, Huy Cận đã góp vào thi đàn
một tiếng thơ có hương sắc riêng, làm rạng rỡ diện mạo tâm hồn dân tộc.
Chương 5: NGUYỄN THI
Trước khi trở thành nhà văn, tôi đã là người lính,
nếu gặp lúc gay go tôi có thể cho cây bút vào túi áo, tay cầm lấy súng và bóp
cò. Tôi cần cái không khí của chiến dịch, những cái mà mắt tôi nhìn được, tai
tôi nghe được.Trước sự kiện lịch sử trọng đại như thế này, nhà văn
không thể đứng ngoài mà ngó...
I- TIỂU SỬ VÀ CON NGƯỜI:
1. Tiểu sử
|
Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, sinh ngày 15-5-1928 tại
xã Quần Phương Thượng, Hải Hậu, Nam Ðịnh. Cha: hương sư Nguyễn Bội Quỳnh,
sau bị thải hồi vì những hoạt động yêu nước và Cách mạng. Mẹ: bà Thành Thị Du
(vợ hai). Khi cảnh gia đình sa sút, phải sống trong hoàn cảnh thật éo le, nơm nớp
lo sợ những trận đòn ghen từ người vợ cả. Tuổi thơ cậu bé Nguyễn Hoàng Ca, từ
đó, bắt đầu những ngày tháng bất hạnh; có lúc phải tự kiếm sống như một đứa trẻ
lang thang.
Nguyễn Hoàng Ca theo một
người bà con vào Nam từ trước Cách mạng tháng Tám. Bắt đầu tham gia Cách mạng
năm 17 tuổi; làm thơ, viết văn với bút danh Nguyễn Ngọc Tấn; là đội viên đội Cảm
tử quân trong những ngày tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn; được kết nạp Ðảng năm 1947
(19 tuổi).
Năm 1953, Nguyễn Ngọc Tấn
cưới vợ. Sau đó, tập kết ra Bắc, công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân
đội, (để lại miền Nam người vợ trẻ đang mang thai).
Tháng 5-1962, Nguyễn Ngọc
Tấn xung phong vào Nam, đổi bút danh thành Nguyễn Thi (tên của đứa con trai, với
người vợ sau, ở miền Bắc). Là thành viên tích cực của lực lượng Văn nghệ Quân
Giải phóng. Tháng 5-1968, theo một đơn vị pháo binh tham dự đợt tổng tiến công
Mậu Thân đợt 2 và đã anh dũng hy sinh trên chiến trường vào ngày 09-5-1968 (tại
đường Minh Phụng, quận 11 - Sài Gòn).
Trong 06 năm ở miền Nam,
Nguyễn Thi có mặt tại hầu hết những điểm nóng của chiến sự: Ấp Bắc, Củ Chi, Bến
Tre,...
2. Con người
|
Nguyễn Thi tính tình nóng nảy, sinh ra mang sẵn trong mình
nhiều lạnh lùng kín đáo hơn cởi mở hân hoan; thường khi tỏ ra cực đoan (Bản
thân nhà văn cũng nhận ra và rất buồn vì sự khó tính của mình). Ðây chính
là dấu vết khó lòng gột rửa, do trong những năm tháng lang thang kiếm sống cậu
bé Ca đã phải gai góc, ngang ngạnh để tự vệ, để tồn tại.
Nguyễn Thi có một năng
khiếu nghệ thuật thật đa dạng. Ở Tạp chí Văn nghệ Quân Giải phóng, ông viết diễn
ca, vẽ bìa, vẽ minh họa rồi dạy múa, dạy hát; tự mình có thể diễn kịch, múa
lân,...
*** Nguyễn Thi là một nhà văn có ý thức trách nhiệm rất cao đối
với ngòi bút. Chỉ mới học hết bậc tiểu học, do đó, ông phải tập viết rất
công phu, khổ luyện. Cuộc đời riêng tuy gặp nhiều éo le, trắc trở nhưng không
bao giờ khuất phục trước hoàn cảnh, ông như con trai, biết nén nước mắt vào bên
trong phong kín nỗi đau, làm nên hạt ngọc cho đời!
II- SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TẤN -
NGUYỄN THI:
Có thể tìm hiểu theo hai thời kỳ chính:
- Từ 1950 đến 1962: sáng tác trên miền Bắc, với bút danh Nguyễn
Ngọc Tấn. Các tác phẩm tiêu biểu: tập thơ Hương đồng nội, hai tập truyện ngắn: Trăng
sáng, Ðôi bạn.
- Từ 1963 đến 1968: sáng tác ở miền Nam, với bút danh Nguyễn
Thi. Những tác phẩm tiêu biểu ở các thể loại: ký, truyện ngắn, truyện ký, tiểu
thuyết được tập hợp trong Truyện và ký Nguyễn Thi".
1. Ở chặng đầu sáng tác, Nguyễn Ngọc Tấn vừa
làm thơ vừa viết truyện.
|
Ở chặng đầu sáng tác, Nguyễn Ngọc Tấn vừa làm thơ
vừa viết truyện. Ðầu 1950, tập thơ Hương đồng nội ra đời, gồm 20 bài. Ðây
là tiếng lòng của một người đang chập chững trên bước đường văn chương, tập
quan sát, miêu tả và tự thể hiện - như một cậu học trò tập làm luận- nên giá trị
nghệ thuật chưa cao.
Hai tập truyện ngắn Trăng sáng, Ðôi bạn tập trung vào ba mảng
đề tài khá quen thuộc bấy giờ: tấm lòng Nam-Bắc trong chia cắt, tình nghĩa quân
dân (giữa đồng bào miền Bắc với bộ đội miền Nam đi tập kết), tội ác của Mỹ Ngụy.
Mỗi tập gồm 7 truyện.
Thời kỳ này, truyện của Nguyễn Ngọc Tấn không có gì đặc biệt
về đề tài. Sự kiện được phản ánh cũng chưa mang tầm vóc lớn lao của lịch sử.
Nhà văn chưa có ý định, chưa đủ sức vẽ những bức hoành tráng về dân tộc và
kháng chiến. Tuy nhiên, những trang viết ban đầu ấy vẫn mang sức hấp dẫn, thuyết
phục riêng có được từ những đặc sắc nghệ thuật.
Nguyễn Ngọc Tấn đặc biệt chú ý thể hiện nội tâm nhân vật và nội
tâm của chính mình. Nhiều chi tiết có ý nghĩa tự truyện. Hiện thực chủ yếu là
hiện thực tâm hồn, rất chân thực, gần gũi.
Văn phong giàu chất trữ tình, chất thơ; ít hành động, sự việc,
giàu tâm tình. Kết hợp với những hình ảnh so sánh thông minh, độc đáo tạo nên
những hứng thú thẩm mỹ bất ngờ: Sự nóng ruột giấu ở trong đôi mắt đảo lia đảo lịa
của cô tưởng có thể tóm ra mà đặt xuống bàn được (Một chuyến về phép); Tin
ấy như con rắn luồn từ ngõ này sang ngách khác (Về Nam).
*** Tuy chưa phản ánh được thật đầy đủ những phương diện chủ
yếu của hiện thực đời sống với tầm khái quát cao, truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tấn đã là những dấu hiệu tốt đẹp của một tài năng đầy triển vọng, là những
nét cơ bản đã định hình về một phong cách nghệ thuật lớn. Phong cách ấy sẽ được
hoàn thiện và khẳng định trong thực tế sáng tác, thực tế chiến đấu ác liệt ở miền
Nam những năm về sau.
2. Truyện và ký Nguyễn Thi:
|
Ðây là một trong những thành tựu xuất sắc của nền văn học
Cách mạng miền Nam, gồm 11 tác phẩm (4 truyện ngắn, 1 tiểu thuyết, 2 ký, 1 ghi
chép và 3 tùy bút).
a. Nguyễn Thi viết truyện ngắn không nhiều nhưng truyện nào
cũng có giá trị, đặc biệt: truyện về những nhân vật thanh thiếu niên và
người phụ nữ. Bối cảnh là nông thôn Nam Bộ những năm tháng ngột ngạt trước xuân
Mậu Thân 1968. Ở đó, một khi tội ác giặc càng chồng chất thì lòng căm thù và
quyết tâm trả thù càng ngùn ngụt bốc cao.
- Chuyện xóm tôi (1964): Sáng tác đầu tiên với bút danh Nguyễn
Thi. Nhân vật chính là hai đứa trẻ tên Ðực và Bỉnh, sống chung trong một xóm nhỏ
vùng Mỏ Cày, Bến Tre. Cả hai có chung mối thâm thù: hai người cha đều bị tên ác
ôn Tổng Phòng giết cùng một ngày. Qua câu chuyện giữa hai đứa trẻ, tác giả muốn
đi tìm căn nguyên sâu xa sức mạnh quật khởi của người Việt Nam; tất cả bắt đầu
từ lòng căm thù và quyết tâm trả thù nhà, đền nợ nước.
- Mùa xuân (1964): Như viết tiếp Chuyện xóm tôi, vẫn những
nhân vật và bối cảnh cũ nhưng không khí khởi nghĩa đã khẩn trương hơn nhiều với
cảnh bộ đội về làng, thanh niên nô nức lên đường tòng quân,... Truyện có cái
nhìn bao quát hơn về tình thế Cách mạng, về vai trò và khả năng của quần chúng.
- Những đứa con trong gia đình (1966): Chuyện về hai chị em
Chiến và Việt - tiêu biểu cho thế hệ trẻ miền Nam - trong cuộc đối đầu tưởng chừng
không cân sức với giặc Mỹ và bọn tay sai ác ôn. Nặng thù nhà nợ nước, cả hai
tranh nhau lên đường tòng quân và đã trở thành những anh hùng trẻ tuổi. Truyện
có nhiều trang chân thực, cảm động (đêm trước ngày hai chị em lên đường; lúc Việt
bị trọng thương, một mình trên chiến trường; cảnh chị em khiêng bàn thờ Ba Má
qua gửi nhà chú Năm...). Kết cấu, ngôn ngữ khá tiêu biểu cho phong cách Nguyễn Thi.
- Mẹ vắng nhà: Viết sau khi Người mẹ cầm súng ra
đời, vẫn dựa trên những tính cách của đám con chị Út Tịch. Nguyễn Thi muốn bổ
sung thêm việc miêu tả tính cách, sinh hoạt của chúng để cắt nghĩa những băn
khoăn của độc giảí: vì sao một người mẹ đông con như vậy lại có thể rảnh rang,
bình tỉnh theo du kích đánh giặc suốt ngày đêm? Truyện cho thấy: những đứa trẻ
đã sống thật ấm áp trong sự đùm bọc, cưu mang đầy tình nghĩa và trách nhiệm của
bà con lối xóm, dù Ba Má chúng luôn vắng nhà.
b. Ký: được viết dưới nhiều dạng: ghi chép,
tùy bút, truyện ký.
- Tùy bút: thường ngắn gọn, súc tích chứ không tài hoa uyên
bác như Nguyễn Tuân, cũng không rắn rỏi hào hùng như Nguyễn Trung Thành. Câu
văn bình dị, thân mật, khiêm tốn; giọng điệu thiết tha; có sức vang vọng sâu xa
trong tâm hồn người đọc: Chúng phải chết trên những hố bom do chúng gây ra,
trên những căn hầm chúng lùa hơi độc, trên những vòm cây chúng làm trụi
lá, trên những bờ kinh xanh biếc này.
Tùy bút Nguyễn Thi đề cập và giải quyết hàng loạt mối quan hệ
thuộc về thế giới quan, nhân sinh quan thời chiến: sống - chết; riêng - chung;
sướng - khổ; thể hiện tấm lòng yêu nước và thủy chung của đồng bào Nam bộ; khẳng
định sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam. Sức sống ấy bắt nguồn từ truyền
thống nhân nghĩa, vì: Khi nhân nghĩa bị xúc phạm thì nhân nghĩa lại mang sức quật khởi
ghê gớm... Một sự đổ nát trỗi dậy trăm vạn niềm tin.
Những tùy bút tiêu biểu: Ðại hội anh hùng, Những câu nói
trong đại hội, Dòng kinh quê hương.
- Bút ký tiêu biểu: Những sự tích ở đất thép, tập trung thể
hiện sự bình tỉnh, gan dạ của chúng ta giữa sự lồng lộn tuyệt vọng của kẻ thù ở
đất thép Củ Chi. Nhà văn hình như không bằng lòng với thuyết lý chung chung về
chủ nghĩa anh hùng Cách mạng, nên đã xông xáo đi tìm hiểu và thể hiện thật cụ
thể, sinh động nhận thức của chính mình bằng hình tượng nghệ thuật.
- Truyện
ký tiêu biểu: Người mẹ cầm súng, Uớc mơ của đất.
Người mẹ cầm súng: tác phẩm được Hội đồng Văn học nghệ thuật
của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tặng giải chính thức giải thưởng
văn học Nguyễn Ðình Chiểu năm 1960-1965. Nguyễn Thi viết tác phẩm
này nhằm hai mục đích. Thứ nhất, tập trung lý giải mối quan hệ giữa tư cách
công dân (phải đảm bảo chức năng xã hội) với tư cách người mẹ, người vợ (phải đảm
bảo chức năng gia đình). Ngay tiêu đề Người mẹ cầm súng cũng đã toát lên ý đồ
nghệ thuật của tác giả. Thứ hai, lý giải nguồn gốc tạo nên người anh hùng và
quá trình phát triển hợp lý những tính cách anh hùng: từ tự phát đến tự giác. Ðặc
sắc nghệ thuật của tác phẩm là điển hình hóa với chất Uït Tịch - điển
hình tính cách Nam bộ, tức là sức mãnh liệt đến hồn nhiên của cá tính, thể hiện
ở những hoàn cảnh, việc làm, câu nói không lẫn với ai khác (ném ớt bột vào mặt
con gái địa chủ, trèo lên ngọn dừa cao đái xuống; những câu nói nổi tiếng như:
còn cái lai quần cũng đánh, đánh Tây sướng bằng tiên chứ cực gì,...)
Ước mơ của đất: những trang viết cuối cùng của nhà văn, kể lại
cuộc đời người nữ anh hùng Nguyễn Thị Hạnh. Tác phẩm còn ở dạng bản thảo.
- Tiểu thuyết: Nguyễn Thi thường viết nhiều tác phẩm
cùng một lúc nên hầu hết đều dở dang khi nhà văn hy sinh. Tuy nhiên, với dung
lượng hiện thực ngồn ngộn phong phú, tươi rói sức sống cộng với tài năng đang độ
sung sức của tác giả- những tác phẩm dở dang ấy vẫn mang giá trị văn học to lớn.
Các tác phẩm tiêu biểu: Ở xã Trung Nghĩa, Sen trong đồng, Cô gái đất Ba Dừa.
Ở xã Trung Nghĩa viết về vùng đất sẽ là chiếc nôi cho phong
trào Ðồng Khởi sau này. Tác phẩm tuy mới 3 chương, chưa có đầu đề, nhưng
chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Thi. Nó
đánh dấu một chặng đường mới, khi mà nhà văn tích lũy dồi dào vốn sống, thuộc
lòng tính cách Nam bộ, bắt đầu triển khai những chất liệu ấy trong một hình thức,
một thể loại quy mô hơn.
Ở xã Trung Nghĩa thể hiện tính hoành tráng của cả một giai đoạn
lịch sử. Không khí truyện được tập trung xây dựng ngay từ đầu, đó là sự
căng thẳng trong cái thế tức nước, báo hiệu cơn giông tố lịch sử tất yếu phải đến.
Nhân vật truyện gồm nhiều tuyến tương phản nhau, rất đa dạng. Những nhân vật
chính được chạm khắc thành hình tượng khó quên (ông Tư Trầm, chị Hai Khê, những
tên quỷ sứ như đại diện Hiếm, cảnh sát Âu). Nhà nghiên cứu Vũ Ðức Phúc có nhận
xét: Cuốn tiểu thuyết viết dở Ở xã Trung Nghĩa có thể so sánh với Tắt đèn. Lời
văn của anh nhẹ nhàng, giàu chất thơ mà rất sâu sắc, mỗi trang đều lôi cuốn người
đọc.
Sen trong đồng cũng là một truyện dài dở dang. Nhân vật
chính: cô Sáu giao liên. Từ trong mất mát, tù đày và những khắc nghiệt của
hoàn cảnh, trên con đường gian khổ tìm đến với Cách mạng- phẩm chất anh hùng, bất
khuất của người phụ nữ Nam bộ được khẳng định: Mười tám tuổi, xa nhà đi tìm đến
với Cách mạng. Mang theo trong hành trang một trái thơm, một buồng chuối
chín, một bộ đồ phèn trên ngươiì và một bộ nữa rách te tua bỏ trong một cái tụng
bàng.
Cô gái đất Ba Dừa tập trung khắc họa phẩm chất trung hậu, đảm
đang của người phụ nữ Việt Nam. Nhân vật chính: cô Ba. Bằng tính cách mạnh
mẽ và tinh thần của người Ðảng viên, cô đã vượt qua những khó khăn lớn trong cuộc
sống gia đình để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
*** Nhận xét: Truyện và ký của Nguyễn Thi là bản án đanh thép
tố cáo chế độ Mỹ Ngụy dã man, một dự báo của cuộc Cách mạng tất yếu xảy đến.
Hình ảnh người nông dân Nam bộ, đặc biệt là phụ nữ, được khắc họa bằng những
nét điển hình đẹp đẽ; dân tộc mà rất hiện đại, phù hợp với yêu cầu mới của Cách
mạng. Trang viết Nguyễn Thi góp vào văn học Cách mạng miền Nam một hương sắc
riêng, độc đáo.
III- ÐẶC ÐIỂM PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT:
1. Ở Nguyễn Thi, có sự hài hòa tuyệt vời giữa sống - chiến đấu
- sáng tác. Khuynh hướng sử thi ảnh hưởng quyết định, tạo nên nét gần gũi
giữa phong cách Nguyễn Thi với phong cách thời đại. Suốt đời, nhà văn tự nguyện
sáng tác bằng mồ hôi, nước mắt và cả máu từ trái tim mình để ngợi ca chủ nghĩa
anh hùng Cách mạng miền Nam. Trang viết Nguyễn Thi thể hiện thái độ dứt khoát,
lập trường tư tưởng vững vàng: tất cả vì nhân dân, vì tổ quốc. Nguyễn Thi thành
công nổi bật khi xây dựng những điển hình nông dân Nam bộ, đặc biệt là nhân vật
trẻ con và phụ nữ. Hình như ở đó luôn gửi gắm thật nhiều tâm sự, tâm huyết của
nhà văn.
2. Sắc thái đặc biệt trong phong cách Nguyễn Thi còn là sự
hài hòa giữa nhiều mặt đối lập về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật.
Luôn có sự cân đối, phù hợp giữa chất thơ trong sáng trữ tình với một hiện thực
đồ sộ, có tính sử thi, giữa hình thức bên ngoài ngắn gọn với nội dung bên trong
phong phú, dồi dào.
3. Nguyễn Thi có sở trường về phân tích tâm lý, nội tâm nhân
vật - như một nhà văn hiện thực. Mỗi nhân vật của ông mang một thế giới nội
tâm mênh mông, hấp dẫn người đọc. Tính cách nhân vật càng phong phú hơn khi được
khảo sát giữa nhiều mối quan hệ phức tạp (địch-ta, bạn bè, làng xóm, vợ chồng,
mẹ con,...). Hệ thống chi tiết trong tác phẩm Nguyễn Thi rất đa dạng, độc đáo,
nhiều sáng tạo nghệ thuật; thể hiện năng lực quan sát sắc sảo. (Cảnh gặp gỡ của
một đôi trai gái thời chiến: Chiều chiều Má đi làm mướn về, vì không tiền đi đò nên
vẫn lấy nón lá làm phao lội qua sông. Ba hồi đó còn là trai, cầm tầm vông đứng
gác bến đò. Một buổi Má xin giang xuồng, Ba nhất định không cho, Má liền phóng
xuống sông, lội. Xuồng Ba cập bến thì Má cũng lội tới bờ. Hai bên giáp mặt, Ba
cười hề hề, nhưng Má chẳng thèm dòm, hai mắt hứ một cái cóc rồi đi thẳng. Vậy
mà nên vợ nên chồng. Bởi vì chiều hôm đó, Má gánh cơm đi tặng bộ đội tầm vông
thì lại gặp Ba trong hàng ngũ đó).
IV- KẾT LUẬN CHUNG:
Nguyễn Thi sống không lâu, viết không nhiều nhưng cuộc đời với
sức vươn lên bằng khổ luyện và những di sản của ông đã khẳng định đóng góp
quý báu vào thời đại, vào công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc.
Bằng lao động nghệ thuật quên mình, trang viết Nguyễn Thi đã
thể hiện được sức sống mãnh liệt, sức quật khởi phi thường của con người Việt
Nam trước những thử thách sống còn của lịch sử; làm dấy lên niềm tin và lòng tự
hào dân tộc, củng cố nhận thức, khẳng định tư thế chính nghĩa trong chiến đấu.
Sáng tác của Nguyễn Thi góp phần làm phong phú, rạng rỡ diện
mạo văn học Việt Nam thời chống Mỹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét