Thứ Ba, 25 tháng 2, 2020

Xu hướng nhạc tình Duy Nhiên

Xu hướng nhạc tình Duy Nhiên
Xu hướng nhạc tình Duy Nhiên/ 
Lãng mạn/ Trữ tình - Nhóm Hải Phòng [1]
Lê Thương
Vào thời kỳ chuẩn bị và thành hình của Tân Nhạc Việt Nam, những nhạc phẩm có giá trị không phải chỉ đến từ thành phố nghìn năm văn vật là Hà Nội. Tại Hải Phòng, Lê Thương, Hoàng Quý, Hoàng Phú (sau này đổi tên là Tô Vũ), Phạm Ngữ, Canh Thân... cũng đã tụ họp thành một nhóm ca nhạc sĩ trẻ để bắt đầu sáng tác và hát phụ diễn cho những buổi diễn kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ tại Hải Phòng, hay theo ban kịch đi hát tại Hà Nội, Vĩnh Yên... Họ cũng còn là những hướng đạo sinh (người trừ Lê Thương làm nghề thầy giáo, sau khi đã bỏ dở đường tu nhà dòng) và hay tổ chức đi cắm trại hay đi hát tại các tỉnh lân cận bằng xe đạp.
Lê Thương là người có nhiều nhạc tình nhất trong bọn. Ông khởi sự bằng những bài như Tiếng Ðàn Ðêm Khu
ya, Một Ngày Xanh, Bản Ðàn Xuân, Thu Trên Ðảo Kinh Châu... Ông còn là người soan nhạc có nhiều tâm hồn thi sĩ nhất trong đám người tiền phong của nền Tân Nhạc. Lời ca của Lê Thương là những lời thơ tuyệt vời ngay từ lúc này cũng như mãi mãi về sau. Trong khi nhạc tình của các nhạc sĩ trẻ khác dùng nhiều câu, nhiều chữ thật sáo thì tình khúc của Lê Thương mới mẻ, thi vị hơn nhiều. Ví dụ bài Bản Ðàn Xuân mà tôi đã hát trên các sân khấu từ Bắc vào Nam trong những năm tháng tôi làm người du ca đầu tiên của nền Tân Nhạc:
Ðàn Xuân tủi lòng
Nảy cung đợi mong
Gieo ai oán trong khuê phòng
Tình tính tang, tang tính tình
Tình tính tang, tang tính tình
Lạnh lùng hơn gió ngoài đồng...
Trước hết, trong một bài hát về mùa Xuân như Bản Ðàn Xuân này, giống như các bạn đồng thời của mình, Lê Thương cũng mượn thiên nhiên để tỏ tình, nhưng trong ca khúc, ông đã nhân cách hóa sự vật : thiên nhiên là ông, ông là thiên nhiên. Những chữ lót, chữ đệm mà ta thường thấy trong dân ca cổ truyền như "tình tính tang, tang tính tình" được ông đua vào Tân Nhạc một cách rất hợp thời, hợp cảnh. Nét nhạc ngũ cung có thêm một bán âm thoáng qua, không có hại gì cho mầu sắc rất quê hương của ca khúc. Tiến trình giai điệu rất đẹp, có một câu nhạc chủ đạo được nhắc lại hai lần, vươn lên anacrouse (chỗ hứng khởi nhất của ca khúc), rồi tuần tự đi xuống, nghỉ ngơi ở cuối bài. Tối thiểu thì tôi cũng thấy, về sau, có hai bài bị ảnh hưởng nét nhạc Lê Thương. Ðó là Buồn Tàn Thu của Văn Cao và Chinh Phụ Ca của Phạm Duy... Chưa kể những bài khác của các tác giả khác. Tôi thích các câu ca trong Bản Ðàn Xuân:
Ngồi xe chỉ hồng
Hỏi ai hiểu không?
Tiếng oanh muốn nhắn lời hay những tiếng ngân
Như chiếc bóng người chưa dám nhấc chân
Chờ tin thơ chim hoàng oanh đưa
Còn xa bay trong áng sương mờ...
Tiếng đàn xuân do Lê Thương gảy lên, sau khi đến với thiếu nữ trong khuê phòng, sẽ tới thăm cảnh vườn, để nhủ hoa thả hương. Hoa sẽ lên tiếng:
Lời hoa kể rằng
Nhiều đêm rạng trăng
Thấy ai ướm má hồng
Ru những tiếng êm.
Hoa cũng muốn trời cho có trái tim
Ðể yêu riêng nhân tình hoa
Và Xuân tươi, tươi đến muôn mùa.
Bài hát tiếp tục:
Ðàn bao tuổi rồi
Ðàn ca chẳng ngơi.
Bao dây đứt trong quãng đời
Tình tang tang tính tính tình
Tình tang tang tính tính tình
Của tình duyên số mạng người.
Ðàn ca nửa lời
Ðể cung nhẹ lơi
Có dây nắn tiếng cười, dây nắn tiếng than
Dây nắn tiếng trầm, dây nắn tiếng vang
Tùy theo dây, tơ tình tơ duyên
Và theo dây luu luyến u huyền...
Cũng như các nhạc sĩ trẻ khác trong thời gian thành hình của Tân Nhạc, Lê Thương phổ nhạc những bài thơ của những thi sĩ tiền phong trong phong trào thơ mới. Bài thơ Bông Hoa Rừng của Thế Lữ khởi đầu bằng những nét nhạc leo núi:
Trèo lên đỉnh non cao
Lên đỉnh non cao
Nghe lời chim gọi gió
Nghe lời chim gọi gió
Gió dào dạt thưa
Bỗng đâu gặp gỡ tình cờ...

Thì ra Lê Thương gặp nàng sơn nữ, bông hoa rừng của Thế Lữ cũng như tôi ở tuổi 20, gặp cô gái hái mơ già (quả mơ già chứ cô gái thì chưa già) của Nguyễn Bính với một mối tình ấp úng mà thôi...
Ngoài bài thơ Bông Hoa Rừng của Thế Lữ này, những bài thơ Ngậm Ngùi của Huy Cận, Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư... từ lúc mới bắt đầu có Tân Nhạc cũng đã được Lê Thương đưa vào những ca khúc mang tên Tiếng Thùy Dương, Tiếng Hát Thu, nhưng tiếc thay ít người biết đến. Tài phổ thơ thành nhạc của Lê Thương rất cao, nhưng có lẽ vào lúc đó, Tân Nhạc chưa mạnh mẽ như sau này, một năm may ra chỉ có vài bài được trở thành ''top hit'', trong khi Lê Thương lại quá phong phú về phương diện sáng tác, vừa đem thơ nổi tiếng ra phổ nhạc, vừa đưa ra những bài do mình soạn cả nhạc lẫn lời. Những ca khúc Lê Thương phần nhiều xưng tụng tình yêu.
Nhạc tình yêu lúc đó, bất cứ một nhạc sĩ trẻ nào cũng đều viết ra và hát lên, nhưng nếu có bài nào còn vương vấn trong lòng tôi vào lúc tôi đã ngoài 70 tuổi, đó phải là bài Một Ngày Xanh của Lê Thương. Bài hát có một giai điệu mineure buồn lâng lâng, vì nét nhạc hay ngưng ở quãng ba thứ (tierce mineure) giống như nhạc điệu sa mạc chẳng hạn:
Trời khuya thanh vắng
Em ngồi bờ sông
Nhìn mây trăng trắng
Bay mờ trên không...
Nếu ta đã nghe nhạc tình của Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Dzoãn Mẫn rồi thì so với bài Một Ngày Xanh của Lê Thương, ta sẽ thấy bài của chàng Lê thi vị hơn, làm ta cảm động hơn, không những vì nét nhạc mà còn vì lời ca nữa. Hãy nghe lời tình của Lê Thương viết vào hồi 1939:
Từ xa đưa đến
Tiếng trống canh điểm đêm
Và tiếng dế kêu đềm êm.
Dưới sông có vầng trăng sáng
Chiếu trong lòng Ðà Giang, mầu quang...
Dưới đá anh có ghi những lời
Phối ước chung một lòng son
Tuy bây giờ anh đã ra đi
Lời thề còn ghi dưới cỏ xanh rì
Bên bờ Ðà Giang.
Em đưa kề bên má anh hôn
Anh thề cùng em
Bể cạn sông mòn, cuộc tình duyên...
Từ nay sông vắng im lìm lời ca
Ðời xanh em ngắn như đời ngàn hoa...
Một ngày xanh đã ghi vào đời anh
Cuộc tình duyên có khi nào anh quên?
Ngày nay trăng chiều trên bờ Ðà Giang
Lòng anh thấy thiếu mối tình mơ màng...
Sau nửa thế kỷ, đôi khi nhớ tới bài ca và ngồi hát một mình, tôi vẫn thấy hiện ra những ngày xanh của tôi, bờ Ðà Giang của tôi và lời thề ghi dưới đá của chàng thi sĩ/ nhạc sĩ Lê Thương của tôi...

Phạm Duy và Lê Thương, 
chốn miền Nam, ngày xa xưa...
Thời kỳ thành hình của Tân Nhạc cũng là thời kỳ thử thách. Ta đã thấy Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Văn Chung thử thách dung hòa hai hệ thống ngũ cung Việt Nam và thất cung Âu Tây trong nhạc mới. Lê Thương còn đi xa hơn nữa, ông dùng hẳn một âm giai của Nhật Bản Re Mi Fa La Sib để soạn bài Thu Trên Ðảo Kinh Châu. Lúc Lê Thương soạn bài này, quân đội Nhật chưa tới Ðông Dương, nên ta không thể nói rằng ông bị ảnh hưởng nhạc Phù Tang. Có thể vì đề tài là một mùa Thu trên một hòn đảo có cái tên là Kinh Châu, gần gũi với cái tên Ðông Kinh (TOKYO), cho nên nhạc sĩ họ Lê đã quyết tâm dùng hẳn một âm giai nhật bản. Gần dây, trong công trình khảo cứu về hát Quan Họ, người ta khám phá ra rằng bài Thu Trên Ðảo Kinh Châu của Lê Thương đã được tiếp thu vào loại hát hội (quan họ) của miền Kinh Bắc ngay từ thập niên 40.
Lê Thương, tuy vậy, vẫn không ra thoát được chủ đề "nhạc tình cảm thiên nhiên". Bài hát về mùa Thu trên một hòn đảo tưởng tượng sẽ được nối tiếp bằng một bài hát về mùa Xuân: Xuân Yêu Ðương đăng trên báo NGÀY NAY. Chàng nhạc sĩ lớn tuổi nhất của nhóm Hải Phòng này (ông sinh năm 1913) sẽ từ biệt hải cảng miền Bắc để vào Nam làm ăn, trước hết là ở An Hóa thuộc tỉnh Bến Tre, sau đó họ Lê sẽ lên sinh sống ở Sàigon. Cho tới khi nhạc tình của Lê Thương thiên về thể truyện ca với những bài tuyệt diệu như Nàng Hà Tiên, Hoa Thủy Tiên... Vào thuở 1942-44 này, chưa có những bài ca kể truyện theo đúng ý nghĩa của nó trong Tân Nhạc. Bài Nàng Hà Tiên báo trước những truyện truyền kỳ dã sử lung linh và vĩ đại của Lê Thương như Trên Sông Dương Tử, Hòn Vọng Phu... Ta hãy nghe truyện tình của Nàng Hà Tiên:
Ba trăm năm qua bên bờ Cửu Long Giang
Một người đàn bà hay xuống mé sông
Ðứng tiếp rước khách trẩy đò ngang
Lòng ngao ngán tiếc thân chưa có chồng...
Với một nét nhạc majeur rất lưu loát và với nhịp kể chuyện hơi nhanh, họ Lê kể rằng 300 năm về trước, có một người đàn bà làm nghề rước khách trẩy đò ngang, đang buồn phiền vì chưa có chồng thì:
Ngày kia tự nhiên có một thiếu niên nào
Từ quan san xa cách đâu tìm đến
Mới bước xuống xe vừa trông thấy cặp má đào
Chàng thiếu niên bèn ngỏ lời kết duyên...
Lê Thương chuyển nhẹ qua Do Mineur với nét nhạc thật là ngọt ngào:
Hai năm sau sinh một nàng Tiên...
Qua đoạn hai của ban nhạc, Lê Thương lại trở về với giọng Majeur và với một nhip đều đặn giống như một điệp khúc, kể truyện tiếp về cô Tiên, kết tinh của mối tình giữa cô lái đò - lại cô lái đò! - và chàng thiếu niên, teenager?:
Nàng nghịch đùa sông
Phá nước thay dòng
Nàng cầm nguồn mưa
Tưới ra Biển Hồ
Chiều chiều Nàng mong
Chờ một làn sóng
Ðến dâng cho Nàng khúc đàn
Âu yếm mơ màng...
Nàng tiên đó, nghịch đùa sông, lấy tay cầm nguồn mưa tưới qua Biền Hồ ở Cao miên... và chờ đợi làn sóng đưa đến cho Nàng khúc đàn âu yếm. Thế nhưng Nàng Tiên sẽ không được như Mẹ, không có người yêu, buồn rầu, đau khổ và biến thành một bến nước gọi là Hà Tiên:
Mươi mươi lăm năm sau, nàng Hà Tiên
Bực mình vì lòng sông thiếu chút duyên
Ðem thân tiên nương đi tìm Vịnh Xiêm
Họa chăng có bóng quý nhân độ thuyền.
Ngày kia một cơn gió mang tới biên thùy
Một công tôn đi đứng trông kiều quý
Bóng dáng quý nhân vừa trông đã thấy rằng
Hóa ra nàng gặp một giấc mơ
Tiên cô đi yêu một bài thơ...
Từ mộng thuyền quyên
Tới giấc mơ huyền
Lòng người được quen
Thú vui hoặc huyền
Từ rày Hà Tiên
Thành một bờ bến
Ðón đưa những người xuống đò
Ðể thấy mơ hồ.

Ngay từ lúc đó, ta đã thấy câu nhạc của Lê Thương rất dài, bằng chứng của óc sáng tạo, khác với những tài năng kém, chỉ soạn nổi những câu nhạc cụt thun lủn. Với đầu óc phong phú, Lê Thương còn sáng tạo ra một câu chuyện hư hư thực thực, chuyện người đẻ ra Tiên, rồi nàng Tiên biến thành một bến nước có thật ở miền cực Nam nước Việt... Sau này, hình như cuộc đời Việt Nam càng ngày càng trở nên rất ư tàn nhẫn, tôi không hề thấy trong Tân Nhạc Việt Nam những truyện ca thần tiên như của Lê Thương.
Tiếp tục soạn truyện ca, Lê Thương cho chúng ta bài Hoa Thủy Tiên. Cũng vẫn là những lời ca rất nên thơ, nét nhạc rất Việt Nam, với nhịp đôi dung dị mà ông sẽ dùng trong các nhi đồng ca sau này... nhất là với tài dựng những cốt truyện thần tiên, Lê Thương dùng âm nhạc để đưa chúng ta vào cõi không thực, cõi mộng mơ nhưng vẫn chan chứa tình người. Bài Hoa Thủy Tiên kể truyện:
... Một nghìn năm trước, trong đời Trần Nam quốc, có cô công chúa loà, cả đời nuôi nấng hoa. Nhưng có một năm, Trời làm mưa gió, làm giông tố khiến cho các hoa trên gác lầu phải một cơn đớn đau, Bạch Mẫu Ðơn trôi dạt mất đâu. Công chúa loà thương người và hoa quá, khấn Trời xin đền nụ hoa đã rơi. Nàng bầy trên gác, ước chừng mười tô nước, khấn xin ba tháng ròng, nhưng Trời chỉ cho nước trong. Phải qua đi mùa Hạ, mùa Thu... mãi cuối Ðông đó, Trời mới cho nàng Thủy Tiên xuống đời. Thấy công chúa loà, Nàng Thủy Tiên bước ra, trình bầy trên bát nước, ba lòng vàng thơm ngát, khiến cho đôi mắt loà của nàng công chúa bỗng sáng ra...
Thật là đáng tiếc cho Việt Nam chúng ta, phải sống năm mươi năm chinh chiến, ly loạn, cho nên trong nhạc mục dành cho tuổi thơ, chúng ta hiếm những bài ca thần tiên như vậy.
Là một nhà giáo, ngoài mấy bài hát thần tiên tôi vừa kể, soạn ra trong thời kỳ phát triển sơ khởi, Lê Thương còn soạn khá nhiều ca khúc cho nhi đồng, học sinh như Thằng Cuội, Tuổi Thơ, Học Sinh Hành Khúc. Bài này phổ thông đến độ có lời hát vui : học sinh là người hủ tíu ăn hai ba tô...
Tôi sẽ có dịp để nói thêm về của tiến trình của nhạc sĩ Lê Thương trong những chương tới. Nhất là về nhạc phẩm lớn lao của ông là ba bài Hòn Vọng Phu...
Hoàng Quý


(1920-1946)
Gần đây tôi mới biết rằng người nhạc sĩ tiền phong mang tên Hoàng Quý là học trò của Lê Thương tại trường Trung Học Lê Lợi ở Hải Phòng vào cuối thập niên 30. Và vào năm 1939, đúng lúc phong trào Nhạc Cải Cách vừa ra đời, cùng với các ca nhạc sĩ tài tử ở đất Cảng lúc đó là Phạm Ngữ, Canh Thân, Hoàng Phú (tức Tô Vũ sau này), Hoàng Quý là người đầu tiên trình diễn nhạc Lê Thương tại Nhà Hát Lớn Hải Phòng.
Trước khi trở thành người soạn nhạc tiền đạo của xu hướng nhạc hùng, Hoàng Quý cũng đã, trước hết, đi vào lãnh vực nhạc tình, với những bài nhạc tình yêu như Tú Uyên, Cô Láng Giềng hay những bài nhạc tình quê như Chiều Quê, Ðêm Trăng Trên Vịnh Hạ Long, Chùa Hương... ở lãnh vực nào thì nhạc của ông cùng đều tươi sáng, khác hẳn với nhạc tình buồn bã, ủy mị của đa số nhạc tình thời đó. Người ta thường ví Hoàng Quý trong nhạc cũng trong trẻo và hồn nhiên như Nguyễn Nhược Pháp trong thơ vậy. Về nhạc ngữ, Hoàng Quý cũng pha trộn cả hai thang âm Ðông và Tây như các bạn đồng hành của ông trong thời này.
Tú Uyên là đầu đề bản nhạc tình của Hoàng Quý mà ít người biết đến, kể cả tôi. Còn bài hát rất tình tứ của ông nhan đề Cô Láng Giềng thì được nhiều người hát, tôi có lẽ là một trong những người đầu tiên đem nó đi hát rong. Bài này cũng dùng nét nhạc ré mineure như nhiều bài hát về tình vào thuở đó:
Hôm nay trời Xuân bao tươi thắm
Dừng bước phiêu du về thăm nhà
Chân bước trên đường đầy hoa đào rơi
Tôi đã hình dung nét ai đang cười...
Tôi mơ trời Xuân bao tươi thắm
Ðôi mắt trong đen mầu hạt huyền
Làn tóc mây chiều cùng gió ngàn dâng sóng
Xao xuyến nỗi niềm yêu...
Cô láng giềng ơi
Không biết cô còn nhớ đến tôi?
Giây phút êm đềm ngày xưa kia, khi còn ngây thơ
Cô láng giềng ơi
Tuy cách xa phương trời tôi không hề
Quên bóng ai bên bờ đường quê
Ðôi mắt đăm đăm chờ tôi về.
Năm xưa khi tôi bước chân ra đi
Ðôi ta cùng đứng bên bờ tường vi
Em nói rằng em sẽ chờ đợi tôi
Ðừng nói đến phân ly...
Cô láng giềng ơi
Nay bóng hoa bên thềm đã thắm rồi
Chân bước vui bên bờ đường quê
Cô có hay chăng giờ tôi về...
Dù rằng khi Hoàng Quý vừa trở về tới quãng đường quê cũ, nơi vẫn có hoa tường vi nở thắm, thì chàng bỗng nghe thấy tiếng pháo nổ nơi ngõ xưa, tiếng pháo mừng cô láng giềng đi lấy chồng!!!. Nhưng qua lời 2 của bản tình ca này, ta thấy chàng cũng không buồn bã lắm đâu, vâng, nó chỉ buồn vừa đủ để tiễn đưa tôi (Hoàng Quý) lên đường, tiếp nối bước đường phiêu du, không ai có thể biết bao giờ tôi về... Cũng giống như tâm trạng của tôi (Phạm Duy) khi vừa bỏ nhà ra đi và đem bài ca này đi hát, ngay từ khi nó mới ra lò...
Qua bài ca tình ái đầu tay và rất nên thơ này, chúng ta thấy Hoàng Quý có thể chưa vượt qua được các bạn đồng hội, đồng thuyền, (và đồng tỉnh, như Văn Cao chẳng hạn...) nhưng ông sẽ là một trong hai người đứng đầu trong loại nhạc vui tươi, khỏe mạnh và hùng tráng mà tôi sẽ nói tới trong những chương sau.
Xu hướng nhạc tình Duy Nhiên/ 
Lãng mạn/ Trữ tình - Nhóm Hải Phòng [2]
Văn Cao
Chàng Văn, lúc tuổi 20
Bên cạnh Hoàng Quý, tại Hải Phòng, còn có thêm các ca nhạc sĩ tài tử thuộc loại tiền phong như Phạm Ngữ, Canh Thân, Hoàng Phú (em của tác giả Cô Láng Giềng) nhưng trong chặng đầu của Tân Nhạc này, họ chưa làm quen với quần chúng qua các bản nhạc tình. Họ là những ngôi sao trong xu hướng nhạc vui khỏe, đa số nhắm vào tình tự quê hương mà tôi sẽ nói tới trong bài tới. Chỉ qua tới thời kỳ sau, thời kỳ khởi đầu cho sự phát triển âm nhạc mới, người ta mới được thưởng thức một câu chuyện ái tình rất ư lãng mạn qua một ca khúc tuyệt diệu là Em Ðến Thăm Anh Một Chiều Mưa của Hoàng Phú sau khi ông đổi tên là Tô Vũ.
Nhưng ở Hải Phòng, đã có Văn Cao! Ðã có Văn Cao trong nhóm ÐỒNG VỌNG (của Hoàng Quý và bạn bè) với ít nhiều bản nhạc vui khoẻ, nhưng ở đây, chúng ta đang đả động tới nhạc tình. Và nói tới nhạc tình thì... Văn Cao là nhất!
Từ khi Tân Nhạc ra đời, chúng ta đã có một loại nhạc tình mà đặc tính là lãng mạn, qua các nhạc phẩm của Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Thương, Văn Chung, Lê Yên, Dzoãn Mẫn... Tất cả những bản nhạc tình đó, cũng giống như nền THƠ MỚI Việt Nam lúc bấy giờ, bị ảnh hưởng văn chương và thi ca lãng mạn Pháp. Cụ thể mà nói, những người viết nhạc tình đầu tiên của Việt Nam đều theo lãng mạn tính trong cá nhân chủ nghĩa của Pháp.
Chẳng khác chi lớp nghệ sĩ trẻ vào lúc đó, Văn Cao cũng bị mùa Thu ám ảnh cho nên những bản nhạc tình lãng mạn đầu tiên của ông đều nói tới mùa Thu. Những bài như Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu còn pha trộn thêm cái buồn của Ðông Phương. Lời ca của Thu Cô Liêu nghe như bài thơ Ðường:
Thu Cô Liêu tịch liêu
Cô thôn chiều
Ta yêu thu, yêu Mùa Thu...
Vàng hoen đáy nước, son rõ đường đi
Một mùa thi, một mùa thi
Lá xanh rơi rụng buồn chi lá vàng...
Nhạc điệu thì theo nhạc chủ thể Tây Phương (musique tonale) với những áp-âm (notes sensibles) làm cho nét nhạc có nhiều cảm tính. Nhịp điệu là thể valse đầy lưu luyến và cũng đầy luyến tiếc:
Trăng ấp lạnh non sương cứng lá
Ðã từng nghe rõ biết thu sang
Hồn theo cánh gió lướt bay tìm em
Một chiều êm, một chiều êm...
Cũng với nhạc thuật này, Văn Cao soạn bài Cung Ðàn Xưa, lần này thì nói tới mùa Xuân nhưng lại là một một Xuân đã tàn, đã chết. Tuy là một bài hát ngắn, nhưng Văn Cao cũng chia ra 4 đoản khúc rõ ràng. Ðoạn đầu nói tới cung đàn năm xưa:

Hồn cầm phong hương
Hình bóng Xuân tàn
Ngày dần buông trôi
Sầu vắng cung đàn.
Lời đàn năm xưa
Xe kết đôi lòng
Lời đàn năm nay
Chia rẽ đôi lòng....
Ðoạn 2 nói tới cung Thương, cung Nam mà Lê Thương, Phạm Duy cũng đều nói tới qua những bài Tiếng Ðàn Xuân, Khối Tình Trương Chi:
Cung Thương là tiếng đàn
Cung Nam là tiếng người
Ai oán khúc ca cầm chìm rơi
Tình duyên lãng đãng nhớ thương dần pha phôi.
Ðoạn 3 chuyển qua một nhịp điệu khác, nói tới sự buồn rầu trong cung đàn xưa:
Cung đàn ngân
Buồn xa vắng trong tiếng thầm
Buồn tê tái trong tiếng ngân
Buồn như lúc Xuân sắp tàn
Ôi đàn xưa
Còn vang nhắc chi đến người
Lòng ta tắt bao thắm tươi
U hoài duyên đưa...
Thì ra tất cả ba đoạn nói tới một cung đàn xưa đó chỉ muốn nhắc tới một người mà Văn Cao diễn tả một cách tuyệt mỹ, một người tình tưởng tượng có đôi mắt giữ lại mùa Xuân, có đôi chân đi tới đâu hoa nở tới đó, có thân hình thơm hương, có tiếng nói khơi dậy thương yêu... khiến cho hiện thân của anh Trương Chi là Văn Cao đó, bây giờ đã phải cất lên tiếng đàn giao hoan và dệt nên không biết bao nhiêu là mộng mị:

Chiều năm xưa
Gót hài khai hoa
Mắt huyền lưu Xuân
Dáng hồng thơm hương
Chiều năm nay
Tiếng người khơi thương
Tiếng đàn giao hoan
Giấc mộng chàng Trương...
Bài hát sẽ trở lại Ðoạn Ðầu để hết.


Ít lâu, sau thời kháng chiến...
Tôi muốn nói tới hai bài hát Thu Cô Liêu, Cung Ðàn Xưa này là vì, đáng tiếc thay, rất ít người biết tới những bản nhạc tình đầu tay của Văn Cao, trong đó ta đã thấy manh nha những hình ảnh, những ý tình, những cái đẹp mà Văn Cao sẽ phát triển tột độ trong hai bài ca bất hủ là Thiên Thai và Trương Chi. Những cô hái mơ, cô bán hoa, cô hàng nước, cô lái đò, cô láng giềng... mà ta thấy xuất hiện trong các bản nhạc tình thuở đó, làm sao mà có được những gót hài khai hoa, mắt huyền lưu Xuân, dáng hồng thơm hương... như trong bản Cung Ðàn Xưa của Văn Cao? Chỉ cần có 12 chữ, và dù chỉ để xưng tụng một người tình tưởng tượng mà thôi, Văn Cao đã đưa nhạc tình tiền chiến lên tới một cao độ vượt khỏi những khuôn sáo cũ mèm.
Sau những bản nhạc tình đầu tay xuất sắc như vậy, Văn Cao soạn Suối Mơ và Bến Xuân. Lúc đó, chưa ai có thể mô tả cái đẹp của con suối trong rừng Thu như Văn Cao:
Suối mơ
Bên rừng Thu vắng
Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng
Ngày chưa đi sao gió vương
Bờ xanh ngắt bóng đôi cây thùy dương...
Hoặc người đẹp trong cảnh đẹp nơi Bến Xuân :
Tới đây chân bước cùng ngập ngừng
Mắt em như dáng thuyền soi nước...
Tới đây mây núi đồi chập chùng
Liễu dương hơ tóc vàng trong nắng...
Trong cả hai bài nhạc tình về mùa Thu và mùa Xuân này, bao giờ nét nhạc mineure mở đầu cũng rất là lâng lâng rồi cũng sẽ chuyển qua một nét nhạc majeure ngắn để diễn tả một niềm vui thoáng qua. Hình ảnh người tình trong cả hai bài hát này đều rất là lộng lẫy, cao sang. Tình cảm của cả hai bài nhạc tình đều không dìm con người vào cõi u tối, trái lại làm cho người nghe thấy nguôi ngoai, sảng khoái. Con suối trong rừng Thu buồn muôn thuở là vì còn lưu luyến hương vị tình yêu chúng ta:
Suối ơi
Nghe rừng heo hút
Dòng êm đưa lá khô già trút
Còn như lưu hương yêu dấu
Với suối xưa trôi nơi đâu?
Ðứng trên bến Xuân để nhìn những cánh buồm xa và nghe tiếng chim ca lưu luyến cuộc tình vừa qua của chúng ta:
Sương mênh mông che lấp kín non xanh
Ôi cánh buồm nâu còn trên lớp sóng xuân
Ai tha hương nghe ríu rít oanh ca
Cánh nhạn vào mây thiết tha
Lưu luyến tình vừa qua...
Văn Cao nổi danh rất sớm vì một bài hát về mùa Thu là bài Buồn Tàn Thu, nhưng bài này không có giá trị nghệ thuật cao bằng những bài tôi vừa nói tới. Vì Buồn Tàn Thu được hát trên sân khấu gánh hát rong và trên Ðài Phát Thanh Saigon trong những năm 43-45 là lúc Tân Nhạc còn mới phôi thai, cho nên nó được phổ biến nhiều hơn là Thu Cô Liêu hay Cung Ðàn Xưa... Nhưng những bài tình ca nhỏ nhặt đó sẽ bị mờ đi khi Thiên Thai và Trương Chi ra đời. Với tài năng đã đến độ chín mùi, Văn Cao sẽ dắt ta tới đỉnh cao nhất của ái tình cũng như sẽ đưa ta vào cõi sâu thẳm nhất của khổ đau với hai câu chuyện cổ dân gian biến thành hai bản tình ca muôn thuở.
Tôi đã có dịp nói tới không khí Ðường Thi trong nhạc Văn Cao, nghĩa là nói tới chất thơ trong sáng, cô đọng ngay từ trong những bản nhạc đầu tiên của ông. Ta thấy những bài Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu... như có vẻ vừa thoát ra từ khung cảnh
THU HỨNG của Ðỗ Phủ. Nghe câu hát trong bài Cung Ðàn Xưa: "Chiều năm xưa gót hài khai hoa, mắt huyền lưu Xuân, dáng nồng thơm hương" ... thì ta nghe ra như một câu thơ của Thôi Hiệu... Nhưng trong thời kỳ thành hình và phát triển của Tân Nhạc, Văn Cao cũng không phải là chàng nhạc sĩ trẻ tuổi độc nhất đã bị ảnh hưởng của Thơ Ðường. Nhạc sĩ Lê Thương mà đã chẳng biết dùng khung cảnh TRĂNG QUAN SAN của Lý Bạch để soạn ra câu hát: "Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn" khiến cho ba bản Hòn Vọng Phu của ông đã trở thành bất diệt đó à?

Có lẽ cũng cảm thấy ma lực của Ðường Thi trong Tân Nhạc cho nên về sau này tôi cũng mượn không khí: "Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự - Dạ bán chung thinh đáo khách thuyền" của Trương Kế để soạn ra câu hát trên sông Lô: "Thuyền tôi đậu bến Sông Lô - Nửa đêm nghe tiếng quân thù thở than"...
Nếu chúng ta đi xa thêm vào dĩ vãng, ta lại còn thấy trong truyền thống Hát Ả Ðào, những bài thơ như Tương Tiến Tửu, Tiền Hậu Xích Bích... của Thơ Ðường đã trở thành những điệu hát hoàn toàn Việt Nam. Còn trong sân khấu Cải Lương Miền Nam, thì cũng lại có hẳn một điệu hát được gọi tên là Dạ Bán Chung Thinh. Ai cũng bị ảnh hưởng Ðường Thi mà chẳng nói ra hay chưa có dịp để nói ra. Nhưng với bài Thiên Thai ra đời vào năm 1944 thì Văn Cao đã không ngần ngại viết mấy câu đề tựa như sau:
"... Ảnh hưởng sông nước khúc Thiên Thai cổ trong khung cảnh huyền diệu của Ðường Thi với hai truyện Thiên Thai và Ðào Nguyên. Người Sông Ngự đã lạc cảm xúc rồi. Mùa Xuân Giáp Thân, Văn Cao..."
Thiên Thai
Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Ðào Nguyên.
Kìa đường lên tiên,
Kìa nguồn hương duyên,
Theo gió tiếng đàn xao xuyến.
Phím tơ lưu luyến
Mấy cung u huyền
Mấy cung trìu mến
Như nước reo mạn thuyền...
Ta hãy thử xem những bài thơ Ðường mà Văn Cao vừa kể ra như Ðào Nguyên Hành của Vương Duy và Lưu Nguyễn Nhập Thiên Thai của Tào Ðường đã có những gì để khiến cho người nhạc sĩ mang thêm bí danh là Người Sông Ngự này đã phải lạc cảm xúc? Trong cuốn ÐƯỜNG THI in tại Saigon vào năm 1971, Giáo Sư Phạm Liễu đã cho rằng cảnh Ðào Nguyên là cảnh đẹp vô cùng lý tưởng. Bài thơ của Vương Duy dẫn chúng ta vào một khung cảnh thần tiên:
Chiếc thuyền câu đẩy đưa trên sông nước
Mê sắc trời núi đẹp ánh xuân xa
Ðôi bờ Ðào Hoa, bến thuyền xưa ấy
Ngồi ngắm nhìn cây thắm, không biết xa...
Chốn suối hoa đào thần tiên đó mà có được, chẳng qua cũng chỉ vì thi sĩ có quá nhiều gian khổ trong cuộc đời cho nên đã phải tạo ra cho mình một nơi để ẩn lánh. Một nơi mà sau này thi bá Vũ Hoàng Chương bước vào thì phải lạc lối, người thơ của lên đường Tản Ðà tới được thì, sau nửa năm tiên cảnh, một bước trần ai... sẽ phải giã biệt nơi cảnh đẹp lý tưởng đó với tiếng suối tiễn, tiếng oanh đưa.... và nếu chúng ta có tới được thì cũng chẳng ở được lâu, cũng giống như truyện hai chàng thư sinh mang họ Lưu, họ Nguyễn lạc vào cõi Thiên Thai vậy. Ở dưới trần thì mơ lên tiên cảnh. Ở tiên cảnh thì lại đòi về dương trần... Ðó là thân phận con người, la condition humaine.
Bài thơ của Tào Ðường thì diễn tả cảnh hai chàng thư sinh đi hái thuốc, không ngờ lại tới được chốn Ðào Nguyên:
Khe cây, lối đá nhận đường vào
Hoa cỏ không vương mảy bụi nào...
Nhìn bóng dáng mây quên việc trước
Trông chiều cây nước ngỡ chiêm bao
Muốn biết về đâu, non nước ấy
Hỏi thăm, nên tới suối Hoa Ðào...
Người Sông Ngự/Văn Cao đã thú nhận rằng mình bị ảnh hưởng sông nước của hai truyện Ðào Nguyên, Thiên Thai cho nên đã soạn ra một bài hát. Một bài hát, theo tôi thật là tuyệt diệu. Nó vừa có tính chất trường ca, vừa có tính chất nhạc cảnh. Nếu như hình thức ca khúc trong Tân Nhạc Việt Nam cho tới năm 1944 này vẫn còn nằm trong khuôn khổ một đoản khúc được ước định trong một số khuôn nhạc nào đó, với một lối chuyển cung, chuyển điệu công thức nào đó... thì bản Thiên Thai của Văn Cao đã vươn lên một hình thức rất lớn, chia ra nhiều đoạn, nhiều cảnh, gồm tới con số 94 khuôn nhạc, chan chứa những giai điệu thần tiên và những lời ca thần diệu.
Với tài năng đã nở rộ cùng với bước đi tới của Tân Nhạc, Văn Cao mô tả cảnh đầu của bài Thiên Thai của ông, cảnh hai chàng Lưu Nguyễn lạc tới Ðào Nguyên:
Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Ðào Nguyên...
Sau khi mở ra một tiếng hát của ai không biết, hát vang lừng trên sóng để đẩy đưa hai chàng Lưu Nguyễn lạc tới Ðào Nguyên... thì, với một nét nhạc leo thang, Văn Cao vẽ ra con đường lên tiên, nơi nguồn hương duyên, theo gió bay lên với tiếng đàn xao xuyến... Ngay trong cảnh đầu của bài ca, ngay từ khi con thuyền nào đó (con thuyền câu của ÐÀO NGUYÊN HÀNH?) đưa hai kẻ si tình này đi vào cõi mộng, Văn Cao chỉ nói tới phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền, mấy cung trìu mến như nước reo mạn thuyền... Tuyệt nhiên không có tả cảnh. Con đường lên tới suối hoa đào cũng không phải qua khe cây hay lối đá để nhận đường vào... như trong bài thơ của Tào Ðường. Tôi thì nghĩ rằng đây có lẽ là chiếc thuyền của anh Trương Chi mà Văn Cao đã cho hai chàng Lưu Nguyễn mượn tạm. Và những âm ba của giọng hát mà Văn Cao nói tới trong đoạn này đã làm cho hoa đào nơi suối tiên phải rụng cánh, có lẽ đó chính là tiếng hát của người thợ chài trên Sông Ngự, trong cuộc đời có thực hay trong cổ truyện lung linh vậy. Tiếng hát đưa đẩy con thuyền tình trôi trên nước ngọc tuyền, và người trên thuyền cũng thấy quê hương dần xa lấp trong núi ngàn như trong hai bản Ðường Thi... để gặp một tiếng hát khác, tiếng hát của bầy tiên bên bờ Ðào Nguyên:
Âm ba, thoáng rung cánh đào rơi
Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời.
Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan
Quê hương dần xa lấp núi ngàn
Bâng khuâng chèo khua nước ngọc tuyền
Ai hát bên bờ Ðào Nguyên...
Trong đoạn này, Văn Cao đã chuyển nét nhạc một cách rất tài tình, dùng những nốt-bán-cung để di chuyển rất nhanh chóng câu hát đi từ một chủ âm mineure này qua chủ âm mineure khác, cho ta thấy được rất nhiều mầu sắc của khung cảnh thần tiên này. Mầu sắc ở đây lại không có gì là sặc sỡ, nó mơ hồ, nó nên thơ, nó huyền diệu...
Ai hát bên bờ Ðào Nguyên? Ðó là bầy thiên tiên đang đứng hát đón chờ hai gã tình lang tại một nơi còn nguyên vẹn trinh tiết bởi vì mùa Xuân ở đây chưa bao giờ gặp bướm trần gian tới làm cho Xuân phải ô uế, và mùa đào thì theo dòng ngày tháng chưa hề bao giờ tàn. Với một nhạc điệu rất đẹp chảy dài từ bát độ trên xuống bát độ dưới, với một nhịp điệu lẳng lơ nhưng thanh thoát, Văn Cao cho chúng ta một đoản khúc có thể là khúc Nghê Thường mà ta vẫn nghe nói tới trong Ðường Thi:
Thiên Thai
Chốn đây hoa Xuân chưa gặp bướm trần gian
Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần.
Thiên tiên
Chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm
Khúc Nghê Thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn...
Nhạc bỗng sáng lên, chuyển qua giọng majeure nhưng lời ca thì vẫn chỉ nói tới tiếng đàn, tiếng nhạc... Tuyệt nhiên không nới tới người. Bầy tiên chỉ là hư ảnh. Biết đâu, ngay cả hai chàng Lưu Nguyễn cũng không có mặt trong bài ca? Rồi nhạc lại chuyển vội về giọng mineure để nói rằng tiếng đàn xui chúng ta quên đời dương thế, tiếng đàn non tiên cũng biết khao khát cuộc tình duyên:
Ðàn soi trăng lên, nhạc lắng tiếng quyên
Ðây đó nỗi lòng mong nhớ
Này khúc Bồng Lai
Là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi.
Ðàn xui ai quên đời dương thế
Ðàn non tiên đàn khao khát khúc tình duyên...
Cho mãi tới bây giờ Văn Cao mới hé cho ta thấy cuộc ái ân nổi dậy giữa người tiên người phàm bằng cách quay lại với nhạc đề chính trong bài ca:
Thiên Thai
Ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian
Ai ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần...
Ðàn phách lại nổi lên. Nhạc Văn Cao rộn rã một cách khác thường. Gió hắt đi những tiếng hát. Những tiếng hát này sẽ làm se lòng người mỗi khi được nghe lại. Lưu Nguyễn quên trần hoàn rồi. Họ cùng bầy tiên đàn ca một vài ba thế kỷ:
Gió hắt trầm tiếng ca
Tiếng phách ròn lắng xa
Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta.
Ðào Nguyên trước, Lưu Nguyễn quên trần hoàn
Cùng bầy tiên đàn ca bao năm.
Nhớ quê chiều nào xa khơi
Chắc không đường về tiên nữ ơi...
Rồi cũng với nhạc đề này, Văn Cao nói tới sự quay trở lại đường tiên của hai ông cụ già Lưu Nguyễn, nhưng than ôi, Ðào Nguyên đã biến mất rồi. Chỉ còn rền lại tiếng ca của cõi tiên:
Gió hắt trầm tiếng ca
Tiếng phách ròn lắng xa.
Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta.
Ðào nguyên trước, Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm Ðào Nguyên, Ðào Nguyên nơi nao
Những khi chiều tà trăng lên
Tiếng ca còn rền trên cõi tiên...
Tuy viết ra một bản hát vừa có tính chất trường ca, vừa có tính chất nhạc cảnh, nhưng Văn Cao không tả thực trong bài Thiên Thai này. Tất cả những hình ảnh chính của câu truyện cổ như hai chàng Lưu Nguyễn, bầy thiên tiên hoặc những cảnh vật như suối hoa đào, chiếc thuyền lan, nước ngọc tuyền, đều được mô tả một cách rất mơ hồ... giống như trong một giấc mộng vậy. Ta biết là có con thuyền chở Lưu Nguyễn tới cõi Thiên Thai, ta biết là có bầy thiên tiên múa hát dâng trái đào thơm... nhưng ta không thấy được họ. Khi cùng người yêu xây được ngôi nhà cỏ bên suối mơ hay trước bến xuân với hai tình khúc trước, thì Văn Cao có thể mời đón chúng bước vào căn nhà bên chiếc cầu soi nước để ngồi nhìn đàn nai đùa trên đống lá vàng tươi. Nhưng trong Thiên Thai, cõi mơ của Văn Cao, chúng ta không thể nào bước vào cái vườn cấm này được. Ðây là cõi riêng của Người Sông Ngự. Nhưng ta lại được sự tự do tuyệt đối để nghe lên toàn thể tiếng đàn, tiếng hát vút lên từ đầu tới cuối của trường khúc Thiên Thai này, tiếng đàn, tiếng hát mà tôi đã cho là của anh Trương Chi trong truyện cổ của chúng ta, và nhạc sĩ Văn Cao đã cho Thiên Thai mượn tạm. Thiên Thai là cõi riêng của Văn Cao. 
Trương Chi mới là tiếng hát của Văn Cao.
Văn khi còn nhanh nhẹn...
Thuở tôi còn nhỏ, ở Hà Nội thường có những người đi hành khất bằng giọng hát, nghĩa là họ đến trước cửa từng nhà để hát những câu chuyện cổ Việt Nam, hát xong thì ngửa tay xin tiền. Tôi vẫn còn nhớ hình ảnh người ca sĩ/ăn mày đó, miệng thì hát, tay thì đập vào cái hộp sắt bỏ trong túi áo để đập nhịp cho bài hát. Và hình như anh ta chỉ có một bài hát duy nhất để làm vũ khí cho nghề đi ăn xin của anh mà thôi. Ðó là bài hát về anh Trương Chi:
Ngày xưa có anh Trương Chi
Người thì thậm xấu, tiếng hát thì thật hay
Cô Mỵ nương vốn ở Lầu Tây
Con Quan Thừa Tướng ngày rày cấm cung...
Sau này, tôi vẫn thường cám ơn thầm người hành khất bằng giọng hát đó, bởi vì ngay từ khi tôi chưa có đủ trí khôn để hiểu biết cuộc đời thì anh ta đã nuôi dưỡng tình cảm của tôi bằng một câu chuyện tình đẹp ngang với những chuyện tình đẹp nhất trên thế giới.
Câu truyện cổ tích về anh Trương Chi người thì thậm xấu, tiếng hát thì thật hay mà ca nhạc cổ truyền đã xưng tụng qua hình thức hát rong, hát dạo, hát xẩm... cũng đã được các thi sĩ, văn sĩ của thời nay nhắc tới, chẳng hạn như trong bài thơ Bài Ca Ngư Phủ của Vũ Hoàng Chương mà Hoàng Thư đã ngâm lên một cách mê ly trên các Ðài Phát Thanh ở trong nước cách đây hai, ba mấy chục năm. Thạc Sĩ Phạm Duy Khiêm thì viết truyện Le Cristal d'Amour bằng Pháp Ngữ, in trong cuốn Légendes Des Terres Sereines. Thi sĩ Hoàng Cầm còn dùng truyện cổ đó để soạn vở kịch thơ Tiếng Hát với nội dung chính trị: không ai nhốt giam nổi tiếng hát.


Chàng Văn về già...
Trong giới Tân Nhạc, thì có Hùng Lân viết bài Hận Trương Chi, Phạm Duy viết bài Hận Trương Chi, và Văn Cao viết bài Trương Chi. Với bài hát nói lên một nỗi hận, Hùng Lân không kể chuyện anh Trương Chi, ông chỉ mượn một nhân vật tiêu biểu cho giới cầm ca để nói luôn đến chuyện Tử Kỳ và Bá Nha, chuyện người hát hay, đàn hay mà không có người thưởng thức. Phạm Duy là tôi lúc còn ấu trĩ, thì khách quan kể lại câu truyện cổ truyền. Riêng chỉ có Văn Cao là nói tới nhân vật tài hoa truyền kỳ này, nói tới sự não nuột trong tiếng nhạc Trương Chi, tới con người và số phận, đồng thời cũng là nói về mình.
Không phải bây giờ Văn Cao mới nói tới Trương Chi. Người Sông Ngự đã đưa hồn Trương Chi vào hồn mình từ lâu rồi. Từ khi nói tới một trong những chiều năm xưa có những cung đàn cũng năm xưa ấy réo rắt lên, bên một người con gái đẹp... mà gót hài khai hoa...
... Mắt huyền lưu Xuân
Dáng hồng thơm hương...
đã khiến cho chàng Trương/ Văn Cao phải đưa vào mộng mị:
Chiều năm nay
Tiếng người khơi thương
Tiếng đàn giao hoan
Giấc mộng chàng Trương...
Lúc đó, Văn Cao chỉ mới hé lộ cho ta thấy tâm hồn của ông là tâm hồn của chàng ngư phủ thất tình họ Trương. Bây giờ, ông phát triển tiếng hát câm lặng đó bằng một trường khúc não nuột nhưng cũng rất kiêu sa.
Bài hát mở đầu bằng những câu nhạc dài, giống như trong bài Thiên Thai, nhưng có tính cách mô tả nhiều hơn:
Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ
Trầm trầm không gian mới rung thành tơ.
Vương vất heo may hoa yến mong chờ
Ôi tiếng cầm ca, Thu tới bao giờ...
Kiêu sa lắm chứ. Khi Văn Cao cho rằng từ lúc mới có Trời, có Ðất... khi chưa có Thơ thì đã có Nhạc rồi. Và chỉ có nhạc thì mới kéo được mùa Thu tới cho loài hoa, loài chim, loài người... Rồi cũng với câu nhạc đó, Văn Cao đưa tiếng nhạc của Trương Chi tới Mỵ Nương:
Lòng chiều bơ vơ lúc thu vừa sang
Chập chùng đêm khuya thức ai phòng loan
Một cánh chim rơi trong khúc nhạc vàng
Ðây đó từng song he hé đợi đàn...
Một nét nhạc khác cho ta thấy Mỵ Nương vui vẻ chờ đợi tiếng hát:
Tây hiên Mỵ Nương khi nghe tiếng ngân
Hò khoan mơ bóng con đò trôi.
Giai nhân cười nép trăng sáng lả lơi
Lả lơi bên trời...
Nét nhạc bây giờ vút lên, như tiếng nức nở của Trương Chi sau khi Mỵ Nương bị thất vọng về cái nhan không có sắc của anh:
Anh Trương Chi
Tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung
Anh thương nhớ, oán trách cuộc từ ly não nùng
Ðò trăng cắm giữa sông vắng
Gió đưa câu ca về đâu
Nhìn xuống đáy nước sông sâu
Thuyền anh đã chìm đâu....
Thuyền anh đã chìm sâu, có nghĩa là anh đã gieo mình xuống sông tự tử, nhưng oan hồn của anh còn đó khiến cho tiếng hát vẫn không tắt nghỉ. Khách giang đầu còn được nghe mãi mãi tiếng than khóc của Trương Chi:
Từng khúc nhạc xa vời
Trong đêm khuya dìu dặt tiếng tơ rơi
Sương thu vừa buông xuống
Bóng cây ven bờ xa mờ xóa dòng sông
Ai qua bến giang đầu tha thiết
Nghe sông than mối tình Trương Chi
Dâng úa trăng khi về khuya
Bao tiếng ca ru mùa Thu...
Nhưng Trương Chi có thực sự than khóc cái nghèo nàn, cái xấu trai của mình hay không? Ta hãy nghe Văn Cao chuyển cung từ re mineure qua sol majeur một cách xướng tai vô cùng, để diễn tả giọt mưa rơi ngoài song cửa Mỵ Nương như rơi trên những cung đàn huyền diệu. Mưa cũng rơi trên con thuyền ngoài dòng sông lạnh, thuyền này chưa chắc đã là của Trương Chi:

Ngoài song mưa rơi trên bao cung đàn
Còn nghe như ai nức nở và than
Trầm vút tiếng gió mưa
Cùng với tiếng nước róc rách ai có buồn chăng
Lòng bâng khuâng theo mưa đưa canh tàn
Về phương xa ai nức nở và than
Trầm với tiếng gió vương
Nhìn thấy ngấn nước lấp lánh in bóng đò xưa...
Vào thuở đó, trong lúc Tân Nhạc mới chập chững biết đi mà Văn Cao đã viết được những câu nhạc diễn tả giọt mưa tài tình như vậy, thật là hiếm có. Nếu ta nhận ra được nét nhạc sol majeur trong đoạn mưa rơi trên cung đàn này là nhạc ngũ cung thì ta lại càng yêu quý Văn Cao hơn lên.
Câu chuyện tình éo le nhưng rồi cũng kết thúc một cách đẹp đẽ : Trương Chi chết đi nhưng vì cuộc tình chưa thỏa cho nên trái tim không chịu tan đi và hoá thành ngọc đá. Rồi người đời đem viên ngọc đó ra để làm thành một bộ chén trà dâng tặng gia đình nhà quan. Trong một tiệc trà, Mỵ Nương bưng chén ngọc lên, thấy hình ảnh chàng ngư phủ cất tiếng hát trong miệng chén. Thương nhớ con người và giọng hát năm xưa, nàng rơi lệ Giọt nước mắt nhỏ xuống chén ngọc. Thế là mối oan tình từ bao năm nay đã được thoả mãn. Và bây giờ thì chén ngọc, hay là trái tim của Trương Chi mới chịu tan đi. Văn Cao không đả động tới chuyện đó. Ông tiếp tục soáy vào nhân vật Trương Chi:
Ðò ơi
Ðêm nay dòng sông Thương dâng cao
Mà ai hát dưới trăng ngà
Ngồi đây ta gõ ván thuyền ta ca trái đất còn riêng ta.
Ðàn đêm thâu
Trách ai khinh nghèo quên nhau.
Ðôi lứa bên giang đầu
Người ra đi với cuộc phân ly
Ðâu bóng thuyền Trương Chi...
Như tôi đã nói: Văn Cao không kể lại câu chuyện Trương Chi/Mỵ Nương. Ông chỉ tỏ thái độ của Chàng Trương sau khi thất tình, trước khi chết cũng như sau khi chết : Ngồi đây ta gõ ván thuyền Ta ca trái đất còn riêng ta...
Tâm hồn tôi đẹp - vì tôi hát hay mà - nhưng hình hài tôi xấu, người không yêu tôi à? Thì tôi vẫn có cuộc đời hay trái đất này để ra một tuyên ngôn: Trái đất còn riêng ta. Trách ai khinh nghèo quên nhau. Trách ai? Trách chính quyền hay trách người đời không bao giờ dung nổi con người nghệ sĩ? Ta vẫn còn riêng Ta. Ðó là ý nghĩa của bài Trương Chi...
Người Việt Nam yêu nhạc, trải qua gần 50 năm lịch sử của Tân Nhạc lúc nào cũng sẵn sàng bị phản bội. Không phải tới bây giờ, ở trong những cộng đồng Việt Nam trên hải ngoại, những nhà tái bản sách nhạc, những con buôn của nghề sản xuất lậu băng nhạc, những ca sĩ không biết tự trọng... luôn luôn khinh miệt người sáng tác bằng cách sử dụng bừa bãi những tác phẩm làm bằng mồ hôi và nước mắt của tác giả như: không xin phép, không trả tác quyền, không đề tên tác giả trong bìa băng, không hát đầy đủ lời ca của tác phẩm... Ngay từ hồi Văn Cao viết bài tình ca bất hủ Trương Chi này, người ta cũng không bao giờ chịu để ý tới lời 2 của nhạc phẩm để in ra hoặc hát lên. Hôm nay, tôi có dịp để ghi lại những lời ca đẹp như trái tim ngọc đá của ngư phủ họ Trương:
Từ ngày trăng mơ nước in thành thơ
Lạc loài hương thu thoáng vương đường tơ
Ngây ngất không gian rên xiết lay bờ
Bao tiếng cầm ca rung ánh sao mờ
Nhạc còn lưu luyến nhắc ai huyền âm
Lạnh lùng dôi dây tố lan trầm ngân
Trong lúc đêm khuya ai lóng tiếng cầm
Thu đã chìm xa xa ánh nguyệt đầm
Khoan khoan đò ơi, tương tư tiếng ca
Chàng Trương Chi cất lên hò khoan
Ðêm thu dài đến, khoan tiếng nhạc ơi
Nhạc ơi, thôi đàn...
Có một điều buồn đến với tôi khi hát lên lời 2 của bản Trương Chi này. Văn Cao tiên tri cái ngày mà ông không được phép đàn hát nữa? Như đã xẩy ra sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm? Ðêm Thu dài đến, khoan tiếng nhạc ơi. Nhạc ơi, Thôi đàn... Ðêm Thu đến với Văn Cao, quả rằng nó đã quá dài. Dài tới 30 năm có lẻ. Văn Cao đã chết đi như Trương Chi, trái tim chàng có lẽ cũng đã thành viên ngọc đá. Ai là người sẽ nhỏ lệ lên trái tim Văn Cao?


Chai rượu muộn màng, mời bạn nhấm nháp...
Hà Nội, Mùa Xuân năm 2000
Xu hướng nhạc tình Duy Nhiên/ 
Lãng mạn/ Trữ tình - Nhóm Nam Định
Ðặng Thế Phong
1918-1942
Nam Ðịnh là một tỉnh nhỏ, so với Hà Nội và Hải Phòng nhưng lại là nơi sinh trưởng của những đại văn hào của Việt Nam như Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... Trong lĩnh vực Tân Nhạc, Nam Ðịnh cũng là nơi sinh ra một thiên tài nhạc sĩ tài cao mệnh yểu Ðặng Thế Phong, người độc nhất trong thời kỳ thành lập của ngành nhạc mới này đã làm cho mọi người thấy ma lực của âm nhạc qua ba ca khúc tuyệt vời: Ðêm Thu, Con Thuyền Không Bến và Giọt Mưa Thu.
Tiểu sử của ông được ghi trong ấn bản Con Thuyền Không Bến do nhà xuất bản TINH HOA phát hành tại Saigon vào năm 1964 như sau:
''Ðặng Thế Phong sinh năm 1918, thứ nam của cụ Ðặng Hiển Thể, thông phán Sở Trước Bạ thành phố Nam Ðịnh, là con thứ hai của một gia đình có sáu anh em, hai trai bốn gái. Thân phụ mất sớm, gia đình thiếu thốn, ông phải bỏ dở học vấn khi đang học lớp 2ème année P.S. (bây giờ là lớp Ðệ Lục bậc Trung Học Phổ Thông). Ông có lên Hà Nội theo học trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật với tư cách bàng thính viên. Trong một kỳ thi, ông vẽ tranh cho báo HỌC SINH (chủ bút là Phạm Cao Củng) như truyện bằng tranh Hoàng Tử Sọ Dừa, Giặc Cờ Ðen ỡ để lấy tiền ăn học. Mùa Xuân năm 1941 ông có đi Saigon rồi Nam Vang. Ở Nam Vang ông có mở một lớp dạy nhạc. Ðến mùa Thu 1941 ông lại trở về Hà Nội. Lúc sinh thời Ðặng Thế Phong là một nhạc sĩ rất nghèo nên cuộc sống của ông thật là khổ cực, chật vật. Ngoài tài sáng tác, ông còn là một ca sĩ, tuy chưa hẳn được là ténor nhưng giọng hát khá cao, đã nhiều lần ra sân khấu mà lần đầu tiên ông hát bài Con Thuyền Không Bến tại rạp chiếu bóng Olympia (phố Hàng Da) Hà Nội năm 1940. Ðến đầu 1942 thì ông từ giã cõi đời tại nhà, trên một căn gác hẹp ở phố Hàng Ðồng vì bịnh lao (tuberculose péritonique). Ông hưởng thọ được 24 tuổi''.
Vào khoảng đầu mùa của Tân Nhạc này, trong khi các nhạc sĩ trẻ khác chỉ đưa ra những nhạc phẩm có tính chất thiên nhiên thì nhạc Ðặng Thế Phong đi thẳng vào lòng người và nói lên cái ''lãng mạn tính'' đặc biệt của thời đại.
Thời đại của những năm cuối thập niên 30 là thời đại của bà Tương Phố trong phạm vi thơ (Giọt Lệ Thu) và của Hoàng Ngọc Phách trong phạm vi tiểu thuyết (Tố Tâm) còn rớt lại, đồng thời cũng là thời đại của các thi nhân, văn nhân lãng mạn đang nổi tiếng như Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Nhất Linh, Khái Hưng, Lê Văn Trương... Nếu đã có người nói rằng bất cứ một người Việt Nam nào cũng là một thi sĩ thì tôi cũng có thể nói rằng bất cứ một nhạc sĩ nào, vào lúc Tân Nhạc mới thành hình, cũng là nhạc sĩ lãng mạn cả! Miền Bắc Việt là nơi có đầy đủ bốn mùa và mùa thu ở đây thì nên thơ không thua gì mùa thu ở Paris hay ở Ðông Kinh, Nam Kinh, Bắc Kinh gì đó...
Trong ba nhạc phẩm của Ðặng Thế Phong và cũng là ba bài trong số những bản nhạc tình đầu tiên của Tân Nhạc Việt Nam, ta đều thấy mùa Thu hiển hiện một cách bàng bạc, lung linh, quyến rũ. Bài Ðêm Thu được soạn với nhạc thuật Tây Phương dùng nhịp valse chậm để diễn tả lòng người trước cảnh đêm thu vắng vẻ:
Vườn khuya trăng rãi hoa đứng im như mắt buồn
Lòng ta xao xuyến lắng nghe lời hoa.
Cánh hoa vương buồn trong gió
Ánh hương yêu nhẹ nhàng say, gió lay.
Với một nét nhạc mineure rất đẹp, Ðặng Thế Phong dẫn ta vào một vườn trăng để, cũng như Lê Thương trong Bản Ðàn Xuân, tình tự với các loài hoa. Nhưng có lẽ Ðặng Thế Phong thấy trước được mệnh yểu của mình nên muốn mở lòng ra thật rộng để thâu tóm vào đó tất cả cảnh vật chung quanh, từ tiếng côn trùng trong gió tới ánh sao trong vũ trụ. Ca khúc có hai phần, một phần theo âm hưởng mineure của Tây Phương, một phần nghiêng hẳn về nhạc ngũ cung Việt Nam (Ré Mi Sol La Si):
Ðêm lắng buồn tiếng Thu như thì thầm
Trong hàng cây trầm mơ.
Làn gió lướt tới cuốn đưa hồn ta phiêu diêu
Theo mây trắng trôi lờ lững
Ngàn muôn tiếng réo rắt
Côn trùng như than van
Mơ hồ theo gió lan.
Trăng xuống dần cỏ cây thêm âm thầm
Dâng buồn trong ánh sao
Như chiếu nhìn mắt ta bao lạnh lùng
Lay hồn ta rồi tan...

Nhưng bài Ðêm Thu chưa làm cho mọi người bị ám ảnh bằng bài hát thứ hai của Ðặng Thế Phong, bài Con Thuyền Không Bến. Bây giờ, người nghệ sĩ không còn đứng trong khu vườn nhỏ của mình nữa, anh dắt ta ra trước cảnh thu về trên một dòng sông:
Ðêm nay Thu sang cùng heo may
Ðêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi suôi dòng
Như nhớ thương ai trùng tơ lòng...
Dường như Ðặng Thế Phong đã nói lên được tâm trạng của thanh niên nam nữ trong thời đại. Họ sống dưới thời cai trị của thực dân và họ bơ vơ lạc lõng như những con thuyền không bến. Nhưng con thuyền này phải là con thuyền trôi trên một dòng sông dân tộc, dòng sông Thương (ai ơi) nước chảy đôi dòng. Quan trọng nhất là con thuyền phải trôi trong một mùa thu Việt Nam có gió heo may, có sương lam mờ chân mây, có gió van thông ngàn và có ánh trăng mờ chiếu... Nếu là con thuyền trôi trong mùa hè hay trôi trên sông Seine (Paris) thì chưa chắc bài hát có thể quyến rũ và ám ảnh chúng ta từ lâu và mãi mãi được:
Lướt theo chiều gió
Một con thuyền theo trăng trong
Trôi trên sông Thương (ai ôi) nước chẩy đôi dòng.
Biết đâu bờ bến?
Thuyền ơi thuyền, trôi nơi đâu?
Trôi trên sông Thương
Nào ai biết nông sâu?
Bài Con Thuyền Không Bến còn có một ưu điểm là được soạn với một giai điệu ngũ cung, dạng 2 (Ré Fa Sol La Do - nốt Mi trong bài chỉ là nốt thoáng qua) nghe như hát sa mạc hay ngâm Kiều. Nhạc sĩ Pháp Debussy, khi đi tìm chất liệu mới trong nhạc ngũ cung, đã có một câu nhạc tương tự như nét nhạc của câu hát mở đầu:
Ðêm nay Thu sang cùng heo may...
Ngoài ra, trong Con Thuyền Không Bến còn có những đoạn hát với "nhịp chỏi" (syncope), một thứ nhịp ta thường thấy trong những bản hát Chèo:
Nhớ khi chiều sương
Cùng ai trắc ẩn tấm lòng.
Biết bao buồn thương
Thuyền (syncope) mơ (syncope) buông suôi dòng
Bến mơ dù thiết tha (syncope)
Thuyền ơi, đừng chờ mong
Ánh trăng mờ chiếu
Một con thuyền trong đêm thâu
Trên sông bao la
Thuyền mơ bến nơi đâu?
Từ khu vườn nhỏ ra tới sông dài, sông rộng, bây giờ Ðặng Thế Phong còn đi xa hơn nữa, đi tới cuối cuộc đời của mình qua một ca khúc mà mới đầu anh định đặt tên là Vạn Cổ Sầu. Ðó là bài Giọt Mưa Thu:
Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi
Trời lắng u sầu mây hắt hiu ngừng trôi.
Nghe gió thoảng mơ hồ
Trong mưa thu ai khóc ai than hờ...
Bây giờ mùa thu đối với anh là một sự chia ly, sự chết chóc. Dương thế trong mùa Thu bao la sầu, gió xa xôi vẫn về, mưa giăng mù lê thê và lũ chim non chiêm chiếp kêu trên cành hay vợ chồng Ngâu sẽ mãi mãi khóc vì Thu...
Vài con chim non chiêm chiếp kêu trên cành
Như nhủ trời xanh
Gió ngừng đi! Mưa làm chi?
Cho cõi đời lâm ly.
Hồn Thu tới nơi đây gieo buồn lây

Lòng vắng muôn bề không liếp che, gió về
Ai nức nở thương, đời châu buông mau
Dương thế bao la sầu.
Giọt Mưa Thu nghe như bản Nhạc Sầu trong thơ Huy Cận:
Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế!
Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường...
Từng tiếng lệ: ấy mộng sầu lá úa
Chim vui đâu? Cây đã gẫy vài cành...

Trong bài Gịot Mưa Thu, Ðặng Thế Phong dung hợp cả hai âm giai thất cung Tây Phương và ngũ cung Việt Nam để nói lên cái hắt hiu, cái lâm ly, cái xa xôi của mùa Thu ngoài đời và trong đời mình. Với Gịot Mưa Thu, Ðặng Thế Phong còn cho ta thấy sự chuyển thể khéo léo trong ca nhạc Việt Nam loại mới, xứng đáng là sự nối dài của nhạc cổ truyền. Lối hành âm từ giọng Mi mineur qua La majeur ở nhiều đoạn trong bài Gịot Mưa Thu chẳng khác chi lối chuyển thể trong loại hát bồng mạc, sa mạc nhưng phong phú hơn. Nếu nghiên cứu theo lối Tây Phương thì ca khúc được xây dựng trên mode dorien rất gần gũi với một dạng trong ngũ cung Á Ðông. Âm vực của bài này rất rộng, nét nhạc đi từ nốt Si trầm vói lên tận Sol cao, cốt ý diễn tả cái sầu thiên cổ trong mùa thu, có mưa rơi không bao giờ ngừng.
Tôi có thể đoan chắc rằng những bản nhạc tình lãng mạn ra đời ngay sau đó như Buồn Tàn Thu, Thu Cô Liêu của Văn Cao, Thu Quyến Rũ, Lá Ðổ Muôn Chiều, Thu Ði Cho Lá Vàng Bay của Ðoàn Chuẩn, Từ Linh, Tiếng Hát Chiều Thu của Tô Vũ v.v... đều khởi sự từ ba bài hát mùa thu của Ðặng Thế Phong. Rồi theo gót Ðặng Thế Phong, mùa Thu sẽ còn được xưng tụng nhiều lần nữa trong Nhạc Sử Việt Nam, khi thì làm cho một cuộc Cách Mạng có thêm chất lãng mạn Nhạc Tuổi Xanh) cái chết của một cuộc tình (Mùa Thu Chết) nhưng vào buổi bình minh của Tân Nhạc này, ta đã có một lúc ba bài hát tuyệt diệu của Ðặng Thế Phong, và ta chỉ còn biết tiếc thương cho người nghệ sĩ tài hoa bị thần bệnh cướp đi khi tuổi còn thanh xuân. Tôi sẽ còn có cơ hội nói thêm về Ðặng Thế Phong trong những bản tân nhạc theo xu hướng nhạc vui khoẻ. Bởi vì ông còn có những bài hát rất trong sáng mà ít người biết tới.
Hoàng Trọng

Ðặng Thế Phong sinh ra và lớn lên ở Nam Ðịnh nhưng tác giả ba bài hát tuyệt vời về muà Thu đã sớm bỏ thành Nam ra đi, giống như các thanh niên 'mắc bệnh giang hồ thời đó (thi sĩ Nguyễn Bính và tôi chẳng hạn), hay dản dị hơn, giống như tuổi trẻ thất nghiệp ở tỉnh nhà phải đi tha phương cầu thực tại miền rất xa như Nam Kỳ hay Cao Mên, rồi lại phải sớm lià bỏ cuộc đời... Còn lại ở Nam Ðịnh là các nhạc sĩ tài tử như Bùi Công Kỳ, Hoàng Trọng, Ðan Thọ... thì họ sẽ đóng góp rất nhiều vào sự thành hình và phát triển của Tân Nhạc Việt Nam.
Nhưng vào lúc âm nhạc cải cách mới được thành lập này, tại Nam Ðịnh, ngoài Ðặng Thế Phong ra, chỉ có Hoàng Trọng là có tác phẩm để tặng cho người ca sĩ bán thời gian là tôi, có thêm bài hát để biểu diễn trên sân khấu Cải Lương lưu động mang tên gánh
ÐỨC HUY cùng với các nhạc phẩm của Văn Cao, Ðặng Thế Phong, Lê Thương... Tiếng Ðàn Ai là một trong những bản tango đầu tiên của Tân Nhạc và cũng là thể nhạc sở trường của Hoàng Trọng. Sau này, ông có khoảng vài chục bài Tango để dùng trong ban nhạc của ông mang tên Tiếng Tơ Ðồng.
Bài Tiếng Ðàn Ai có một nét nhạc mineur chung mà nhạc sĩ nào cũng dùng tới trong thời đó:
Trời khuya thanh vắng
Hồn ai khóc trong đêm trường
Nhạc sầu ai buông
Trong sương rền khúc
Hồn ai quanh khuất
Dường như nhắn bao lời thương
Sầu tình chung khúc
Tầm tã châu buông
Ðàn lòng tràn bay
Vẳng đưa xa tiếng hờn
Ðàn sầu trầm buông
Chìm trong đêm tiếng thương
Ðàn ai theo gió
Dường như nhắn bao lời thương
Ðường tơ ai buông
Thánh thót kêu sương...
Buồn ơi xa vắng
Buồn thương nhớ ôm bên lòng
Buồn ơi mênh mông
Thương mây cùng gió
Ðàn than chi đó
Lòng ta xót thương cùng mây
Ðàn than chi đó
Nhủ gió thương mây
Ngừng, ngừng đàn ai
Ðàn chi cũng nát lòng
Ðàn ngừng lời than
Lòng ta ôi nát tan
Ðàn than chi đó
Ðàn van gió thương giùm mây
Hồn ai quanh đây
Nhắn gió đưa mây...
Có thể vì tôi đem bài Tiếng Ðàn Ai của Hoàng Trọng đi hát dài dài trên đường "du ca" cho nên khi tôi trở thành người viết ca khúc thì tôi bị ảnh hưởng và soạn ra bài Tiếng Ðàn Tôi chăng? Và nếu như về sau tôi còn đem "cây đàn bỏ quên" vào Tân Nhạc cùng với Tiếng Dương Cầm của Văn Phụng, Tiếng Ðàn Trong Ðêm của Nhật Bằng, Tơ Sầu của Lâm Tuyền, Ðường Tơ Dang Dở của Phạm Mạnh Cương (1) ... thì Hoàng Trọng cũng đem thêm vào đó một bài về cây đàn, nhan đề Một Thuở Yêu Ðàn:
Nghe tiếng thời gian âm thầm đưa
Ngẩn ngơ thương nhớ đến cung đàn xưa
Một mùa trăng đã khắc se đường tơ
Heo may gió cách từng mùa
Ôi thơ mộng đâu còn nữa
Tôi vẫn tha thiết yêu ngày xưa
Ngày nào say đắm với cung đàn mơ
Ngày nào hai đứa dưới trăng mùa thu
Ðêm nao hát khúc tạ từ
Ðêm nay sầu lắng tương tư
Một muà thu xưa dưới vầng trăng hai đứa
Ðã hơn một lần mơ
Nào ngờ duyên xưa đã chìm trong thương nhớ
Ðã trôi vào xa xưa
Ai biết thương nhớ bao giờ nguôi
Lạnh lùng trông cánh lá khô nhẹ rơi
Tìm dư âm cũ nhớ nhau mà thôi
Ðêm đêm rõi bóng một người
Tôi đi tìm chốn xa xôi...
Coda:
Tiếng xưa còn đó
Gió trăng còn đó
Thấy đâu người xưa?
Chúng ta sẽ còn gặp lại nhạc của Hoàng Trọng trong những thời kỳ 
sau...

Gặp nhau tại Hoa Kỳ trong năm 1990.
Phạm Duy
Theo https://phamduy.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát

Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát Lời hát giao duyên kể về nỗi niềm cô gái thương thầm chàng trai/ Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát/ ...