Sergei Belov
Tiểu truyện
Trên góc đường Malaya-Meschanskaya
và Stolyrany có một chung cư trông thật khiêm tốn, đó là nơi nhà văn
Dostoievsky với đứa cháu của người vợ đã mất cùng bà nhũ mẫu trung thành đang ở.
Trong phòng làm việc ông treo bức chân dung của người thiếu phụ mặc sắc phục
màu đen, chân dung của Maria-Dmitriyevna-Iayeva, người vợ đầu của Dostoievsky
đã từ trần cách đó hai năm rưởi. Tình cảnh của ông lúc ấy là người độc thân,
44 tuổi, đang sống những ngày dài lo âu, buồn bã.
Trước đó một năm, khi những chủ
nợ đến gõ cửa, đe dọa đưa ông vào tù... đứng trước tai họa ấy, ông đã nhắm mắt
ký một hợp đồng với nhà xuất bản Stellovsky để nhận 3.ooo rup, không cần biết
thủ thuật mà nhà xuất bản toan tính cướp đi sự sống của ông. Theo HĐ,
Dostoievsky chấp nhận bán hai tác phẩm, đến ngày 1/9/1866 ông sẽ trao tác phẩm
cuối cùng gồm 75.000 chữ, nếu không thực hiện đúng điều khoản, chẳng những ông
phải chịu tiền phạt mà còn mất hẳn bản quyền trong vòng chín năm với những sáng
tác mới của ông.
Cuộc sống túng thiếu và hỉnh ảnh
nhà tù không ngừng ám ảnh ông, đứng trước viễn cảnh tối đen nầy thiên tài
Dostoievsky đã thức dậy bằng cả ý chí sáng tạo, ông quyết tâm viết hai tác phẩm
cùng một lúc. Cuốn đầu là “Tội Ác Và Hình Phạt” [Crime And Punishment] được
đăng tải từng kỳ trên báo Rusky-Vetnik vào đầu tháng 1/1866, tác phẩm thứ hai
còn nằm trong trí tưởng, đó là cuốn “Con Bạc” [The Gambler]
Suốt thời gian từ những tháng
cuối năm 1865 đến tháng 9/1866 ông say mê viết “Tội Ác Và Hình Phạt“. Vào
ngày mà cô gái trẻ đẹp đánh tốc ký đến giúp ông, ông chỉ còn vỏn vẹn 26 ngày nữa
là hạn chót giao tác phẩm “Con Bạc“ cho Stellovsky, khi tác phẩm vẫn còn phác
thảo trong sổ tay, tất cả hy vọng ông trông mong là lòng tận tụy của cô thư ký
trẻ đẹp Anna, người thiếu nữ có duyên tiền định với đại văn hào Dostoievsky.
Anna-Snitkina sinh ở
saint-Peterbourg ngày 30/8/1846, cha cô là Grigouivanovich-Snikin, một vi6n chức
chính phủ, mẹ cô là Anna-Nikolayevna-Snitkina sinh ở Miltopeus, bà gốc người
thuy Điển lẫn Phần-Lan được Nga hóa, trong hồi ký của Anna cô viết: “Tổ
tiên tôi sinh sống ở Abo và được chôn cất trong nghĩa thành của nhà thờ nổi tiếng
nơi ấy, nhưng khi tôi đến thăm xứ Abo trên đường sang Thuy Điển, tôi đã cố công
đi tìm ngôi mã tổ, nhưng vì tôi không biết tiếng Phần Lan lẫn Thụy Điển nên người
gác nghĩa trang không thể cho tôi biết chút tin tức nào...”
Năm 1966, tôi [nhà văn
Sergei-Belov đến Phần Lan] và đã tìm ra ngôi mộ tổ tiên của Anna, đó là ngôi mộ
vị giáo sư viện trưởng đại chủng viện Martin-Miltopeus [1631-1679]. Truy cứu
thân cây gia tộc nầy thì giòng họ mẹ của Anna có rất nhiều học giả nổi tiếng cả
Phần Lan lẫn Thụy Điển. Chính nhờ thừa hưởng từ tổ tiên trí thông minh, nhạy cảm
và tình yêu hướng vọng mà Anna có đủ năng lực hiến dâng đời mình cho sự nghiệp
của Dostoievsky sau nầy. Tuy nhiên yếu tố quyết định đường đời của Anna là bầu
không khí ở Nga và những năm 1860, tất cả tầng lớp trẻ tuổi đang dâng trào một
làn sóng khát vọng về tự do tình yêu, họ đòi hỏi phải có một nền giáo dục độc
lập, căn nhà nơi Anna ở thường tụ tập những sinh viên cấp tiến, những thanh
niên dũng cảm dám phá bỏ mọi giáo điều, mọi tập tục xưa cũ trong gia đình.
Bước đầu vào đời, Anna quyết định
theo học ngành sư phạm, không may cho cô, giữa lúc ấy thì cha cô lâm trọng bệnh,
cô phải thường trực bên giường để chăm sóc cha từ sáng tới tối cho đến khi ông
chìm vào giấc ngủ Anna mới có chút thời gian theo học lớp tốc ký.
Cái chết của cha đã làm gia
đình cô suy sụp, trước hoàn cảnh khó khăn ấy, Anna phải tìm kế mưu sinh.
Hôm trước trong lớp học tốc ký,
thầy Pavel-Matreyevich-Olkhin có trao cho cô một số công việc gấp rút với nhà
văn Dostoievsky kèm theo những lời dặn dò: “Nhà văn ấy là một người buồn
bã hay gắt gỏng và khó tính“.
Vào một buổi sáng mùa đông giá
lạnh ở saint-Pe1terbourg ngày 4/10/1866 một cô gái 20 tuổi, trẻ đẹp, mặc trang
phục giản dị, với khuôn mặt trái xoan dịu hiền, đôi mắt sáng trong xanh bước đi
dưới trời mưa tuyết đến căn nhà trên đường Malaya-Meschanskaya và
Stolyrany-lane. Cô đưa tay ngại ngùng gõ cửa... Đó là căn nhà Dostoievsky đang
sống những ngày tháng phập phồng, ông đợi chờ cái giờ kết thúc của bản hợp đồng
khốn kiếp? Ông đang đợi tai họa đưa ông vào tù vì các chủ nợ? Không!
Dostoievsky đang đợi tình yêu cuối cùng bước vào đời ông. Và định mệnh đã đưa
Anna đến với ông.
Ngày 4/10/1866 nhà văn và cô
thư ký bắt đầu cuộc chiến chống lại thủ thuật của nhà xuất bản, ban đêm ông
phác thảo “Con Bạc“, hôm sau đọc cho Anna tốc ký, chiều tối về nhà Anna ngồi
chép lại, sáng mai Dostoievsky duyệt qua một lần nữa, cả hai người đang chạy
đua với thời gian bằng tài năng và nhiệt huyết của mình. Khi Anna nghe ông kể về
cái HĐ trí trá ấy, cô tức giận, nguyện lòng sẽ giúp ông tới cùng, cô trở thành
người trợ lực của ông, ông thường bông đùa gọi cô là: “Con chim câu yêu
quý tài tình“ hoặc là “người v65 binh chân tình của ông“. Ông đã
đón nhận ở Anna rất nhiều ý kiến hay trong việc sáng tác của ông, dần dần Anna
không còn ngại ngừng với tình cảm của ông nữa, cô bắt đầu hỏi về quá khứ đời
ông, nhiều khi giúp ông vài việc vặt vãnh trong nhà, tình cảnh cô độc, lo lắng,
nghèo túng mà Dostoievsky đang sống gây cho cô nhiều xúc cảm về đời sống của một
nhà văn.
Tác phẩm ‘Con Bạc‘ đến ngày
29/10/1866 là ngày ông đọc cho Anna những giòng cuối cùng, ông thai nghén cuốn
tiểu thuyết nầy lúc còn sống với Maria-Dmitriyevna, nội dung hình thành qua mối
tình thứ hai với Apollinariya, đến khi Anna xuất hiện thì tác phẩm bắt đầu
khai sinh. Dostoievsky đã làm được một sự thực phi thường, chỉ trong vòng 26
ngày, ông viết xong cuốn tiểu thuyết 75.000 ngàn chữ, một sự thực trước nay
chưa hề có trong thế giới văn chương, tuy nhiên ông hiểu rằng, nếu không có
lòng tận tụy của Anna chắc chắn ông không thể viết nổi.
Tác phẩm “Con Bạc“ nói
về một người Nga có thiên tư ném đời mình vào trong cuộc đỏ đen hoang phí,
Dostoievsky thường tự vấn bao giờ một người Nga xuất hiện trong văn chương? Và
đó là ý tưởng cho ông chủ đề kế tiếp “Gã khờ“ [The Idiot] tác phẩm duyên nợ
kết hợp đời ông với Anna.
Một hôm Anna thấy ông không được
vui, cô dịu dàng hỏi ông:
- Sao ông không lấy vợ lại
đi để tìm hạnh phúc trong đời sống gia đình?
Nhà văn ngạc nhiên hỏi cô:
- Thế cô nghĩ rằng tôi
còn co thể lấy vợ nữa sao? Cô thấy ai bằng lòng lấy tôi chứ? Còn tôi! Tôi sẽ
chọn lựa người vợ như thế nào đây? Một người thông minh hay tốt bụng? Tất
nhiên là người thông minh! Ồ! không! Nếu tôi chọn, tôi sẽ lấy người tốt bụng
hơn, người ấy sẽ yêu tôi và sẽ đối xử tốt lành với tôi.
Sau đó ông hỏi cô sao chưa lấy
chồng? Anna đáp rằng:
- Hiện có hai người đang
theo đuổi cô, nhưng cả hai cô kính mến chứ không yêu! Cô muốn lấy người bằng
tình yêu kia.
Dostoievsky khuyến khích cô:
- Đúng! Phải là tình yêu!
Lòng kính trọng thôi không đủ làm cho cuộc hôn nhân hạnh phúc.
Ngay từ buổi đầu,
Dostoievsky đã rất yêu mến Anna, ông thấy lòng mình bị thu hút qua sự bén nhạy,
sự mẫn cảm, quán xuyến trong công việc và trên tất cả là lòng tốt của cô, không
những Anna kính yêu ông, cô còn quan tâm đến cái ăn cái mặc, giấc ngủ và mọi
sinh hoạt hằng ngày của ông. Đã từ lâu ông thiếu vắng sự chăm sóc của một người
đàn bà chân thật, người cuối cùng cho ông sự chăm sóc ấy là mẹ ông, nhưng bà đã
mất cách đây ba năm, sống với người vợ đầu, ông hiếm khi thấy bà dịu dàng yêu mến
ông, cả hai người đàn bà trước đây không hiểu nổi ông, họ đã không giúp ông được
gì trong việc sáng tác, trái lại họ còn quấy rầy ông. Ông cảm thấy trái tim
mình sống lại qua bóng hình Anna, nhưng sự khước từ của người đẹp Suslova còn
in đậm trong tâm trí ông, ông không thể quên sự thực chuyện tình cay đắng ấy.
Trong truyện ngắn “Ước Mơ Của Một Người Chú“ ông tự chế nhạo mình qua nhân vật
trong truyện “Một người quý tộc đứng tuổi đi tán tỉnh cô gái còn tơ” nên đối
với Anna ông không dám mạo hiểm lần nữa. Những năm sống cô độc, ông luôn khát
khao một tổ ấm gia đình, trong bức thư mới đây gởi cho Alexandre-Vrangel có đoạn: ”Chí ít anh cũng sống được hạnh phúc trong đời sống gia đình, còn tôi số
phận đã khước từ niềm hạnh phúc lón lao nầy của con người”.
Ông thấy rằng Anna có đủ dung
hạnh của một người vợ hiền, một người mẹ gương mẫu mà ông mơ ước, ước mơ ngày
đêm xao xuyến lòng ông và ông mong chờ cơ hội để thổ lộ nổi lòng.
Một hôm Anna đang ngồi chờ ông
đọc nốt phần kết của “Tội Ác Và Hình Phạt“ thì Dostoievsky bắt đầu nói với cô
về những giấc mơ ông hằng tưởng, điều làm cô kinh ngạc là ông quyết định viết một
tác phẩm mới nữa, lời của ông cảm xúc như khi ông đọc cho cô tốc ký tác phẩm “Con Bạc“, nhân vật chính trong truyện là một nhà văn lớn tuổi, hay bệnh hoạn,
đã trải qua nhiều biến cố trong đời, đã mất đi cả gia đình lẫn bạn hữu.
Dostoievsky diễn tả chi tiết về cuộc đời người nghệ sĩ ấy làm Anna nghi hoặc
ông đang nói về chính ông, khi ông nói với cô rằng nhà văn trong truyện đem
lòng yêu một cô gái tên là Anna, cô nghĩ rằng ông đang tưởng nhớ về
Anna-Korvin-Krukovskaya, một cô gái trẻ đẹp, thông minh mà có lần ông nói với
cô. Vào lúc cô quên mất tên mình là Anna thì ông hỏi cô rằng:
- Nếu như đó là chuyện thực,
cô gái Anna ấy yêu nhà văn lớn tuổi, bệnh hoạn nầy, người hoàn toàn khác cô về
tính tình cũng như tuổi tác, như vậy về phần nàng phải chịu sự thiệt thòi ghê gớm,
cô nghĩ xem có được không?
Anna trả ông rằng:
- Nếu nàng có lòng tốt thì yêu
một người như vậy thì không phải l2 chuyện hy sinh đối với nàng, lòng tốt không
sợ hãi bệnh tật hat ngheo khổ, người ta thường lấy nhau vì dáng vẻ bên ngoài, vì của cải phù phiếm, nhưng như vậy đâu phải
là tình yêu, nếu Anna yêu nhà văn ấy, nàng sẽ hạnh phúc và không bao giờ hối tiếc
cho quyết định của mình.
Nửa thế kỷ sau Anna hồi tưởng
lại “Tôi nói thật nhiệt tình, Fyodor-Mikhailovitch chăm chú nhìn tôi cảm
xúc - Vậy cô tin rằng nàng yêu ông ta chân thật trọn đời? Fyodor ngập ngừng nói
tiếp “thử đặt cô vào vị trí của nàng một phút xem sao? Giọng Fyodor run run“
Ví như nhà văn ấy là tôi, và tôi tỏ tình với cô, muốn hỏi cô làm vợ, thì cô sẽ
trả lời tôi thế nào?
Khuôn mặt Fyodor trông thật
hoang mang như có nổi dằn vặt bên trong, liền ngay tôi hiểu rằng đây không phải
là cuộc bàn luận văn chương bình thường, tôi sẽ gieo vào lòng cao thượng và tự
trọng của ông một tai họa ghê gớm nếu tôi từ chối, tôi nhìn khuôn mặt lo lắng của
Fyodor, khuôn mặt quá thân yêu với tôi và nói rằng:
- Câu trả lời của em là... em
sẽ yêu anh và yêu anh trọn đời.
Anna chấp nhận tìm hạnh phúc
trong đau khổ của đời ông, cô biết ông người mang bản án đại hình từ địa ngục
Sibérie trở về, hiện ông thường xuyên bị mật vụ theo dõi, lệnh theo dõi đến năm
1875 mới hết hiệu lực, mặc dầu ông là nhà văn tài năng, nhưng đời sống của ông
nghèo túng, bấp bênh, bên cạnh gáng nợ nần người anh ông chết đã trút lên vai
ông, và cái điều bất hạnh hơn nữa là chứng động kinh không phương cứu chữa,
nhưng Anna đã nói rằng “lòng tốt không sợ hãi bệnh tật hay nghèo khổ, lấy nhau
vì điều kiện bên ngoài đâu phải là tình yêu” Quả thật thời gian làm việc với
Dostoievsky cô đã thầm yêu ông.
Riêng Dostoievsky, khi ông cởi
lòng bằng câu chuyện tình ấy, ông hiểu rằng đây là cơ hội cuối cùng để có một tổ
ấm gia đình với người vợ hiền và con cái, nếu Anna từ chối không hiểu vết
thương mà Suslova gây nên sẽ sâu xa đến chừng nào, nhìn từng nét biểu lộ trên
khuôn mặt yêu kiều của Anna, chăm chú nghe từng lời cô nói, ông hiểu cô
yêu ông bằng lòng chân thật, sau nầy Dostoievsky kể lại “Khi tôi kết thúc câu
chuyện, tôi thấy Anna tỏ lòng yêu tôi thật chân thành, mặc dầu nàng chưa bao giờ
thể hiện điều ấy, còn phần tôi, tôi càng yêu thương nàng hơn nữa, ngày anh tôi
mất đi, cuộc đời đè lên tôi những gánh nặng khủng khiếp, vậy mà tôi dám hỏi
nàng làm vợ và tuổi tác còn là sự chênh lệch ghê gớm nữa chứ! Nàng 20, tôi
45t, nhưng dần dần tôi tin chắc rằng nàng sẽ hạnh phúc, vì nàng có trái tim cuồng
nhiệt của tình yêu“
Thư đâu tiên ông viết cho cô
dâu son trẻ kết thúc bằng những lời “tin yêu em vô cùng, em là tương lai,
hy vọng, chân thành, hạnh phúc và kỳ diệu của đời anh”
Sáu tháng sau ngày họ yêu
nhau, Anna viết thư cho người bạn gái S.A.Kashina:” Anh ấy là người chân
thật kỳ lạ, rộng lượng biết bao! Ít người hiểu được anh ấy cho đúng, quả thật
anh ấy hay buồn và gắt gỏng, nhưng bên trong con người anh là lòng tốt, yêu
thương nồng nàn vô cùng, tôi biết anh ấy yêu tôi say đắm, điều ấy làm tôi sung
sướng đến nổi nhiều khi nghĩ mình không đáng được hạnh phúc như vậy “
Sau nầy có người hỏi “Sao cô
dám liều lĩnh với cuộc hôn nhân như vậy? Anna luôn trả lời “Vì tôi là cô gái
của những năm 60 mươi“. Tuy nhiên cuộc hôn nhân của họ không thuận buồm như
tình yêu đã đến, bà vợ của anh ông và Pasha, cháu trai của người vợ đầu cùng
đàn đúm con cái của bà phản đối kịch liệt, họ biết rằng sau cuộc hôn nhân, họ sẽ
không còn nương tựa vào sự sống của ông nữa. Về phần bên họ hàng bạn bè cô dâu,
tất cả đều phản đối kịch liệt, nếu họ không vì tình yêu thì khó vượt qua nổi, tất
cả đều không bằng lòng để Anna lấy Dostoievsky, một người nghèo khổ bệnh tật,
đã qua hai đời vợ, tuổi tác đã đến cùng vận may của đời người, nhiều năm sau
con gái Anna hỏi mẹ “Sao mẹ yêu được người mà tuổi đời bằng tuổi ông ngoại
vậy me? Anna mỉm cười trả lời con “Nhưng cha con tính tình trẻ
trung lắm, nếu con biết cha con thế nào!... Cha con rất thích cười đùa, cha
con nhiệt tình như thanh niên, cha con còn vui vẻ và nhạy cảm hơn lớp trẻ đương
thời, những thanh niên tập thói quen đeo kính trông nghiêm nghị như những vị
giáo sư ấy”.
Trong 44 năm sống trên đời, thời
kỳ hứa hôn với Anna là những ngày tháng tươi đẹp nhất của đời ông, trái tim cuồng
nhiệt tuổi trẻ của cô đã hồi sinh cõi lòng băng giá của Dostoievsky. Ông thú thật
rằng, Anna đã hoàn toàn biến đổi con người ông, cô đem đến cho ông nhiều cảm
xúc mới, nhiều ý tưởng mới và kết quả là ông trở thành con người tốt đẹp hơn,
điều ấy 6ng thể hiện qua phần cuối trong “Tội Ác Và Hình phạt“. Rakolnikov
trong tình yêu của Sonya-Marmeladova đã hồi sinh trở lại, về sau không phải vô
tình mà ông đặt tên con gái đầu lòng là Sonya.
Nhưng giữa mùa xuân của mói
tình mới chớm, những người bà con trong gia đình ông là đám mây che lấp niềm
vui của họ, Pasha và Emilia thường xuyên xúc phạm đến Anna, họ vẫn bám lấy ông,
tiền bạc tờ báo Rusky-Vestnik trả cho cuốn “Tội Ác Và Hình Phạt“ và nhà xuất
bản thanh toán về cuốn “Con Bạc“ đều dần dần đi vào túi của họ, Anna bất lực
không thể làm gì được, cô biết rằng Dostoievsky không thể chối từ trước lòi xin
của những người bà con, ngay cả những nhu cầu cần thiết của riêng ông, ông
không còn nghĩ tới, cô lo ngại nếu tình cảnh ấy kéo dài, một ngày ông sẽ xác
xơ. Khi cô nói cô yêu ông và sẽ yêu ông trọn đời, tất nhiên cô đã có nhiệm vụ
thiêng liêng của người vợ đối với chồng, còn những người trong gia đình chỉ xem
ông là hiện thân của một chuổi thất bại triền miên, tù đày, bệnh tật, nợ nần, vợ
con dang dở, còn sứ mệnh mà ông đem linh hồn thắp sáng cho cuộc đời, họ là những
kẻ mông muội, riêng Anna cô biết rằng “Dostoievsky chỉ có con đường duy nhất
là sáng tạo“, đau khổ, tù đày, nghèo túng trở thành chất liệu, nội tâm
ông là ngọn núi lửa đang âm ĩ dưới khổ nạn, những gì ông thể hiện từ trước tới
nay chỉ là bước đầu trên con đường đánh thức thiên tài. Năm 1839 thời
Dostoievsky còn là cậu thanh niên 18 tuổi, ông đã viết thư cho anh ông rằng,
“Con người là một hiện thể huyền bí phải được kiến giải, nếu anh sống trọn
đời để kiến giải điều ấy thì đừng nói anh đã hoang phí cuộc đời, em đang dấn
thân để giải thích sự huyền bí nầy, vì em muốn được làm người “
Dostoievsky đã chọn lựa định mệnh
của mình, sống đến tận cùng, đẩy đưa mình chuyện trò với cái chết, dũng cảm đu
bay giữa địa ngục và văn chương là suối nguồn phản chiếu nội tâm của ông qua cuộc
đời để khai phóng sự huyền bí của con người, từ tội ác học đến nhân bản học cho
đến cõi siêu hình.
Một buổi sáng tháng 9 giá lạnh,
ông mặc phong phanh chiếc áo mùa thu đến thăm Anna, đi giữa trời mưa tuyết, ông
run cầm cập, cảm thấy cái lạnh của mùa đông cực độ nhức buốt xương da, đến nhà
gặp Anna ông không thốt ra lời, Anna vội vã rót cho ông hai chén trà nóng, bưng
tiếp hai ly rượu hồ đào, uống xong ông mới tỉnh người lại, Anna hỏi ông áo lạnh
đâu sao không mặc? Giọng cô đầy trách móc hờn giận, không dấu được ông mới thú
thật rằng, “Pasha và Emilia cần gấp một số tiền nên đã xin ông cầm chiếc áo đi“, nghe xong Anna ràn rụa nước mắt:
- Thế nầy làm sao anh sống nổi
với mùa đông?
Dostoievsky sung sướng vuốt
tóc cô:
- Bây giờ anh mới hiểu em yêu anh chừng
nào! Em không thể khóc như thế này nếu anh không được em yêu!
Từ hôm đó Anna tìm đủ mọi cách
bảo vệ cuộc sống của ông và đó là cuộc đấu tranh không dễ dàng, cô nói với ông
phải cưới nhau sớm chừng nào tốt cừng ấy, chắc chắn trước tổ ấm mới dựng xây,
những người bà con sẽ buông tha cho ông, nhưng đám cưới lấy đâu ra tiền bây giờ? Cả Anna lẫn Dostoievsky không đủ sức tổ chức ngày vui thiêng liêng của họ, cuối cùng ông quyết định đi Moscow gặp M.M.
Katkov chủ bút tờ báo Rusky-Vestnik để điều đình với ông ta xin ứng trước một số
tiền về tác phẩm “Gã Khờ“ ông sẽ viết.
Hai bức thư ông viết cho người
vợ chưa cưới từ Moscow có những dòng cảm xúc về lòng thủy chung của Anna và
tương lai tổ ấm của họ như sau: “Anh tưởng nhớ em, nhớ bo1nh hình em từng giờ
từng phút. Vâng! Anna! Anh yêu em vô cùng, hôn em một triệu lần hơn... Năm mới
và mùa hạnh phúc mới đang đến gần đây, cầu phúc cho tình yêu của chúng ta... cho thiên thần của anh... Anh sẽ làm việc với cả sức lực, tất cả đều vì em,
vì lòng chân thành của em, lòng chân thành vô bờ không thay đổi, anh tin em và
nhắc lại tương lai của anh với em, Anna, người bạn vĩnh cửu của anh, ngày cưới
của chúng ta đã quyết định rồi, chúng ta phải có tiền và lấy nhau lúc nào có thể,
anh yêu em biết bao! Yêu em vô cùng, điều ấy làm anh sung sướng quá! Với người
vợ như em hỏi sao anh không hạnh phúc chứ? Yêu em, Anna, anh yêu em mãi mãi.
Ngày 15/2/1867 hôn lễ của họ cử
hành tại nhà thờ Thánh Ba Ngôi Izmalovo, đó là ngày Dostoievsky ghi khắc vào
tim mình: ”Ngày 15/2/1854 ông trở về từ địa ngục Osmk-Sibérie, tự do! Tự do!
Ôi! Cuộc đời mới, sự hồi sinh từ cõi chết “Và ngày ấy Anna-Grigosyevna, đây
cuộc đời mới, là tất cả tương lai, hy vọng, chân thành, hạnh phúc và huyền diệu
của đời anh”
Ông hưng phấn giới thiệu Anna
cùng tất cả bạn bè, bà con dòng họ: “Nàng là người của tình yêu, người kỳ
diệu, nàng có trái tim bằng vàng “.
Mười năm trước đây trong đêm
tân hôn với người vợ đầu, Maria-Isayeva, ông đã lên cơn động kinh làm cô dâu hoảng
sợ và đó là một trong những nguyên nhân gây tan vỡ những mối tình trước kia của
ông. Và Anna trong đêm ấy, cô cũng gặp trường hợp như vậy, nhìn ông quằn quại
trong cơn đau, Anna không sợ hãi chút nào, trái lại cô còn lo sóc yêu thương
ông hơn nữa, mặc dầu đó là lần đầu cô chứng kiến, sau nầy cô hồi tưởng lại: ”Giữa
lúc ấy tôi không hề hoảng sợ, dù đó là lần đầu tôi thấy cơn động kinh tấn công,
tôi vội ôm lấy đôi vai Fyodor, dùng sức đặt anh ấy nằm trên divan, nhưng khủng
khiếp quá! Thân thể chồng tôi vật vã lìa khỏi chiếc ghế mà tôi không đủ sức giữ
lại... tôi đành để Fyodor nằm trượt xuống sàn nhà rồi quỳ người xuống hết sức
ghì anh ấy vào chân tôi... dần dần cơn co giật hạ bớt, Fyodor bắt đầu tỉnh táo
lại, nhưng tôi lo âu biết bao! Khi một giờ sau cơn độnh kinh lại tấn công, dữ
dội như thế, khủng khiếp như thế, khoảng hai giờ sau chồng tôi mới tỉnh lại,
anh ấy kêu lên thật đau đớn, đó là chứng bệnh thật ghê gớm. Ôi! Một đêm kinh
hoàng biết bao! Đó là lần đầu tiên tôi chứng kiến Fyodor chịu đựng cơn đau với
chứng bệnh ấy, nghe những tiếng kêu la rên rỉ không dứt của anh, nhìn khuôn mặt
hổn hển biến đổi, đôi mắt điên dại của anh và hoàn toàn không hiểu nổi những lời
ngắt quảng thều thào, tôi đau lòng nghĩ rằng người chồng thương yêu của tôi sắp
hóa điên, ý nghĩ nầy ám ảnh tôi ghê gớm. “ Nửa thế kỷ sau cô còn nhắc lại với nhà văn Izmailov: “Toi nhớ lại đời sống vợ chồng chúng
tôi thật kỳ diệu, nhưng lắm khi tôi phải trả giá cho hạnh phúc đó bằng sự đau đớn,
chứng bệnh khủng khiếp của Fyodor đe dọa cuộc sống êm đềm của chúng tôi mỗi
ngày... như anh biết, không có phương thuốc nào chữa trị được căn bệnh ấy, tất
cả những gì tôi có thể làm là tháo cởi cổ áo cho anh ấy, giữ đầu anh ấy trong
tay tôi, nhưng nhìn khuôn mặt xám ngắt, co giựt, những đường mạch thắt bóp, tôi
biết anh ấy đau đớn dường nào, tôi đành bất lực không thể giúp gì hơn được, đó
là nổi đau tôi phải trả giá cho hạnh phúc tôi chan hòa yêu thương chồng tôi”.
Ngày Anna lấy Dostoievsky cô vừa
tròn 21 tuổi, cái tuổi chưa thể nói là đã đủ kinh nghiệm để lo toan bao việc đời
rối rắm, lòng cô vẫn ngây thơ như cô gái mới dậy thì, chứng bệnh của ông sau
ngày cưới là một mất mát lớn lao cho hạnh phúc của cô, nhưng bối cảnh cuộc sống
hiện tại còn đe dọa họ hơn nữa, những người bà con bây giờ trở thái độ thân thiện
với Anna, họ quanh quẩn bên cô từ sáng tới chiều, cuộc sống riêng tư của vợ chồng
bị mất mát phần lớn tự do và bao nhiêu công sức Dostoievsky cùng Anna hợp tác
làm việc dần dần bie61ntha2nh những nhu cầu đòi hỏi của những người bà con đến
nổi Anna muốn xây dựng hạnh phúc nơi một cảnh đời khác. Phải rời khỏi
Saint-Péterbourg ồn ào nầy, rời khỏi bao nhiêu nổi phiền hà... rời khỏi những
khuôn mặt chủ nợ thỉnh thoảng xuất hiện trước ngưỡng cửa. Thế là đôi vợ chồng mới
cưới quyết định tìm hạnh phúc ở đất nước khác một thời gian, họ chuẩn bị ra nước
ngoài.
Hai vợ chồng cùng nhau đi
Moscow để điều đình với Katkov một khoản tiền ứng trước nữa, chủ bút
Rusky-Vestnik đồng ý trao cho họ 1000 rúp khác, Anna vui mừng quá đến nổi quên
lời hứa với chồng sẽ không bao giờ làm ông buồn như những người đàn bà trước
đây. Lúc ở nhà người chị, cô đã thân mật chuyện trò với một người trẻ tuổi
ngoài mức bình thường, cô quên những người trẻ tuổi là nguyên nhân làm tan vỡ
những mối tình của ông trước đây, ông từng đau khổ vì hình ảnh Vergurov, người
giáo sư trẻ tuổi trong lòng Suslova, hai người đàn bà trước không che dấu sự
ngoại tình của họ với những người khác khi họ đang sống với ông, nhưng thủa ấy
Dostoievsky không tỏ thái độ ghen tương, ông chỉ âm thầm chịu đựng, ông còn tìm
cách vỗ về họ nữa. Còn với Anna, mối tình làm ông hồi sinh thì thái độ ủa ông
khác hẳn, ông giận dữ ghen tuông đến nổi Anna phải ôm mặt khóc, nước mắt trong
trắng cũng như tấm lòng của cô làm ông thấy rõ sự phi lý của mình, ông hối hận
suốt đêm dằn vặt khiến Anna phải triu mến an ủi ông, chuyện rắc rối ấy không phải
là bóng mây che bớt niềm vui của Anna, trái lại điều ấy chứng tỏ Dostoievsky
yêu cô không cùng và điều sung sướng là họ đang có tiền để ra nước ngoài. Những
ngày ở Moscow đôi vợ chồng sau tân hôn mới thật sự hưởng được tuần trăng mật ở
khách sạn Dusso, ông thấy đời mình trẻ lại như thủa ban đầu được yêu.
Dự tính ra nước ngoài của họ bị
những người trong gia đình phản đối kịch liệt, họ đòi hỏi nếu muốn ra đi thì phải
để lại cho họ một số tiền trả dần cho các chủ nợ, thế là trong số tiền ấy ông
phải trích bớt 400 rúp, ông buồn bã sợ chuyến đi sẽ không thành.
Nhưng Anna đã quyết tâm, không
gì ngăn cản được cô, cô thu góp những gì mình có, từ đồ đạc, áo quần, vàng bạc
đem bán và cầm cố đi. Thế là với số tiền ấy, ngày 14/4/1867 hai vợ chồng như
đôi chim xổ lồng cất cánh bay sang trời Âu.
Sau nầy Dostoievsky kể lại tâm
trạng của ông lúc ấy với Allon-Maikov: “Tôi ra đi, nhưng tôi ra đi với
cõi lòng héo hắt, tôi không tin chuyến đi ra nước ngoài ấy, nghĩa là tôi nghĩ đời sống ở đất khách quê người sẽ không có gì tốt đẹp,
một mình với người vợ trẻ có niềm vui ngây thơ muốn chia xẻ cùng tôi đời sống
đó đây, nhưng tôi thấy niềm vui trong trắng nầy quá thiếu nhiều kinh nghiệm, chỉ
là hứng khởi lúc đầu, điều lo lắng ấy ám ảnh tôi ghê gớm... với chứng bệnh của
tôi, tôi sợ Anna sẽ không chịu nổi, sự thực Anna có nghị lực và độ lượng hơn
tôi tưởng...”
Đất nước Nga đã xa vời trong tầm
mắt của hai vợ chồng mới cưới, trước mắt họ là cuộc sống mới hoàn toàn xa lạ không
lấy một hình ảnh quen thân. Những ngày đầu ở Âu châu Anna đã thể hiện tấm gương
sáng đẹp của người vợ hiền mà Dostoievsky hằng mơ ước, đối mặt với bao nhiêu
khó khăn ở xứ người, cô đã đảm đang vượt qua để xây dựng tổ ấm chỉ có vợ chồng
cô chia xẻ cùng nhau những đắng cay ngọt bùi, tuy nhiên dù tình yêu trọn vẹn đến
mấy, vợ chồng nào lại không có những lúc bất hòa, bởi lẽ rầy rà cãi vả là thuộc
tính của hạnh phúc. Anna cố tránh nhưng không được, cô không hề than thở, cô hiểu
Dostoievsky yêu cô hơn bất cứ ai trên đời. Và mỗi lần mưa gió qua đi bầu trời lại
sáng đẹp hơn, sau mỗi lần giận hờn cãi cọ họ lại yêu nhau nồng nàn, đằm thắm
hơn. Trong nhật ký viết về đời sống hằng ngày ở Thụy Sĩ của Anna có những đoạn
“Anh ấy giận dữ la mắng tôi...” “Bất ngờ anh nói với tôi rằng: Tôi
đang phá hỏng cuộc sống vì tính tình kỳ quái của tôi hoặc Fyodor trút cơn giận
xuống tôi... tôi bắt đầu run lên giận dữ..." Những lúc Anna không còn
bình tĩnh, cô ghi vào nhật ký “ Chồng tôi hay xét nét“ hoặc “quá
nóng nảy“ nhưng thường thì cô viết “tôi đâm giận với mình, do tôi
là người gây ra những cuộc cãi vả vô ích nầy, tôi có một người chồng kỳ diệu
như vậy, anh ấy yêu tôi nhiều lắm, vậy mà tôi hay quấy rầy anh...”
Có lẽ Anna là người hiểu Dostoievsky hơn ai khác, ngay từ buổi đầu ông hiện ra trong lòng cô đầy nhân
ái, cao cả và bí ẩn, chính những khác thường nơi con người nầy đã cho cô sức mạnh
vượt qua mọi thử thách để đến với ông trọn vẹn bằng tình yêu hiến dâng của cô
gai mới biết yêu lần đầu, cô hiểu sâu xa rằng, toàn thể cuộc sống của
Dostoievsky là để đánh thức nguồn sáng tạo vô song trong ông, nên cô không ngại
ngùng chia xẻ cùng ông những gánh nặng ông mang vát trên vai: Tù đày, ngheo khổ,
nợ nần, bệnh tật... nhưng chưa hết, Anna còn dám chấp nhận một sự thực khác nữa
của con người toàn diện nầy: “Nỗi đam mê cờ bạc khó thể phê phán của thiên
tài Dostoievsky”
Dostoievsky tìm đến “bàn con
quay“ trước khi gặp Anna, nếu cờ bạc là một trong những nguyên nhân đưa gia
đình ông trầm luân trong nghèo khổ thì cờ bạc cũng giúp ông tìm lại nguồn sáng
tạo sau cuộc chơi, Anna hiểu ông đến tận chân tơ kẻ tóc, cô hiểu rằng dấn thân
vào cuộc cờ đỏ đen không chỉ là phương tiện lãng quên bao nhàm chán thường ngày
nhưng cái chính của ông là tìm lại sinh khí sống, mỗi lần thua đậm trên bàn con
quay ông lại lao vào sáng tác và trong cuộc chơi nầy ông là kẻ vô địch, kẻ chiến
thắng với những vòng hoa rực rỡ trên từng trang giấy, Anna không hề phiền trách
hay ngăn cấm, trái lại khi thấy ông không viết tiếp được tác phẩm “Gã Khờ“ cô
dịu dàng khuyên ông nên tìm đến“ bàn con quay “rồi cô lấy tiền đưa cho ông.
Ôi! Trên đời có người vợ nào dám liều lĩnh như vậy? Và quả thật từ sòng bài về,
Dostoievsky say sưa viết đến gần 100 trang tiểu thuyết.
Ông đánh bạc đến trắng tay,
Anna phải cần cố mọi thứ không một lời nặng nhẹ đến nổi ông đem nhẫn cưới và
hoa tai đi cầm cô cũng không tỏ lòng hời trách, vì cô đã nguyện hiến dâng cả
linh hồn và đời mình phụng sự cho một Jêsus-Christ mới, cô biết hơn ai cả, những
gì đi qua trái tim ông sẽ biến thành ngọn lửa một ngày kia sẽ tỏa sáng khắp dòng đời. Đó là những gì sau khi Dostoievsky chết, còn
trước bình minh ấy Anna phải trải qua đêm dài vô tận của ông, chỉ có tình yêu
là thắp sáng ngọn đèn trong tim họ.
Trong những thư từ thời khủng
hoảng ấy, ít có bức thư nào ông không nhắc đến chuyện tiền bạc, suốt đời ông bị
hành hạ vì nỗi lo nầy, nợ nần thúc dục ông chạy vạy khắp nơi, nhiều khi ông nói
rằng “Nếu cuộc sống không bức bách thế nầy, chắc ông sẽ không tìm đến bàn cờ”,ước
mong có một số tiền lớn để trả sạch nợ, để sống thanh thản vài năm cứ ám ảnh
ông, ông thường nhắc nhở “Tôi muốn có điều kiện như Tolstoi, Tourgenev để
viết, không lo âu vì nỗi nhà tù của các chủ nợ hoặc bị tịch biên tài sản“. Tuy
nhiên Dostoievsky hiểu thấu định mệnh đời mình, dần dần “cờ con quay" trở
thành nhu cầu tự nhiên, cái chính của thiên tài là sự tuyệt thú của kẻ nhìn thấy
hố thẳm nên nhiều khi thắng lớn trên bàn cờ ông lại tìm chơi nữa, chơi cho đến
lúc không còn một kopeck, không còn gì đem đến tiệm cầm đồ mới thôi, ông từng
nói rằng “cờ bạc đối với ông là một ham muốn thử thách định mệnh, phải
làm cho định mệnh nòi ra được sự bí ẩn của kiếp người“. Và cái ham muốn nầy
thúc dục ông vay nợ khắp nơi, vay cả Tourgenev, kẻ kình chống ông suốt đời.
Khó có thể nói hết được những
gánh nặng mà Dostoievsky để cho người vợ trẻ mang vát trong những năm đầu mới lấy
nhau, Anna đón nhận bất cứ điều gì ông đem đến cho cô, lòng cô bao dung trên sự
thực của đời ông, Anna như một quê nhà tự do, ở nơi ấy một lần về ông thấy những
lỗi lầm của mình được hóa giải. “Anh sẽ nhớ mãi điều ấy suốt đời, cầu phước
lành cho em mãi mãi hỡi! Thiên thần của anh, nhưng cho đến nay một nửa con người
của anh thuộc về cái chứng ngông cuồng đáng tội đó” Ông hiểu rằng giữa
tinh thần sáng tạo và “cái chứng ngông cuồng đáng tội đó” có một sự tương
giao khắn khít, một trong những bức thư ông kể với Anna sau khi đánh bạc thua,
ông viết “Ôi! thật cám ơn cái giây phút bất hạnh ấy, vì nó gợi cho anh một ý
tưởng mới lạ. Hôm ấy anh thoáng có một ý tưởng mới, nhưng chưa hi2ng dung ra được
cảm xúc ấy, thế mà bây giờ nó đến với anh thật rõ ràng, nó đến vào lúc 9 giờ
hay chừng khoảng ấy, sau khi anh thua sạch ở bàn cờ đang trên đường thả bộ xuống
phố, giống như lúc ở Wiesbaden sau giờ bại trận anh đã nghĩ về “Tội Ác Và Hình
Phạt”. Ôi! Đó là định mệnh hay là ý Chúa?”. Và tác phẩm “Gã khờ” đã thai
nghén trong trường hợp như vậy.
Mười tháng sau ngày từ giã quê
hương Anna sinh cháu gái đầu lòng, giờ phút nhìn con cười khóc trong vòng tay vợ
chồng là giờ phút thiêng liêng nhất đối với Dostoievsky, ông sống trong cảm xúc
và ý tưởng về một thế giới mới, thế giới hơn nửa đời người ông mới thấy ước mơ
của mình đến thực, ước mơ được làm cha. Ông quấn quít bên bé gái suốt ngày,
chăm chút cho bé như một vú em, bàn tay vụng về của Dostoievsky trong sự sắp xếp
cuộc sống bỗng dưng thành khéo léo trong tình thương đối với con, ông làm đủ mọi
việc bảo mẫu, nào quấn tả cho cháu, hát ru cháu ngủ, ẩm nựng đùa giỡn cho cháu
cười. Từ ngày có con Dostoievsky không rời tổ ấm một lúc nào cả, ông thấy trái
tim và linh hồn mình quyện lẫn trong hơi thở của Anna và bé gái. Nhưng than ôi! Tháng 5/1868 tại Genève, Sonya đứa con đầu lòng của Dostoievsky và Anna vi4ng
viễn lìa cha mẹ khi chỉ được 3 tháng tuổi, Dostoievsky ôm lấy thân xác giá lạnh
của con khóc ngất, tiếng khóc của ông là nỗi tuyệt vọng không cùng, suốt ngày
ông chìm trong đau đớn, cuộc sống của ông khoảng thời gian ấy lịm tắt, Anna phải
tìm cách an ủi ông, nhưng ông không nguôi quên được. “Không! Không một
thế giới hài hòa nào có thể thay thế được sự mất mát lớn lao này, không một
thiên đường nào trong đời chuyển vị được trái tim của người cha bị cướp mất đứa con đầu lòng” Anna nhớ lại “Fyodor
yêu cháu hơn bất cứ gì trên đời nầy, anh thường nói rằng, anh chưa bao giờ sung
sướng như vậy khi có Sonya, nỗi tiếc thương của anh ấy nhiều hơn những gì tôi
tưởng, trên đời tôi chưa bao giờ thấy một người cha tuyệt vọng như vậy khi mất
con mình và anh chỉ nguôi khuây khi chúng tôi có đứa con thứ hai.”
Ngày 4/9/1869 bé gái thứ hai
chào đời, vợ chồng đặt tên cho con la Lioubov [tình yêu] ánh sáng lại chan hòa
trong gia đình, Dostoievsky yêu quý con vô bờ, ngày đêm không rời khỏi con, ông
tắm cho cháu, bồng bế ru hời trên tay, sung sướng đến nỗi ông viết thư cho nhà
phê bình N.N. Strakhov: “A! Tại sao anh không lấy vợ?Tại sao anh không
có con? Hỡi! Anh bạn Nicolai-Nikolayevich, tôi thề với anh rằng ¾ hạnh phúc
trên đời nầy nằm trong tình thương con, những gì còn lại chỉ là ¼.
Tình yêu của Dostoievsky
và Anna là bản giao hưởng của hạnh phúc và bất hạnh, thời gian đối với họ là
phương tiện để đi đến cái vô cùng của nhau, Anna nhìn Dostoievsky tài tình hơn
cả trí tuệ thời đại cô đang sống, hạnh phúc lớn nhất của cô là từng phút tứng
giờ được chiêm ngưỡng ánh sáng kỳ lạ của “Mặt Trời Dostoievsky”, trong lúc thế
hệ cô đang sống, khi ông mất rồi họ mới nhận ra thiên tài, bức thư gởi cho Anna
ngày 17/5/1867 ông thú thật “Chúa đã cho em đến cùng anh đến nổi không một
suối nguồn nào trong em sẽ bị hoang phí đi, trái lại nó sẽ nở hoa rực rỡ kỳ diệu,
Chúa đã cho em đến cùng anh đến nổi anh sẽ rửa sạch mọi tội lỗi qua lòng em... anh sẽ ngợi ca em trước mặt Chúa như là một con người toàn thiện.” Sau nầy
Liuobov viết về cha mình: “Cha tôi rất quan tâm đến sự phát triển tinh
thần của mẹ tôi, ông thường dẫn mẹ tôi đi thăm viện bảo tàng, chỉ cho bà những
bức tranh đẹp, những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng và muốn đánh thức trong tâm hồn
trẻ trung của bà tình yêu về mọi cái lớn lao, trong lành và cao quý.”
Hình ảnh Anna hiện thân qua
nhiều tác phẩm của Dostoievsky, như trong “Gã khờ“ ba người con gái của tướng
Epanshin đều mang bóng dáng tính tình Anna, tên ba cô đều bắt đầu bằng chữ A:
Alexandra, Aglya, Adelaida. Anna đối với ông là quê nhà trăm năm, không những
trong cuộc sống mà còn trong cảm hứng sáng tạo không ngừng. Những năm ở nước
ngoài và sau nầy sức sáng tạo của ông đã chứng tỏ điều đó, thời còn sức trẻ sống
với Iyeva và cả người đẹp Suslova ông không tìm thấy cảm hứng như ở Anna, những
tác phẩm ông viết ở nước ngoài bên cạnh Anna như “Gã Khờ“ “Lũ Người Quỷ Ám“
“Người Chồng Muôn Thủa“, ngoài ra ông còn viết rất nhiều truyện ngắn, tiểu luận
và phác thảo nhiều tiểu thuyết lớn trong ấy có cuốn “Cuộc Đời Của Kẻ Trọng Tội“.
Dostoievsky rất yêu âm nhạc và
hội họa, đặc biệt là những bản giao hưởng của Beethoven, tranh của Raphael và
Claude-Lorraine, ông thường thả hồn vào thế giới âm thanh của Beethoven, đứng
ngắm hàng giờ trước những bức tranh của các họa sĩ phương tây, tất cả đam mê của
ông dần dần hiện ra trong tác phẩm đầy chất khám phá và thấu thi, suốt cuộc đời
Anna nghĩ về ông như là một trẻ thơ mầu nhiệm và cô đã yêu Dostoievsky như yêu
trẻ thơ mầu nhiệm ấy, không bao giờ để cho ông thoáng ý nghĩ thất vọng về mình,
trong bức thư gởi về cho mẹ Anna ông viết: “Anna yêu con, trên đời chưa
bao giờ con hạnh phúc như vậy khi được sống với nàng, nàng thật dễ thương, rộng
lượng, thông minh, nàng tin yêu con và đã kết hợp với đời con khắn khít đến nổi
với tình yêu của nàng, nếu con lìa xa nàng chắc con không sống nổi”.
Ngay những ngày tháng bi đát nhất trong cuộc sống, Anna
vẫn lạc quan yêu đời, ông thấy nàng không bao giờ biểu lộ nét ưu tư, lo lắng hoặc
phiền trách, nhiều khi túi chỉ còn mấy đồng, ông cũng mua cho Anna... khi thì
vài bông hoa, khi thì vài cái bánh ngọt để uống trà, Anna nhận những món quà
nho nhỏ ấy cô xúc động như ông đã mang về cho cô cả vườn hoa hay cả một tiệm
bánh bằng tình yêu của ông.
Những năm ở nước ngoài không bạn
bè, không bà con thân thuộc, chỉ có cái nghèo là cận kề với họ, lúc đầu
Dostoievsky sợ rằng sự cô đơn mà ông cần để sáng tạo sẽ là nỗi buồn đối với
Anna, vì trước đây Isayeva và Suslova không thể chịu nổi khung cảnh ấy, họ
thích giao du đó đây hơn là tham dự vào sự thầm lặng của ông, nhưng Anna luôn
luôn lập lại rằng: “Hạnh phúc biết bao là những ngày tháng bình yên ấy“. Từ
Genène ông viết thư cho Maikov: “Tôi sợ rằng Anna sẽ buồn bã vì cuộc sống
lẻ loi của tôi, nhưng sự thực là chúng tôi đang sống lẻ loi cùng nhau, Anna đã
tỏ ra đầy nghị lực và tốt đẹp hơn tôi tưởng”.
Sau nầy Anna viết lại hồi ký
những năm ở nước ngoài: “Chồng tôi và tôi có tâm tính, quan niệm và ý tưởng
dựng xây khác nhau, nhưng chúng tôi luôn luôn quyến luyến bên nhau, không phải
đóng vai trò hay tìm cách thích ứng với nhau bằng phương pháp nào đó, chúng tôi
không hề xen vào đời sống tinh thần của nhau, nghĩa là tôi phải cùng tâm lý với
anh ấy hoặc ngược lại, và như vậy là cả hai chúng tôi đều cảm thấy tự do... Fyodor hay khắc khoải về những câu hỏi siêu hình, về linh hồn con người và có
lẽ anh rất thích sự không xen vào của tôi trong đời sống tâm linh của anh, vì vậy
anh thường nói với tôi rằng: “chỉ có em là người đàn bà duy nhất mãi mãi hiểu
anh...”
Trước ngày rời khỏi nước Nga vợ
chồng Dostoievsky dự tính chỉ ở nước ngoài thanh thản ba tháng, nhưng nay bốn
năm đã trôi qua. Thời gian ấy những gì trong cuộc sống đã hiện ra với họ như
câu trả lời của sự thực, sự thực về tình yêu của họ không thể thiếu nhau mà sống
được, sự thực về đời sống lạnh lùng của họ ở nước ngoài, sự thực về những cuộc
phiêu lưu xuống mấy tầng địa ngục trên “bàn con quay“ đã cho ông khám phá ra
toàn bộ máu mê sa đọa của người đánh đu trên hố thẳm đỏ đen, ngay cả khi mới
sang châu Âu vài tháng, Dostoievsky đã nướng hết 100 đồng tiền vàng vào ngày
16/7/1867, ông phải về mở cửa lòng Anna, vợ ông phải gỡ hoa tai, trâm cài đầu
mà ông tặng vào ngày cưới để ông tiếp tục cuộc chơi, ông ôm lấy vợ xúc động,
hôn tay Anna bảo rằng: “Trên đời không có người phụ nữ nào bao dung như nàng“ rồi
ông lao ra cửa như một cơn lốc, ba giờ sau ông trở về cháy túi, nhìn Anna ông
đau khổ ôm mặt òa khóc, nhưng đến ngày 16/7 Dostoievsky vơ vét được ít tiền rồi
tìm tới cuộc cờ cúng sạch, về nhà Anna đưa cho ông chiếc áo khoát lông rất quý
của mẹ cô cho trước khi sang châu Âu, cô đưa luôn cả nhẫn cưới, Dostoievsky đem
tới tiệm cầm đồ, cầm cả nhẫn cưới ông đang đeo, cũng may lần nầy số đỏ không cự
tuyệt ông, chiều tối ông phơi phới cầm bó hoa hồng trên tay về tặng Anna, chuộc
được hai nhẫn cưới và còn dư 180 franc, nhưng đến ngày 24/7 lửa cờ bạc lại
thiêu sạch chút của cải còn lại trong nhà đến nổi Anna ghi vào nhật ký: ”giờ
đây quả thực chúng tôi chẳng còn gì để sống“.
Hai vợ chồng phải rời bỏ khách
sạn tìm thuê căn gác xép trên một lò rèn, suốt ngày phải chịu đựng tiếng đe tiếng
búa chan chát giữa lúc Anna đang ốm nghén, còn Dostoievky thì quay cuồng với
cơn động kinh. Thế cùng Anna phải viết thư về quê hương xin ít tiền để rời khỏi
cái tổ quỷ ấy. ngày 23/8/1867 hai vợ chồng sang Genève, những dòng thư trong thời
gian ông ra vào địa ngục sa đọa gởi cho Anna có những đoạn:
“Anh đã thua sạch, anh đã đem cầm đồng hồ đeo tay, lạy
trời hãy gởi gấp tiền cho anh để anh về nhà, hãy cứu anh lần chót...”
Bốn năm sống nơi nầy nơi khác,
cả Dostoievsky lẫn Anna đều mong mỏi trở về quê hương, trong bức thư gởi cho
Maikov, Anna than thở: “ở đây khổ sở biết bao! Tôi đã quá mệt mỏi vì cuộc
sống đổi dời từ chỗ nầy đến chỗ nọ, không có một nơi ổn định, khi nào tôi được
trở về quê nhà chắc tôi sẽ không cho phép mình rời khỏi nước Nga lần nữa, nhưng
ngày hồi hương của chúng tôi chỉ là giấc mơ, ai biết lúc nào sẽ thành sự thực,
ngày ấy hẵn là các chủ nợ sẽ bắt Fyodor vào tù, giá như họ đồng ý để tôi ngồi
tù thay anh ấy, tôi sẽ không ở đây thêm một phút nào nữa, tất cả hy vọng của
chúng tôi đều trông mong vào Fyodor, nhưng mới đây sức khỏe anh ấy xấu quá,
anh thường lên cơn và nhức đầu dữ dội, tuy nhiên chúng tôi sống rất hạnh phúc
và hòa hợp, tôi thấy mình sẽ là người sung sướng nhất đời nếu không có lòng
mong nhớ nước Nga vời vợi thế nầy. Hãy viết thư thường xuyên anh nhé! Anh biết
không! Khi nhận được thư từ quê nhà, khi đọc thư anh, lòng chúng tôi như đến được
đời sống nơi ấy“. Từ Genève Dostoievsky viết thư cho Maikov:
“Không được sống ở quê nhà thật đau khổ, tôi cần nước Nga cho cảm hứng và
sáng tác của tôi".
Cuộc sống ở châu Âu không còn
gì quyến rũ họ nữa, ngày đêm ước mơ hồi hương càng da diết, nhưng hoàn cảnh của
họ khó trở về sớm được, nào là bé gái mới sinh, tiền bạc không có, còn bao
nhiêu điều rối rắm buộc lấy chân họ, rồi nổi lo các chủ nợ lăm le ở quê nhà, một
hôm Dostoievsky than thở rằng:
- Xa nước
Nga lâu quá dường như sức sáng tạo của ông cạn dần đi.
Thế là Anna đã tìm đủ mọi cách
để trở về ngay như trước đây cô đã quyết tâm vượt mọi khó khăn để ra đi. Trước
ngày chuẩn bị hồi hương, Dostoievsky nhận được một bức thư gởi từ Nga báo cho
ông biết khi ông về sẽ bị cảnh sát xét hỏi mọi hành lý vì ông bị tình nghi có
dính líu với những tổ chức cách mạng thời ấy, thế là ở Dresden năm 1871 ông đốt
hết mọi bản thảo "Người chồng Muôn thủa“ “Gã Khờ“ và phần đầu tác phẩm “Lũ
Người Quỷ Ám“, nếu hồi ấy vợ ông là người đàn bà khác, chắc chắn kho tàng văn
học thế giới đã mất đi những tác phẩm vĩ đại ấy, nhưng Anna là người đầu tiên
đón nhận ánh sáng của Dostoievsky quyết lòng gìn giữ đến cùng, ngoài những bản
thảo cô còn chép riêng một bản khác và đã bí mật đem qua biên giới sau khi cô để
ông trở về trước, về đến Saint- Pe1terbourg việc đầu tiên là cô gởi những tác
phẩm ấy cho mẹ giữ.
Giấc mơ hồi hương của họ đã trở
thành sự thực, Saint-Pe1terbourg thủa ban đầu như sống lại trong lòng
Dostoievsky-Anna, nhưng nếu thời gian càng làm cho tình nghĩa vợ chồng gắn bó
hơn thì cuộc sống nơi đâu cũng có tai ách săn đuổi họ, sau ngày về ông nói với
Anna:
- Tốt lắm Anna ạ! Chúng ta đã
sống bốn năm hạnh phúc ở nước ngoài, mặc dầu đôi khi có lắm nổi truân chuyên,
còn saint-Pe1terbourg sẽ cho chúng ta những gì đây? Anh thấy nhiều nổi lo âu,
khó khăn đón chờ chúng ta khi mới đặt chân trở về.
Anna đáp lời chồng:
- Vấn đề chính là giấc
mơ bao lâu của chúng ta đã trở thành sự thực.
Ngày 28/4/1871 sau mười
năm lao vào những cuộc cờ đỏ đen, sự thực đã cho ông biết tính chất sa đọa của
con người cũng như sự phi lý của kẻ tìm lối thoát cuộc sống trên bàn cờ con
quay, ông viết thư cho Anna như là một thực chứng của sự tìm kiếm nầy “ Một
việc lớn lao đã diễn ra trong anh, thói ngông ghê tởm từng dày vò anh mười năm
đã biến mất, từ mười năm nay, không! Đúng hơn là từ ngày anh
trai chết, khi anh è cổ ra để gánh lấy nợ nần, anh đã mơ ước kiếm tiền, anh đã
mơ ước nghiêm chỉnh say mê, bây giờ tất cả đã chấm dứt” Dostoievsky đã thực
sự đoạn tuyệt với ‘bàn con quay’ sau bức thư ấy.
Ngày 16/6/1871 Anna sinh con
thứ ba ở Saint-Pe1terbourg, đó Fyodor, con trai duy nhất của vợ chồng ông. Những
ngày mới về nước Anna hy vọng bán căn nhà me nàng cho làm của hồi môn để trả dần
nợ cho ông, nhưng thời gian nàng ở nước ngoài, người quản lý lợi dụng không có
nàng đã âm mưu đem bán đấu giá, thế là hy vọng trả nợ tiêu tan, tình trạng của
hai vợ chồng thật nguy khốn, bốn năm không thấy các chủ nợ tưởng đã quên được,
bây giờ trở về, họ như đàn quạ chực chờ lăn xả vào Dostoievsky, giữa lúc sự sống
của gia đình chỉ trông chờ vào việc bán tác phẩm "Lũ Người Quỷ Ám“ đang đăng
tải ở báo Rusky-Vestnik, đứng trước nguy cơ một ngày Dostoievsky sẽ bị bắt vào
tù, Anna mới sinh dậy, nàng đã phải một mình chống đỡ bảo vệ ông tới cùng, vì
hơn ai cả cô hiểu rằng hạt kim cương vô giá đang kết tinh trong nội tâm chồng
mình, cô quyết không để bi kịch nào nữa ảnh hưởng đến giờ phút sáng tạo của
ông, đó là ngày khai sinh đứa con tinh thần bất tử “Anh Em Con Nhà Karamazov“
mà ông đề tặng Anna tác phẩm vĩ đại ấy.
Như một người mẹ bảo vệ con
mình trước nanh vuốt thú dữ, Anna chống đỡ, thương lượng, chạy vạy đối phó với
các chủ nợ, trong gia đình cô quán xuyến hết mọi việc, cô muốn Dostoievsky hoàn
toàn thanh thản, bình yên với mùa sáng tạo đang chín, cô chăm sóc sức khỏe của
ông nhưm người mẹ, mỗi lần ông đi đâu, cô đắn đo sợ trên đường đi ông sẽ gặp điều
không may, cô thường bước ra cửa trông theo đến khi ông dần khuất.
Năm 1872 là năm đại nạn của
gia đình, nào bé gái Lioubov bị té gãy tay, người chị ruột Anna chết lúc tuổi
ba mươi, tiếp tục mẹ Anna lâm trọng bệnh rồi Anna bị viêm họng đến nổi bác sĩ
ái ngại cho sự sống của cô. Trước hoạn nạn mới thấy hết sức chịu đựng, ý chí và
lòng hy sinh của nàng. Trong nhật ký của nhà văn viết năm 1876 Dostoievsky ngợi
ca hình ảnh dũng cảm của người phụ nữ Nga qua tấm gương sáng đẹp của vợ ông: “Cuối
cùng tôi muốn hình ảnh khác nữa về người phụ nữ Nga, tôi nói rằng phụ nữ Nga là
một trong những hy vọng lớn nhất, một trong những ước mơ trẻ trung nhất của
chúng ta, sự hồi sinh của người phụ nữ Nga trong hai mươi năm qua thật không
tranh cãi được, hy vọng của người phụ nữ đã vươn lên hòa chan vào sự trong
sáng, không sợ hãi, ngay từ bước đầu điều ấy đã thể hiện lòng cao quý... người
phụ nữ đã quả quyết nói lên ước mong của mình muốn tham dự vào cuộc đấu tranh
chung và thực tế họ đang làm như vậy, không phải vì lòng vị kỷ nhưng bằng tâm
tình hiến dâng...”
Tất cả những tác phẩm
Dostoievsky viết sau ngày gặp Anna, những người phụ nữ đáng yêu trong ấy đều ít
nhiều mang bóng dáng, tính tình của cô, Sonya trong phần cuối của “Tôi Ác Và
Hình phạt“, chân dung ba chị em trong “Gã Khờ“ rồi Tatina trong “Evgeni-Onegin“ và bài diễn văn ông đọc ngày tưởng niệm Pouchkine.
Thật vậy mười bốn năm làm vợ
Dostoievsky, Anna đã chứng tỏ cô là người vợ phi thường của đại văn hào
Dostoievsky, cô quên đi bản thân mình, vui trong niềm vui chồng con, hiến dâng
cho sự sáng tạo của Dostoievsky là mục đích đời cô, cô lo lắng mọi việc trong
nhà, một mình chống đỡ biết bao tai biến để giữ bình yên cho ông, niềm vui lớn
nhất của cô là sự sáng tạo của Dostoievsky, mỗi lần ông viết xong một tác phẩm
cô sung sướng như khi hạ sinh một đứa con vào đời, năm 1876 từ Eims ông viết
thư về cho Anna: ”Em là người phụ nữ phi thường, tuyệt vời nhất trong tất
cả những người phụ nữ, chính em, em không ngờ được năng lực của em đâu! không
những em gánh vát hết mọi việc nhà, công việc của anh, nhưng còn tất cả công việc
của chúng ta nữa. Ví như em là nữ hoàng cho em một vương quốc, anh thề với em rằng,
em sẽ trị vì tốt đẹp hơn bất cứ vị vua nào khác. Quả thật em thông minh, quán
xuyến, độ lượng và đủ năng lực tổ chức như vậy...”
Năm 1878 gia đình thêm một cái
tan đau đớn nữa, đứa con út chết khi tuổi mới lên ba sau cơn động kinh, năm ấy
Dostoievsky đang viết tác phẩm cuối cùng “Anh Em Con Nhà Karamazov“, tình yêu
của người cha thật vô cùng, trái tim ông càng sống càng yêu thương, cũng như
cái chết của Sonya trước đây, nhớ thương con đến nổi ông không viết được tác phẩm
cuối cùng ấy. Trong những ngày bất hạnh đó, Anna nén lòng đau để giúp ông nguôi
quên, cô nhờ người bạn trẻ, nhà triết học Vladinuz-Soloyev khuyên ông đến thăm
vị linh mục nổi tiếng đạo hạnh và linh thánh ở tu viện Optina. Sau khi trở về ông
thấy lòng yên ổn và tiếp tục sáng tác với sinh lực mới.
“Anh Em Con Nhà Karamazov“
Dostoievsky bắt đầu viết khi về sống ở Staraya-Rusa, một thị trấn nhỏ gần
Novgorod, nơi có những dòng suối nước khoáng tốt cho sức khỏe con cái, ở đây
ông rất thích, không khí trong lành, yên tĩnh, gia đình ông sống trong căn nhà
của người anh Anna, dù không phải sở hữu nhưng về đây gia đình ông thoát được
cái cảnh thuê nhà thay đổi liên tục ở Saint-Pe1terbourg.. Suốt cuộc đời sáng tạo,
đêm đối với ông là ánh sáng, khi cả nhà bắt đầu yên giấc là lúc ông làm việc,
ông khám phá những bí ẩn của con người, của cuộc đời đều ở trong đêm, trà, cà
phê ông uống thật đậm mỗi khi cầm bút và khi cả nhà thức dậy thì ông lên giường
ngủ, thời gian sau nầy chứng bệnh khí thủng mà ông mắc phải vào những năm tù
đày tái phát trầm trọng, ông phải đi Eims để điều dưỡng lâu dài, Anna đã làm mọi
điều để gìn giữ sức khỏe của ông.
Tháng 6/1880 Dostoievsky thực
hiện những nguyện ước của đời mình, trả sạch nợ trần ai, lòng yên ổn với tuổi đời
cánh hạc và đọc bài diễn văn tưởng niệm Pouchkine ở Moscow, con sơn ca yêu quý
tự do mà thời trẻ ông ngưỡng vọng, suốt đời ông vẫn giữ tình cảm ấy, bài diễn
văn của ông là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt tác, đẹp như lời ca thiên nga, ông
đã tâm huyết viết nên bài ca suốt đời ông mong muốn.
Sau này Lioubov nhớ lại “Cha
tôi hy vọng sẽ tiếp tục điều trị vào tháng 9, nhưng rồi ông bỏ ý định ra nước
ngoài, vì ông đang thỏa nguyện với cảm xúc chiến thắng trong ngày ấy, ông nghĩ
ông còn đủ sức để sống thêm một năm nữa khỏi phải đi Eims chữa bệnh. Ôi! Ông
đâu có biết cơ thể, xương cốt ông đã suy kiệt đến chừng nào, ý chí sắt đá của
dòng tư tưởng bùng cháy trong tim ông cho ông sức sống tràn đầy để vượt qua sự
thực của thân xác, nhưng thực tế ông đã yếu lắm rồi...”
Dostoievsky biết sức mình lắm
chứ! Ông thừa hiểu chứng bệnh khí thủng có thể phát triển rất nhanh và nguy kịch,
Anna còn hiểu rõ điều ấy hơn nữa, nhưng cô không ngờ ngày cuối cùng của đời ông
đến mau như vậy. Có lẽ nếu ông không thao thức nhiều đêm để viết bài diễn văn
tâm huyết ấy thì ông còn sống thêm dài lâu nữa.
Đêm 25 rạng ngày 26/1/1881 khi
ông xê dịch kệ sách để tìm cây viết bị rơi, bỗng ông gập người ôm lấy ngực ho dữ
dội, vài tia máu vươn theo nước dãi chảy ra miệng, hôm sau ông cãi cọ dữ dội với
người chị V.M. Ivanove về chuyện chia gia tài, thế là tình trạng bệnh càng trầm
trọng. Sớm ngày 28/1/1881 ông đánh thức Anna dậy, ông khàn giọng nói:
- Anya! Em biết không? Anh
đã nằm thao thức ba tiếng đồng hồ, bây giờ anh biết rõ rằng đúng ngày nầy anh sẽ
chết.
Anna ôm lấy ông nghẹn ngào, quả
quyết rằng ông sẽ sống nhưng Dostoievsky ngắt ngang lời cô:
- Không! Em ạ! Anh biết anh
sẽ chết ngày hôm nay, hãy thắp đèn lên Anya, lấy cho anh cuốn Gospel, đó là cuốn
Tân Ước mà ba mươi năm trước những người vợ nhóm tháng chạp đã cho ông ở
Tobolsk trên đường đi đày tới địa ngục Sibérie, trước giờ phút lâm chung ông muốn
bàn tay mình tình cờ lật kinh và đọc trang bên tay trái. Sáng hôm đó ông giở cuốn
Gospel ra nhưng ông không đủ sức để đọc, Anna nức nở gạt nước mắt đọc cho ông
nghe, ông ti3ng táo nói với cô:
- Hãy nhớ rằng Anya, anh mãi
mãi yêu em say đắm và không bao giờ làm em thất vọng.
Ông gọi con cái đến bên giường
dặn dò chúng phải sống thế nào sau khi ông mất, bảo chúng phải yêu thương mẹ thế
nào, phải yêu sự chân thật, yêu lao động, phải yêu người nghèo và luôn luôn tìm
cách giúp đỡ họ.
Anna không rời khỏi chồng
một phút, cô muốn đem sự sống của mình chan hòa vào hơi thở của ông nhưng không
thể, Dostoievsky cầm lấy tay cô rưng rưng:
- Em thương yêu! Làm sao anh
bỏ em... cho đành... với người vợ nghèo thế nầy!... với cuộc sống giờ đây biết
bao khó khăn giờ đây em phải một mình gánh vát...
Mặt trời của Anna vĩnh viễn lặn
tắt năm cô vừa tròn 35 tuổi nhưng đối với cô hạnh phúc riêng tư từ đây đã chấm
dứt, cuộc sống trước mắt chỉ còn nỗi đau và lòng tưởng nhớ, trong nhật ký cô viết
về những ngày vĩnh biệt ấy: “Có điều duy nhất tôi biết rõ rằng, cuộc sống
bao nhiêu hạnh phúc vô cùng ấy đã hết, từ đây tôi mãi mãi là người lẻ bóng, với
tôi người yêu thương chồng tôi cuồng nhiệt như vậy, tận tụy như vậy, đã thể hiện
hết tình yêu, tình bạn, lòng kính trọng với con người nhân bản lớn lao nầy. Trước
sự mất mát nầy thật không có gì bù đắp nổi, trong những giờ phút đau thương của
sự thực, tôi thấy mình khó sống nổi sau cái chết của chồng tôi, trái tim tôi sắp
vỡ tan hoặc rồi đây tôi sẽ hóa điên... tôi đã mất đi con người toàn diện nhất
trần đời. Người là niềm vui, kiêu hãnh,hạnh phúc của đời tôi. Ôi! Mặt Trời của
tôi, ôi! Thần Thánh của tôi.
Đám tang của văn hào là một sự
kiện lịch sử lớn thời ấy, khi ánh sáng vầng dương đã tắt con người mới vội vã
níu lấy hoàng hôn, gần 30.000 ngàn người đi sau quan tài Dostoievsky, có những
người đeo gông, quàng xiềng lên mình để tưởng nhớ cuộc đọa đày của văn hào
trong ngục tù Sibérie, họ đưa ông tới nơi an nghĩ cuối cùng ở tu viện
Alexandre-Newsky trong niềm tiếc thương một thiên tài đã ra đi. Với Anna mùa
xuân còn lại đã chấm dứt, trước linh cửu Dostoievsky cô đã thề nguyền sẽ ở vậy
trọn đời để phụng thờ ông, sau nầy nhiều người hỏi cô sao không đi bước nữa khi
tuổi xuân đang tràn trề nhựa sống, Anna tỏ ý giận nói rằng:
- Điều ấy đối với tôi là sự phạm
thánh – Nhưng rồi cô bông đùa – Sau Dostoievsky tôi có thể lấy ai bây giờ?
Tolstoi ư?
Anna tiếp tục tìm hạnh phúc
trong tinh thần Dostoievsky, công việc của cô thật lớn rộng và đa dạng, cô đứng
ra xuất bản toàn bộ tác phẩm của Dostoievsky đến bảy lần. Năm 1883 cô mở ở
Staraya-Rusa một trường học miễn phí mang tên Dostoievsky cho tất cả trẻ em
nghèo và căn nhà họ ở thị trấn trước đây cô xây dựng thành viện bảo tàng của
văn hào, tập hồi ký của cô và thư từ của Dostoievsky lần lượt xuất hiện, đó là
tác phẩm thật quý giá với những gì trong đời sống thực của gia đình, nơi ấy
Dostoievsky hiện ra là một người chân thật đến cùng, một người chồng đằm thắm,
giản dị và độ lượng, ngoài ra Anna còn xuất bản tập tiểu sử đầu tiên về Dostoievsky, viết lời
chú giải về những tác phẩm của ông, sách vở bản thảo của ông Anna xây dựng
thành thư viện và thường có những buổi họp mặt nói chuyện, hồi tưởng về nhà
văn, cô còn mở cạnh viện bảo tàng lịch sử Moscow một phòng đặc biệt về
F.M.Dostoievsky. Và công việc sau cùng của Anna là tác phẩm chỉ dẫn thư tịch về
những tác phẩm của ông và những tác phẩm nghệ thuật liên quan đến cuộc đời sáng
tác của Dostoievsky.
Anna đã thực hiện trọn vẹn lời
phát nguyện của cô trước linh hồn Dostoievsky, nửa cuộc đời còn lại cô thủy
chung với ông, những năm về già ước mơ duy nhất mà cô thường dặn dò con cháu là
được vĩnh viễn nằm cạnh Dostoievsky nhưng số phận đã quyết định khác hẳn.
Mùa hè năm 1917 Anna đi dự lễ
thường năm ở phương nam thì bà ngã bệnh trong lúc ấy quân Đức đang chiếm đóng
Crimée nên không thể đưa bà trở về Pretrograd được, những ngày cuối cùng của bà
ở tại Yalta, đến hơi thở cuối cùng Anna vẫn nhắc đến Dostoievsky, con người duy
nhất chỉ cho bà thấu đâu là thiên đường, đâu là địa ngục. Anna mất tại yalta
ngày 9/6/1918, người phụ nữ biểu tượng cho người vợ, người mẹ Nga đẹp nhất cuộc
đời đã trở về với Dostoievsky trong cõi vĩnh hằng.
Ngày 9/6/1968 kỷ niệm 50 năm
ngày Anna-Grigouyevna-Dostoievskaya từ trần, cháu nội Andrei đứng ra thực hiện
lời nguyện ước của bà: Chuyển hài cốt Anna về an táng tại tu viện
Alexandre-Newsky. Sau lưng hai ngôi mộ Dostoievsky-Anna là hình ảnh người mẹ
Nga mãi mãi bao dung, gìn giữ giấc nghìn thu của họ. Và tình yêu kỳ diệu của
Dostoievsky-Anna mãi mãi là bình minh hạnh phúc cho mọi con tim trên toàn cầu
chiêm ngưỡng.
VƯƠNG KIỀU lược dịch theo bản tiếng Anh.
eva flight
vé máy bay đi mỹ rẻ
korean air việt nam
book vé máy bay đi mỹ
vé máy bay đi canada giá rẻ
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Kien Thuc Du Lich