Đảo xa trập trùng cơn sóng
1. Tôi đến đảo Nam Du lần đầu cách đây đúng mười năm.
Khi đó, từ Rạch Giá ra Nam Du phải đi bằng tàu sắt, thời gian di chuyển tầm mười
tiếng đồng hồ. Tàu chở hàng hóa, nhu yếu phẩm từ đất liền ra cung ứng cho bà
con ngoài đảo, rồi chở hải sản từ đảo vào là chủ yếu, vận chuyển hành khách chỉ
là phụ. Tôi còn nhớ, lần đầu đi biển nên say sóng, tôi nằm vật vã giữa đống
thùng xốp, bao ni lông đựng rau củ. Đến khi nghe ai đó nói văng vẳng “tới rồi,
tới rồi” tôi mới dụi mắt ngồi dậy…
Nam Du là tên gọi một quần đảo gồm 21 đảo lớn nhỏ, nằm ở vùng
biển phía Tây Nam của nước ta, thuộc huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang. Lúc
tôi đến, chỉ có hòn Lớn, hòn Ngang, hòn Dầu và hòn Mấu có người ở. Những hòn
khác vẫn còn bỏ hoang. Ngay cả hòn Lớn cũng chỉ có vài trăm hộ định cư, dĩ
nhiên sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt hải sản. Đi bộ dọc con đường ven biển nhỏ
xíu, dài độ ba cây số từ cầu cảng ở bãi Trệt về bãi Cỏ, hai bên đường chất đầy
các ngư cụ. Hầu như con đường đảo không có xe, khi cần di chuyển thì người ta
đi bộ hoặc dùng tàu thuyền. Cả xóm chài hầu như chỉ phụ nữ và trẻ em, đàn ông
con trai đi biển hết rồi. Những người phụ nữ ngồi trước cửa nhà, mắt nhìn đăm
đăm ra biển. Những đứa trẻ rồng rắn chạy theo tôi, bởi hiếm khi có người lạ đến
nơi này.
Tôi ở nhà của anh Lưu, là anh trai của đứa học trò tôi. Lúc
tôi đến anh còn đi câu mực ngoài khơi. Chị Huyền, vợ anh nấu cơm cho chúng tôi
ăn. Khoảng 8 giờ tối anh Lưu về với một khoang đầy mực ống, con nào con nấy bằng
bắp tay. Anh bắt vài con lên rửa sạch rồi quăng vào nồi luộc, luộc chín cắt ra
từng khúc to như khúc bánh tét. Đó là miếng mực ngon nhất tôi được ăn cho đến
bây giờ. Mâm mồi dọn ra, gần chục người “bạn biển” của anh Lưu cũng đến nhà.
Chúng tôi uống rượu và nói với nhau những chuyện về biển… Đến gần nửa đêm cuộc
rượu tàn, tôi nằm trên chiếc võng, ngủ say sưa giữa điệp trùng gió biển trong sự
vỗ về của tiếng sóng.
Mấy ngày sau đó anh Lưu dùng chiếc tàu câu mực chở chúng tôi
đi quanh các đảo ngắm cảnh, câu cá và tắm biển. Phải công nhận là đảo rất đẹp.
Màu nước xanh như ngọc bích, những cánh rừng trên đảo bát ngát xanh, bầu trời
cũng quyện vào một sắc xanh bất tận. Mọi thứ trong lành viên mãn đến mức tưởng
chừng như chốn Bồng Lai. Đó là lý do khiến tôi quyết tâm trở lại Nam Du nhiều lần,
và mỗi lần cảm giác lại khác nhau.
2. Mấy năm sau, tôi trở lại Nam Du. Lúc này con đường quanh
hòn Lớn đã hoàn thành, lượng khách du lịch đến đảo ngày càng đông. Nhiều công
ty tàu cao tốc bắt đầu khai thác tuyến Rạch Giá - Nam Du. Dù vậy cung vẫn không
đủ cầu, những ngày cuối tuần hay lễ tết tàu đều cháy vé. Tôi không mua được vé
tàu cao tốc, phải đi tàu gỗ, cũng là loại tàu chở hàng hóa nhưng nhỏ hơn tàu sắt
trước kia…
Tôi ngồi ở mép tàu, dựa lưng vào mấy bao tải đựng nhu yếu phẩm.
Trăng. Đó là một đêm trăng bàng bạc. Trăng rải khắp mặt biển, trăng uốn mình
cùng con sóng, lao đến đập vào mũi tàu rồi vỡ ra muôn mảnh. Tôi ngủ thiếp đi giữa
mênh mông trăng. Mờ sáng, tàu cập cảng. Tôi ngạc nhiên khi mấy căn nhà gần cầu
cảng ở bãi Trệt đều được sửa sang lại khang trang. Cái thì bán đồ lưu niệm, cái
thành quán ăn, nhà nghỉ…
Chị Huyền chạy xe gắn máy lên tận cầu cảng đón chúng tôi. Chị
khoe, giờ đường xá ngon lành rồi, làm du lịch hết rồi nên xe cộ nhiều, đảo tấp
nập đông vui lắm. Ngồi trên chiếc xe gắn máy cũ chạy đường vòng quanh đảo về
nhà chị Huyền. Gió biển thổi vào rát mặt. Ngoài xa, từng đợt sóng vẫn chồm lên
nhau lao về phía bờ. Chỉ có điều, những con tàu dường như thưa vắng dù đây đang
là mùa câu mực. Chị Huyền nói dân đảo giờ đi biển cũng ít, đa số chuyển sang
làm du lịch. Nhà chị cũng cất lại để cho khách du lịch thuê trọ. Chiếc tàu câu
mực trước kia của anh Lưu giờ “chế biến” lại thành chiếc tàu chở khách tham
quan. Chị hào hứng kể, từ ngày có du khách đến đảo, bà con khấm khá hơn nhiều,
lại không phải bôn ba đầu sóng ngọn gió ngoài biển khơi như trước đây. Nghe chị
kể cũng mừng thầm trong bụng, nhưng vẫn lo lo và tiếc tiếc một cái gì vô cớ.
Những ngày sau đó, tôi thường một mình chạy xe đi vòng quanh
đảo. Có một nỗi mất mát vô hình nào đó khiến lòng tôi trĩu nặng… Anh Lưu giờ
cũng nghỉ đi biển. Anh nuôi một bè cá bớp, dùng cái tàu câu mực chở du khách
cũng khấm khá lắm. Trưa đó, tôi đi theo anh cùng nhóm du khách dạo một vòng
quanh các đảo trước khi ghé bè nấu ăn. Chiếc bè rộng chừng vài trăm mét vuông,
nuôi một ngàn con cá bớp. Mặt trên bè anh dựng một cái lều đủ sức chứa khoảng
ba mươi người. Hiện tại có chừng một trăm hộ nuôi cá bớp ở khắp đảo Nam Du,
nhưng chỉ chừng chục hộ có phục vụ du khách như gia đình anh Lưu. Chúng tôi
tham quan bè cá, cho mấy con cá bớp háo ăn như lũ cá mập ăn cử trưa, sau đó thì
dùng cơm ngay trên bè. Rượu vào, các du khách bắt đầu nổi hứng hát hò nhảy múa
rung rinh căn lều nhỏ…
Lần đó, thú thật tôi đã trở về từ Nam Du cùng với những tiếng
thở dài.
3. Lần này tôi trở lại Nam Du vào dịp tết Dương lịch. Áp thấp
nhiệt đới khiến chuyến tàu cao tốc từ đất liền ra đảo hết sức kinh hoàng. Sóng
dội từng đợt đùng đùng vào mạn tàu. Tàu chao nghiêng, rồi như ngả qua bên trái,
chưa hết cơn lại bật về bên phải, chồm lên trên, rồi dội phải con sóng lớn đập
giật ngược. Hành khách nghiêng ngửa bên trong, ai nấy sợ xanh mặt trước cơn thịnh
nộ của đại dương. Trừ dân ở đảo, tất cả du khách trên chuyến tàu đó đều ói tới
mật xanh, cả nhân viên phục vụ tàu cũng vậy. Tàu cập cảng ai nấy mừng như chết
đi sống lại. Có mấy người ngất xỉu phải đem đến trạm y tế trên đảo cấp cứu.
Tôi định ở chơi hai ngày nhưng mới ở được một ngày thì nghe
tin đài báo áp thấp đã mạnh thành bão, cấm tàu thuyền đánh bắt và lưu thông cho
đến khi nào có thông báo mới. Trưa hôm đó, gió bắt đầu rít mạnh từng cơn, biển ầm
ào nổi sóng. Tôi ra trước bãi đứng dõi mắt về đất liền với vẻ lo lắng thì gặp
anh Tư Công đang ngồi uống trà trong căn nhà gần đó. Anh ngoắc tôi vô, rót cho
tôi một ly trà nóng. Cầm ly trà trên tay nhưng không có tâm trạng uống. Anh Tư
trấn an, nói bão thì bão chớ có gì đâu mà sợ. Dân ở đảo thì năm nào không chống
chọi cả chục cơn bão, một đời người chống chọi mấy trăm cơn bão, có gì đâu mà
lo. Ánh mắt anh tỉnh rụi, nụ cười hiền khô, tôi nghe mà cũng thấy an tâm phần
nào.
Anh Tư kể anh là dân gốc Châu Thành, tỉnh An Giang, dạt ra đảo
này từ hơn ba mươi năm trước. Hồi đó ở quê khổ quá, nghe nói ngoài đảo sống được
nên cùng vài người thân trong dòng họ quá giang tàu đánh cá ra đây. Bước lên đảo
với hai bàn tay trắng, anh đi theo ghe đánh cá làm công vài năm, có chút vốn mới
cất nhà rồi đưa vợ con ra. Anh bảo đa số dân ở đây đều “bén duyên” với đảo như
thế.
Anh Tư chỉ xuống nền nhà bảo, đây là cái nhà sau này, chớ trước
là nhà gỗ lợp tranh. Gỗ thì đốn trên đảo, tranh cũng trên đảo, nhân công thì có
mấy anh em bạn chài giúp đỡ. Cả cái nhà cất tốn có 27 ngàn đồng tiền đinh thôi.
Tôi bỗng liên tưởng đến cái thời khai hoang mở cõi của lưu dân Nam Bộ xưa…
Nhưng đó là chuyện “từ thuở mang gươm đi mở cõi” hàng trăm năm trước. Nào ai ngờ
cách đây hơn ba mươi năm mà cũng có những người phiêu bạt không kém tiền nhân.
Chính cái nghĩa tình của những người đi trước, và sự hào phóng của sản vật biển
khơi đã cưu mang Tư Công cùng bao hộ gia đình khác đến bây giờ.
Tư Công chỉ anh con trai chừng 25 tuổi đang bồng thằng bé khoảng
3 tuổi, nói con trai tôi đó. Mới hai mươi mấy tuổi mà nó có ba đứa con rồi. Thằng
nhỏ nó đang bồng được hơn hai tuổi. Vợ nó đi chợ bán mấy mớ cá mực tới giờ chưa
về, chắc do mưa bão, ít du khách nên bán chậm. Tư Công kể trước đây trên đảo
cũng có trường học nhưng nhà anh ở cái bãi nhỏ, không có đường đi, muốn học phải
“nhảy gành” (đi bộ vượt qua các ghềnh đá ven biển) mấy cây số, thấy vất vả vậy
nên anh không cho con đi học. Giọng Tư Công bỗng chùng xuống, anh bảo trước đây
biển này cá mắm nhiều lắm, bơi chiếc thuyền thúng ra câu một chút là tha hồ mà
ăn. Chạy tàu ra khơi đánh cá, câu mực vài ngày là sống được cả tháng trời. Bởi
vậy con cái không đi học cũng thấy bình thường, đi làm nghề biển vẫn dư ăn dư để
mà. Thế nhưng bây giờ biển cạn cá rồi, đời sống ngư dân ngày càng khó khăn,
nghĩ lại mấy đứa nhỏ phải chi biết chữ biết nghĩa giờ đi làm nghề khác không chừng
dễ sống hơn. Tiếng Tư Công trầm đục, đôi lúc bị át đi bởi tiếng gió gầm gào và
tiếng sóng biển ngày càng dữ tợn…
Tư Công ngồi bó gối trên bộ ván, dáng vẻ vững chãi, nước da
đen sạm, gương mặt nhiều nếp nhăn dấu tích của thời gian và cần lao. Mưa bắt đầu
nặng hạt. Căn nhà nãy giờ rung lên từng đợt theo gió, giờ lại bị mưa dột vài chỗ
khiến chúng tôi cứ ngồi lùi vào sát vách. Tôi kịp quan sát vài vật dụng sơ sài
của một căn nhà xứ đảo với gần chục nhân khẩu. Mọi thứ trống hoác đến mức mỗi
trận gió lùa suốt từ cửa vào đến buồng rồi lại trở ra mà như không vướng víu thứ
gì. Có lẽ đa phần du khách khi đến đảo, họ chỉ tận hưởng vẻ đẹp, đắm mình trong
sự thanh khiết của thiên nhiên, thưởng thức hải sản. Chắc ít ai dành thời gian
của một chuyến du hành để ghé qua những căn nhà như của Tư Công, và hàng trăm hộ
khác cũng lắt lay tồn tại ở một góc nào đó trên hòn đảo nhỏ này. Kể cả tôi, nếu
không vô tình mắc kẹt giữa đảo vì cơn bão dữ, chưa chắc tôi đã có dịp nghe Tư
Công thổn thức những thăng trầm.
Kẹt ở đảo đến ngày thứ năm thì nghe tin hôm sau tàu cao tốc
có thể hoạt động trở lại. Chiều đó, tôi đang thu xếp hành lý chuẩn bị sáng về đất
liền thì thấy Tư Công hớt hơ hớt hải chạy đến. Tôi chưa kịp hỏi gì, Tư Công đã
kêu tức tốc mượn chiếc xe chở anh qua bãi Mến có chuyện gấp. Đợi xe nổ máy Tư
Công mới bảo, có mấy chục chiếc tàu đánh cá, tàu câu mực vào tránh bão nhưng bị
sóng đánh chìm bên bãi Mến, anh vừa nghe tin là chạy qua liền. Đến nơi đã thấy
có hơn trăm người dân tụ họp ở đó. Vài chiếc tàu được kéo lên bãi nhưng vẫn còn
nhiều chiếc chìm trong nước, có chiếc bị sóng biển đánh vỡ đôi, có chiếc vỡ nát
ra thành từng mảnh nhỏ. Xe vừa dừng, Tư Công đã lật đật chạy xuống bãi, cùng bà
con kéo mấy chiếc tàu lên bờ. Có vẻ như chỉ cần chậm một chút, sóng sẽ tiếp tục
đánh nát những chiếc tàu còn lại. Tôi cũng hì hục kéo tiếp bà con cho đến khi tối
mịt mới nghỉ. Nhiều nhóm du khách bị kẹt trên đảo như tôi cũng tham gia vào việc
“giải cứu” mấy chiếc tàu chìm. Những chiếc còn khả năng sửa chữa thì hầu như
chúng tôi đã kéo được lên bờ, còn những chiếc khác có lẽ đành bỏ lại. Lúc này,
tôi mới có cơ hội quan sát và hỏi chuyện mấy chủ tàu. Họ đều là những ngư dân
nghèo đến từ khắp nơi, nào là Cà Mau, U Minh, Hòn Đất, Tắc Cậu, có người tận Bà
Rịa Vũng Tàu. Dù quê quán ở đâu, thuyền bè ngư cụ cũng là cả gia tài của họ. Bị
đánh chìm kiểu này là gần như mất trắng. Họ ngồi chết lặng trên bờ cát, mắt
nhìn đăm đăm vào con sóng nơi bao kỳ vọng bị chôn vùi. Có người lén quẹt mấy giọt
nước mắt lăn xuống đôi gò má vốn dĩ rắn rỏi của một đời bôn ba đầu sóng ngọn
gió.
Đếm ấy, Tư Công và dân đảo Nam Du đã ở lại với những ngư phủ
không may. Họ mang nồi niêu, gạo muối đến nấu ăn cho những ngư dân gặp nạn. Họ
còn cất lều, đem quần áo mùng mền tới cho. Dân đảo thừa biết những ngư dân này
nếu muốn trở về đất liền thì cũng mất cả tuần lễ sửa chữa tàu thuyền. Và hơn hết,
lúc này họ cần sự chia sẻ, động viên. Tôi ngồi với Tư Công cùng 4 ngư phủ quê U
Minh trong căn lều dựng tạm, nghe gió rít lên từng cơn ngoài kia, tiếng sóng vẫn
chưa thôi ầm ào như muốn phô diễn sức mạnh của mẹ đại dương. Biển tối om, mịt
mù trong tầm mắt. Thế nhưng, trong căn lều nhỏ này, chiếc đèn bão vẫn sáng một
cách miệt mài. Cuộc chuyện về khuya, các ngư phủ ngả lưng ngủ lấy sức. Tôi cũng
nằm xuống và cơn mệt kéo tôi vào giấc ngủ tự lúc nào không hay biết.
Tôi thức giấc thì Tư Công và mọi người đã ra bãi biển trục vớt
những gì còn sót lại. Người dân cũng đến ngày một đông hơn. Trên đường từ nhà
trọ ra bến cảng, gặp ai cũng nghe nói về những ngư dân gặp nạn ở bãi Mến, ai
cũng muốn hỗ trợ sức người sức của. Tôi tự nhủ thầm, các ngư dân kia không đơn
độc, và phần nào an tâm lên tàu về lại đất liền.
Chuyến tàu cao tốc sáng đó rất đông khách. Tôi nhìn ra bên
ngoài, biển vẫn còn sóng nhưng nắng đã rực vàng. Trước khi khuất tầm mắt, đảo Nam
Du kịp rực lên trong ánh bình minh bất tận giữa biển khơi.
6/1/2020
Trương Chí Hùng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét