Những giá trị văn học còn lại
Trong văn học nghệ thuật, có một quy luật không ai có thể phủ
nhận được, đó là: Thời gian là vị quan tòa khắc nghiệt nhưng công bằng nhất. Dù
vì bất cứ một lý do gì - kể cả những thiết chế xã hội - một tài năng thật sự
không bao giờ bị hoàn toàn quên lãng. Lớp bụi thời gian khi đã được giũ sạch sẽ
lại làm lộ rõ lóng lánh của tài năng. Bích Khê là một truờng hợp như vậy.
Tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 24/3/1915 tại làng Phước
Lộc, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi và qua đời vào ngày 17/1/1946, Bích Khê chỉ
có mặt trên cõi đời này 31 năm. Nhưng chàng trai bạc mệnh ấy quả thật đã để lại
một dấu ấn khó quên trước chuyến viễn du cuối cùng của chàng.
Ngay từ 1941, với cái nhìn tinh tế, Hoài Thanh đã viết trong
Thi nhân Việt Nam: “Tôi đã gặp trong Tinh Huyết những câu thơ hay vào bậc
nhất trong thơ Việt Nam:
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơil Thu mênh mông.”
Và Hoài Thanh kết luận phần viết rất ngắn về Bích Khê bằng một
câu chính xác nhất (nhưng cũng trân trọng vào bậc nhất): “…Thơ Bích Khê, đọc
đôi ba lần cũng như chưa đọc”.
Vậy đó, mà có đến 42 năm Bích Khê bị bỏ quên... Nhưng cho tới
nay, vẫn chưa thấy một nhà viết Văn học sử nào đặt Bích Khê trở lại vị trí cần
phải có của nhà thơ.
Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Bích Khê có cả một quãng thời
gian dài sống tiêu dao, hòa nhập hoàn toàn với thiên nhiền, ngoại giới, để từ
đó soi tìm những cảnh sắc kỳ lạ của thế giới nội tâm. Bắt đầu từ năm 1937, Bích
Khê nhuốm bệnh lao phổi. Sau thời kỳ chữa bệnh ở Huế, Bích Khê trở về nhà mẹ ở
Thu Xà (Quảng Ngãi). Và từ đây, có đến mấy lần chàng sống trên núi (Tà Cú,
Thiên Ân), lại có lúc với một chiếc thuyền con, Bích Khê bồng bềnh trên sóng nước,
“nay ghé Phú Thọ, mai Cổ Lũy, Sa Kỳ...”, như lời chị ruột của nhà thơ, bà
Lê Thị Ngọc Sương thuật lại. Và ba năm 1937, 1938, 1939
là ba năm sáng tạo phong phú của Bích Khê. Vượt lên nỗi đau của thân xác, bệnh
tật và nỗi đau của tâm hồn (cả ba mối tình với ba người đẹp Song Châu, Bích Thủy,
Ngọc Kiều đều đổ vỡ), Bích Khê đã để lại cho đời những tập thơ giá trị như Tình
Huyết, Tinh Hoa. Sinh thời, Bích Khê chỉ mới in được Tinh Huyết (1939) với lời
tựa của Hàn Mạc Tử. Nhưng chỉ riêng với Tinh Huyết thôi, giá trị cách tân trong
nghệ thuật của Bích Khê đã đáng kể lắm rồi.
Sau một thời gian phá thể (so với thơ Đường), thơ Mới dần dần
cũng đi vào ổn định về mặt thi pháp. Chẳng hạn, ở thơ 8 chữ điệu thơ thường ngắt
nhịp ở chữ thứ 3, thứ 5, thứ 6 trong câu: Tôi không muốn/ đất trời xoay chuyển
nữa. Với tháng ngày/ buồn bực/ đuổi nhau đi - (Những sợi tơ lòng - Chế
Lan Viên), hay: Bữa nay lạnh/ mặt trời đi ngủ sớm. Anh nhớ em /em hỡi anh nhớ
em (Xuân Diệu), thì Bích Khuê đưa ra một cách ngắt nhịp mới, ngắt ở chữ thứ 4
trong câu. Có khi toàn bài, Bích Khê đều dùng cách ngắt nhịp này. Ví dụ bài Nhạc
là một trường hợp tiêu biểu.
Ngoài ra, sự cách tân nghệ thuật còn được Bích Khê khai thác ở
lối bình thanh. Toàn bài thơ, câu nào, chữ nào cũng là tiếng bình (không dấu hoặc
dấu huyền). Bích Khê đã tạo ra hẳn một lối thơ mới, hay nói đúng hơn, một nhạc
điệu mới cho thơ 8 chữ. Tỳ bà là một tuyệt tác trong lối thơ này, mà
sau Bích Khê không thấy ai theo được chàng, chứ đừng nói đến chuyện vượt chàng,
về điểm này Chế Lan Viên có một nhận xét rất hay: “Nếu Nguyễn Bính là một miền
đồng bằng thân thuộc, thì Bích Khê là một đỉnh núi lạ”. Đó là về mặt nhạc điệu
trong thơ. Còn về mặt tư tưởng thơ Bích Khê cũng đã có những cái mới, ngay
trong thế hệ của chàng. Nhận xét về tập thơ thứ hai của Khê, Tinh Hoa, Quách Tấn
đã viết: “Tập Tinh Hoa rất có giá trị, giá trị cao hơn Tinh Huyết một bậc. Nếu
sánh cùng sông, thì Tinh Huyết là dòng sông mùa lụt, láng lai cuồn cuộn, song
không thể giặt dải mũ của đám sĩ phu. Còn Tinh Hoa là dòng sông xuân nước vừa
thiếp bờ, dễ khiến khách mỹ nhân nghiên mình cười nụ...”.
Riêng tôi, say mê Bích Khê từ thuở còn là cậu học trò nhỏ,
nay có dịp đọc lại gần như toàn bộ thơ của thi nhân bạc mệnh này,-tôi hiểu đuợc
điều này: Khi một người bị bạo bệnh đã vuợt lên cơn đau thân xác, khi một người
đau khổ vì tình đã vượt lên nỗi thống khổ của lòng mình để nói về những nỗi đau
kia, thì đó không còn là nỗi đau nữa. Đó là khát vọng sống. Đó là sự thăng hoa
của tâm hồn con người. Và đó là sự phân biệt có tính tuyệt đối để thấy rõ cái
khác nhau giữa con người với một sinh vật khác. Và trong chiều hướng ấy, đúng
như Hégel đã nói: “Thơ là tiếng nói mới nhất của nhân loại”.
Khi viết bài này, tôi đã tìm đến chị Nguyễn Lê Thu An, thư ký
tòa soạn của báo Điểm phim, con của bà Lê Thị Ngọc Sương và ông Lạc Nhân Nguyễn
Quý Hương (vốn là thư ký tòa soạn báo Tiếng Dân của nhà yêu nước Huỳnh Thúc
Kháng), người có cái may mắn là cháu gọi Bích Khê bằng cậu ruột, để xin một tấm
ảnh (chưa công bố) của nhà thơ rất tiếc là không có. Nhờ vậy, tôi biết thêm một
chi tiết: Bích Khê rất thương và cưng chiều cháu, nhưng không cho cháu gần gũi,
vì sợ sẽ lây bệnh cho cháu. Với một con người như thế, và nhất là một thi tài
như thế đâu có đáng bị đời lãng quên.
3/4/1993
Nguyễn Giao Thủy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét