Ẩn dụ dùng từ ngữ chỉ các bộ phận
cơ thể người trong tiếng Việt
và tiếng Anh
1. Dẫn nhập
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt,
là “phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người” (V.I. Lénine). Nó là một
hệ thống ký hiệu, mỗi ký hiệu ngôn ngữ bao giờ cũng gồm hai mặt: âm và nghĩa.
Theo F. de Saussure, đó là mặt “cái biểu đạt” (hình ảnh âm thanh) và mặt “cái
được biểu đạt” (ý niệm). Hai mặt này gắn kết với nhau, không tách rời như hai mặt
của một tờ giấy. Mối quan hệ giữa âm và nghĩa (tức là giữa cái biểu đạt và cái
được biểu đạt) là mối quan hệ tự nhiên, có tính võ đoán, không có nguyên do.
Nói một cách khác, cái biểu đạt chính là mặt vật chất, là vỏ âm thanh của ký hiệu
ngôn ngữ; còn cái được biểu đạt là mặt tinh thần, là nghĩa của nó. Con đường
phát triển nghĩa của từ ngữ là chuyển nghĩa. Đây là con đường vừa tiện lợi, vừa
tiết kiệm. Tiết kiệm là vì người ta dùng ngay cái vỏ ngữ âm của những từ đã có
sẵn, tức là không phải tạo mới “cái biểu đạt”. Tiện lợi là vì dựa vào các mối
liên hệ vốn có trong thực tế để chuyển nghĩa, người ta tạo ra được những từ đa
nghĩa, mở ra cho ký hiệu ngôn ngữ cái khả năng kỳ diệu trong sự biểu hiện thế
giới khách quan một cách hữu hiệu và tinh tế. Nhờ vậy mà quan hệ giữa âm và
nghĩa, tức là giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, không còn là quan hệ đối ứng
một đối một nữa. Quan hệ giữa cái biểu đạt với cái được biểu đạt trở thành mối
quan hệ có nguyên do. Ký hiệu ngôn ngữ vốn đơn nghĩa, trở thành đa nghĩa. Tính
đa nghĩa của từ với tư cách ký hiệu ngôn ngữ là một thuộc tính có giá trị bản
thể luận, làm cho nó khác với bất kỳ ký hiệu nào trong các hệ thống ký hiệu
khác mà ta đã từng biết. Dựa vào các quan hệ liên tưởng của ngôn ngữ, người ta
sử dụng phương pháp so sánh làm phong phú thêm cho ngôn ngữ mình đang dùng. Rồi
từ từ, phương pháp so sánh hiển nghĩa được nâng cấp lên thành phương pháp so
sánh ẩn nghĩa, đó là phương pháp ẩn dụ trong ngôn ngữ.
Theo các nhà ngôn ngữ học, ẩn dụ là
phương thức chuyển nghĩa phổ biến trong tất cả các ngôn ngữ. Đó là phép sử dụng
từ ngữ được chuyển nghĩa dựa trên cơ sở tương đồng giữa một thuộc tính nào đó của
cái dùng để nói và cái muốn nói. Nói cách khác, ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi
giữa hai sự vật có mối quan hệ tương đồng. Ẩn dụ không chỉ là biện pháp làm
giàu từ vựng mà còn làm cho nghĩa của từ ngày càng đa dạng, tinh tế không chỉ
trong hệ thống ngôn ngữ, trong văn chương, và trong cả lời ăn tiếng nói hàng
ngày của chúng ta.
2. Cơ sở lý thuyết về ẩn dụ
2.1 Quan niệm của các nhà ngôn ngữ trên
thế giới
Từ ẩn dụ bắt nguồn từ tiếng Hy
lạp métaphora, có nghĩa là sự chuyển nghĩa giữa từ và nhóm từ dựa trên mối
quan hệ giống nhau ít nhiều mang tính rõ ràng. Khác với phép so sánh, phép ẩn dụ
dựa trên những cấu trúc cú pháp phức tạp hơn bởi nó không có những mối quan hệ
so sánh rõ ràng. Theo từ điển ngôn ngữ học của Jean Dubois (1984) định nghĩa1:
“ẩn dụ là dùng một danh từ cụ thể để chỉ một khái niệm trừu tượng mà không có mặt
những từ, cụm từ để chỉ sự so sánh. Hay nói rộng hơn ẩn dụ là việc dùng tất cả
các từ mà từ này có thể thay thế bằng một từ khác có những điểm tương đồng sau
khi đã bỏ tất cả những từ dùng để sự so sánh”. Theo Đỗ Hữu Châu (1981) thì ẩn dụ
là cách gọi tên một sự vật này bằng một sự vật khác, giữa chúng có mối quan hệ
tương đồng. Jean Robrieux (2000) chia ẩn dụ ra 2 loại: ẩn dụ có mặt (métaphore
in praesentia) và ẩn dụ vắng mặt (métaphore in absentia): a) ẩn dụ vắng mặt: gần
giống phép so sánh; b) ẩn dụ có mặt: cái so sánh và cái được so sánh đều cùng
xuất hiện trong cùng một phát ngôn.
Với chức năng giao tiếp trong ngôn ngữ, ẩn
dụ không phải là cách dùng ngôn từ đặc biệt để trang sức như là những mĩ từ trống
rỗng. Ngược lại, ẩn dụ trở thành hương vị và cảm xúc chân thật của đời sống
ngôn ngữ ở nhiều thể loại văn bản. Ẩn dụ cũng không còn giới hạn ở phép dùng từ
hình ảnh, so sánh mà xa hơn thế nữa, ẩn dụ đi vào thế giới lập ngôn (wording) đầy
màu sắc của ý niệm. Ẩn dụ không chỉ là một phương thức hoạt động hiệu quả của
ngôn ngữ mà còn là phương thức tư duy sáng tạo dựa trên chức năng độc đáo của
ngôn ngữ. Nếu Embler (1966) khẳng định rằng ngôn ngữ phát triển thông qua
các điều kiện xã hội và đến lượt mình ngôn ngữ trở lại tác động đến hành vi,
thái độ của xã hội, thì ẩn dụ lại đóng một vai trò quan trọng trong chức
năng này. Vì vậy, ẩn dụ hầu như có mặt khắp mọi nơi trong hoạt động ngôn từ. Có
lẽ vì lý do này mà Halliday (1976, tr.324) nhận xét: “Dường như là, trong
hầu hết các thể loại văn bản, cả nói và viết, chúng ta có xu hướng hoạt động ở
một nơi nào đó giữa hai thái cực: tương thích trần trụi và ẩn dụ quá đáng. Một
cái gì đó hoàn toàn tương thích thì dường như là quá bằng phẳng, trong khi cái
gì đó hoàn toàn xa rời tương thích thì lại tỏ ra giả tạo, bịa đặt”. Theo
Halliday, ẩn dụ chính là hiện tượng ngôn ngữ nằm giữa hai thái cực này.
Nhưng Halliday cũng cho rằng không thể có
một đường ranh giới rạch ròi giữa cách diễn đạt tương thích và cách diễn đạt ẩn
dụ trong ngôn ngữ nói chung. Bởi lẽ, một khi cách biểu hiện ẩn dụ đã ổn định và
tồn tại lâu dài trong đời sống ngôn ngữ thì chính nó sẽ trở thành cách biểu hiện
tương thích. Và như thế, ẩn dụ ngữ pháp chính là con đường lập ngôn luôn giúp con
người tạo ra những cách biểu hiện ẩn dụ mới, làm cho ngôn ngữ hành chức luôn sống
động.
2.2 Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học Việt
Nam
Trong tiếng Việt, ẩn dụ được xem là một
trong các phương tiện tu từ. Theo Đinh Trọng Lạc lược đồ của các phương tiện tu
từ trong tiếng Việt được phác họa như sau:
Trong ẩn dụ có các tiểu phương tiện
như ẩn dụ bổ sung, ẩn dụ tượng trưng, cải danh, nhân hóa, vật hóa, phúng dụ,
hình dung ngữ. Trong hoán dụ có các tiểu phương tiện như cải dung, uyển ngữ,
nhã ngữ, tượng trưng, dẫn ngữ, tập kiều.
Dựa trên cơ chế chuyển nghĩa, Đỗ Hữu Châu
trong cuốn Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt (1981, tr.134, 135) đã phân
loại ẩn dụ theo một số phạm trù nhất định, có thể trình bày lại theo bảng sau:
Ẩn dụ |
||||
Ẩn dụ hình thức |
Ẩn dụ vị trí |
Ẩn dụ cách thức |
Ẩn dụ chức năng |
Ẩn dụ kết quả |
Dựa trên sự giống nhau về hình thức giữa các sự vật |
Dựa trên sự giống nhau về vị trí giữa cácsự vật |
Dựa vào sự giống nhau về cách thức thực hiện giữa hai
hoạt động,hiện tượng |
Dựa vào sự giống nhau về chức năng của các sự vật |
Dựa vào sự giống nhau về tác động của các sự vật đối với con người |
Mũi dao,chân núi, |
Ruột bút, lòng sông, đầu đường,ngọn núi ,… |
Cắt hộ khẩu, nắm tư tưởng,… |
Bến xe,bến sông,… |
Ấn tượng nặng nề, lời nói ngọt ngào, giọng chua chát,… |
Theo Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn Từ vựng học tiếng Việt (1998,
tr.163, 164), ẩn dụ được chia ra 8 kiểu sau:
Theo Đinh Trọng Lạc (2001, tr. 52, 53), ẩn
dụ được chia ra ba loại là ẩn dụ định danh, ẩn dụ nhận thức và ẩn dụ hình tượng.
Rõ ràng ẩn dụ có vai trò vô cùng quan trọng
trong ngôn ngữ đời thường hàng ngày và đặc biệt nó là một công cụ tri nhận mạnh
mẽ để ý niệm hóa các phạm trù trừu tượng. Nếu trước đây ngôn ngữ học truyền thống
quan niệm rằng ngôn ngữ mở cánh cửa đi vào thế giới khách quan quanh ta thì
nay, với sự xuất hiện và phát triển của ngôn ngữ học tri nhận, ngôn ngữ giờ được
coi là cánh cửa bước vào thế giới tinh thần cũng như trí tuệ của con người cũng
như là phương tiện nhằm khám phá ra những bí mật của quá trình tư duy mà trước
đây bị coi là không thể thấu đạt được của con người. Ý nghĩa của ngôn ngữ không
hạn chế trong nội bộ hệ thống ngôn ngữ mà nó có nguồn gốc sâu xa từ kinh nghiệm
được hình thành trong quá trình con người và thế giới tương tác với nhau. Bởi
thế, nhờ ngôn ngữ học người ta hiểu rõ hơn, nắm bắt rõ hơn về quá trình ẩn dụ,
nhờ đó, hé mở cánh cửa nhằm hiểu sâu sắc hơn các tầng bậc ngôn ngữ cũng như
chính bản thân mình, đặc biệt là ngôn ngữ học tri nhận.
3. So sánh ẩn dụ dùng từ ngữ chỉ các bộ phận cơ thể và một số
thành ngữ trong tiếng Việt và tiếng Anh
So sánh sự khác biệt giữa ẩn dụ trong ngữ
pháp truyền thống được xây dựng từ thời Aristote (384-322 BC) với ẩn dụ trong
ngôn ngữ học tri nhận sẽ thấy, lý thuyết ẩn dụ của ngôn ngữ học tri nhận cho rằng,
ẩn dụ là đặc trưng quan trọng nhất của tư duy con người. Tuyệt đại đa số các
khái niệm cơ bản của con người như thời gian, sự kiện, quan hệ nhân quả, tâm
trí, bản ngã, đạo đức,… đều được thể hiện bằng ẩn dụ, hay còn được gọi là ẩn dụ
khái niệm. So sánh:
Ngữ pháp truyền thống |
Ngôn ngữ học tri nhận |
(1) Ẩn dụ thuộc vấn đề biểu đạt ngôn ngữchứ không thuộc vấn đề tư duy |
(1) Ẩn dụ khoa học không phải là một loại cấu trúc ngôn ngữ mà là một loại cấu trúc khái niệm |
(2) Ẩn dụ là một loại hình thức sử dụngngôn ngữ không chính tắc |
(2) Ẩn dụ là một loại biểu đạt ngôn ngữ chính tắc |
(3) Ẩn dụ biểu đạt sự tương đương |
(3) Ẩn dụ không thể hiện sự tương đương, mà là
sự quy chiếu liên vùng, tức là quy chiếu
|
(4) Ẩn dụ không có giá trị thực, vì theo lý luận ngữ nghĩa
truyền thống, ý nghĩa thể hiện ởcon chữ (literal), còn ẩn dụ thì không |
(4) Ý nghĩa không chỉ được thể hiện qua các con chữ, vì thế ẩn dụ vẫn có thể có được giá trị thực |
Trong đó các ẩn dụ liên quan đến các bộ
phận cơ thể con người và phân loại căn cứ vào tính chất của sự giống nhau giữa
bộ phận cơ thể người và sự vật thì các ẩn dụ giống nhau về hình thức, về vị
trí, chức năng, về một đặc điểm, một thuộc tính, tính chất nào đó được sử dụng
tương đối nhiều. Ví dụ như bảng sau:
Đầu |
– Đầu tủ, đầu máy bay, đầu giường, đầu súng, đầu nằm,…
– Đầu làng, đầu sóng, đầu hàng, đầu trang, đầu bản,…
|
Mặt |
– Mặt bàn, mặt ghế, mặt đất, mặt vải, mặt nước, mặt sông,…
– Mặt tiền, mặt trước, mặt sau, mặt trong, mặt ngoài,…
|
Mắt |
– Mắt bão, mắt tre, mắt khoai tây, mắt khóm, mắt dứa, mắt
na,…– Mắt lưới, mắt cáo, mắt võng, thưa mắt,… |
Mũi |
– Mũi thuyền, mũi tên, mũi kéo, mũi dao, mũi dùi, mũi
giày,mũi súng,…
– Mũi chỉ,mũi kim,…
|
Miệng |
– Miệng hang, miệng hố, miệng hầm, miệng bình, miệng chén,miệng giếng, miệng túi, miệng ly, miệng tách,… |
Má |
– Má súng, má phanh,… |
Răng |
– Răng lược, răng bừa, răng cưa,… |
Tai |
– Tai ấm, tai cối xay, tai tai chén, tai bát,…– Tai mắt, tai to mặt lớn,… |
Mép |
– Mép vải, mép bàn, mép giường, mép ghế,… |
Cổ |
– Cổ chai, cổ chày, cổ lọ, cổ đất,…– Cứng cổ, cưỡi cổ,… |
Vai |
– Vai lọ, vai kiệu, vai cày,…
– Vai chính, vai phụ,…
|
Tay |
Tay nải, tay bánh, tay cầm, tay chèo, tay đòn, tay lái, tay quay,… |
Trong tiếng Anh cũng có những trường hợp
như thế này (trích bảng thu thập của Wilkinson, 1993) (dẫn theo Ungerer &
Schmid, 1996. tr 117):
Head |
Head of Department (đứng đầu cục, sở), head of a page (đầu
trang), head of a bed
|
Face
|
Face of a mountain (sườn núi), face of watch (mặt đồng hồ),
face of a building
|
Eye
|
Eye of potato (mắt khoai tây), eye of a needle (lỗ kim), eye of hurricane (mắt bão),… |
Mouth
|
Mouth of a cup (miệng tách), mouth of a tunnel (miệng hầm),
mouth of a cave
|
Lips
|
Lips of a cup (miệng tách), lips of a jup (miệng bình), lips of a crater (miệng núi lửa),… |
Nose
|
Nose of aircraft (mũi máy bay), nose of a gun (mũi súng),… |
Neck
|
Neck of land (eo đất), bole-neck (cổ chai),… |
Shoulder
|
Shoulder of a mountain (lưng núi), shoulder of a road (lề đường),… |
Arm
|
Arm of a chair (tay ghế), arm of a tree (cành cây), arm of
a record player
|
Hands
|
Hands of a watch (kim đồng hồ), hands of an altimeter (kim
đồng hồ đo độ cao),
|
Qua bảng trên, có thể so sánh sự giống
nhau và khác nhau trong cách tri nhận của người Anh và người Việt Nam về những
từ ngữ chỉ các bộ phận cơ thể người.
Cơ chế tư duy gắn bó chặt chẽ với truyền
thống của người bản ngữ. Vậy nói đến ẩn dụ, không thể không nói đến mối quan hệ
giữa đặc trưng văn hóa và ngôn ngữ. Cụ thể nhất là trong thành ngữ mang tính ẩn
dụ:
Nội dung ẩn dụ |
Tiếng Việt |
Tiếng Anh |
Thông minh |
Sáng dạ |
Good head (cái đầu tốt) |
Ghen |
Hoạn Thư |
Othello (trong kịch Othello) |
Chết |
Ăn đất |
Kick the bucket (đá cái xô) |
Họ hàng |
Ruột thịt |
Flesh and Blood (thịt và náu) |
Giúp đỡ |
Giúp một tay |
Give a hand (Đưa một tay) |
Tức giận |
Sôi máu/gan |
Make my blood boil
|
Nhanh chóng |
Trong chớp mắt |
In the blink of an eye |
Tử tế |
Tốt bụng |
Warm-hearted (có trái tim ấm) |
Nhiều chuyện/đa sự |
Lắm mồm |
Have a big mounth
|
|
Vỏ quýt dày có móng tay nhọn |
Kim cương cắt kim cương (diamond cuts diamond) |
Việc làm vô ích chẳng mảy may tác động đến tâm tư tình cảm của người tiếp thu |
Đàn gảy tai trâu |
Vãi ngọc trước bầy lợn
|
Trâu đương nhiên không phân biệt âm nhạc
là gì, con lợn không thể biết giá trị của ngọc, chính tính chất vô tri vô giác
của loài vật được thay thế cho việc làm vô ích. Tính khí ghen tuông của Hoạn
Thư được mọi người công nhận, đó là tính ghen phổ biến của phụ nữ. Từ khái niệm
trừu tượng của nhân vật trong văn hóa được ẩn dụ hóa thành tính ghen phổ biến của
phụ nữ (trong đời thường).
4. Kết luậnNhìn chung, quan điểm của các nhà ngôn ngữ
đều thống nhất những điểm sau:
· Ẩn dụ là từ thay thế cho sự vật, hiện tượng trong
ngôn ngữ bằng một loạt các sự vật, hiện tượng khác phổ biến trong xã hội, văn
hóa, tâm lý, ngôn ngữ mà trong giao tiếp này không có dùng từ so sánh để ám chỉ
đến sự vật, hiện tượng được nói đến.
· Điều kiện cần của ẩn dụ là người nói, người nghe, người
viết và người đọc đều có chung một kiến thức nền về ẩn dụ, nghĩa là phải hiểu
hàm nghĩa có trong từ ẩn dụ đó.
· Mỗi dân tộc đều có sự tri nhận riêng về ngôn ngữ và
văn hóa bản xứ. Ẩn dụ thuộc lĩnh vực ngôn ngữ, do đó nó cũng có sắc thái riêng
thuộc văn hóa - ngôn ngữ bản xứ.
Chú thích:
1. Nguyên văn như sau: “la métaphore consiste dans l’emploi d’un mot concret pour
exprimer une notion abstraite, en absence de tout événement introduisant
formellement une comparaison; par extension, la métaphore est l’emploi de tout
terme auquel on en substitue un autre qui lui est assimilé après la suppression
des mots introduisant la comparaison».”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lê Thị Diên Anh (2009), Xây dựng từ điển
ẩn dụ tiếng Việt, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP Hồ
Chí Minh.
2. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng-ngữ nghĩa
tiếng Việt, Giáo dục, Hà Nội.
3. Nguyễn Thiện Giáp (1978), Từ vựng tiếng
Việt, Đại học tổng hợp Hà Nội.
4. Đinh Trọng Lạc (2001), 99 Phương tiện
và biện pháp tu từ tiếng Việt, Giáo dục, Hà Nội.
5. Trịnh Mạnh, Tiếng Việt lý thú, Tập một,
Giáo dục, Hà Nội.
6. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri
nhận - Từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt, Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Đức Tồn (1989), Ngữ nghĩa các từ
chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt và tiếng Nga, Ngôn Ngữ, Số 3.
8. Nguyễn Đức Tồn (2007), Bản chất của ẩn
dụ, Ngôn Ngữ, Số 10.
9. Nguyễn Như Ý (chủ biên), Hoàng Văn
Hành, Lê Xuân Thại, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành (1998), Từ điển giải
thích thành ngữ tiếng Việt, Giáo dục, Hà Nội.
Tiếng Anh
10. Embler, W.B. (1966), Metaphor and
Meaning, Evere/ Edwards, Florida.
11. Halliday, M.A.K (1976), An
Introduction to Functional Grammar, Edward Arnold, London.
12. Ungerer. F & Schmid. H-J (1996),
An introduction to Cognitive Linguistis, Longman, London & New York.
13. Wilkinson (1992), Thesaurus of Traditional
English Metaphors, Routledge, London, New York.
Tiếng Pháp
14. Dubois. J et Ali (1984), Dictionnaire
de linguistique, Larousse.
15. Robrieux.J.J (2000), Rhétorique et
argumentation, Nathan, Paris.
29/6/2021
Lê Thị Diên Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét