Khúc quanh của dòng sông 1
Thế giới vẫn chỉ là thế giới; ở đó con người chẳng là gì, tự
cho phép mình chẳng là gì và do đó không hề có vị trí cho mình.
Nazruddin, người đã để lại cửa hiệu cho tôi với giá bè
bạn, không nghĩ chuyện buôn bán của tôi về sau sẽ dễ dàng. Đất nước này, cũng
giống như khắp châu Phi, đầy rẫy bất ổn sau khi giành được độc lập. Thành phố ở
sâu trong nội địa, ở khúc quanh của một dòng sông lớn, đã gần như ngừng tồn tại,
và Nazruddin nói tôi sẽ phải tay trắng đi lên.
Tôi lái chiếc Peugeot đi về phía thành phố. Ở châu Phi
lúc nay, đó không phải là cách di chuyển tốt nhất – lái xe từ bờ biển phía Đông
vào nội địa. Trên đường đi có quá nhiều nơi bị chốt chặt hoặc ngập ngụa máu.
Vào thời điểm đó, dù những con đường đã ít nhiều thông thoáng, chuyến đi cũng mất
đứt của tôi một tuần lễ.
Vấn đề không chỉ nằm ở những chỗ lở cát, bùn lầy hay những
con đường núi hẹp, ngoằn ngoèo, gẫy khúc. Còn phải đối mặt với chuyện mặc cả tại
các trạm gác biên giới, thường nằm ven bìa rừng với những túp lều gỗ treo những
lá cờ thật lạ. Tôi tự nhủ mình và chiếc Peugeot tốt nhất là lời tịt những người
mang súng – tức là lao vào hết bụi rậm này đến bụi rậm khác. Để rồi sau đó việc
dàn xếp còn khó khăn hơn và phải xì ra một vài tờ giấy bạc ngân hàng cũng như một
sô đồ hộp, để tôi – và chiếc xe Peugeot – thoát khỏi những chỗ mà tôi đã tự buộc
mình lao vào.
Một số cuộc tranh cãi như thế mất đến nửa ngày trời.
Người chỉ huy đòi hỏi thật nực cười – hai hay ba nghìn đô la. Tôi đáp luôn là
không có. Anh ta sẽ đi vào lều của mình, ra vẻ chẳng còn gì để mà bàn; tôi thì
cứ việc đứng bên ngoài, vì tôi cũng chẳng còn việc gì để làm cả. Rồi sau một
hay hai tiếng đồng hồ, hoặc tôi vào trong lều, hoặc anh ta đi ra ngoài, và chúng
tôi có thể ngã giá hai hay ba đô la. Chính Nazruddin đã khuyên, khi tôi hỏi ông
về giấy thị thực, rằng tốt hơn hết là chìa tiền ra. "Lúc nào anh cũng có
thể chui vào những chỗ như thế. Nhưng ra thì khó đấy. Đó là một cuộc chiến cá
nhân. Mọi người đều phải tự tìm cho mình cách để thoát ra".
Tôi đi mỗi lúc một sâu hơn vào châu Phi – bụi cây, sa mạc,
đá trên sườn núi, những hồ nước, mưa vào buổi chiều, bùn, và rồi ở sườn núi bên
kia ẩm ướt hơn, những khu rừng dương xỉ và rừng gorilla – khi đi như thế tôi thầm
nghĩ, quả là điên rồ. Mình đang đi sai hướng. Cuối con đường này không thể co
được một cuộc đời mới.
Nhưng tôi vẫn tiếp tục đi. Việc lái xe mỗi ngày cũng giống
như đang cố đạt tới một cái gì đó, và việc mỗi ngày cứ phải cố đạt tới một cái
gì đó khiến tôi trở nên khó mà quay lui. Và tôi không thể ngăn mình nghĩ rằng
điều này cảm giác khác gì những người nô lệ thời xưa. Họ đã từng có hành trình
giống hệt tôi, nhưng là đi bộ và theo hướng ngược lại, từ trung tâm lục địa ra
bờ biển phía Đông. Càng đi về phía biển và xa khu đất của bộ lạc mình, họ càng
bị tách khỏi các thảo nguyên và khó có khả năng về được nhà mình, sẽ mỗi lúc họ
trở nên lo lắng hơn về cách những người châu Phi xa lạ nhìn họ, cho đến cuối
cùng, họ tới được bờ biển, và khi bước chân lên những con tàu họ chỉ còn lo tới
việc có đến được những ngôi nhà an toàn ở bờ bên kia không. Cũng giống tâm trạng
người nô lệ xa nhà, chuyến đi càng nhiều điều gây nản chí, tôi lại càng hăng
hái muốn hoà nhập vào cuộc sống mới hơn.
Khi tới nơi tôi thấy Nazruddin không nói sai. Nơi này
đã chịu nhiều biến động, hơn một nửa thành phố bên khúc quanh dòng sông đã bị
phá huỷ. Nơi từng là khu ngoại ô châu Âu gần ghềnh nước đã bị thiêu huỷ, cây bụi
đã um tùm trên đống đổ nát, thật khó để phân biệt nơi trước đây từng là vườn tược
với nơi trước đây từng là phố xá. Khu hành chính, thương mại gần cầu tàu và trạm
hải quan cùng một số khu dân cư trung tâm vẫn còn, nhưng dường như thế là hết.
Ngay cả các cité (tiếng Pháp trong nguyên bản – khu dân cư) châu Phi cũng chỉ
còn thưa thớt người ở, và cũng đã suy tàn, với nhiều ngôi nhà thấp hệt như bao
diêm, màu xanh da trời hoặc xanh lá cây nhợt nhạt bỏ hoang, bị giống nho nhiệt
đới màu nâu và xanh lớn nhanh và chết cũng nhanh xâm chiếm.
Cửa hiệu của Nazruddin nằm trên một quảng trường chợ tại
khu phố buôn bán. Nó đầy mùi chuột cống và đầy phân, nhưng được cái còn khá
lành lặn. Tôi đã mua lại cả nhà kho của Nazruddin – nhưng chẳng còn gì trong
đó. Tôi cũng mua được cả danh tiếng của cửa hiệu, nhưng điều này chẳng mấy ý nghĩa
bởi rất nhiều người châu Phi đã quay trở về với cây bụi, về với sự an toàn
trong những ngôi làng của mình, tại những khu kinh rạch chằng chịt khó tìm.
Sau nỗi lo lắng khi vừa đến nơi, tôi thấy cũng không có
nhiều việc để làm. Nhưng tôi không đơn độc. Còn có các thương gia khác nữa, những
người nước ngoài khác, một số đã ở đây qua các cuộc biến động. Tôi cùng họ chờ
đợi. Hoà bình được giữ vững. Mọi người lại bắt đầu quay trở về thành phố, từng
mét vuông cité dần đông đảo lên. Người ta bắt đầu cần hàng hóa mà chúng tôi có
thể cung cấp. Và chầm chậm, công việc buôn bán lại bắt đầu khởi sắc.
Zabeth thuộc số khách hàng sớm nhất và thường xuyên nhất
của tôi. Cô là một marchande[1] không phải người bán hàng ở chợ mà là bán lẻ
theo lối cò con. Cô thuộc một cộng đồng ngư dân, gần như là một bộ lạc nhỏ, khoảng
mỗi tháng một lần cô từ làng mình lên thành phố để mua buôn hàng hóa.
Cô mua ở chỗ tôi bút chì và vở viết, lưỡi dao cạo, ống
tiêm, xà phòng, kem đánh răng và bàn chải đánh răng, vải vóc, đồ chơi bằng nhựa,
bô sắt và hộp nhôm, khay và chậu men. Ngư dân làng Zabeth cần những vật dụng
đơn giản đến từ thế giới bên ngoài đó và cần chúng cả khi có biến động. Không
phải đồ dùng thiết yếu, cũng không phải đồ xa xỉ, chúng chỉ là những thứ làm
cho cuộc sống dễ dàng hơn. Người ở đây biết làm nhiều việc, họ tự xoay sở rất
tài. Họ thuộc da, dệt vải, rèn sắt, họ đục rỗng các thân cây lớn để làm thuyền
và những cây nhỏ hơn để làm chạn bếp. Nhưng với những người tìm kiếm một cái
thùng lớn không rò để đựng nước và đồ ăn, hãy thử tưởng tượng họ sung sướng đến
thế nào khi có được cả một cái bồn tráng men!
Zabeth biết chính xác những gì người dân làng cô cần và
biết rõ khả năng hay độ sẵn sàng mau thứ đó của họ. Các thương gia ngoài bờ biển
(trong đó có cả cha tôi) thường nói – đặc biệt khi họ phải tự an ủi vì đã mua
phải đồ đắt – rằng mọi thứ cuối cùng đều có người mua. Tại đây điều này không hề
đúng. Người ta thích thú với những thứ mới – chẳng hạn ống tiêm, điều này đối với
tôi là một bất ngờ - và thậm chí những đồ hiện đại, nhưng sở thích cao nhất của
họ luôn là những mẫu mới nhất của các mặt hành họ cần mua. Họ tin tưởng một mẫu
hàng, một nhãn mác nhất định. Thật vô ích khi cố "bán" mọi thứ cho
Zabeth, tôi buộc phải gút lại trong phạm vi những mặt hàng cố định. Buôn bán kiểu
này thật chẳng ra sao, nhưng nó tránh được phức tạp hóa vấn đề. Và nó khiến
Zabeth, khác với những người châu Phi khác, trở thành một nữ tướng gia giỏi
giang.
Cô không biết đọc biết viết. Cô ghi danh sách dài dặc
đồ phải mua vào đầu và nhớ rằng rõ giá tiền từng thứ đồ của những lần mua trước.
Cô không bao giờ đòi cho chịu tiền – cô ghét điều đó. Cô trả bằng tiền mặt, lấy
tiền từ chiếc túi nhỏ luôn mang theo mình khi đến thành phố. Tất cả các lái
buôn đều biết đến chiếc túi nhỏ của Zabeth. Không phải vì cô không tin tưởng
các ngân hàng, cô chỉ không hiểu nổi chúng.
Tôi từng bảo cô, bằng thứ ngôn ngữ pha trộn của dòng
sông mà chúng tôi quen dùng "Beth ạ, một ngày nào đó sẽ có kẻ cướp túi của
cô đấy. Mang theo tiền trong người như thế không an toàn đâu".
- Nếu có ngày đó, Mis Salim, tôi sẽ biết mà ở lại nhà.
Thật là một cách nghĩ ngợi hay ho. Nhưng rõ ràng cô là
một phụ nữ rất lạ lùng.
Cũng như những người khác, cô gọi tôi là Mis, nói tắt của
từ mister. Tôi là mister bởi vì tôi là người nước ngoài, người đến từ khu bờ biển
xa xôi, lại nói tiếng Anh, tôi là mister để phân biệt với những người nước
ngoài khác định cư tại đây, các monsieur. Dĩ nhiên, điều này chỉ có trước khi
Người Đàn Ông Vĩ Đại tới và biến chúng tôi thành citoyens và citoyennes[2].
Trong một khoảng thời gian – điều này rất ổn, cho đến khi những lời nói dối của
ông ta làm người dân trở nên bối rối và sợ hãi, nên khi tìm được một thần tượng
khác mạnh hơn ông ta, họ bèn quyết định chấm dứt toàn bộ và bắt đầu lại từ đầu.
Ngôi làng của Zabeth cách đây chừng 60 dặm, ở khá xa đường
cái, con đường thực ra cảm giác khác gì lối mòn, và cách dòng sông chừng vài dặm.
Đi bằng đường bộ hay đường sông đều khó khăn, mất đứt hai ngày. Riêng đường bộ,
mùa mưa có thể mất tới ba ngày. Thoạt tiên Zabeth đi đường bộ, cùng những trợ
tá của mình lội bì bõm ra đến đường cái và đợi ở đó cho đến khi có xe tải hoặc
xe buýt. Khi tàu hơi nước bắt đầu chạy lại, Zabeth thường xuyên sử dụng đường
sông, nhưng cũng không dễ dàng hơn là mấy.
Những kênh rạch bí mật từ các ngôi làng dẫn ra sông thường
rất nông, đầy những trở ngại bất ngờ và nhiều muỗi kinh khủng. Xuôi những dòng
kênh này, Zabeth và người của mình chèo xuồng độc mộc ra đến dòng sông chính,
và họ thường xuyên phải đẩy chúng đi. Ra đến sống, đậu sát bờ, họ đợi tàu hơi
nước trên những chiếc xuồng nhỏ bé chất đầy hàng hóa – thường là thực phẩm – để
bán cho người trên tàu thuỷ và chiếc thuyền nhỏ mà tàu kéo theo. Thực phẩm đa
phần là cá hoặc khỉ, còn tươi hoặc đã được boucane[3] - theo cách của vùng này,
với một lớp da dày ụ đen thui. Đôi khi có một con rắn hoặc một con cá sâu nhỏ
xông khói, một tảng thịt lớn màu đen khó nhận dạng là thịt gì – nhưng dưới lớp
da cháy xém đó lộ ra màu thịt trắng hoặc hồng nhạt rất hấp dẫn.
Khi chiếc tàu thuỷ xuất hiện, kéo theo thuyền chở
khách, Zabeth và người của mình chống sào hoặc chèo xuồng ra tận giữa sông và dừng
lại ở chỗ con tàu sẽ đi qua. Tàu đến, những chiếc xuồng độc mộc chao đảo theo lớp
sóng dồi, Zabeth và người của mình ném dây thừng lên sàn thuyền, nơi luôn có những
bàn tay đưa ra đón dây để buộc nó vào một thanh sắt cố định nào đó, rồi những
chiếc xuồng độc mộc, đang ở sát bên suờn tàu, bắt đầu chuỷên động về hướng đối
diện, trong khi những người trên tàu ném những mẩu giấy hoặc vải xuống con cá
hoặc con khỉ họ muốn mua.
Việc điều khỉên xuồng độc mộc ghé sát con tàu hoặc chiếc
thuyền đang chạy là một kỹ thuật mà người vùng sông nước biết cách thực hiện,
nhưng không phải là không nguy hiểm. Gần như sau mọi chuyến đi của chiếc tàu
thuỷ đều có tin tức về việc một chiếc xuồng độc mộc bị lật nhào đâu đó và có
người chết. Nhưng liều lĩnh vậy cũng đáng; sau đó, chẳng cần cố sức gì, với tư
cách một marchande đang bán hàng, Zabeth được con tàu kéo đến tận gần thành phố,
cô tháo xuồng của mình khi đi ngang đống đổ nát của nhà thờ lớn, ngay trước khi
đến các cầu tầu, để tránh các vị quan chức, những người chỉ chăm chăm đòi đóng
thuế. Một chuyến đi thật ra trò! Biết bao rắc rối và nguy hiểm để bán được những
sản phẩm đơn giản người dân làng cô làm ra, và để mang về vài món đồ cho họ.
Một hoặc hai ngày trước khi tàu thuỷ đến có một phiên
chợ ngoài trời ở ngay lối vào cầu tàu. Nếu còn ở thành phố Zabeth thế nào cũng
tham gia. Chẳng may trời mưa cô sẽ ngủ dưới mái hiên một cửa hàng rau hoặc quán
bar, hôm sau cô sẽ vào ở trong một nhà trọ châu Phi, nhưng thoạt tiên những chỗ
như thế chưa có. Khi cô đến cửa hiệu, không gì trong dáng vẻ của cô gợi đến
chuyến đi khó nhọc hay những đêm ngủ ngoài trời. Cô luôn ăn mặc đàng hoàng, quấn
mình trong mảnh vải lớn theo kiểu châu Phi, đầy nếp gấp, tôn thêm độ lớn cho cặp
mông khổng lồ của cô. Trên đầu cô là chiếc khăn xếp – thứ trang phục của những
người đi xuôi dòng sông, và mang theo mình chiếc túi nhỏ với những đồng tiền
nhàu nát thu được từ những người trong làng và những người trên tàu thuỷ. Cô đi
mua đồ, trả tiền; và vài giờ trước khi tàu thuỷ xuất phát, cô lại cùng với những
người đàn bà trong đội của mình – những người gày gò, thấp nhỏ, xấu xí, bận quần
áo nhàu nhĩ – đến để mang hàng đi.
Xuôi dòng sông tốn ít thời gian
hơn. Nhưng vẫn rất nguy hiểm cho những chiếc xuồng độc
mộc với mỗi lần áp vào và tách ra khỏi thuyền nhỏ chở khách..Hồi đó tàu thuỷ rời
thành phố vào lúc bốn giờ chiều nên mãi nưả đêm Zabeth và người của cô mới đến
được nơi họ phải rời chiếc tàu thuỷ. Zabeth cẩn thận không để lộ chỗ vào làng
mình. Cô tháo dây thừng, đợi cho đến lúc con tàu với chiếc thuyền đi khỏi và
ánh sáng đã hoàn toàn tắt lịm rồi mới chống sào đẩy xuồng vào dòng kênh bí mật
của mình, và cả đêm họ cật lực chèo chống xuồng dưới tán cây rừng.
Về nhà vào ban đêm! Tôi không ra sông vào ban đêm. Tôi
không thích việc này bởi không thấy an toàn. Trong bóng tối của dòng sông và
cánh rừng bạn chỉ có thể chắc chắn vào những gì bạn nhìn thấy – và ngay cả những
đêm sáng trăng bạn cũng không nhìn thấy gì nhiều đâu. Khi gây ra một tiếng động
– chẳng hạn khua mái chèo trên mặt nước – bạn sẽ nghe thấy chính mình như thể
đang là một ai đó khác hẳn. Dòng sông và cánh rừng như đang hiển hiện, và mạnh
hơn bạn nhiều. Bạn cảm thấy không được chởchẹ như một kẻ đột nhập.
Torng ánh sáng ban ngày – dù màu sắc có nhợt nhạt và ma
quái với cái nóng ẩm hứa hẹn mát mẻ hơn vào buổi tối, bạn có thể tưởng tượng
thành phố đang được xây dựng lại và mở rộng ra. Bạn có thể tuu những khu rừng bị
bật gốc, những con đường đi xuyên qua các kênh rạch và đầm lầy. Bạnc có thể tưởng
tượng khu đất đã biến thành cái mà Người Đàn Ông Vĩ Đại sau này sẽ vẽ ra, ái viễn
cảnh về "Khu công nghiệp" dài 2000 dặm dọc theo sông. (Nhưng ông ta
không bao giờ thực sự thực hiện nó, đó chỉ là ý muốn của ông ta để tỏ ra mình
là một thầy phù thuỷ cao tay hơn những phù thuỷ khác mà nơi đây từng biết đến).
Dù vậy, trong ánh sáng ban ngày, bạn có thể tin vào viễn tưởng đó. Bạn có thể
tưởng tượng khu đất đang được những người chính bạn cải tạo để trở lại bình thường,
giống như những phần nhỏ đã từng bình thường trong một khoảng thời gian ngắn
trước khi độc lập – những chỗ giờ đã biến thành đống đổ nát.
Nhưng ở trên bờ sông vào ban đêm là chuyện khác hẳn. Bạn
cảm thấy đất đang đưa mình trở về với cái gì đó thật thân quen, cái gì đó mà
vào lúc nào đấy bạn từng biết nhưng đã quên hoặc cố tình quên, song nó vẫn luôn
ở nguyên đó. Và khu đất đang đưa bạn trở lại 100 năm trước vẫn luôn ở đó.
Zabeth đã đi những chuyến ghê gớm làm sao! Đó là mỗi lần
cô đến đây để lấy đi của hiện tại (hoặc tương lại) một vài hàng hoá quý giá nào
đó, mang về cho người làng mình – chẳng hạn những lưỡi dao cạo mua sỉ cả gói
nhưng được bán lẻ từng lưỡi một, những kỳ diệu của kim loại – những thứ hàng đó
càng trở nên quý giá hơn khi người ta hiểu rằng cô mang chúng từ thành phố về
cho làng chài của mình – cái thế giới thực, an toàn, được bảo vệ khỏi người
khác bởi rừng rậm và đường sông khó đi. Và được bảo vệ bằng những cách khác nữa.
Mọi người ở đây đều biết rằng mình đang được tổ tiên dõi nhìn từ trên cao, những
người hiện đang sống vĩnh hằng tại một tầng trời cao hơn, và sự lướt qua trái đất
của họ không hề bị lãng quên, mà được lưu giữ hết sức cẩn thận, đó chính là một
phần trong sự hiện diện của cánh rừng. Trong rừng sâu an toàn hơn cả. Đó là thứ
an toàn mà Zabeth đã để lại sau lưng để có được những hàng hoá quý giá, vì nó
cô ta đã từ bỏ cả sự an toàn tuyệt đối của mình.
Zabeth không phải là một phụ nữ bình thường. Bề ngoài
cô cảm giác hề giống gì với người dân trong khu. Họ nhỏ, nhẹ ký và rất đen, còn
Zabeth lại to béo với nước da đồng hun, ở vài chỗ thứ đồng hun đó cháy rực lên,
nhất là trên gò má, trông như thể trang điểm vậy. Có một cái gì đó thật khác biệt
ở Zabeth, như mùi vị chẳng hạn. Nó rất mạnh và rất khó ưa, và thoạt tiên tôi từng
nghĩ –vì cô đến từ một làng chài – rằng đó là mùi cá lưu niên. Tôi nghĩ chắc là
do đồ ăn ở làng quanh đi quẩn lại chỉ có cá và cá. Nhưng những người bộ lạc
Zabeth mà tôi từng gặp không có mùi giống với cô. Người châu Phi cũng nhận ra
mùi vị khác biệt đó. Nếu vào cửa hàng khi Zabeth có trong đó, thế nào họ cũng bịt
mũi và chó khi còn bỏ đi thẳng.
Metty, thằng nhỏ lai châu Phi đã lớn lên trong gia đình
tôi ở bỡ biển và đã tới ở cùng tôi, nói rằng mùi của Zabeth nặng đến nỗi lũ muỗi
cũng phải tránh xa. Tôi còn cho rằng đến đàn ông cũng không dám gần Zabeth, dù
cô cũng có vẻ mỡ màng (mà đàn ông thì lại thích cái đó) và dù cô có cái túi nhỏ
đựng tiền. Zabeth chưa lấy chồng, và, theo chỗ tôi được biết, cô không sống
chung với người đàn ông nào cả.
Cũng chính Metty – nó học được các tập quán địa phương
rất nhanh – nói với tôi rằng Zabeth là một phù thuỷ, và trong vùng chúng tôi ai
cũng hiểu một phù thuỷ có nghĩa thế nào. Mùi vị của cơ thể cô là mùi của các thứ
dầu xoa. Những người phụ nữ khác sử dụng nước hoa và toả mùi hấp dẫn, thứ dầu
xoa của Zabeth lại cảnh báo và ngăn chặn. Cô đã được bảo vệ. Cô biết điều đó,
và những người khác cũng biết thế
Tôi đã đối xử với Zabeth đúng như với một marchande và
một khách hàng tốt. Giờ đây khi tôi biết rằng trong Khu chúng tôi cô là một người
quyền lực, một nhà tiên tri, tôi lại càng không quên điều đó. Thế nên tôi cũng
cảm thấy cô thật sự hập dẫn.
Chú thích:
[1] Thương gia
[2] Công dân
[3] Xông khói
Châu Phi là nhà tôi, đã từng là nhà của gia đình tôi từ hàng
thế kỷ nay. Nhưng chúng tôi đến từ bờ biển phía Đông, điều đó có ý nghĩa khác hẳn.
Bỡ biển không hẳn là châu Phi. Đó là nơi pha trộn A rập - Ấn độ - Ba tư – Bồ
đào nha, và chúng tôi, những người sống tại đó, gần như là người của Ấn độ
dương. Thực sự châu Phi nằm ở đằng sau chúng tôi. Nhiều dặm cây bụi hoặc sa mạc
ngăn chia chúng tôi với những người sống ở các vùng cao hơn, nên chúng tôi hướng
về phía Đông, nơi có những vùng mà chúng tôi có quan hệ buôn bán – A rập, Ấn độ,
Ba tư. Cũng có những khu đất của tổ tiên chúng tôi. Nhưng chúng tôi hoàn toàn
không thể nói mình là người A rập hoặc Ấn độ hoặc Ba tư, và khi so sánh mình với
những người đó, chúng tôi thấy mình giống người châu Phi hơn.
Gia đình tôi theo đạo Hồi. Nhưng chúng tôi là một nhóm
đặc biệt. Chúng tôi khác với những người Arập và Hồi giáo khác ở bờ biển, còn về
tập quán và thói quen chúng tôi gần với những người Hindu vùng Tây bắc Ấn độ
hơn, đó cũng chính là gốc gác của chúng tôi. Tôi không thể biết rõ chúng tôi đã
đến nơi đây khi nào. Chúng tôi không thuộc dạng những người ở đây. Chúng tôi chỉ
sống ở đây, làm những việc dành cho chúng tôi, làm theo những gì đời trước mình
đã làm. Chúng tôi không bao giờ hỏi tại sao lại như thế, chúng tôi không quan
tâm. Trong sâu thẳm, chúng tôi thấy mình là một dân tộc hết sức cổ xưa, nhưng
dường như chúng tôi không có cách nào đánh giá được sự trôi qua của thời gian.
Cha tôi hay ông tôi đều không biết ngày tháng của những câu chuyện của mình.
Không phải vì họ đã quên hoặc bị rối trí – quá khứ chỉ đơn giản là quá khứ.
Tôi nhớ đã nghe ông kể rằng ông từng chèo một chiếc
thuyền chở nô lệ như là chở hàng hoá hay cao su gì đó, song không thể nói cho
tôi biết ông làm việc đó khi nào. Ông có trong ký ức mình đủ chuyện trôi nổi
trên biển mà không hề có ngày tháng hay điểm mốc thời gian liên hệ nào, như thể
đó là sự kiện mang tính độc nhất trong một cbsn không sự kiện. Ông không nói đó
là một việc ghê gớm gì, chỉ nói dó là một việc không bình thường ông từng làm –
không phải là chở nô lệ, mà là chở cao su. Và chưa cần đến ký ức của chính tôi,
về câu chuyện của ông, tôi cho rằng đó có thể là một phần của lịch sử đã biến
đi mãi mãi. Tôi tin, từ cuốn sách mới đọc được, rằng ý tưởng về cao su có thể
đã xâm chiếm đầu óc ông vào lúc đó, trước Thế chiến II, khi cao su trở thành một
thứ hàng hoá được ưa chuộng – và sau đó là một vụ bê bối lớn - ở Trung Phi. Do
đó tôi nhận thấy rằng các sự kiện vẫn đang bị ông tôi che giấu, hoặc là ông chẳng
mấy quan tâm đến chúng.
Câu chuyện về toàn bộ giai đoạn đảo lộn đó của châu Phi
– sự nổi loạn của người A rập, sự bành trướng của châu Âu, sự vươn ra ngoài lục
địa – là lịch sử gia đình duy nhất mà tôi biết. Đó là số phận những người sống ở
đây. Mọi kiến thức về lịch sử của chúng tôi và lịch sử Ấn Độ dương tôi đều đọc
trong những quyển sách do người châu Âu viết, thí dụ người A rập chúng tôi
trong thời gian đó là những nhà phiêu lưu và nhà văn lớn, rằng các thuỷ thủ của
chúng tôi đã chèo thuyền vượt Địa Trung Hải và khám phá ra châu Mỹ, rằng một
hoa tiêu người Ấn đã dẫn đường cho Vasco da Gama từ Đông Phi đến Calicut, rằng
tữ chèque đã được các thương gia Ba tư chúng tôi sử dụng lần đầu tiên…Chúng chẳng
hề t.ao nên chút hiểu biết hay tự hào của chúng tôi. Tôi cảm thấy nếu không có
người châu Âu, toàn bộ quá khứ của chúng tôi đã bị bay biến, giống như vết giày
các ngư dân trên bãi biển bên ngoài thành phố nơi chúng tôi ở.
Có một trại giam trên bờ biển. Những bức tường xây bằng
gạch. Chúng đã trở thành đống đổ nát khi tôi còn là một đứa bé, và ở châu Phi
nhiệt đới, vùng đất của việc xây dựng vô tội vạ giống như một mảnh lich sử hiếm
hoi. Chính trong nhà giam này, những nô lệ đã bị nhốt sau khi đã đi bộ đến từ
trung tâm lục địa, vùng thảo nguyên, tại đó họ chờ đợi những chiếc thuyền buồm
A rập sẽ đưa họ vượt biển. Nhưng nếu bạn không biết, thì nơi đó chẳng nói lên
gì hết, chỉ là những bức tường đổ nát trên một tấm bưu ảnh chụp bãi biển với những
cây dừa.
Đã từng có khi người A rập cai quản nơi đây, rồi người
châu Âu tới, giờ đây người châu Âu đã đi. Nhưng có rất ít thay đổi trong cách
suy nghĩ của người dân. Họ vẫn vẽ hình những con mắt to ở mũi thuyền để cầu may
mắn, và các ngư dân có thể trở nên rất giận dữ, thậm chí hăng máu, nếu một người
khách nào đó chụp hình họ - nghĩa là đang buộc họ phải rời khỏi linh hồn của
mình. Mọi người ở đây vẫn sống như thế, họ vẫn như vậy lâu nay, không hề có khoảng
cách giữa quá khứ và hiện tại. Mọi thứ diễn ra trong quá khứ đều đã biến mất, vần
luôn chỉ có hiện tại mà thôi. Thế cho nên, như hậu quả của một thứ hỗn loạn nào
đó trên thiên đường, ánh sáng của bình minh vẫn luôn phải nhường chỗ cho bóng
đêm, và con người luôn sống trong hoàng hôn vĩnh hằng.
Chế độ nô lệ ở bờ biển phía Đông không giống như phía
Tây. Không ai bị đưa đi làm đồn điền. Phần lớn người dân rời khỏi vùng biển của
chúng tôi tới nhà của người A rập để làm người hầu. Một số trở thành thành viên
của những gia đình mà họ tới, một số ít hơn trở nên có quyền lực bằng chính sức
mạnh của mình. Với một người châu Phi, một đứa trẻ của rừng, đi hàng trặm dậm tữ
nội địa và xa làng mình, bộ lạc mình, sự bảo vệ của một gia đình ngoại quốc là
rất quý giá để có thể tồn tại đơn độc giữa những người châu Phi xa lạ và thù địch.
Đó là lý do giải thích tại sao việc buôn nô lệ vần được tiếp tục khá lâu sau
khi các nước châu Âu đã cấm, và tôi tại sao, vào thời khi người châu Âu đang
kinh doanh một loại cao su nào đó, ông tôi lại có thể buôn một mặt hàng khác.
Đó cũng là lý do giải thích tại sao một chế độ nô lệ bí mật vẫn tiếp tục trên bờ
biển cho mãi đến sau nạy Những người nô lệ, hay thuộc về các dân tộc có thể bị
coi là nô lệ, muốn giữ nguyên như thế.
Trong khu này của gia đình tôi có hai gia đình nô lệ,
và họ đã ở đây ít nhất ba thế hệ. Họ sợ nhất là bị đuổi đi. Chính thức mà nói
những người này chỉ là những người giúp việc. Nhưng họ muốn những người khác –
những người châu Phi khác cũng như những người A rập và Ấn độ nghèo đói – biết
họ thực sự là nô lệ. không phải là họ tự hào về chế độ nô lệ như một thứ thân
phận, điều họ tự hào là sợi dây nối kết đặc biệt với một gia đình danh tiếng. Họ
có thể tỏ ra hết sức nghiệt ngã với những người thuộc gia đình nhỏ hơn.
Khi còn nhỏ tôi thường đi dạo trên những lối đi hẹp hai
bên là tường trắng ở khu phố cổ của thành phố, nơi gia đình chúng tôi ở. Tôi tắm
rửa sạch sẽ và ăn bận tử tế, họ bôi thứ phấn của họ lên mắt tôi, và đeo một lá
bùa may mắn lên cổ tôi, và rồi Mustafa, một ông già ở chỗ chúng tôi sẽ lắc vai
tôi lia lịa. Tôi đã đi dạo như thế này: Mustafa đặt tôi lên vai ông để mọi người
thấy của báu của gia đình tôi, và cùng lúc đó cho thấy vị trí được tin cậy của
ông trong gia đình tôi. Có một vài thằng nhóc chỉ trỏ trêu chọc chúng tôi. Khi
tình cờ chạm trán với những thằng bé đó, Mustafa để tôi xuống, bảo tôi chửi,
thêm vào đó chính những câu chửi của ông, bảo tôi đánh nhau, và rồi, khi mọi việc
trở nên quá bất lợi cho tôi, ông sẽ gỡ tôi ra khỏi những cái đấm cái đạp của bọn
nhóc và đặt tôi lên vai ông. Và chúng tôi lại tiếp tục dạo chơi.
Câu chuyện về Mustafa, người A rập, những chiếc thuyền
buồm và những người nô lệ như thế này giống như rút ra từ tập Nghìn lẻ một đêm.
Nhưng khi nghĩ đến Mustafa, và thậm chí chỉ cần nghe từ "nô lệ", tôi
liền nghĩ ngay đến khu ngoài của chỗ chúng tôi ở, một sự pha trộn giữa sân trường
và sân sau nhà, tất cả những người đó, một số gào thét, hàng đống quần áo treo
trên dây phơi hoặc trải rộng trên những tảng đá to,cái mùi nằng nặng của những
đống vải đó hoà lẫn vào mùi của những hố xí tạm bợ và cái góc chứa nước giải,
hàng đống đĩa men và đĩa đồng cáu bẩn trên bàn giặt giữa sân, trẻ con chạy đi
chạy lại khắp nơi, việc chuẩn bị bữa ăn không một phút ngừng trong khu bếp tối
thui. Tôi nghĩ đến đám phụ nữ, trẻ con, về các chị em tôi và gia đình họ, về những
người phụ nữ phục vụ và gia đình họ, cả hai đều có vẻ như có sức nặng ngang
nhau, tôi nghĩ về những cuộc tranh cãi trong các phòng của gia đình, những cuộc
tranh cãi nẩy lửa trong khu này của những người giúp việc. Chúng tôi quá đông đúc
trong khu nhà nhỏ bé đó. Chúng tôi không cần đến tất cả những người hầu đó.
Nhưng họ không phải là những người phục vụ bình thường, và không lý do nào để
đuổi họ đi được cả. Chúng tôi bị dính vào với họ.
Trên bờ biển phía Đông đã từng như thế. Những người nô
lệ có thể biến đổi theo nhiều cách. Những người hầu của chúng tôi không còn là
người châu Phi thuần tuý nữa. Họ không được gia đình công nhận, nhưng tại những
điểm nào đó trong phả hệ, họ được pha trộn thêm dòng máu châu Á. Mustafa có
dòng máu Gujarat trong huyết quản: Metty cũng vậy, sau này nó đã tìm mọi cách
vượt qua lục địa để đến với tôi. Dù vậy, đó là một cuộc chuỷên giao máu từ ông
chủ sang nô lệ. Với những người A rập trên bờ biển chúng tôi, tiến trình đã thực
hiện theo cách khác. Những người nô lệ đã tấn công chủ của mình; dòng giống A rập
ông chủ rõ ràng đã biến mất.
Trước đây, các nhà thám hiểm và chiến binh A rập vĩ đại
đã từng thống trị. Họ đã đi sâu vào nội địa, xây dựng các thành phố và dựng lên
các vườn ươm cây trong rừng. Rồi quyền lực của họ mất dần vào tay người châu Ậu.
Các thành phố và vườn cây của họ biến mất, bị cây bụi nuốt trọn. Họ thôi không
còn có trong đầu ý tưởng về vị thế của mình trong thế giới, và họ đánh mất nghị
lực của mình; họ quên mất mình từng là ai và từ đâu đến. Họ chỉ biết họ là người
Hôi giáo; và trong đạo Hồi giáo họ cần có vợ và nhiều vợ. Nhưng họ đã bị tách
khỏi gốc rễ A rập của mình và chỉ còn có thể tìm thấy vợ của mình trong số những
người phụ nữ châu Phi, những người trước đây từng là nô lệ cho họ. do đó, rất sớm,
những người A rập, hay là những người tự gọi mình là A rập, đã trở thành những
người Phi Châu, không khác biết gì hết. Ít khi họ suy nghĩ về nền văn minh độc
đáo của mình. Họ có kinh Koran và các giới luật của nó; họ chỉ gắn kết vào một
số lối ăn mặc, đội một thứ mũ, và có một bộ râu cắt tỉa đặc biệt; chỉ vậy thôi.
Họ chỉ có một ít ký ức về những việc tổ tiên họ từng làm ở châu Phi. Họ chỉ có
thói quen về quyền lực, mà không đủ nghị lực hay học thức để quay lại được quyền
lực đó. Quyền lực của những người A rập – khá lớn khi tôi còn là một đứa trẻ -
chỉ là vấn đề về tập quán. Nó có thể bị thổi bay vèo bất cứ lúc nào. Thế giới vẫn
chỉ là thế giới.
Tôi lo ngại giùm người A rập. Tôi cũng lo lắng cho
chúng tôi. Bởi vì, khi có quyền, thì chẳng có gì khác biệt lớn lao nào giữa họ
và chúng tôi hết. Cả hai đều là những nhóm nhỏ sống dưới lá cờ của người châu
Âu và cùng ở bên rìa lục địa. Trong ngôi nàh gia đình chúng tôi, khi còn là một
đứa trẻ, tôi chưa bao giờ nghe thấy một cuộc tranh luận nào về tương lai của
chúng tôi hoặc tương lai của bờ biển. Ai cũng cho rằng mọi chuyện sẽ tiếp diễn,
rằng những cưới xin có thể tiếp tục được tổ chức giữa những người có sự đồng
thuận với nhau, rằng thương mại buôn bán có thể tiếp tục, rằng châu Phi có thể
cho chúng tôi những thứ nó từng cho.
Các chị em tôi lấy chồng theo lối truyền thống, nghĩa
là, cả tôi nữa, cũng có thể lấy vợ khi đủ tuổi và nới rộng cuộc sống gia đình
chúng tôi. Nhưng lúc còn nhỏ, khi còn học ở trường, tôi đã nhận ra rằng cách sống
của chúng tôi quá cổ lỗ và dường như đã đến hồi cáo chung.
Những thứ nhỏ bé có thể mang đến chúng tôi nhiều cách
suy nghĩ mới, chẳng hạn những bức tem thư. Chính quyền Anh đã cho chúng tôi nhiều
loại tem đẹp. Những lọai tem đó miêu tả cảnh sắc và đồ vật của địa phương; một
cái có tên là "thuyền buồm A rập". Trong những con tem có hình chiếc
thuyền đó, có cái gì kỳ lạ khiến một người nước ngoài từng nói "Đó là điều
nổi bật nhất ở vùng này". Không có con tem về thuyền buồm ấy có lẽ tôi đã
chẳng mảy may quan tâm đến những chiếc thuyền. Tôi học cách quan sát chúng. Mỗi
khi thấy chúng chen chúc nhau ở ven bờ nước tôi nghĩ chúng như là cái gì đó thật
thân thiết với vùng chúng tôi, gần gũi, cái gì đó người nước ngoài có thể nhận
ra, cái gì đo không được hiện đại cho lắm, và chắc chắn chẳng hề giống với những
tàu hàng và tàu khách cập vào những cầu cảng hiện đại của chúng tôi.
Vậy là từ khi còn bé tôi đã phát triển cho mình thói
quen nhìn ngắm, tự gắn mình vào khung cảnh thân quen và thử nhận ra nó từ một
khoảng cách nào đó. Chính từ thói quen hay nhìn ngắm này mà tôi có ý nghĩ rằng
với tư cách là một cộng đồng chúng tôi đã tụi lùi về sau nhiều quá. Và đó là khởi
đầu cho tình trạng bất an của tôi.
Tôi thường nghĩ về cảm giác bất an đó như là một điểm yếu,
một điểm kém cỏi trong tính tình của tôi, và tôi có thể hổ thẹn nếu ai đó phát
hiện ra điều này. Tôi giữ cho riêng mình những ý nghĩ về tương lai, và thế là đủ
để thoải mái sống trong nhà chúng tôi, nơi, như tôi đã từng nói, không bao giờ
có cái gì đó tương tự một cuộc tranh luận chính trị. Gia đình tôi không có người
điên. Bố tôi và anh em ông là thương gia, buôn bán; theo cách của riêng mình họ
cố theo kịp thời đại. Họ có thể điều chỉnh được hoàn cảnh; họ chấp nhận rủi ro
và đôi khi họ có thể trở nên rất cục cằn. Nhưng họ đã đi sâu vào cuộc đời mình
đến nỗi kt nào bước lui và nhìn ngắm lại bản chất cuộc đời nó. Họ làm điều họ
phải làm. Khi mọi chuyện trở nên sai trái họ có sự an ủi của tôn giáo. Chập nhận
số phận không chỉ đơn thuần là sự sẵn sàng, đó là một lòng tin trầm tĩnh và sâu
sắc về sự phù phiếm của đời người.
Tôi không bao giờ có thể lên cao đến thế. Sự bi quan của
tôi, sự bất an của tôi, là một chuyện thuộc trần thế nhiều hơn. Tôi không hề có
cảm giác tôn giáo của gia đình mình. Sự bất an đó là do tôi thiếu một tôn giáo
đích thực, và cũng giống như một đổi thay nhỏ về sự bi quan cao cả của lòng tin
chúng ta, sự bi quan dẫn con người đến những day dứt. Đó là cái giá dành cho
thái độ duy vật của tôi, sự tìm kiếm của tôi để chiếm lĩnh được trạng thái
trung hoà, giữa sự thẩm thấu vào cuộc sống và bay lơ lửng phía trên mặt đất.
Sự bất ổn tôi cảm thấy về vị thế của chúng tôi trên bờ
biển là do tính khí của tôi và quả có ít thứ có thể làm tôi bình tâm trở lại.
Các sự kiện ở mảnh đất châu Phi này bắt đầu biến chuyển rất nhanh. Về phía Bắc
có một cuộc nổi loạn đẫm máu của một bộ lạc sống trên núi cao mà người Anh dường
như không thể trấn áp nổi, và cũng có những vụ bùng nổ thể hiện sự bất tuân và
sự tức giận khác nữa. Những triệu chứng bệnh đôi khi cũng là bệnh tật thực sự,
và tôi không nghĩ rằng sự sợ hãi của bản thân khiến tôi cảm thấy hệ thống chính
trị mà chúng tôi đang sống dang sắp chấm dứt, và rằng cái sẽ thay thế sẽ không
hề dễ chịu. Tôi sợ những lời nói dối – những người da đen khẳng định người da
trắng nói dối.
Chính châu Âu đã cho chúng tôi, những người sống ở bờ
biển, ý tưởng nào đó về lịch sử của chúng tôi, chính châu Âu, tôi cảm thấy thấy
vậy, cũng đã mang đến những lời nói dối. Những người từng sống ở vùng này của
châu Phi trước người châu Âu chưa từng bao giờ nói dối về mình. Không phải vì
chúng tôi đạo đức hơn họ. Chúng tôi không nói dối bởi vì chúng tôi không bao giờ
sở hữu chính mình và không hề nghĩ là có cái gì đó để mình phải nói dối hết;
chúng tôi là những người giản đơn như thế đấy. Nhưng người châu Âu có thể nói một
đằng làm một nẻo; và họ có thể hành động theo cách đó bởi vì họ có ý thức về
cái họ nợ nền văn minh của mình. Đó là chỗ lợi thê của họ so với chúng tôi. Người
châu Âu muốn có vàng và nô lệ, cũng giống như mọi người khác; nhưng cùng lúc đó
họ cũng muốn người ta dựng tượng mình như những người từng làm việc tốt cho nô
lệ vậy. Là những người thông minh và đầy nghị lực, và ở đỉnh cao quyền lực của
mình, họ có thể diễn tả cả hai mặt của nền văn minh của họ; và họ có cả nô lệ lẫn
tượng.
Bởi tự sở hữu mình,so với chúng tôi người châu Âu được
trang bị tốt hơn để đôi mặt với những thay đổi. Và tôi không còn tính đến châu
Phi, rằng thực tế ctgcg còn gì để cho đi nữa cả. Người châu Âu chuẩn bị để đi,
hoặc chiến đấu, hoặc gặp những người châu Phi ở nửa đường. Chúng tôi tiếp tục sống
như trước đây, mù quáng. Ngay cả gần đây vẫn không có gì giống như một cuộc
tranh luận chính trị trong nhà chúng tôi hoặc trong nhà những gia đình mà tôi
biết. Chủ đề bị né tránh. Tôi cũng tự thấy mình né tránh nó.
Một tuần tôi đến chơi squash tại nhà anh bạn Indar của
tôi hai lần. Ông Indar đến từ Punjab, Ấn Độ, để làm công nhân hợp đồng trong
ngành đường sắt. Ông già người Punjab đã làm việc tốt. Khi hoàn thành hợp đồng
ông đến ở bờ biển và trở thành một người cho vay tiền ỡ chợ, mỗi lần cho vay 20
hoặc 30 sillings cho những người bán hàng ở chợ đang túng tiền phải giật tạm để
mua hàng. Cho vay 10 silling tuần này sẽ mang về 12 hoặc 15 sillings vào tuần
sau. Không phải cách buôn bán tốt nhất, nhưng một người năng động (và cũng khá
cứng rắn) có thể tăng nhanh vốn liếng của mình trong vòng một năm. Thì đó cũng
là một thứ nghề dịch vụ, một sinh kế. Và còn hơn cả sinh kế nữa. Gia đình đã
phát triên rất nhanh. Họ đã trở thành các chủ nhà băng theo cách không chính thống,
cai quản các công ty nhỏ nhưng ăn nên làm ra, nhiều vụ buôn bán đến tận Ấn Độ,
A rập và vịnh Ba Tư (vẫn bằng những chiếc thuyền buồm như trên tem thư).
Gia dình Indar sống trong một khu nhà lớn torng khu đất
trải nhựa. Nhà chính ở cuối khu đất, có các nhà nhỏ, riêng, những ngôi nhà khác
cho gia nhân (gia nhân đúng nghĩa, những người được thuê và có thể bị sa thải,
không phải những người ăn bám như ở chỗ chúng tôi) và có sân squash. Mọi thứ đều
bi .quây vào bên trong bức tường cao phủ cây, cổng chính với người gác. Khu nhà
nằm ở khu mới của thành phố, tôi không nghĩ là còn có thể biệt lập và được bảo
vệ tốt hơn như thế nữa.
Những người giàu không bao giờ quên là họ giàu, và tôi
coi Indar như một đứa con ngoan của gia đình cho vay tiền hoặc nhà băng của cậu
ta. Cậu đẹp trai, cẩn thận trau chuốt hình dáng bên ngoài, và khá là sát gái, với
cái gì đó kín đáo trong cách nói năng. Tôi cho rằng như thế là do cách nhìn của
cậu đối với tài sản riêng của mình và cũng là do những lo lắng về tình dục của
cậu ta. Tôi nghĩ cậu là một người hay bí mật lui tới nhà thổ và sống trong nỗi
lo lắng bi .phát giác hoặc bị dính thứ bệnh nào đó.
Chúng tôi uống nước cam lạnh hay trà nóng sau khi chơi
(Indar đã bắt đầu lo lắng tới trọng lượng cơ thể của mình) thì cậu bảo tôi là cậu
sẽ đi. Cậu sẽ đến Anh, tới một trường đại học danh tiếng để học trong vòng ba
năm. Indar, cũng như gia đình cậu ta, vẫn thường tuyên bố những tin quan trọng
theo cách bình thường như thế. Tin này làm tôi hơi thất vọng. Indar có thể làm
mọi điều cậu ta thích không chỉ vì cậu ta giàu có (tôi từng gắn việc ra nước
ngoài học với giàu có), mà còn vì cậu ta đã học tại đây, ở trường trung học nói
tiếng Anh cho đến năm 18 tủôi. Tôi đã rời trường khi 16. Không phải vì tôi hoặc
không giỏi, cũng không phải gia đình sa sút, mà vì không ai trong gia đình tôi
học quá 16 tuổi.
Chúng tôi ngồi trên bậc thềm của sân squash, trong bóng
mát. Indar bình thản nói "Nhà tớ sẽ đi khỏi đây, cậu cũng biết đấy. Sống ở
châu Phi cần phải mạnh mẽ lắm, chúng tớ không mạnh mẽ."
Cậu đã gợi ra điều không thể gợi ra. Ngay khi cậu nói
tôi thấy bức tường nhà cậu chẳng có tác dụng gì cả. Hai thế hệ đã trôi qua khi
tôi nhìn thấy nó; và tôi buồn cho cái công trình rồi sẽ bị vứt đi này. Ngay khi
Indar nói tôi cảm thấy tôi có thể thâm nhập đầu óc cậu ta và thấy cái cậu ta thấy
– sự nhỏ bé, cái cổng và người coi nhà không có khả năng ngăn chặn được hiểm
nguy thật sự.
Nhưng tôi không tỏ ra mình hiểu điều cậu ta nói. Tôi xử
sự như những người từng cáu giận và làm tôi chán ngán vì không chịu công nhận sự
thay đổi đang đến chỗ chúng tôi. Và khi Indar hỏi tôi "Cậu sẽ làm
gì?", tôi đã nói, như thể không nhìn thấy vấn đề gì hết vậy "Tớ sẽ ở
lại. Tớ sẽ buôn bán".
Điều này chẳng đúng tí nào cả. Tôi cảm thấy điều ngược
lại cơ. Nhưng tôi thấy là mình không sẵn lòng – ngay khi câu hỏi được đặt ra với
tôi – công nhận hoàn cảnh vô phương cứu chữa của mình. Bằng bản năng tôi rơi
vào những thái độ của gia đình mình. Nhưng với tôi và chủ nghĩa đinh mệnh chỉ
là điều vớ vẩn, tôi quan tâm nhiều hơn đến thế giới và mong không phải phủ nhận
điều gì. Mọi điều tôi có thể làm là che giấu sự thật. Và khám phá này về bản
thân đã làm tôi xáo động rất nhiều khi đi bộ về nhà qua thành phố nóng bỏng.
Mặt trời buổi chiều chiếu xuống trên con đường nóng bỏng
màu trắng mềm mại và những lề đường ngoằn ngoèo. Tất cả đều bình thường. Có vẻ
như không hề có nguy hiểm nào trong những đám người, những con phố gẫy khúc, những
lối đi hai bên có tường trắng. Nhưng với tôi nơi này đã bị nhiễm độc.
Tôi có một căn phòng ở tầng trên trong ngôi nhà gia
đình chúng tôi. Nó vẫn sáng đèn khi tôi trở về. Tôi nhìn qua khu nhà mình, thấy
những cái cây và màu xanh của những cái sân lân cận và những khoảng không gian
mở. Dì tôi đang gọi một trong những người con gái của mình, một vài cái bình đồng
cũ kỹ đã được mang ra ngoài sân để cọ bằng giũa đã biến mất. Tôi nhìn vào người
đàn bà sùng đạo đó, đang được che chở sau những bức tường ngôi nhà của mình, và
thấy nỗi lo lắng về những cái bình đồng của bà là vớ vẩn làm sao. Bức tường sơn
màu trắng mỏng tang (mỏng hơn tường của khu nô lệ ở bờ biển) không bảo vệ bà
nhiều lắm. Bà mới dễ bị tổn thương làm sao – bản thân bà, tôn giáo của bà, tập
quán của bà, lối sống của bà. Cái sân nhỏ hẹp chứa toàn bộ cuộc sống của bà, đã
trở thành toàn bộ thế giới của bà, từ lâu nay đến thế. Làm sao người ta không
nhận thấy điều ấy? Làm sao người ta có thể không hỏi điều gì thực sự bảo vệ
chúng tôi?
Tôi nhớ lại cái nhìn chiêm ngưỡng và đầy phấn khích
Indar dành cho tôi. Và quyết định đã đến với tôi vào lúc đó. Tôi phải đi. Tôi
không thể bảo vệ ai hết, không có ai có thể bảo vệ tôi. Chúng tôi không thể bảo
vệ chính chúng tôi, chúng tôi chỉ có thể, bằng nhiều cách, trốn khỏi sự thật.
Tôi phải đi khỏi khu nhà của gia đình và cộng đồng của tôi. Ở lại đây với cộng
đồng mình, để cho rằng suốt đời đi cùng họ, được đi cùng với họ chỉ là sự phá
huỷ. Tôi chỉ có thể làm chủ được số phận của mình khi đơn độc. Một dòng thuỷ
triều của lịch sử - đã bị chúng tôi lãng quên, chỉ sống trong những cuốn sách của
người châu Âu mà tôi từng đọc – đã mang chúng tôi đến đây. Chúng tôi đã sống cuộc
sống của mình theo cách của chúng tôi, đã làm cái chúng tôi phải làm, nguyện cầu
Chúa và tuân theo những lời giới răn của Người. Giờ đây – vang vọng lại những lời
nói của Indar – một dòng triều lịch sử khác đã tới để mang chúng tôi đi.
Tôi không thể tiếp tục tuân theo Số phận được nữa. Mong
muốn của tôi không phải là trở nên tốt đẹp theo cách truyền thống của chúng
tôi, mà phải tạo ra được sự tốt đẹp. Nhưng bằng cách nào đây? Tôi phải dâng tặng
điều gì? Tài năng nào, kỹ năng nào, ngoài những kỹ năng buôn bán châu Phi mà
gia đình tôi có? Nỗi lo lắng này bắt đầu gặm nhấm tôi. Và chính vì thế, khi
Nazruddin đề nghị bán cửa hiệu cho tôi, một cửa hiệu và công việc buôn bán ở
vùng đất xa xôi của châu Phi, tôi đã đồng ý ngay tắp lự.
Trong cộng đồng chúng tôi, Nazruddin là một người lạ.
Ông cùng độ tuổi với cha tôi, nhưng trông trẻ hơn nhiều và còn khá sung sức.
Ông chơi tenis, uống rượu vang, nói tiếng Pháp, đeo kính đen và mặc com lê ( với
những chiếc ve áo to tướng và ca vát quăn tớn). Trong chúng tôi ông là người nổi
tiếng (và hay bị chế giễu sau lưng) về các thói quen châu Âu của mình, mà ông
có được không phải từ châu Âu (ông chưa bao giờ ở đó), mà từ một thành phố ở
trung tâm châu Phi nơi ông đã từng sống và buôn bán.
Nhiều năm trước, vì sự bốc đồng, Nazruddin đã bỏ công
việc kinh doanh ở bờ biển và chuỷên vào sâu hơn trong đất liền. Những nước thuộc
địa ở châu Phi tạo cảm hứng cho các hoạt động của ông. Nhưng Nazruddin cũng chẳng
làm gì hơn là theo những con đường thương mại cũ của người A Rập để vào sâu
hơn; và ông đã dừng ở trung tâm châu lục, bên khúc quanh của một dòng sông.
Đó cũng là giới hạn người A rập từng đến trong thế kỷ
trước. Tại đó họ đã gặp người châu Âu, tiến đến từ hướng khác. Với người châu
Âu nó thật nhỏ bé tầm thường. Với người A Rập ở miền trung châu Phi đó là tất cả,
nghị lực từng đẩy họ đến châu Phi đã chết ở nơi ngọn nguồn này, và sức mạnh của
họ giống như ánh sáng của một ngôi sao đã tắt. Sức mạnh A Rập đã biến mất ;
trên khúc quanh của dòng sông đã mọc lên thành phố của người châu Âu, chứ không
phải của người A rập. Và chính từ thành phố đó mà Nazruddin, lại xuất hiện trở
lại giữa chúng tôi sau một khoảng thời gian, đã mang về những thói quen và thị
hiếu xa lạ cùng những câu chuyện về thành công trong công việc buôn bán của
mình.
Nazruddin là người lạ, nhưng ông vẫn ở trong cộng đồng
của chúng tôi bởi vì ông cần những người chồng và người vợ cho những đứa con của
mình. Tôi luôn biết rằng ông thấy ở tôi người chồng tiềm năng cho một trong số
những đứa con gái của ông; và tôi đã sống với sự công nhận đó lâu đến mức nó chẳng
còn làm phiền gì tôi nữa. Tôi thích Nazruddin. Tôi đón chờ những lần ông đến
chơi, nói chuyện với ông, thái độ thân mật hết sức của ông khi ông ngồi xuống
trong căn phòng u buồn của chúng tôi hay ở ngoài hiên và nói về những điều phấn
khích của thế giới xa xôi của ông.
Ông là một người rất nồng nhiệt. Ông tô vẽ những điều
ông đã làm. Ông thích những ngôi nhà mình mua (thường là mua với giá hời), những
tiệm ăn ông chọn, những món ăn ông gọi. Mọi thứ với ông đều diễn ra thật hoàn
haỏ, và những câu chuyện của ông về vận may bất ngờ có thể khiến ông trở nên
không được khiêm tốn cho lắm nếu ở ông không có cái tài miêu tả mọi việc thật
là hay ho. Ông buộc tôi phải làm những gì ông đã làm, đến nơi ông đã từng đến.
Theo một cách nào đó ông đã trở thành hình mẫu của tôi.
Ngoài ra ông còn biết xem tướng tay, và những thứ ông đọc
được thật có giá trị vì ông chỉ đọc khi nào ông có hứng. Khi tôi 10 hay 12 tuổi,
ông đã đưa tôi đọc và gửi những thứ thật kỳ diệu cho tôi. Cho nên tôi rất kính
trọng những lời phán xét của ông. Ông dần thêm những cai mới vào việc đọc. Tôi
đặc biệt nhớ một chuyện. Ông ngồi trên cái xích đu gỗ, đung đưa từ rìa thảm ra
đến sàn nhà. Ông đột ngột ngừng điều đang nói và đòi tôi cho ông xem tay. Ông cầm
lấy đầu những ngón tay của tôi, rồi bỏ tay tôi ra. Ông nghĩ ngợi một lúc về những
điều ông vừa nhìn thấy – đó là cách của ông, nghĩ về những điều ông đã thấy nhiều
hơn là chăm chăm nhìn vào tay, và ông nói "Cháu là người có lòng tin lớn
nhất mà bác biết", Điều này không làm tôi thích thú; dường như nó có nghĩa
tôi chẳng là gì trong cuộc đời này hết cả. Tôi nói "Bác có thể đọc được
chính bàn tay của bác không? Bác có biết nó nói lên được điều gì không?"
Ông nói, "Không biết được, không biết được". Âm điệu giọng nói của
ông đổi khác, tôi ngắm nhìn người đàn ông này, người có (theo lời kể của ông) mọi
thứ diễn ra thật tốt đẹp, đã thực sự sống với ý nghĩ mọi thứ rồi đều sẽ trở nên
xấu xa. Tôi nghe đó là cách một người có thể xử sự; và tôi cảm thấy thân thiết
với ông sau đó, thân thiết hơn cả với những người trong gia đình tôi.
Rồi xảy ra một sự đổ vỡ mà một số người dã ngầm tiên liệu
trước đối với người đàn ông luôn thành công và nói nhiều này. Đất nước mà
Nazruddin gia nhập trở nên độc lập, khá đột ngột, và trong suốt nhiều tuần nhiều
tháng, tin tức từ nơi đó thường chỉ là những trận chiến và chết chóc. Theo cách
một số người nói bạn có thể tin là nếu Nazruddin từng là một loại nnkhác, nếu
ông bớt huênh hoang về thành công của mình, uống ít rượu hơn và chừng mực hơn
trong cách cư xử, các sự kiện đã có thể diễn ra theo cách khác. Chúng tôi nghe
rằng ông cùng gia đình bay đến Uganda. Có tin họ đã ngồi thùng xe tải xuyên qua
cây bụi trong suốt nhiều ngày, hoảng loạn và đói khát tại thành phố ven biên giới
Kisoro.
Chí ít thì ông cũng được an toàn. Bằng chuyến đi khó nhọc
ông đã đến được bờ biển. Những người muốn thấy ông suy sụp đã thất vọng.
Nazruddin vẫn luôn ngẩng cao đầu, vẫn mặc bộ đồ đen và đeo đôi kính đen. Tấn thảm
kịch đã không hề ảnh hưởng đến ông.
Thường khi thì Nazruddin đến thăm, người ta nỗ lực hết
sức để đón tiếp ông chu đáo. Phòng khách được lau cẩn thận, và những chiêc bình
bằng đồng với những hình vẽ các cuộc săn được lau chùi. Nhưng lần này, vì người
ta tin ông đang gặp rắc rối, và do đó ông tầm thường giống chúng tôi, nên không
ai cố gắng hết cả. Phòng khách vẫn ở trong tình trạng lộn xộn bình thường và
chúng tôi ngồi trên hiên nhà đối diện với cái sân.
Mẹ tôi mang trà ra, rồi rót theo cách không như thường
lệ, như tính hiếu khách quy định vậy, mà xử sự như bà đang hành lễ trọng. Khi
bà đặt khay nước xuống dường như bà tan vỡ thành những giọt nước mắt. Những người
anh rể của tôi lượn vòng qudnh với những khuôn mặt lo lắng. Nhưng Nazruddin –
dù vừa trải qua chuyến đi dài dặc sau xe tải – không kể gì về thảm hoạ, mà chỉ
có chuyện về những may mắn và thành công nối tiếp nhau. Ông đã nhìn thấy rắc rối
đến; ông đã tiên đoán được nó trước hẳn mấy tháng.
Nazruddin nói "Không phải người châu Phi làm tôi
điên tiết. Không phải người châu Âu, cũng không phải những người khác. Ngay trước
khi có bạo loạn mị người sẽ trở nên điên rồ. Chúng ta ở vào thời kỳ bùng nổ
kinh tế rất mạnh mẽ. Mọi người chỉ luôn nói đến tiền thôi. Một mẩu cây bụi
không đáng giá gì ngày hôm nay sẽ được bán vào ngày mai với giá một triệu quan.
Chẳng khác gì trò ảo thuật, nhưng là tiền thật đấy nhé. Chính tôi cũng tin vào
điều đó, và suýt nữa thì sa bẫy.
"Một buổi sáng Chủ nhật nọ tôi đến chỗ đã mua với
giá hơi dắt. Thời tiết xấu. Nóng và oi nồng. Bầu trời tối den nhưng không có
mưa; nó chỉ như thế thôi. Ánh sángthì ở xa lắm – đã mưa ở đâu đó trong rừng.
Tôi nghĩ, không hay rồi. Chỉ có cây bụi thôi. Luôn luôn là cây buị. Tôi khó có
thể chờ đến sáng thứ Hai sau đó. Tôi bèn bán mọi thứ đi. Bán với giá rẻ mạt,
nhưng tôi đòi được trả bằng tiền châu Âu. Tôi bèn gửi gia đình đi Uganda.
"Các bạn có biết Uganda không? Một đất nước rất
đáng yêu. Tuyệt lắm, nó ở độ cao tới 4000 feet, và người ta nói nó chẳng káhc
gì Scotland với những quả đồi. Ở đó người Anh xây dựng chế độ hành chính khá khẩm
nhất mà bạn có thể đòi hỏi. Rất đơn giản nhưng hiệu quả rất cao. Những con đường
đẹp tuyệt vời. Và những người Bantu ở đó da rất trắng".
Đó là Nazruddin. Chúng tôi từng nghĩ ông gục ngã. Thay
vì đó, ông đã cố làm chúng tôi phấn khích lên với sự nhiệt thành của mình với đất
nước mới, và đòi chúng tôi lại phải công nhận vận may của ông một lần nữa. Quả
thật ông luôn tự chủ được. Dù không bao giờ nói điều gì rõ ràng, ông vẫn nghĩ
chúng tôi sống ở bờ biển thế này thật đáng sợ, và hôm đó ông bèn chào hàng tôi.
Ông vẫn còn lợi tức ở đất nước cũ của mình – một cửa hiệu,
qua nhệ với một vài hãng. Ông nghĩ sẽ là thận trọng nếu vẫn giữ lại cửa hiệu
trong khi chuyển tài sản của mình ra khỏi đất nước, để tránh mọi người biết quá
nhiều về việc của ông. Và giờ đây ông đề nghị bán cửa hiệu và những mối đó lại
cho tôi.
"Bây giờ thì nó không còn đáng giá mấy đâu. Nhưng
rồi sẽ lại ổn. Thực ra bác có thể tặng không cho cháu. Nhưng điều này có thể chẳng
hay ho gì cho cả cháu và bác. Cháu phải luôn biết khi nào cần chi tiền. Một
thương gia không phải một nhà toán học. Hãy nhớ điều đó. Đừng bao giờ bị hoa mắt
bởi sự đẹp đẽ của những con số. Một thương gia là người mua giá 10 và hạnh phúc
bán được ở giá 12. Loại người kia mua 10, thấy nó tăng lên 18 nhưng vẫn không
làm gì cả, hắn ta chờ lên đến 20. Vẻ đẹp của những con số. Khi nó tụt trở về 10
hắn ta vẫn đợi để nó lên lại 18. Nào, thì nó sẽ quay về. Nhưng thế là lãng phí
mất một phần tư cuộc đời rồi. Và tất cả những gì hắn ta có về tiền là một sự phấn
khích toán học". Tôi nói "Cửa hiệu đó, giả định mua giá 10, bác sẽ
bán cho cháu bao nhiêu?" "2. Trong ba hay bốn năm nữa nó sẽ lên được
6. Ở châu Phi công việc kinh doanh không bao giờ chết; không bao giờ bị cắt đứt
lưng chừng. Nhưng sẽ là lãng phí thời gian nếu bác chờ nó lên được 6. Với bác vải
vóc ở Uganda hay hơn. Nhưng với cháu điều này là tốt đấy. Điều cháu phải luôn
biết là khi nào cần rút lui".
Nazruddin đã thấy lòng tin ở đường chỉ tay của tay tôi.
Nhưng ông đã đọc sai tôi. Bởi vì khi tôi châp nhận lời chào hàng của ông, tôi
dang trên đường mất lòng tin ở ông. Tôi đã chấp nhận lời chào hàng này vì tôi
muốn đi xa. Để tách khỏi gia đình và cộng đồng của mình, điều này cũng đồng
nghĩa với tách khỏi lời cam kết bất thành văn với Nazruddin và con gái của ông.
Ông có một cô con gái đáng yêu. Mỗi năm một lần, cô đến
bờ biển để ở vài tuần với người chị của bố cô. Cô được giáo dục tốt hơn tôi; có
lời đồn cô sẽ đi học kế tóan hoặc luật. Cô có thể trở thành một cô gai rất tốt
để lấy làm vợ, nhưng tôi ngưỡng mộ cô như tôi có thể ngưỡng mộ một cô gái của
chính gia đình mình. Không gì dễ hơn là cưới con gái của Nazruddin. Với tôi,
không gì có thể tồi tệ hơn thế. Và cũng chính vì sự tồi tệ này cũng như mọi điều
khác mà tôi muốn ra đi, khi tôi rời bờ biển trên chiếc xe Peugeot.
Tôi mất lòng tin vào Nazruddin. Đúng, ông – một người
say mê cuộc đời, một người nhìn xa trông rộng nhiều kinh nghiệm – đã từng là
hình mẫu của tôi, và tôi cũng đang lái xe để đến thị trấn của ông. Mọi điều tôi
biết về thị trấn ở khúc quanh dòng sông đều có được từ những câu chuyện của
Nazruddin. Nhưng điều thật lố bịch có thể xảy đến với chúng ta vào lúc nào đó,
và đến cuối chuyến đi khó nhọc này cái thường trực nằm trong đầu óc tôi là điều
Nazruddin từng nói về những quán ăn của thị trấn, về thức ăn và tới châu Âu.
"Rượu Saccone và rượu Speed", ông nói. Đó là quan sát của một lái
buôn. Ông muốn nói ngay cả ở đó, trung tâm châu Phi, rượu cũng được mang đến từ
các thương gia trên bờ biển phía Đông của chúng tôi chứ không phải từ bờ bên
kia.
Tôi chưa từng bao giờ ăn tại một quán ăn Âu thật sự hay
được nếm rượu vang – chúng tôi bị cấm – một cách thích thú; và tôi biết rằng cuộc
sống Nazruddin miêu tả đã chấm dứt. Nhưng tôi đã lái xe qua cả châu Phi để đến
thị trấn của Nazruddin như thể ở dưới cuộc sống đó sẽ được tái tạo cho riêng
mình.
Khi đến nơi tôi thấy rằng thị trấn mà Nazruddin từng
thêu dệt bao nhiêu câu chuyện đã bị phá huỷ, đã quay trở lại thành cây bụi mà
ông từng thấy khi quyết định bán đi. Mặc chính bản thân mình, mặc tất cả những
gì được nói về các sự kiện mới xảy ra, tôi vẫn bị sốc, cảm thấy bị lừa. Dường
như sự ngờ vực trong tôi sống dậy.
Rượu vang! Kiếm được thứ lương thực đơn giản nhất cũng
đã khó khăn lắm rồi; nếu muốn có rau bạn phải lôi chúng ra từ một cái lon rất
cũ – và đắt tiền – hoặc bạn tự trồng lấy mà ăn. Người châu Phi đã rời bỏ thị trấn
và trở về làng mình có khấm khá hơn; ít nhất thì họ cũng đã trở về với cuộc sống
truyền thống của mình và dù ít dù nhiều cũng tự làm lấy mà ăn. Nhưng với chúng
tôi, những người còn ở lại thị trấn, những người cần cửa hiệu và các loại dịch
vụ - một nhúm người Bỉ, một số người Hy Lạp và Italia, một nhúm người Ấn độ -
đó là tất cả, một kiểu tồn tại của Robinson Cursoe. Chúng tôi có xe và chúng
tôi sống trong những ngôi nhà sạch sẽ - tôi đã mua một căn hộ ở phía trên nhà
kho bỏ hoang gần như không có gì cả. Những cửa hiệu trống rỗng; nước là cả một
vấn đề; điện thì chập chờn; và dầu hoả thì thường xuyên thiếu thốn.
Vài tuần một lần chúng tôi lại thiếu dầu hoả. Hai thuyền
chở dầu trống rỗng bị những người dưới hạ lưu dòng sông chiêm lấy, kéo tuột vào
một con rạch bí mật và biến thành chỗ ở. Người dân ở đây thích cọ nhẵn như chùi
căn nhà mình để tránh rắn; và những tấm đáy bằng thép của các con thuyền cung cấp
một mặt phẳng sống lý tưởng.
Một trong những buổi sáng thiếu dầu hoả đó tôi đã đun
nước của mình trên một cái lò than bằng gang làm ở Anh – được trữ tại cửa hiệu
của tôi để bán cho những người châu Phi ở làng. Tôi mang chiếc lò ra tầng đệm của
cầu thang lộ thiên đằng sau nhà, ngồi chồm hổm quạt . Xung quanh tôi mọi người
đều làm thế; khói tuôn mù mịt.
Và đầy những đống đổ nát. Miscerique probat populos et
foedera jungi. Những từ La tinh đó, mà tôi không biết nghĩa, là tất cả những gì
còn lại của một toà nhà bên ngoài cầu tầu. Tôi thuộc lòng những từ đó; tôi đọc
chúng theo cách đọc của riêng mình, chúng chạy qua đầu tôi như một chuỗi từ vô
nghĩa. Chúng được khắc trên một mảnh đá granite, phần còn lại của phiến đá giờ
đã nhẵn lỳ. Bức tượng đồng bên dưới những chữ đó đã bị bóc đi; những mảnh đồng
nhỏ lởm chởm còn lại trên mặt đá cho thấy người thợ khắc đã dán lá chuối hoặc
cành cọ lên trên cùng để tạo khuôn cho tác phẩm của mình. Tôi biết rằng toà nhà
này được xây dựng cách đây ít năm; khoảng cuối thời thực dân, để kỷ niệm 60 năm
tàu thuỷ hơi nước được đưa vào sử dụng ở thủ đô.
Vậy là ngay sau khi vừa được dựng lên – rõ ràng là với
những bài diễn văn tiên đoán 60 năm phục vụ tương lai – toà công trình về tàu
thuỷ cũng gục luôn. Cùng với tất cả các loại tượng và công trình thực dân khác.
Bệ cột xiêu vẹo, rào chắn bảo vệ nham nhở, đèn báo mực nước nát tương và bị vứt
lỏng chỏng. Đống đổ nát đúng là đống đổ nát , không hề có ý định nào vực chúng
dậy. Tên của tất cả các phố chính đều bị đổi. Những tấm bảng cứng đỡ lấy những
cái tên mới, được viết rất cẩu thả. Không ai sử dụng tên mới, vì chẳng ai quan
tâm lắm đến chúng. Mong muốn chỉ là thoát khỏi cái cũ, là quét sạch được ký ức
về kẻ xâm lược. N giảm nhẹ chiều sâu của sự tức giận Phi châu, ước muốn tàn
phá, không thèm biết đến hậu quả sẽ ra sao.
Nhưng cái đáng rầu lòng hơn cả là khu ngoại ô đổ nát gần
ghềnh nước. Từng một thời là khu nhà có giá trị, giờ đây đã bị cây bụi che phủ,
là cái sân chung, theo phong tục của người châu Phi. Những ngôi nhà lần lượt bị
đốt cháy. Chúng bị lột mất những gì mà người địa phương thực sự cần, ở mặt trước
hoặc mặt sau nhà, những mảnh tôn, những đoạn ống nước, chậu tắm, bồn rửa bát và
thau rửa mặt (những cái chậu không rò, rất thuận tiện để rửa sắn). Các bãi cỏ
và khu vườn đã trở lại thành cây bụi; đường phố đã biến mất, cành nho và các loại
dây leo đã bò lên trên những bức tường nham nhở trắng bợt bằng bê tông hoặc đất
sét rỗng ruột. Đâu đó trong đám cây bụi vẫn có thể nhìn thấy những mảnh bê tông
của cái từng là nhà hàng (rượu Saccon và Speed) và hộp đêm. Một hộp đêm tên là
"Napoli", giờ đã thành ra một cái tên vô nghĩa, được vẽ lên trên một
bức tường bê tông, gần như đã bong cả.
Mặt trời, mưa gió và cây bụi đã làm cho khung cảnh nơi
này trông thật cổ lỗ, giống như của một nền văn minh đã chết. Đống đổ nát, trải
rộng hàng acre, dường như đang nói về thảm hoạ cuối cùng. Nhưng nền văn minh
không chết. Tôi tồn tại trong đó và rõ ràng là đang tiến lên trong nó. Và điều
này có thể tạo ra một cảm giác là lạ; ở giữa đống đổ nát thời gian của bạn trở
nên vô định. Bạn cảm thấy như mình là một con ma, đến từ tương lai chứ không phải
từ quá khứ. Bạn cảm thấy cuộc đời bạn và tham vọng của bạn đã sống ở bên ngoài
bạn và bạn đang nhìn vào những phế tích của cuộc đời đó. Bạn đang ở tại một nơi
mà tương lai đã đến và cũng đã đi.
Với những đống đổ nát và mất mát, thị trấn của
Nazruddin đã trở thành một thị trấn ma. Và với tôi, một người mới đến, ở đây chẳng
có gì giống với một cuộc sống xã hội con người. Những người trở về không được
chào đón. Họ đã bị cắt đứt khỏi mối dây liên hệ; họ không biết các sự việc đã
diễn ra như thế nào, và họ rất bực dọc. Người Bỉ, nhất là những người còn trẻ,
đầy tức tối và cảm thấy bất công. Người Hy Lạp, những người thuộc các gia đình
danh giá, nóng nảy và điên tiết về những người khác, cố gìn giữ gia đình và những
người bạn thân cận của mình. Tôi đã đến thăm ba ngôi nhà, thăm họ vào những
ngày trong tuần, đúng giờ ăn trưa, bữa giờ đây đã là bữa chính của tôi. Đó đều
là những ngôi nhà của người châu Á hay người Ấn độ.
Có một cặp vợ chồng đến từ Ấn độ. Họ sống trong một căn
hộ nhỏ đầy mùi a nguỳ và trang trí bằng những bông hoa giấy và nhiều bức vẽ tôn
giáo màu sắc sặc sỡ. Người chồng là một chuyên gia Liên Hiệp Quốc vì lý do nào
đó không muốn quay về Ấn độ, ông ở lại đây làm những công việc vớ vẩn sau khi hợp
đồng đã hết hạn. Họ là một cặp vợ chồng hiếu khách và cố gắng (tôi cảm thấy vì
những lý do tôn giáo) bày tỏ sự hiếu khách với những người nước ngoài sợ hãi hoặc
mắc kẹt. Họ làm hỏng tính hiếu khách của chính mình vì tỏ ra quá hiếu khách.
Tôi thấy đồ ăn của họ quá lỏng và quá nhiều hạt tiêu, và tôi không thích cách
ăn của người chồng. Ông cúi gập đầu xuống món ăn, mũi cách đĩa thức ăn một hoặc
hai inch và tạo ra tiếng ồn rất lớn khi ăn, chẹp chẹp môi vào nhau. Trong khi
ông ăn, vợ ông quạt cho ông, mắt vẫn không rời khỏi đĩa của ông, quạt bằng tay
phải, tựa cằm lên lòng bàn tay trái. Nhưng tôi vẫn đến đó một tuần hai lần, vì
lý do không có chỗ nào khác để đi hơn là vì đồ ăn.
Một chỗ khác mà tôi đến là một ngôi nhà thô kệch, giống
như trại gia súc, thuộc về một cặp vợ chồng già cả người Ấn độ, cả gia đình họ
đã bỏ đi trong những cuộc biến loạn. Cái sân rộng và bẩn thỉu, đầy những xe hơi
và xe tải bị bỏ lại, tàn tích của công việc kinh doanh chuyên chở trong những
ngày còn chế độ thực dân. Cặp vợ chồng già dường như không biết mình đang ở
đâu. Cây bụi châu Phi bên ngoài khu vườn họ, nhưng họ không nói tiếng Pháp lẫn
tiếng châu Phi, và theo cách họ cư xử, bạn có thể nghĩ dòng sông ngay phía dưới
con đường chính là sông Hằng, với những ngôi đền và các giáo sĩ linh thiêng
cùng những bậc thềm dẫn xuống chỗ tắm chung. Nhưng thật dễ chịu khi ở chỗ họ. Họ
không trông chờ trò chuyện, và thật là sung sướng nếu bạn không thể phải nói gì
hết, nếu bạn chỉ ăn thôi rồi ra đi.
Tôi thấy thân thiết nhất với Shoba và Mahesh, và tôi
nhanh chóng coi họ là bạn. Họ có một cửa hiệu ở chỗ trước hẳn phải là địa điểm
buôn bán phát đạt lắm, đối diện với khách sạn Van der Weyden. Cũng giống tôi, họ
là người nhập cư từ phía Đông và là những người trốn chạy khỏi cộng đồng của
mình. Họ là một cặp vợ chồng đẹp đến kỳ lạ, thật khó tìm thấy những người chú ý
tới ăn mặc và vẻ ngoài tại thị trấn của chúng tôi như họ. Nhưng đã quá lâu họ
không tiếp xúc với bạn hữu và đã quên tò mò với những người đó. Cũng như những
người sống tách biệt khác, họ tự thu mình lại và không quá quan tâm đến thế giới
bên ngoài. Cặp vợ chồng đẹp đẽ này sống những ngày thật căng thẳng. Shoba, người
vợ, hão huyền và nóng nảy, Mahesh, người đơn giản hơn, luôn ở trong trạng thái
lo lắng cho vợ.
Đó là cuộc sống của tôi tại thị trấn của Nazruddin. Tôi
từng muốn bỏ tất cả đi để bắt đầu lại. Nhưng trong mỗi thứ đều có những cấp độ
khác nhau, và tôi cảm thấy gánh nặng của những ngày tháng vô nghĩa. Cuộc sống của
tôi không hề bị gì ngăn trở, nhưng lại chật hẹp hơnbg hết, sự cô đơn của những
buổi tối giống như một cơn đau. Tôi không nghĩ tôi có được nguồn sống. Điều may
mắn là tôi đã mất ít thôi, trừ thời gian; tôi vẫn luôn có thể đi – dù chưa hề
biết sẽ đi đâu. Và rồi tôi thấy là mình không thể đi. Tôi phải ở lại.
Điều tôi lo sợ cho vùng bờ biển cuối cùng cũng xảy ra.
Có một cuộc nổi dậy, và những người A rập – những người mang đặc tính châu Phi
hệt như những người hầu của mình – cuối cùng đã bị hạ gục.
Thoạt tiên tôi nghe tin từ những người bạn Shoba và
Mahesh, họ nghe được trên radio – tôi chưa hề có thói quen nghe đài BBC. Chúng
tôi coi tin này là một bí mật, là cái gì đó cần không để người trong vùng biết;
đó là lúc chúng tôi thấy sung sướng vì trong vùng không có tờ báo nào.
Rồi báo từ châu Âu và Mỹ đến tay nhiều người trong thị
trấn và được truyền tay nhau, và tôi thấy thật kỳ lạ, sao mà một số tờ vẫn tìm
ra được những lời hay ho nói về cảnh nồi da nấu thịt ở bờ biển. Nhưng người ta
vẫn có thái độ như thế về những vùng họ chẳng mấy quan tâm và không phải sống tại
đó. Một số tờ báo nói đến kết cục của chủ nghĩa phong kiến và bình minh một thời
đại mới. Nhưng điều xảy ra không phải là mới. Những người yếu ớt đã bị tiêu diệt.
Rằng, ở châu Phi, điều này không có gì là mới mẻ, đó là thứ luật cổ xưa nhất của
châu lục.
Cuối cùng thư từ từ bờ biển cũng đến – đến cả một đợt –
từ người nhà. Chúng được viết rất kín đáo, nhưng thông điệp thì rõ ràng. Không
có chỗ cho chúng tôi tại bờ biển nữa, cuộc sống của chúng tôi tại đó đã chấm dứt.
Gia đình phân tán. Chỉ những người già mới có thể ở lại khu đất của gia đình –
và cuối cùng là tại đó cuộc sống đã trở lại bình lặng hơn. Những người hầu của
gia đình, cuối cùng trở thành gánh nặng, không chịu bỏ đi, nấn ná mãi cái tình
trạng nô lệ của mình ngay cả vào thời của cuộc cách mạng, đã trở thành bộ phận
cấu thành của gia đình. Và một chi tiết trong những lá thư đó có liên quan đến
tôi.
Tôi không được chọn ai mà tôi muốn; có vẻ như là tôi đã
bị một ai đó chọn. Một trong số các cậu bé hoặc chàng trai trẻ nào đó trong số
các gia nhân muốn đi càng xa bờ biển càng tốt, và đã cả quyết đòi được gửi
"đến sống với Salim". Cậu bé nói đã luôn có "một tình cảm đặc biệt
đối với Salim", và đã làm loạn đến mức mọi người đành phải gửi nó đến cho
tôi. Tôi có thê hình dung ra vở kịch. Tôi có thể hình dung ra sự kêu gào, sự vật
vã và lồng lộn. Đó là cách cư xử của gia nhân trong nhà chúng tôi, có lẽ họ còn
tệ hơn cả lũ trẻ con. Cha tôi, không biết những người khác viết thư thế nào, đã
viết trong thư của mình rằng ông và mẹ tôi đã quyết định gửi ai đó tới để chăm
sóc tôi – điều này dĩ nhiên có nghĩa là ông gửi cho tôi một đứa nhóc để tôi
nuôi nấng và cho ăn.
Tôi không thể từ chối, thằng bé đang trên đường đi tới đây.
Chi tiết thằng bé đó có "một tình cảm đặc biệt" với tôi quả là một
tin tức hay ho. Một lý do tốt hơn cho sự chọn lựa của nó là tôi chỉ hơn nó có
ba, bốn tuổi, chưa vợ, và là người thích hợp hơn cả để giúp nó thực hiện những
cuộc lang bạt của mình. Nó luôn là một người lang thang. Chúng tôi đã gửi nó đến
trường đạo Hồi khi nó còn bé, nhưng nó luôn chạy trốn đi đâu đó, dù bị mẹ đánh
không biết bao nhiêu lần. (Và cái cảnh nó kêu gào còn mẹ nó gào thét trong sân
– cả hai đều cố tình trầm trọng hoá vở kịch, cố thu hút được sự chú ý của những
người khác trong nhà càng nhiều càng tốt!) Không ai có thể nghĩ nó là một gia
nhân. Luôn có giường ngủ và phòng riêng, nó chẳng khác gì người thị trấn, luôn
thân thiện, không đáng tin và đầy bạn bè, luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người và
không bao giờ làm đến một phần tư những gì đã hứa.
Một buổi tối nó tới trên khoang xe một chiếc xe tải của
Daulat, không lâu sau khi tôi nhận được thư nói nó đã được gửi đi. Và trái tim
tôi rên lên vì nó, nó trông thật nhàu nhĩ, mệt mỏi và sợ hãi. Nó vẫnsn sót sau
cú sốc những sự kiện ở bờ biển, và nó không hề thích chuyến đi xuyên qua châu
Phi một tí nào.
Nửa quãng đường đầu nó vượt qua bằng xe lửa, bò với vận
tốc trung bình mười dặm một giờ. Rồi nó chuỷên sang đi xe buýt và cuối cùng bằng
xe tải của Daulat; mặc dù những cuộc chiến tranh, đường xấu và xe cộ cũ nát,
Daulat, một người trong cộng đồng c tôi, vẫn tiếp tục công việc chở xe tải thuê
qua lại giữa thị trấn của chúng tôi và biên giới phía Đông. Những người lái xe
của Daulat giúp thằng bé qua được rất nhiều quan chức . Nhưng thằng bé có dòng
máu pha trộn, vẫn còn khá là châu Phi nên thật khó khăn để qua được các bộ lạc
nội địa để đi từ bờ biển đến thị trấn. Nó không tự cho phép mình ăn đồ ăn của họ,
và thế là nó không ăn gì trong suốt nhiều ngày. Dù không biết, nhưng nó đã thực
hiện chuyến đi ngược với chuyến đi mà tổ tiên của nó từng thực hiện trước đó một
thế kỷ hoặc hơn.
Nó lao vào vòng tay tôi, biến cái ôm hôn của người đạo
Hồi thành cái ghì nén của một đứa trẻ. Tôi vỗ vỗ vào lưng nó, và nó chỉ chờ cử
chỉ đó để gào tướng lên. Và ngay giữa những tiếng hò hét và la lối đó, nó bắt đầu
kể cho tôi về những vụ bắn giết nó tận mắt chứng kiến tại khu chợ gần nhà.
Tôi không quan tâm đến tất cả những gì nó kể. Tôi lo lắng
về những người quen biết, và cố bắt nó giảm la hét, cố làm cho nó hiểu là cái
cách biểu hiện của kiểu cư xử nô lệ đó (mà nó phần nào có trong máu) còn có thể
chấp nhận được ở khu bờ biển, nhưng người ở đây thì không hiểu nổi đâu. Nó tiếp
tục được một chút nữa, về sự tàn ác của Mufar, người châu Phi, làm như căn hộ của
tôi là khu nhà của gia đình và có thể hét lên bất cứ gì nó muốn về những người ở
bên ngoài. Và cùng lúc đó người lái xe châu Phi của Daulat thân thiện mang lên
cho chiếc vali cùng các thứ đồ đạc khác – không nhiều nhặn lắm, nhưng được gói
ghém thành nhiều gói nhỏ; một ít dây thừng, một cái giỏ mây đựng quần áo, vài
cái hộp các tông.
Tôi tảng lờ thằng bé lắm điều – để ý đến nó đồng nghĩa
với khuyến khích nó tiếp tục – và tôi thoả thuận với người lái xe, đi ra phố với
anh ta để trả tiền. Tiếng ồn ã trong căn hộ tầng trên đã giảm, đúng như tôi dự
tính, sự cô độc và lạ lẫm của căn hộ có hiệu ứng của mình; và khi quay trở lại
tôi từ chối nghe thêm bất kỳ lời nào của thằng bé cho đến khi nó được ăn.
Nó trở nên trật tự và đúng mực, và trong khi tôi chuẩn
bị đậu rán và pho mát trét trên bánh mì nướng, thì nó lấy từ đống giỏ và hộp của
mình ra những thứ gia đình gửi cho tôi. Gừng, nước sốt và gia vị từ mẹ tôi. Hai
bức ảnh gia đình từ cha tôi, và một bức tranh tường trên giấy rẻ tiền về một địa
điểm linh thiêng ở Gujarat, nhưng được trình bày theo lối hiện đại: người nghệ
sĩ đã vẽ thêm xe hơi, xe máy và xe đạp và thậm chí cả đám người lộn xộn vào những
đường phố xung quanh. Đó là cách cha tôi muốn nói, hiện đại như tôi thì cũng phải
quay lại với lòng tin thôi.
"Lúc đó cháu đang ở chợ, Salim ạ" thằng bé
nói sau khi đã ăn. "Thoạt tiên cháu nghĩ có chuyện cãi cọ gì đó quanh sạp
hàng của Mian. Cháu không thể tin vào điều đã trông thấy. Họ đối xử với nhau cứ
như thể dao găm thì không chém đứt da, còn nó nthì không cấu tạo bằng da thịt vậy.
Cháu không thể tin được vào điều đó. Cuối cùng thì như là một đàn chó lao vào
phản thịt. Cháu nhìn thấy tay với cả chân máu me đầm đìa nằm vung vãi khắp nơi.
Đúng là như thế đấy. Chúng vẫn còn ở đấy vào ngày hôm sau, tay với chân ấy".
Tôi cố ngăn nó lại. Tôi không muốn nghe thêm nữa. Nhưng
thật không dễ chút nào. Nó lại tiếp tục về tay chân bị cắt bỏ, tay chân của những
người mà chúng tôi biết từ khi còn nhỏ. Những gì nó trông thấy thật là kinh khủng.
Nhưng tôi cũng bắt đầu cảm thấy nó cố tự buộc mình phải khóc nhiều hơn một chút
khi mà nó đã thôi muốn khóc. Tôi cảm thấy điều này làm nó đôi lúc quên mất gì
đó, và nghĩ đến những việc khác. Dường như nó liên tục muốn tự đe doạ mình, điều
này làm tôi cáu tiết.
Vài ngày sau, nó bắt đầu vui vẻ trở lại. Và những sự kiện
bờ biển không bao giờ được nhắc lại nữa. Nó ổn định nhanh hơn tôi dự kiến. Tôi
từng nghĩ nó sẽ âu sầu và tách biệt; tôi đã nghĩ, đặc biệt sau chuyển đi không
lấy gì làm sung sướng của nó, rằng nó sẽ ghét thị trấn lạc hậu của chúng tôi.
Nhưng nó lại thích thị trấn; và thích nó vì chính bản thân nó được mọi người
ưa, theo cách trước kia nó chưa từng biết đến.
Về mặt thể chất mà nói, nó khá là khác với người ở đây.
Nó cao hơn, cơ bắp hơn, to lớn hơn và khoẻ khoắn hơn trong các cử động. Nó được
mọi người ngưỡng mộ. Những người đàn bà ở đây, với cách sống tự do quen thuộc của
mình, không hề che giấu muốn tìm ở nó lạc thú – gọi nó trên đường phố, dừng lại,
nhìn nó chằm chằm với những cặp mắt khích động, cười mỉm (và thoáng bối rối )
dường như muốn nói "Hãy xem đó là một trò đùa, một chuyện cười. Hoặc hãy
coi nó là nghiêm túc", Cách nhìn của tôi về nó cũng thay đổi. Nó không còn
là một thằng bé trongsố những người nô lệ. Tôi thấy cái mà những người ở đây thấy,
trong mắt tôi nó trở nên đẹp đẽ và đặc biệt hơn. Với người địa phương nó không
hoàn toàn là một người châu Phi và không gợi lên sự đối nghịch mang tính bộ lạc
nào, nó xa lạ với những mối quan hệ châu Phi mà người ta muốn có. Nó toả sáng.
Nó học tiếng địa phương rất nhanh, và thậm chí đã có cả một cái tên mới.
Ở nhà chúng tôi gọi nó là Ali, hoặc – khi chúng tôi muốn
gợi về bản chất hoang dã đặc biệt và không thể tin cậy của Ali – Ali-wa
("Ali! Ali! Nhưng Ali-w ở đâu?") Giờ thì nó vứt toẹt cái tên của nó
đi. Nó thích được gọi oà Metty hơn, đó là tên người ở đây gọi nó. Trước đây
không lâu tôi đã hiểu đó không hoàn toàn là một cái tên, mà chỉ là từ tiếng
Pháp, métis, con lai. Nhưng tôi không dùng tên ấy theo nghĩa đó khi gọi nó. Với
tôi đó chỉ là một cái tên: Metty.
Tại đây, cũng như ở bờ biển, Metty là một kẻ ưa lang
thang. Nó có phòng ngủ ngay cạnh bếp, đó là cánh cửa đầu tiên bên tay phải khi
b.an đi vào từ tầng đệm của cầu thang lộ thiên. Tôi thường nghe tiếng nó đi về
rất muộn ban đêm. Nó đến với tôi chính là vì cái tự do này đây. Nhưng Metty tận
hưởng cái tự do đó, là một người káhc hẳn đứa bé đến đây trong sự gào thét và
la hoảng, với những cung cách của người nô lệ. Nó đã nhanh chóng rũ bỏ được những
cung cách đó; nó đã có một ý tưởng mới về giá trị của mình. Nó trở nên hữu dụng
hơn trong cửa hiệu, và tại căn hộ, những thói quen lang thang của nó – mà tôi rất
sợ, khiến sự có mặt của nó trở nên rõ ràng. Nhưng nó vẫn luôn ở đó, và tại thị
trấn nó giống như một người của tôi. Nó làm giảm bớt đi sự cô đơn và làm cho những
tháng ngàh trống rỗng dễ chịu hơn – những tháng chờ đợi công việc làm ăn khởi động
trở lại. Và, thật chậm chạp, công việc làm ăn cũng bắt đầu trở lại.
Chúng tôi có thói quen uống cà phê buổi sáng tại căn hộ,
rồi đến cửa hiệu, ăn trưa riêng, cửa hiệu, những buổi tối riêng tư. Đôi khi người
làm cômg và ông chủ gặp nhau, bình đẳng với những nhu cầu giống nhau, trong những
quán bar nhỏ bé tối đen đã bắt đầu xuất hiện ở thị trấn của chúng tôi, những dấu
hiệu của một cuộc sống đang thức dậy trở lại; những ngôi nhà bé xíu với mái nhà
bằng thép uốn, không trần, những bức tường bê tông sơn màu xanh da trời hoặc
xanh lá cây thật đậm, những sàn nhà bằng bê tổng màu đỏ.
Một tối tại một trong những nơi như thế này Metty đã đặt
dấu ấn lên mối quan hệ mới của chúng tôi. Khi đi vào tôi nhìn thấy nó đang nhảy
một cách cuồng loạn – người uốn éo, mông ngoáy lia lịa, trông thật tuyệt. Nó dừng
lại ngay khi trông thấy tôi – bản năng gia nhân của nó. Rồi nó cúi gập người và
làm một cử chỉ chào đón tôi như thể nó là chủ ở chốn này. Nó nói, bằng thứ giọng
Pháp học được, "Tôi không được phép làm gì bậy bạ trước mặt patron (ông chủ)
của tôi". Và nó thôi không nhảy nữa.
Rồi nó học cách tự thể hiện. Nhưng không hề có gì vướng
mắc giữa chúng tôi. Nó càng ngày càng trở thành một của báu. Nó trở thành người
quản lý khách hàng cho tôi . Nó luôn tốt tính với khách hàng và kiếm về cho cửa
hiệu của tôi nhiều nguồn lợi. Vì là một người lạ, một người được thuê làm, nó
là người duy nhất trong thị trấn dám trêu chọc Zabeth, marchande đồng thời là
phù thuỷ.
Đó chính là những gì diễn ra giữa chúng tôi, khi thị trấn
đang dần trở lại cuộc sống, khi những chuyến tàu thuỷ lại bắt đầu chạy đến từ
thủ đô, mỗi tuần một lần, rồi một tuần hai chuyến, khi người ta bắt đầu từ những
ngôi làng trở về các cité của thị trấn, khi công việc thương mại phát triển dần,
cả việc buôn bán của tôi, đã từ lâu đứng ở một con số không, lên dần (theo đúng
đơn vị đo lường 10 của Nazruddin), lên được số 2, và thậm chí còn cho tôi triển
vọng về số 4.
Zabeth, vì là thầy bói hoặc phù thuỷ, luôn giữ khoảng cách với
đàn ông. Nhưng không hẳn lúc nào cũng như thế, Zabeth không phải luôn là thầy
bói. Cô có một đứa con trai. Thỉnh thoảng cô nói với tôi về nó, như thể nói về
một phần cuộc đời cô đã để lại phía sau lưng. Cô nói về nó xa xôi đến nỗi tôi
tưởng là nó đã chết. Thế rồi một hôm cô dẫn nó tới cửa hiệu.
Nó khoảng chừng mười lăm mười sáu tuổi, đã khá to lớn,
cao và nặng hơn đàn ông ở vùng chúng tôi, những người có chiều cao trung bình
khoảng năm feet. Da nó đen hoàn toàn, không có chút gì nước da màu đồng của mẹ
nó, khuôn mặt nó dài và có đường nét rõ ràng hơn, và từ những gì Zabeth nói tôi
đoán rằng cha đứa trẻ là người của một bộ tộc phương Nam.
Cha thằng bé là một thương gia. Là thương gia, ông ta
đi khắp đất nước trong khoảng thời gian hoà bình diệu kỳ, hồi còn thực dân, khi
mà người ta có thể, nếu muốn, không phải quan tâm nhiều lắm đến rang giới giữa
cac bộ lạc. Thế là trong những chuyến đi của mình, ông ta đã gặp Zabeth; chính
nhờ ông ta mà Zabeth có được những kỹ năng buôn bán. Thời độc lập, ranh giới giữa
các bộ lạc lại một lần nữa trở nên rất quan trọng, và việc đi lại không còn an
toàn như trước nữ. Người đàn ông phương Nam đã quay trở về bộ lạc của mình,
mang theo đứa con trai do Zabeth sinh ra. Một người cha luôn có thể đòi được đứa
con, những câu thành ngữ dân gian phổ biến ở châu Phi đều nói thế. Và
Ferdinand, tên thằng bé, đã sống xa mẹ mấy năm vừa qua. Nó đã đi học ở phương
Nam, tại một thành phố mỏ, và đã ở đó qua tất cả những cơn biến động xảy đến
sau khi độc lập, đặc biệt là cuộc chiến tranh ly khai dài dặc.
Giờ đây vì một lý do nào đó – có thể là người cha dã chết,
hoặc đã cưới vợ và muốn rũ bỏ khỏi Ferdinand, hoặc chỉ đơn giản là vì Zabeth muốn
– Ferdinand đã được gửi trả lại cho mẹ nó. Nó là một người lạ trong vùng. Nhưng
ở đây không ai có thể sống mà không thuộc về một bộ lạc nào đó, và Ferdinand, vẫn
theo tục lệ bộ lạc, đã được nhận vào bộ lạc của mẹ nó.
Zabeth đã quyết định gửi Ferdinand tới trường trung học
thị trấn chúng tôi. Ngôi trường đã được sửa sang và hoạt động trở lại. Đó là
toà nhà bằng đá hai tầng vững chãi, hai sân xây theo phong cách thuộc địa, với
những hàng hiên rộng ở tầng trên và tầng dưới. những người chiếm dụng ngôi nhà
đã chiếm lấy tầng dưới, nấu ăn trên những viên đá tại hàng hiên và ném rác rưởi
xuống sân và sàn nhà. Những thứ rác lạ lùng, không phải các lon, giấy và đồ hộp
và những thứ chứa đồ khác mà bạn có thể tìm thấy trong thị trấn, mà là một thứ
rác khác trang nhã hơn, vỏ sò, xương và tro, những thứ bao tải đã bi .đốt cháy,
khiến cho những đống rác trông chẳng khác những ụ đất đã được sàng kỹ.
Dãy hàng rào và những mảnh vườn đã đổ nát. Nhưng hoa giấy
đã mọc lên như rừng quấn quanh những cây cọ cao, trùm lên tường bao trường học,
và bò lên những cái cột vuông của cổng chính để quấn hai vòng quanh cái bảng
trang trí bằng kim loại, nơi có khắc những dòng chữ bằng kim loại, vẫn là tiêu
chí của trường: Semper Aliquid Novi. Những người chiêm dụng ngôi nhà, rụt rè và
dở sống dở chết, đã chuyển đi ngay khi được yêu cầu. Một vài cánh cửa, cửa sổ
và ô chắn sáng được thay, nền nhà được sửa, cả trường được sơn lại, rác rưởi
trên sàn được quét sạch đi, sàn được láng toàn bộ, và trong ngôi nhà mà tôi từng
nghĩ là đã thành một đống đổ nát lại bắt đầu xuất hiện những khuôn mặt trắng của
các thầy giáo.
Ferdinand đến cửa hiệu với tư cách một học sinh trung học.
Nó mặc đồng phục của trường, áo sơ mi trắng và quần sọoc cũng màu trắng. Đó là
một bộ trang phục đơn giản nhưng nổi bật; và – mặc dù cái quần soọc có vẻ gì đó
phi lý với một thân hình cao lớn đến thế - bộ quần áo vẫn rất quan trọng vbcả
Ferdinand lẫn Zabeth. Zabeth sống một cuộc sống thuần tuý châu Phi, với cô chỉ
châu Phi là hiện hữu. Nhưng với Ferdinand cô muốn khác đi. Tôi chẳng thấy có gì
mâu thuẫn ở đây cả; tôi thấy thật tự nhiên khi ai đó giống như Zabeth, đã sống
một cuộc sống khó nhọc đến thế, muốn con trai mình có được cái gì đó tốt đẹp
hơn. Cuộc đời tốt đẹp hơn đó nằm bên ngoài những con đường vô tận của ngôi làng
và dòng sông. Nó nằm ở sự giáo dục và sự đòi hỏi những kỹ năng mới; và với
Zabeth, cũng như nhiều người châu Phi khác cùng thế hệ với cô, giáo dục là cái
gì đó mà chỉ người nước ngoài mới có thể cung cấp được.
Ferdinand là học sinh nội trú của trường trung học.
Zabeth mang nó tới cửa hiệu để giới thiệu nó với tôi. Cô muốn tôi để mắt đến thằng
bé khi nó sống ở thị trấn xa lạ này và muốn tôi bảo vệ nó. Nếu Zabeth lựa chọn
tôi cho việc đó, thì không phải là vì tôi là một đối tác kinh doanh mà cô đặt
niềm tin. Đó còn là bởi vì tôi là một người nước ngoài và còn là người nói tiếng
Anh, người mà Ferdinand có thể học được những thái độ và cách sống của thế giới
bên ngoài. Tôi là ai đó mà Ferdinand có thể lấy làm gương để học tập.
Thằng bé cao lớn trầm tính và tỏ vẻ kính trọng. Nhưng
tôi có cảm giác điều này chỉ kéo dài khi có mẹ nó ở đó. Có một sự chế giễu xa
xôi và nhẹ nhàng trong mắt nó. Thằng bé có vẻ đùa giỡn người mẹ mà nó mới biết.
Cô là một người đàn bà ở làng; còn nó, dù sao, đã sống ở thành phố mỏ miền Nam,
nơi chắc hẳn nó đã thấy những người nước ngoài sành điệu hơn tôi. Tôi không cho
rằng nó kính trọng cửa hiệu của tôi như mẹ nó. Cửa hiệu là một căn nhà bằng bê
tông, với những thứ hàng hoá tầm tầm xếp đầy trên sàn (nhưng tôi biết mọi thứ ở
đâu). Không ai có thể nghĩ đây là một nơi hiện đại, và nó không được sơn màu
sáng sủa như một số cửa hiệu của người Hy Lạp.
Tôi nói, vì lợi ích của Ferdinand cũng như của Zabeth,
"Ferdinand là một cậu bé khá đấy, Beth ạ. Cậu ấy có thể tự chăm lo cho
mình mà không cần đến tôi đâu."
"Không, không. Mis Salim. Ferdinand sẽ đến chỗ
ông. Ông cứ đánh nó khi nào ông muốn".
Thật chẳng ra sao. Nhưng đó cũng chỉ là một cách nói.
Tôi mỉm cười với Ferdinand và nó mỉm cười với tôi, kéo nhệch khoé miệng ra. Nụ
cười khiến tôi nhận ra cái miệng rất nhỏ và những nét thật gọn gàng. Trên khuôn
mặt thằng bé tôi cảm thấy mình có thể nhìn thấy nét gì đó của một số loại mặt nạ
châu Phi, trên đó những đường nét được đơn giản hoá và nhấn mạnh, và, với ký ức
về những mặt nạ đó, tôi nghĩ tôi đã nhìn thấy một sự khác biệt rất lạ trong những
đường nét của nó. Tôi cứ có cảm giác đang nhìn Ferdinand với con mắt một người
châu Phi, và đó là điều tôi luôn cảm thấy khi nhìn nó. Đó là hiệu ứng mà khuôn
mặt nó gây lên trong tôi, mà tôi thấy, sau này, là một khuôn mặt với quyền lực
lớn lao.
Tôi không sung sướng gì về yêu cầu của Zabeth, nhưng cần
phải làm theo thôi. Và khi tôi chầm chậm lắc đầu sang hai bên, để cả hai biết rằng
Ferdinand cứ coi tôi là bạn, Ferdinand bắt đầu cúi người xuống trong động tác
quỳ gối. Nhưng một lúc thì nó thôi. Nó không thể hoàn thành động tác bỉêu lộ sự
thành kính; nó giả vờ có cái gì đó đâm vào chân nó, và nó cào xước cái đầu gối
mà nó quỳ lên. Ngược với chiếc quần sọoc trắng, nước da của nó thật đen và khỏe
khoắn, với một vẻ hồng hào nhẹ nhàng.
Quỳ xuống trên một đầu gối là một hành động tôn kính
truyền thống. Đó là cách mà những đứa trẻ của vùng cây bụi biểu lộ sự kính trọng
đối với một người lớn tuổi hơn. Nó giống như một phản xạ, được thực hiện mà
không hề có lẽ nghi đặc biệt nào. Bên ngoài thị trấn bạn có thể những đứa trẻ đột
ngột bỏ việc đang làm, như thể khiếp sợ khi gặp một con rắn, quỳ gối trước mặt
những người lớn lần đầu tiên chúng gặp, hơi cúi gằm đầu xuống, và rồi như thể
chưa có gì xảy ra, chúng lại quay trở lại việc đang làm. Đó là một tập quán trải
dài từ những vương quốc trong rừng ra đến phía Đông. Nhưng nó là một tập quán của
vùng cây bụi. Nó không thể được đem vào thị trấn, và với một người như
Ferdinand, đặc biệt sau khoảng thời gian nó ở thành phố mỏ miền Nam, cái cử chỉ
trẻ con biểu lộ lòng tôn kính đó có vẻ như là quá lạc hậu và quỵ luỵ.
Tôi đã bị khuấy động vì khuôn mặt của nó. Giờ thì tôi
nghĩ sẽ còn có nhiều biến động ở đây nữa.
Trường trung học không xa cửa hiệu là bao, đi bộ rất
đơn giản nếu mặt tr`i không thiêu đốt quá hoặc trời không mưa – mưa sẽ làm đường
phố ngập lụt suốt. Ferdinand mỗi tuần đến cửa hiệu một lần để gặp tôi. Nó đến
vào khoảng ba giờ rưỡi chiều thứ sáu, hoặc vào sáng thứ bảy. Nó luôn mặc màu trắng
để chứng tỏ mình là học sinh trung học, và đôi khi, dù trời nóng, nó vẫn mặc áo
đồng phục với dòng chữ Semper Aliquid Novi in trên túi áo ngực.
Chúng tôi chào nhau, và theo cách châu Phi chúng tôi có
thể làm điều đó rất lâu. Thật khó để tiếp tục sau khi chúng tôi đã kết thúc màn
chào hỏi đó. Nó không nói tin tức gì cả, nó để tôi phải hỏi. Và khi tôi hỏi – để
mà hỏi – một số câu như "Hôm nay cháu làm gì ở trường?" hoặc
"Cha Hoiishama có dạy lớp cháu không?" nó sẽ trả lời ngắn và chính
xác khiến tôi phải nghĩ xem nên hỏi gì tiếp.
Trò chuyện với nó thật rắc rối khiến tôi không hề thích
thú như trò chuyện với một người châu Phi khác. Tôi cảm thấy với nó tôi phải cố
gắng một cách đặc biệt, và không biết mình có thể làm gì. Nó la một thằng bé đến
từ những bụi cây, khi những ngày nghỉ đến nó quay về ngôi làng của mẹ nó. Nhưng
ở trưỡng trung học nó học được những thứ mà tôi hoàn toàn mù tịt. Tôi không thể
nói chuyện với nó về bài tập ở trường, lợi thế thuộc về nó. Và lại còn khuôn mặt
của nó nữa chứ. Tôi nghĩ có rất nhiều thứ diễn ra đàng sau khuôn mặt đó mà tôi
cũng mù tịt. Tôi cảm thấy ở đó có một sự vững chắc và tự sở hữu, và với tư cách
một người bảo trợ và người dạy dỗ tôi bị nó nhìn qua đó.
Có thể, nếu không có gì bắt buộc, những cuộc gặp của
chúng tôi sẽ phải chấm dứt. Nhưng tại cửa hiệu lại có một sự hấp dẫn, đó là
Metty. Metty chơi tốt với tất cả mọi người. Nó không vấp phải vấn đề tôi có với
Ferdinand, và chính vì Metty mà Ferdinand đến cửa hiệu, rồi sau đó là căn hộ.
Sau cuộc trò chuyện khó nhọ bằng tiếng Anh và tiếng Pháp với tôi, Ferdinand có
thể, cùng với Metty, đi thăm dò các nơi xung quanh. Khi đó nó sẽ có một tính
cách khác, nói liến láu với cái giọng cao vống, tiếng cười lúc nào cũng vang
lên như là một phần những gì nó nói. Và Metty có thể đi cùng nó, Metty đã hấp
thụ nhiều những trọng âm của tiếng nói địa phương, và những cung cách để nói thứ
tiếng đó.
Theo quan điểm của Ferdinand thì Metty là người dẫn đường
trong thị trấn tốt hơn tôi. Và với hai thằng bé dính chặt vào nhau đó những thú
vui của thị trấn là những cái mà bạn có thể đoán ra – bia, quán bar, đàn bà.
Bia là một phần thực phẩm ở đây, trẻ con uống bia, người
ta bắt đầu uống từ khi còn sáng sớm. Chúng tôi không có nhà máy bia nào trong
vùng, và rất nhiều kiện hàng được tàu thuỷ mang tới là thứ bia nhẹ hều mà người
ở đây rất khoái. Tại rất nhiều điểm dọc theo dòng sông, những chiếc xuồng độc mộc
của làng lấy những can bia từ con tàu đang chạy, và con tàu, trên đường trở về
thủ đô, sẽ nhận về những can không.
Còn với đàn bà thì thật đơn giản. Không lâu sau khi tôi
đến, Mahesh bạn tôi nx với tôi rằng đàn bà ngủ với đàn ông bất cứ khi nào được
yêu cầu, một người dàn ông có thể gõ cửa phòng bất cứ người đàn bà nào và ngủ với
cô ta. Mahesh không nói với tôi điều đó với sự phấn khích hay đồng tình nào –
anh đã dính quá chặt vào Shoba xinh đẹp của mình. Với Mahesh, sự dễ dãi về tình
dục là một phần của sự hỗn loạn và đi xuống của nơi này.
Đó chính là điều – sau lần thoả mãn đầu tiên – tôi tự cảm
thấy. Nhưng tôi không thể nói chống những lạc thú mà tôi cũng hưởng. Tôi không
thể ngăn Metty và Ferdinand tới những chỗ mà tôi cũng tới. Trên thực tế, sự hạn
chế nằm ở mặt khác. Mặc dù đã có những thay đổi đối với Metty, tôi vẫn coi nó
là một thành viên của gia đình lớn, và tôi phải cẩn thận không làm gì khiến nó
tổn thương hoặc làm những người khác trong gia đình tổn thương nếu biết. đặc biệt,
tôi làm sao để mình không bi .phát hiện khi ở cùng với một người đàn bà châu
Phi. Và tôi tự hào rằng dù khó khăn, tôi chưa bao giờ bị phản đối hết cả.
Ferdinand và Metty có thể uống rượu ở những quán bar và
công khai ôm ấp dàn bà hoặc đến nhà những người đàn bà mà chúng biết. Còn tôi
thì – với tư cách chủ của một đứa và người giám hộ của đứa kia – phải giấu giếm.
Ferdinand có thể học gì ở tôi cơ chứ? Tôi đã nghe khi
còn ở bờ biển – và những người nước ngoài tôi thường gặp cũng nói vậy – rằng
người châu Phi không biết phải "sống" như thế nào. Điều này có nghĩa
là người châu Phi không biết tiêu tiền sao cho hợp lý hoặc làm sao để giữ được
một ngôi nhà. Tốt thôi! Những hoàn cảnh của tôi là không thông thường, nhưng
Ferdinand có thể thấy gì khi nó nhìn thấy nhà của tôi?
Cửa hiệu của tôi là cả một sự hỗn loạn. Tôi có hàng cuộn
vải và giấy dầu trên giá, nhưng phần lớn kho hàng được bầy la liệt trên nền nhà
bê tông. Tôi ngồi sau cái bàn ở giữa kho bằng bê tông của mình, đối diện với cửa
ra vào, với một cái cột bê tông gần bàn cho tôi cảm giác đang được bỏ neo trong
bỉên cả của sự hỗn độn này – những cái chậu tráng men to dùng, viền màu trắng
và xanh, hoặc viền xanh với nền hoa, hàng đống đĩa men với những vuông vải thô,
mảnh giấy màu đậm giữa những cái đĩa, những chiếc cốc men và bình sắt cùng những
lò than, khung giường sắt và xô kẽm hoặc nhựa, những chiếc lốp xe đạp cùng đèn
pin, cùng những cây đèn dầu bằng thuỷ tinh màu xanh lá cây, hồng hoặc mã não.
Đó là cái đống hổ lốn mà tôi đang quản lý. Tôi quản lý
chúng một cách kính cẩn bởi vì chúng là nguồn sống của tôi, là những phương tiện
của tôi để nâng lên được mức hai hoặc bốn. Nhưng nó là một đống hổ lốn đã quá lỗi
thời, được sản xuất riêng cho những cửa hiệu như của tôi, và tôi ngờ rằng những
người công nhân làm ra chúng, ở châu Âu, Mỹ, và ngày nay có thể ở Nhật nữa – chẳng
hề có ý niệm nào về việc sản phẩm của mình được dùng để làm gì. Những cái chậu
nhỏ hơn, chẳng hạn, được đặt hàng là bởi vì chúng rất thích hợp để nuôi giòi,
được bỏ vào cùng đất ẩm. Những cái chậu to hơn – một món hàng lớn: một ngôi
làng mua không quá hai hoặc ba cái trong suốt một thế hệ - được dùng để ngâm sắn
khử độc tố.
Đó chính là công việc buôn bán của tôi. Cũng tương tự
như thế về tính chất thô kệch là căn hộ của tôi. Bà già người Bỉ không chồng sống
ở đây trước tôi là một người khá nghệ sĩ. Tôi thêm vào bầu không khí
"phòng tranh" của bà một sự bừa bãi nhẹ nhàng – dường như nó nằm
ngoài sự kiểm sóat của tôi. Metty cai quản cái bếp và biến nó thành một nơi thật
kinh khủng. Tôi không tin nó từng bao giờ lau bếp dầu. Metty chẳng hề xấu hổ,
cái bếp đã bắt đầu toả khói trở lại và bốc mùi với đủ loại nhiên liệu trên đó. Toàn
bộ cái bếp bốc mùi, dù nó chỉ được dùng chủ yếu để đun cà phê sáng. Tôi hiếm
khi chịu đựng nổi khi bước chân vào bếp. Nhưng Metty chẳng để ý gì hết cả, dù
phòng ngủ của nó ở ngay đối diện với bếp.
Bạn đi thẳng vào lối đi đó từ tầng đệm của cầu thang lộ
thiên dính vào mặt sau của toà nhà. Ngay khi mở cánh cửa tầng đệm bạn sẽ bắt gặp
cái mùi nồng nặc, nặng nề của rác, dầu ăn và dầu hoả, những thứ quần áo dơ bẩn
cùng với mùi sơn và gỗ cũ. Và cả nhà bốc mùi như thế bởi vì bạn không thể mở được
dù chỉ một cửa sổ. Thị trấn, đang trong thời suy thoái, đầy rẫy trộm cướp, và
dường như là không thể để mở bất cứ gì. Bên phải là phòng ngủ của Metty, chỉ cần
liếc mắt bạn cũng thấy Metty đã biến nthành một căn phòng nhỏ đích thị của người
hầu, với cái giường cũi, những cái bánh xe và hàng đống túi, rồi thì hộp giây,
quần áo nó thì treo lên mắc và mấu cửa sổ. Đi tiếp xuống theo lối vào, một chút
nữa sau cái bếp, ở bên trái, là phòng khách.
Đó là một căn phòng rộng, và người đàn bà Bỉ đã sơn
toàn màu trắng, cả trần nhà, tường, cửa sổ, thậm chí cả rầm cửa sổ. Trong căn
phòng trắng với những ván sàn trần trụi đó có một cái đi văng bọc vải thô màu
xanh đậm, và, để hoàn chỉnh hiệu ứng của phòng tranh, có một cái bàn chân niễng
không sơn gì cả, rộng như một bàn bóng bàn. Trên nó là đủ thứ đồ linh tinh của
tôi – những cuốn tạp chí cũ, sách bìa giấy, thư từ, giầy, vợt đánh bóng và mỏ lết,
hộp giầy và hộp áo phông trong đó tôi đã nhét đủ thứ bà rằn. Một góc bàn được
giữ sạch, và nó luôn luôn được phủ lên một tấm vải trắng cháy sém, đó chính là
nơi Metty ủi quần áo, đôi khi với bàn là điện (luôn nằm trên bàn), đôi khi (khi
bàn ủi điện bị hỏng) bằng bàn ủi than rất cứng, một thứ hàng mà cửa hiệu có
bán.
Trên bức tường trắng ở cuối phòng là một bức tranh sơn
dầu lớn vẽ một bến cảng châu Âu, được vễ bằng màu đỏ, vàng và xanh da trời. Nó
được vẽ theo phóng cách hiện đại cẩu thả, người đàn bà đã vẽ nó và ký tên trên
đó. Bà đặt nó một cách kiêu hãnh trong căn phòng chính của mình. Nhưng bà ta
cũng nghĩ nó không đủ giá trị để mà liều lĩnh mang theo thời biến động. Trên
sàn nhà, dựa vào những bức tường, là những bức vẽ khác mà tôi thừa hưởng từ người
đàn bà. Cứ như thể bà ta dã mất lòng tin vào những thứ đồ lặt vặt của mình, và
khi cơn khủng hoảng thời độc lập xảy đến, bà bèn vui sướng bỏ ra đi.
Phòng ngủ nằm cuối lối vào. Với tôi đây là nơi của một
sự tan hoang đặc biệt, với những giá đựng cốc chén to tướng và cái giường nhồi
cỏ to khủng khiếp. Điều gì từng diễn ra trên cái giường chắc hẳn thuộc về người
đàn bà! Những ước đoán đó, như là một bảo đảm cho sự tự do của tôi, những sự
buông thả đó, cái cảm giác ngượng ngùng đó, biết bao nhiêu người đàn bà châu
Phi đã bị tống khỏi đó vào những giờ thật khó khăn – trước khi Metty về đến
nơi, hoặc trước khi Metty thức dậy! Nhiều lần trên cái giường đó tôi đợi đến
sáng để quét sạch ký ức mình, và thường thì, nhớ đến người con gái của
Nazruddin và lòng thin của ông vào sự tin tưởng của chính tôi, tôi tự hứa sẽ trở
nên tốt đẹp. Khi ấy tôi thấy cần thay đổi và cái giường trong căn phòng chợt có
những liên quan khác với tôi. Nhưng cũng chỉ đến thế mà thôi.
Quý bà người Bỉ đã cố tình đưa một mẩu châu Âu và quê
nhà vào nghệ thuật, một lối sống khác, vào cái vùng đất của mưa, nóng và cây cối
lá rộng này – luôn hiện hữu, nền trời tranh tối tranh sáng, qua những khe cửa sổ
sơn màu trắng. Bà ta hẳn có ý thức rất cao về bản thân mình, nhưng xem ra điều
bà ta cố làm chẳng mấy giá trị gì. Và tôi cảm thấy khi Ferdinand nhìn vào cửa
hiệu và căn hộ của tôi, nó cũng sẽ có cùng kết luận đó về tôi. Sẽ là khó khăn
cho nó để tìm thấy bất cứ sự khác biệt nào giữa cuộc sống của tôi và cuộc sống
nó từng quen biết. Điều này lại thêm vào những u uất ban đêm của tôi. Tôi tự hỏi
về bản chất của những hơi thở của mình, những gì chèo chống thực sự cho sự tồn
tại của tôi, và tôi bắt đầu cảm thấy rằng mọi cuộc đời mà tôi có thể có ở bất kỳ
đâu – dù giàu có, thành công và hào nhoáng đến chừng nào – thì cũng chỉ là một
phiên bản của cuộc đời tôi hiện đang sống mà thôi.
Những suy nghĩ đó có thể đưa tôi đến những chỗ tôi
không hề muốn. Nó là một phần hiệu ứng của sự cô độc của tôi, tôi biết điều đó.
Tôi biết có điều gì đó ngăn cách tôi với Ferdinand và cuộc sống vùng cây bụi.
Và điều đó là vì tôi không có phương tiện nào trong cuộc độ nhật định hình ra sự
khác biệt đó, hoặc để bày ra bản chất thực sự của tôi, rằng tôi cảm thấy ngu ngốc
khi bày ra những thứ của mình.
Tôi chỉ cho Ferdinand những thứ của tôi. Tôi nát óc
nghĩ sẽ phải cho nó xem gì tiếp theo. Nó rất lạnh nhạt, như thể nó đã nhìn thấy
tất cả những cái đó từ trước rồi. Đó chỉ là cung cách của nó thôi, cái giọng
nói đều đều nó dùng để nói với tôi. Nhưng điều này làm tôi điên tiết.
Tôi muốn nói với nó "Hãy nhìn những tạp chí này
đi. Không có ai trả tiền để tao đọc chúng đâu. Tao đọc nó bởi vì tao là kiểu người
như thế đó, bởi vì tao quan tâm đến các sự việc, bởi vì tao muốn biết về thế giới.
Hãy nhìn vào những bức tranh này đi. Người đàn bà đó đã đưa vào chúng biết bao
nhiêu là rối loạn. Bà ta muốn làm ra cái gì đó thật đẹp để treo trong nhà mình.
Bà ta không treo nó lên vì nó thuộc cái gì đó ma quái đâu".
Cuối cùng thì tôi cũng nói những điều đó với nó, nhưng
không hoàn toàn với lời lẽ như thế. Ferdinand không trả lời. Và những bức tranh
chỉ là những thứ lộn xộn – người đàn bà không biết phải bôi kín những bức toan
như thế nào và hy vọng thoát ra được với những mảng màu thật dữ dội. Và những
quyển sách và tạp chí cũng chỉ là mấy thứ lộn xộn – đặc biệt những sách báo
khiêu dâm, những cái chỉ làm tôi trầm uất và bối rối, nhưng tôi không vứt đi vì
cũng có những lúc tôi cần đến chúng.
Ferdinand không hiểu được sự kích động của tôi.
Một hôm nó nói "Chú không cần phải đưa cháu xem
cái gì đâu, Salim ạ."
Bắt chước Metty nó không gọi tôi là ngài nữa, Metty gọi
tôi là patron, và khi có mặt người thứ ba, nó cố tình nói sao cho từ đó vang
lên mang màu sắc thật mỉa mai. Metty có mặt ở đây ngày hôm đó, nhưng khi
Ferdinand nói với tôi là tôi không cần phải cho nó xem thêm gì nữa, nó không
nói mỉa. Nó không bao giờ mỉa mai.
Một buổi chiều, tôi đang đọc báo thì Ferdinand tới cửa
hiệu. Tôi chào nó và tiếp tục đọc. Đó là một tạp chí về khoa học thường thức,
kiểu báo mà tôi đã đâm ra nghiện. Tôi thích thu nhận những mẩu kiến thức theo lối
như thế, và khi đọc tôi thường nghĩ rằng môn khoa học hoặc lĩnh vực tôi đang đọc
là cái tôi nên dành toàn bộ ngày và đêm để trau dồi kiến thức, khám phá, tự
mình tạo ra cái gì đó, sử dụng toàn bộ khả năng của mình. Đó là một cảm giác thật
hay, theo quan điểm của tôi, nó cũng hay ngang với chính bản thân cuộc đời của
người có tri thức.
Chiều hôm đó Metty đến hải quan để nhận một số hàng hoá
tới trên chuyến tàu thuỷ hai hôm trước – đó là tốc độ di chuỷên của những thứ ở
đây. Ferdinand nhìn ngó cửa hiệu một lúc. Tôi thấy gợn lại chuyện nó bảo đừng
có cho nó xem cái gì nữa cả, và tôi không muốn là người bắt đầu câu chuyện. Cuối
cùng nó đi tới bàn và nói "Chú đang đọc gì đó, Salim?"
Tôi không thể chịu được nữa, người thầy giáo và người
giám hộ trong tôi biến mất. Tôi nói "Cháu xem này, họ đang chế tạo một kiểu
điện thoại mới. Nó chạy bằng năng lượng ánh sáng chứ không phải điện như trước
nữa".
Tôi không bao giờ thực sự tin vào những thứ mới mẻ kỳ
diệu mà tôi đọc được. Tôi không bao giờ nghĩ tôi lại có thể nhìn thấy chúng
trong đời. Nhưng đó chính là khía cạnh hấp dẫn để mà đọc chúng, bạn có thể đọc
hết bài báo này đến bài báo khác về những thứ bạn chưa từng bao giờ được sử dụng
cả.
Ferdinand nói "Họ là ai?"
"Cháu muốn nói gì?"
"Những người đang làm điện thoại mới là ai?"
tôi nghĩ, đã đến thế rồi, chỉ sau vài tháng ở trường
trung học. Nó chỉ mới ra khỏi vùng cây bụi, tôi biết mẹ nó, tôi coi nó như một
người bạn, và chúng tôi đã đạt đến sự vô nghĩa mang tính chính trị này rồi. Tôi
không trả lời thoe cách nó trông chờ. Tôi không nói "Người da trắng".
Dù nửa người tôi đã nghĩ thế rồi, để đặt nó trở lại vị trí của nó.
Tôi lại nói "Các nhà khoa học".
Nó không nói gì nữa. Tôi không nói gì nữa, và cố tình
quay trở lại việc đọc. Đó là kết cục của đoạn nói chuyện ngắn ngủi giữa chúng
tôi. Đó cũng là kết cục của những cố gắng làm thầy của tôi, để tự thể hiện mình
và những thứ của tôi cho Ferdinand.
Bởi tôi nghĩ nhiều về việc tôi không chịu nói từ
"Người da trắng" khi Ferdinand hỏi tôi định nghĩa "họ" – những
người đang làm loại điện thoại mới. Và tôi thấy rằng trong mong muốn không làm
nó thoả mãn, thực tế tôi đã nói điều tôi muốn nói. Tôi không đả động đến người
da trắng. Tôi không muốn nói thế, tôi chỉ không thể nói thế được, những người
giống thế tôi biết trong thị trấn của chúng tôi, những người đã ở lại đây sau
khi độc lập. Tôi thật sự muốn nói các nhà khoa học, tôi muốn nói những người ở
xa chúng tôi theo mọi nghĩa.
Họ! Khi chúng tôi muốn nói về chính trị, khi chúng tôi
muốn lạm dụng hoặc đề cao về mặt chính trị, chúng tôi nói "người Mỹ",
"người châu Âu", "người da trắng". Khi chúng tôi muốn nói về
những người sản xuất hay chế tạo, tất cả chúng tôi – dù giòng giống nào đi nữa
– đều nói "họ". Chúng tôi chia cách những người đó từ các nhóm của đất
nước nọ và theo cách đó gắn họ vào với chúng tôi. "Họ làm ra xe hơi chạy
trên mặt nước."Họ làm ra vô tuyến nhỏ như bao diêm." Từ "họ"
mà chúng tôi nói theo nghĩa đó là rất xa xôi, xa đến nỗi hiếm khi là người da
trắng. Họ không thiên vị, họ ở mãi trên mây cao, giống như những vị chúa nhân từ.
Chúng tôi chờ đợi sự ban phước của họ, và trương ra những phước lành đó – như
chính tôi mang cặp kính rẻ tiền và cái máy ảnh cũ rích mua của Nazruddin cho
Ferdinand xem – cứ như thể chúng tôi chịu trách nhiệm về họ vậy.
Tôi cho Ferdinand xem những thứ của tôi như thể tôi để
nó đi vào những bí mật sâu xa hơn thuộc số kiếp của tôi, bản chất thực sự cuộc
đời tôi nằm dưới sự tầm thường vô vị của những ngày những đêm của tôi. Trên thực
tế, tôi và tất cả những người khác giống như tôi trong thị trấn, người châu Á,
người Bỉ, người Hy Lạp – tất cả đều ở xa "họ" lắm.
Đó là nỗ lực cuối cùng của tôi để trở thành thầy giáo
cho Ferdinand. Giờ đây tôi quyết định đơn giản là cứ để nó thoải mái, như trước
kia. Tôi cảm thấy để nó tiếp tục đến cửa hiệu và căn hộ là đã giữ được lời hứa
với mẹ nó rồi.
Trường học tạm nghỉ với lý do mùa mưa đã tới ,và Zabeth
đến thị trấn để mua hàng và mang Ferdinand về cùng. Cô dường như hài lòng với sự
tiến bộ của nó. Và không hề tỏ vẻ gì muốn tráo đổi ngôi trường trung học và những
quán bar của thị trấn với ngôi làng của Zabeth. Thế là nó về nhà trong kỳ nghỉ.
Tôi nghĩ về chuyến đi xuôi dòng sông bằng tàu thuỷ và thuyền độc mộc. Tôi nghĩ
về mưa trên dòng sông, về đoàn phụ nữ của Zabeth đi xuyên qua những chặng đường
sông về đến ngôi làng bị che giấu, về những đêm đen và những ngày trống rỗng.
Giờ đây bầu trời hiếm khi sáng sủa. Nó đã chuyển từ màu
ghi hay xám sang màu bạc gắt. Thời gian này thì chớp loé lên và sấm nổ, thường
thì ì ùng ngoài rừng, nhưng cũng có lúc ngay trên đầu. Từ cửa hiệu tôi có thể
nhìn thấy mưa bắt đầu xối xả xuống những cây phượng ở chợ. Mưa kiểu này rất tai
hại với công việc buôn bán của các chủ cửa hiệu, nó thổi bay mọi thứ quanh những
sạp hàng bằng gỗ và đẩy mọi người đến trú mưa dưới mái hiên bạt của các cửa hiệu
quanh quảng trường. Tất cả đều biến thành người nhìn mưa, họ uống rất nhiều
bia. Những con phố không được trải nhựa đỏ ứa lên vì bùn, đỏ là màu loại đất ưa
thích của cây bụi.
Nhưng đôi khi một ngày mưa kết thúc bằng một hoàng hôn
mây vần vũ đầy huy hoàng. Tôi thích nhìn cảnh chiều tà đó từ một chỗ gần ghềnh
nước. Một thời nơi đó từng là công viên nhỏ với nhiều trò tiêu khiển, nhưng những
gì còn lại của công viên chỉ là một đoạn tường bê tông quay lưng ra sông và một
khoảng đất trống trơn trở nên lầy lội trong cơn mưa. Những tấm lưới ngư phủ
treo trên những gốc cây đổ khổng lồ giữa những tảng đá ở của dòng sông (chính
các tảng đá đó trên sông đã tạo ra cái ghềnh). Tại một điểm nút của khu đất trống
có những túp lều rơm, nơi đó đã trở thành một làng chài. Mặt trời lên chiếu ánh
sáng qua những khay mây màu ghi, nước chuyển từ màu nâu sang vàng, rồi đỏ và
tím. Và luôn luôn có tiếng động không thay đổi của ghềnh nước với vô số những nếp
gấp nhỏ của nước vượt qua đá. Đêm tối buông xuống, và đôi khi mưa cũng tới, và
tiếng nước tuôn lại thêm vào âm thanh của ghềnh.
Từ trên khúc quanh của dòng sông luôn lao xuống những
khóm lan dạ hương nước, những hòn đảo nổi màu nâu trên dòng sông thẫm màu, bập
bềnh trên ghềnh. Như thể mưa và dòng sông đã thổi bay cây bụi từ giữa lục địa
và ném nó nổi lềnh bềnh trên nước để trôi ra đại dương, cách đó hàng bao dặm.
Nhưng lan dạ hương là thành quả của riêng dòng sông. Loại hoa thân cao màu tử
đinh hương chỉ mới xuất hiện cách đây vài năm, và trong ngôn ngữ địa phương
chưa có từ để chỉ nó. Người ở đây vẫn gọi nó là "vật mới" hoặc
"vật mới trên sông", và với họ nó là một kẻ thù. Thân cây và những
chiếc lá dai ngoách tạo nên những đám thực vật dầy dính chặt vào hai bên bờ
sông và bít dòng nước lại. Nó lớn nhanh, nhanh hơn tốc độ tiêu diệt của con người
với các loại dụng cụ có trong tay. Những con kênh nối vào các ngôi làng cần phải
phong quang. Đêm ngày loại cây lan dạ hương nước này trôi nổi đến từ phía Nam,
tự gieo mầm trên dặm đường chu du của mình.
Tôi đã quyết định để mặc Ferdinand làm gì thì làm.
Nhưng tôi chợt nhận ra nó có một thái độ khác đối với tôi. Nó không còn xa cách
với tôi, và khi nó đến cửa hiệu nó không chăm chăm bỏ tôi lại để đi tìm Metty nữa.
Tôi nghĩ hẳn là mẹ nó đã nói với nó về chuyện này. Tôi cũng nghĩ rằng dù vui vẻ
khi về ngôi làng của mẹ nó trong kỳ nghỉ, có thể nó bị sốc vì thời gian ở đó –
tôi tự hỏi nó trải qua những ngày đó như thế nào – và không còn nhìn thị trấn
và cuộc sống ở thị trấn, như trước nữa.
Sự thật rất đơn giản. Ferdinand đã bắt đầu lớn lên và
nó đã tự coi mình là một cái gì đó giữa biển cả. Nó có dòng máu pha trộn nhiều
bộ lạc, và với nơi này nó là một người xa lạ. Nó không hoàn toàn thuộc về nhóm
người nào, và nó không hề tìm được mẫu người nào giống nó cả. Nó không biết phải
nghĩ về mình thế nào. Nó muốn tìm cho ra, và nó muốn tôi làm việc đó cùng nó.
Tôi có thể thấy giờ đây nó thử vào nhiều vai, hướng đến
nhiều cách hành xử khác nhau. Danh mục đó của nó có hạn chế. Vài ngày sau khi
Zabeth tới thị trấn để mua hàng, nó có thể là con trai của mẹ nó, một
marchande. Nó có thể vờ trở thành người liên danh để buôn bán với tôi, ngang
hàng với tôi, tuyên bố nhiều điều về doanh thu và giá cả. rồi nó có thể biến
thành một thanh niên châu Phi đang trưởng thành, học sinh trường trung học, hiện
đại, tiên phong. Trong vai trò đó nó muốn mặc bộ đồng phục có in dòng chữ
Semper Aliquid Novi, không nghi ngờ gì nữa, nó cảm thấy có thể học được một số
cung cách từ các thầy giáo người Âu của mình. Bắt chước một thầy giáo, nó có thể,
trong căn hộ, đứng bắt chéo chân dựa vào bức tường trắng của phòng tranh và, đứng
bất động ở vị trí đó trong suốt cuộc trò chuyện. Hoặc, bắt chước một thầy giáo
khác, nó có thể vừa nói vừa đi vòng quanh chiếc bàn bằng gỗ thô, kéo một vài vật
ra, nhìn chúng, rồi lại vứt xuống.
Giờ thì nó lại cố nói chuyện với tôi. Không phải theo
cách nó nói với Metty, với tôi nó thử nghiệm một kiểu trò chuyện nghiêm túc rất
đặc biệt. Trước nó luôn chờ tôi đặt câu hỏi trước, bây giờ thì nó tự mình trình
bày các ý tưởng, các luận đỉêm tranh luận nhỏ bé, vì nó muốn tiếp tục cuộc
tranh luận. Trong cuộc chơi này nó vào vai học sinh trung học mới và coi tôi
như một thầy giáo dạy ngôn ngữ. Tôi rất thích trò này. Tôi bắt đầu nghĩ đến những
gì nên nói khi ở trường trung học – và tôi muốn biết về điều đó.
Một hôm nó nói với tôi "Salim, chú nghĩ gì về
tương lai của châu Phi?"
Tôi không nói gì, tôi muốn biết nó nghĩ gì. Tôi tự hỏi
liệu rằng nó, dù có sự pha tạp về dòng máu và đã ở nhiều nơi, thực sự có trong
đầu một ý tưởng về châu Phi không, hoặc liệu ý tưởng về châu Phi đã đến với nó,
cũng như bạn cũ của nó ở trường, từ những cuốn altas. Chẳng phải Ferdinand vẫn
là – cũng giống Metty, trong chuyến đi từ bờ biển – kiểu người mà khi ở giữa
các bộ lạc xa lạ, thà chết đói còn hơn ăn thức ăn lạ? Liệu Ferdinand có ý tưởng
về châu Phi lớn hơn nhiều so với châu Phi của Zabeth, người đi lại rất an toàn
từ ngôi làng của cô tới thị trấn chỉ vì cô biết mình được bảo vệ một cách đặc
biệt?
Ferdinand chỉ có thể nói với tôi rằng thế giới bên
ngoài châu Phi đang lụi tàn, còn châu Phi thì đang đi lên. Khi tôi hỏi nó thế
giới bên ngoài lụi tàn thế nào, nó không nói được. Và khi thúc nó vượt qua những
gì nó biết được ở trường trung học, tôi thấy những ý tưởng của cuộc tranh luận ở
trường học có trong óc nó đã trở nên xáo trộn và bị đơn giản hoá. Những ý tưởng
về quá khứ bị lẫn lộn với hiện tại. Trong bộ đồng phục học sinh của mình,
Ferdinand tự thấy nó có tầm quan trọng, như trong những ngày còn thuộc địa.
Cùng lúc nó tự thấy mình là con người mới của châu Phi, và trở nên quan trọng bởi
lý do này. Ngoài cái lý tưởng về tầm quan trọng của bản thân, nó đã đồng nhất
châu Phi vào con người nó, và tương lai của châu Phi không gì khác hơn là nghề
nghiệp mà nó sẽ làm sau này.
Những cuộc tranh luận mà Ferdinand, trong vai trò của
nó, cố thực hiện với tôi bao giờ cũng kéo dài, bởi vì không phải lúc nào nó
cũng biết cách rút ngắn. Nó tranh luận về một vấn đề nào đó, rồi sau lại vứt đi
không chút ngần ngại, như thể đó là một bài tập ngôn ngữ mà nó có thể làm tốt
hơn vào lần sau. Rồi, mọi chuyện lại quay lại như xưa, nó bỏ tôi lại để đi tìm
Metty.
Dù đã biết thêm vè những gì diễn ra ở trường trung học
(rất nhanh chóng lại trở về thói thời thượng kiểu thực dân), và những gì diễn
ra trong tâm hồn Ferdinand, tôi vẫn không cảm thấy gần gũi với nó hơn. Khi coi
nó là một sự huyền bí, xa lạ và nhạo báng đàng sau khuôn mặt đeo mặt nạ, tôi
nghĩ nó là một người vững vàng. Giờ đây tôi cảm thấy rằng những trìu mến của nó
lớn hơn những trìu mến thông thường, rằng tính cách nó đã trở nên trơn tuột.
Tôi bắt đầu cảm thấy sự vô nghĩa ở đó, và ý nghĩ về một trường trung học đầy những
Ferdinand làm tôi chán ngán.
Rồi còn ý tưởng về tầm quan trọng của nó nữa. Điều này
làm tôi lo lắng – làm gì có an toàn cho bất kỳ ai tại đất nước này – điều cũng
làm Metty lo lắng. Khi bạn ở xa những thủ lĩnh và các chính trị gia thì chỉ còn
duy nhất thật sự dân chủ kiểu châu Phi: mọi người đều là dân làng. Metty là một
trợ lý bán hàng ở cửa hiệu và là một dạng gia nhân, Ferdinand là học sinh trung
học có tương lai; thế mà tình bạn giữa hai đứa lại giống như tình bạn giữa hai
người ngang bằng. Tình bạn đó tiếp tục tồn tại. Nhưng Metty, là gia nhân ở nhà
tôi, đã tìm thấy hình mẫu để vươn lên làm ông chủ, và nó hẳn tự cảm thấy – với
ý nghĩ mới mẻ về giá trị của mình – lại bị bỏ rơi phía sau.
Một hôm đang ở căn hộ thì tôi nghe thấy tiếng bước chân
chúng đi vào. Metty đang giải thích về mối quan hệ của nó với tôi và cửa hiệu,
giải thích về chuyến đi từ bờ biển.
Metty nói "Gia đình tớ đã quen với gia đình của
chú ấy. Họ thường gọi tớ là Billy. Tớ sẽ học kế toán. Tớ sẽ không ở lại đây, cậu
biết đấy. Tớ sẽ đi Canada. Tớ sẽ có giấy tờ và mọi thứ. Tớ chỉ còn chờ khám bệnh
thôi".
Billy! Tốt thôi, cái tên này gần với Ali. Canada – đó
là nơi những người anh rể của tôi đã tới, trong một bức thư tôi nhận được không
lâu sau khi Metty tới tôi đã nghe nói về mối lo ngại của gia đình về chuyến
"khám bệnh" của người anh rể này. Rõ ràng Metty đã biết được về
Canada theo cách đó.
Tôi gây tiếng động để chúng biết tôi đang ở nhà, và
khi chúng vào phòng khách tôi làm ra vẻ không nghe thấy gì cả.
Ít lâu sau, vào một buổi chiều mưa dầm dề, Ferdinand tới
cửa hiệu và đột ngột, vẫn còn ướt như chuột lột, nó nói "Salim, chú phải gửi
cháu sang Mỹ học".
Nó nói như thể nó là một người đã tuyệt vọng. Ý tưởng
đó bùng cháy trong nó, và rõ ràng nó cảm thấy nếu nó không thoát đi, nó sẽ
không bao giờ làm được nữa cả. Nó đến trong cơn mưa nặng hạt, đi qua những đường
ngập nước, quần áo nó ướt sũng. Tôi kinh ngạc vài sự đường đột và tuyệt vọng của
Ferdinand, và ở lời yêu cầu lớn lao của nó. Với tôi, ra nước ngoài để học tập
là điều gì đó thật hiếm hoi và đắt đỏ, cái gì đó ngoài khả năng của gia đình
tôi.
Tôi nói "Thế tại sao chú phải gửi cháu đi Mỹ? Tại
sao chú phải chi tiền cho cháu?"
Nó không nói gì cả. Sau cơn tuyệt vọng và chuyến đi giữa
trời mưa, toàn bộ sự việc hẳn là phải dẫn tới một ý định khác trong cuộc nói
chuyện.
Liệu đó chỉ đơn thuần là tính đơn giản của nó? Tôi cảm
thấy cơn tức dâng lên – trời mưa, chớp và bóng tối không thật của buổi chiều hẳn
là có tác dụng nào đó.
Tôi nói "Tại sao cháu nghĩ chú phải có trách nhiệm
với cháu? Thế cháu đã làm gì cho chú?"
Điều này đúng. Thái độ của nó, kể từ khi nó bắt đầu cảm
thấy đang hướng tới một nhân vật nào đó, cho rằng tôi đang nợ nó một cái gì đó,
chỉ đơn giản là tôi có vẻ luôn sẵn sàng giúp đỡ.
Nó câm lặng. Nó đứng trân giữa bóng tối của cửa hiệu và
nhìn vào tôi không hề tức tối, như thể nó đã dự tính trước tôi sẽ xử sự như thế
này, và phải bỏ qua. Trong một lúc mắt tôi và mắt nó giao nhau. Rồi sự nhiệt
tình của nó bị xẹp xuống, tôi biết nó sắp chuỷên chủ đề.
Nó lấy tay kéo chiếc áo trắng ướt đẫm ra khỏi da – chiếc
áo với dòng chữ của trường trung học trên túi – và nói "Áo cháu ướt mất rồi".
Khi tôi không trả lời, nó lại tiếp tục kéo ở một vài chỗ khác rồi nói
"Cháu đã đi giữa lúc trời mưa".
Tôi vẫn không trả lời. Nó bỏ mặc cái áo và ngó lơ ra
ngoài đường phố ngập nước. Đó là cái cách nó chuẩn bị sau khi đã có một sự khởi
đầu sai lầm, những ý đinh về cuộc trò chuyện của nó có thể kết thúc với những
câu ngắn như thế, những nhận xét gây tức tối về những gì nó hoặc tôi đang làm.
Thế là giờ đây nó nhìn ra ngoài trời mưa và nói những câu đứt quãng về những gì
nó nhìn thấy. Có vẻ như nó đã lùi bước.
Tôi nói "Metty ở trong kho ấy. Nó sẽ đưa cháu khăn
tắm. Và bảo nó cho cháu một tách trà".
Dù sao đó chưa phải là kết thúc của một chuyện. Với
Ferdinand giờ đây không có gì dễ dàng kết thúc hết cả.
Hai lần một tuần tôi ăn trưa với những người bạn Shoba
và Mahesh tại căn hộ của họ. Căn hộ này khá loè loẹt và về mặt nào đó rất giống
họ. Hai người là một cặp vợ chồng đẹp, rõ ràng đẹp nhất thị trấn. Họ không có đối
thủ, cho nên họ luôn tỏ ra kiêu hãnh ngầm. Trong căn hộ của họ, thêm vào những
vẻ đẹp thật sự của những tấm thảm Ba Tư và Kashmir và những đồ cổ họ lại thêm
vào những đồ vật dởm đời, hào nhoáng – đồ đồng Moradabad giả cổ, những bức
tranh sơn mài về các vị thần Hindu sản xuất hàng loạt, những ngọn đèn tường
chùm ba sáng chói. Còn có một bức tượng người đàn bà khoả thân bằng thuỷ tinh.
Nó cũng có chút nghệ thuật, đồng thời là những gì còn lưu giữ được về vẻ đẹp của
một người đàn bà, vẻ đẹp của Shoba – vẻ đẹp cá nhân là nỗi ám ảnh và chủ đề của
cặp vợ chồng này, cũng như tiền bạc đối với người giầu.
Một ngày tại bữa trưa Mahesh nói "Thằng bé ở cùng
anh sao vậy? Nó đã trở nên malin (láu cá) như tất cả những người khác rồi".
"Metty hả?"
"Hôm trước nó đến chỗ tôi. Nó làm như quen tôi từ
lâu rồi ấy. Nó muốn chứng tỏ với thằng bé châu Phi đi cùng nó. Nó bảo nó mang đến
cho tôi một khách hàng. Nó nói đứa bé châu Phi là con trai của Zabeth và là bạn
thân của anh".
"Tôi không biết thế nào là bạn thân cả. Thế nó muốn
gì?"
"Metty bỏ chạy khi tôi bắt đầu nổi cáu, bỏ lại thằng
bé. Thằng bé nói nó muốn có một cái máy ảnh, nhưng tôi không nghĩ nó muốn gì hết
cả. Nó chi muốn nói thôi."
Tôi nói "Tôi hy vọng nó cho anh nhìn thấy tiền của
nó."
"Tôi làm gì có máy ảnh nào cho nó xem. Đó là món
hàng không chạy mà, Salim. Lúc nào cũng phải trả hoa hồng, mọi nơi. Hiếm khi
hoàn được vốn lắm."
Máy ảnh là một trong số các ý tưởng xôi hỏng bỏng không
của Mahesh. Mahesh là như vậy, luôn tìm các ý tưởng nhỏ mà anh nhanh chóng từ bỏ.
Anh từng nghĩ du lịch đã bắt đầu sống lại, cùng với những công viên giải trí ở
phía Đông thị trấn chúng tôi. Nhưng du lịch thực ra chỉ tồn tại trong những bức
ảnh lớn in ở châu Âu cho chính phủ ở thủ đô. Các công viên giải trí đã quay về
với thiên nhiên, theo một cách chẳng có ý nghĩa gì cả. Những con đường và các
ngôi nhà nghỉ, luôn rất xập xệ, đã biến đi; khách du lịch (người nước ngoài có
thể quan tâm đến những thiết bị chụp ảnh rẻ tiền) đã không tới. Mahesh đã phải
gửi những chiếc máy ảnh của mình sang phía Đông bằng các trạm chuyên chở mà những
người như chúng tôi quen dùng (dù sao cũng là hợp pháp) để gửi hàng hoá đi mọi
hướng.
Mahesh nói "Thằng bé nói anh sẽ gửi nó đi Mỹ hoặc
Canada để học."
"Tôi sẽ gửi nó đi học gì cơ?"
"Học quản trị kinh doanh. Để nó điều hành công việc
kinh doanh của mẹ nó. Phát triển công việc đó."
"Phát triển công việc đó! Mua bán lưỡi dao cạo và
bán lại từng cái cho những người ở làng chài!"
"Tôi biết nó chỉ cố ngoằng anh vào với những người
bạn của anh".
Một trò ảo thuật đơn giản, nếu bạn nói gì đó về một người
với các bạn của anh ta, bạn có thể bắt người đó làm những gì anh ta sẽ làm.
Tôi nói "Ferdinand là người châu Phi đấy".
Khi gặp lại Ferdinand sau đó tôi bảo nó "Bạn chú
là Mahesh đã nói với chú là cháu sẽ đi Mỹ để học quản trị kinh doanh. Cháu đã
nói với mẹ chưa?"
Nó không hiểu sự mỉa mai ở đây. Kiểu nói chuyện này làm
nó không kịp chuẩn bị, nó chẳng biết nói gì cả.
Tôi nói "Ferdinand, cháu không được đi khắp nơi
nói với mọi người những điều không đúng như thế. Cháu muốn nói gì về quản trị
kinh doanh thế?"
Nó nói "Kế toán, đánh máy, tốc ký. Những gì chú
làm ấy"
"Chú không tốc ký. Và đó không phải là quản trị
kinh doanh. Đó chỉ là việc của một thư ký quèn. Cháu không đi Mỹ và Canada để học
những cái đó đâu. Cháu có thể làm được việc đó ngay tại đây. Chú nghĩ có những
chỗ ở thủ đô dạy các môn đó. Và rồi đến lúc cháu sẽ tìm ra việc cháu muốn làm
hơn thế."
Nó không thích điều tôi nói với nó. Mắt nó bắt đầu long
lanh vì cảm thấy bị nhục mạ và tức giận. Nhưng tôi không để sự việc kéo dài. Nó
phải tính toán với Metty, chứ không phải với tôi, nếu thực sự nó có cái để mà
tính.
Nó tìm thấy tôi khi tôi sắp đi chơi squash ở Câu lạc bộ
Hellenic. Giầy vải, áo phông, vợt, khăn tắm quanh cổ, cũng giống như hồi trước ở
khu bờ biển. Tôi rời khỏi phòng khách và đứng ở lối vào để lấy chỗ cho nó đi, để
tôi có thể khoá cửa. Nhưng nó vẫn ở lại trong phòng khách, không phải để chờ
Metty.
Tôi ra đến tầng đệm của cầu thang. Hôm đó mất điện.
Khói từ những cái lò than và những đốm lửa xanh hồng xuất hiện giữa những cái
cây rậm rạp – cây bánh mì, cây hoa đại, cây phượng – tạo ra hình ảnh ngôi làng
trong vùng với một nơi ở, mà tôi từng nghe nói, vào những ngày xa xưa khi cả
người châu Phi lẫn người châu Á đều chưa được phép sống. Tôi biết những cái cây
này từ hồi còn ở bờ biển. Tôi cho là chúng cũng được nhập khẩu đến đó; nhưng
tôi gắn chúng với bờ biển và nhà tôi, một cuộc sống khác. Vẫn những cái cây đó,
nhưng ở đây chúng có vẻ thật nhân tạo, giống như bản thân thị trấn. Chúng quen
thuộc, nhưng chúng nhắc tôi nhớ mình là ai.
Tôi không nghe gì về chuyện Ferdinand đi học nước ngoài
nữa, và nó cũng nhanh chóng trút bỏ lốt một học sinh trung học sáng chói. Nó bắt
đầu thử một thứ khác mới mẻ. Không còn cái dáng đứng dựa vào tường với hai chân
bắt chéo nhau, không còn lối đi lại quanh cái bàn gỗ thô, cầm lên và ném xuống
các vật nữa, cũng không còn cuộc tranh luận nghiêm túc nào nữa.
Giờ đây nó có khuôn mặt nghiêm nghị, cách diễn đạt úp mở
và khép kín. Nó luôn ngẩng cao đầu và đi lại chậm chạp. khi ngồi lên đi văng
trong phòng khách, nó ngồi vào sâu đến nỗi đôi khi lưng nó chạm đến tận chỗ dựa.
Nó tỏ ra chán nản, buồn bã. Nó nhìn mà như không thấy gì, nó luôn sẵn sàng
nghe, nhưng không buồn nói gì cả - đó là ấn tượng nó cố gây ra. Tôi không biết
Ferdinand đóng vai này của ai, và phải qua miệng Metty tôi mới hiểu Ferdinand
muốn hướng tới điều gì.
Trong học kỳ này tại trường trung học có một số thằng
bé đến từ các bộ lạc hiếu chiến phía Đông. Chúng rất cao lớn, và Metty sợ hãi
nói với tôi rằng những đứa này được đưa đi trên những cái kiệu do nô lệ của
chúng khiêng, họ là những người thuộc chủng tộc hèn kém hơn. Những con người
cao lớn của rừng rú này luôn ngưỡng mộ châu Âu. Khi đó tôi nhớ ra có những bài
báo về họ trên các tờ tạp chí – những người châu Phi không quan tâm gì tới trồng
trọt hoặc buôn bán mà chỉ trông vào, một đặc điểm rất giống người châu Âu, những
người châu Phi khác. Sự ngưỡng mộ châu Âu này vẫn còn tồn tại, các bài báo và bức
ảnh tiếp tục xuất hiện trên các tờ tạp chí, dù cho có những thay đổi ở châu
Phi. Trên thực tế, giờ đây có những người châu Phi cảm thấy như người châu Âu,
và coi các bộ lạc hiếu chiến là tộc người cao đẳng nhất ở châu Phi.
Tại trường trung học, dù thế nào chăng nữa vẫn còn tính
chất thực dân, những thằng bé mới đã tạo ra một sự xáo động. Ferdinand, cả bố mẹ
đều làm về thương mại, đã quyết định thử vai một chiến bịnh cô độc của rừng rậm.
Nó không thể làm trò đó ở trường trung học và ra cái vẻ đã quen được các nô lệ
chờ đợi. Nhưng nó nghĩ nó có thể đóng vai đó trước mặt tôi.
Tôi biết những điều khác về vương quốc rừng rậm. Tôi biết
rằng các tộc người nô lệ đã vùng lên và đã bị thảm sát và phải tiếp tục phục
tùng. Nhưng châu Phi rộng lớn lắm. Cây bụi tiếp tục làm biến mất đi âm thanh của
vụ giết người với những dòng sông con hồ đầy bùn rửa sạch những vết máu.
Metty nói "Chúng cháu phải đến đó, patron. Cháu
nghe nói đó là nơi tốt đẹp duy nhất còn lại ở châu Phi. Vẫn còn nhiều người da
trắng ở đó lắm. Cháu nghe nói Bujumbura chẳng khác gì Paris đâu."
Nếu tôi tin rằng Metty hiểu một phần tư những gì nó
nói, nếu tôi tin, chẳng hạn, rằng nó thực sự ngóng trông những người da trắng ở
Bujumbura, hoặc biết Canada ở đâu và như thế nào, thì hẳn tôi sẽ lo lắng vì nó
lắm. Nhưng tôi biết nó rõ hơn thế nhiều, tôi biết nó nói chuyện chỉ để mà nói.
Vẫn thế thôi, nói không ngừng! Những người da trắng đã bị đẩy bật đi khỏi thị
trấn chúng tôi và những công trình của họ bị phá huỷ. Nhưng vẫn còn nhiều người
da trắng ở đó, tại một thị trấn khác, và các chiến binh cũng như nô lệ. Và đó
là hào quang của những thằng bé dòng dõi chiến binh, hào quang đối với Metty và
hào quang đối với Ferdinand.
Tôi bắt đầu hiểu thế giới đơn giản và chẳng có gì phức
tạp hết cả. Với những người như tôi và Mahesh, và những người Hy Lạp và Italia
vô giáo dục ở thị trấn chúng tôi, thế giới là một nơi khá là đơn giản. chúng
tôi có thể hiểu nó, và nếu không có quá nhiều trở ngại chúng tôi còn có thể làm
chủ nó. Không có gì quan trọng khi chúng tôi ở xa nền văn minh của chúng tôi,
xa khỏi những người chế tạo và sản xuất. Không quan trọng gì việc chúng tôi
không thể làm được những gì chúng tôi muốn sử dụng, bởi vì mọi người thậm chí
không hề có kỹ năng kỹ thuật của những người tiền sử. Trên thực tế, càng ít học
thì chúng tôi lại càng được đến trong thanh bình, chúng tôi càng dễ tiếp nối nền
văn minh của chúng tôi hoặc các nền văn minh khác.
Với Ferdinand thì không có khả năng đó. Nó không bao giờ
có thể đơn giản. Nó càng cố càng trở nên lẫn lộn. Trí óc nó rỗng tuếch, tôi bắt
đầu nghĩ thế. Đó là một mớ hổ lốn, đầy những thứ vớ vẩn.
Cùng với việc những thằng bé các bộ lạc chiến binh xuất
hiện, ở trường trung học bắt đầu có những lời khoác lác và tôi bắt đầu cảm thấy
Ferdinand – hoặc ai đó – cũng đã khoác lác về tôi. Hoặc là cái gì đó không đúng
về tôi. Cả thế giới dường như chỉ quay xung quanh cái ý nghĩ rằng tôi quan tâm
đến giáo dục và các lợi ích cho giới trẻ châu Phi.
Các chàng thanh niên, không phải tất cả đều là học sinh
trường trung học, lũ lượt kéo đến cửa hiệu, có khi cầm sách trên tay, có khi với
bộ đồng phục Semper Aliquid Novi rõ ràng là đi mượn. Chúng muốn tiền. Chúng nói
chúng nghèo và muốn tiền để có thể tiếp tục học tập. Một số kẻ ăn mày đó rất
táo tợn, đi thẳng đến chỗ tôi và nói ra những yêu cầu, những đứa nhút nhát lượn
quanh quẩn cho đến khi thấy không có ai trong cửa hiệu. Chỉ một số mới nghĩ đến
việc phải bịa ra các câu chuyện, và những câu chuyện đó thì giống hệt chuyện của
Ferdinand, một người cha bị chết hoặc ở xa, mẹ ở làng, một đứa trẻ không được bảo
vệ và đầy tham vọng.
Tôi kinh ngạc trước sự ngu ngốc này, rồi tôi bực mình,
tôi phát điên lên. Không một đứa nào trong số đó để ý đến việc bị Metty tống khứ
khỏi cửa hiệu, một số còn vác mặt quay lại nữa. Cứ như thể chẳng đứa nào thèm
quan tâm đến những phản ứng của tôi, cứ như thể ở nơi nào đó tại thị trấn tôi
đã được gán cho một "tính cách" đặc biệt, và điều tôi nghĩ về chính bản
thân mình chẳng có tầm quan trọng nào hết. Rằng cái đó chẳng gây ngán ngẩm tí
nào. Tính vô tội, ngây thơ chẳng ra ngây thơ này - tôi nghĩ chỉ có thể do
Ferdinand chỉ lối, do cái cách nó suy diễn từ mối quan hệ của chúng tôi và ý tiếng
của nó về điều mà tôi có thể có ích.
Tôi đã nói với Mahesh, rất nhẹ nhàng, về những vấn đề
đã được giản lược hoá vì lợi ích của một người đầy thiện chí "Ferdinand là
một người châu Phi". Ferdinand có lẽ làm điều nó làm với tôi với lũ bạn của
nó, khi giải thích mối quan hệ với tôi. Và giờ đâyh tôi cảm thấy hết những lời
dối trá và tráo trở của nó, cảm thấy cái nhân vật nó gán cho tôi, một cái mạng
dã được tung ra trùm lên tôi. Tôi trở nên hết sức khổ sở.
Có lẽ điều này là đúng với tất cả chúng tôi, những người
nước ngoài ở đất nước này. Những sự kiện mới đã chỉ ra sự vô vọng của chúng
tôi. Giờ đã có hoà bình theo cách nào đó, nhưng toàn bộ chúng tôi – người châu
Á, Hy lạp và những người châu Âu nữa – vẫn rất khổ sở, vì bị đối xử theo những
cách khác. Một số sợ hãi, cư xử hết sức cẩn trọng, cần phải tỏ ra tận tuỵ với
ai đó, những người khác làm giống tô. Điều đó đã có trong lịch sử của vùng này,
tại đây con người thường xuyên là con mồi. Bạn không cảm thấy tàn độc đối với
con mồi của mình. Bạn tạo ra một cái bẫy cho nó. Cái bẫy có thể hụt mười lần,
nhưng nó vẫn luôn là cái bẫy mà bạn dựng lên.
Không lâu sau khi tôi đến Mahesh nói với tôi về những
người châu Phi bản địa "Anh không bao giờ được quên, Salim ạ, rằng họ
malin lắm", Anh nói tiếng Pháp, vì những tữ tiếng Anh mà anh có thể dùng –
"tinh quái", "láu lỉnh", "xấu tính" – đều không
đúng. Những người ở đây malin theo kiểu malin của một con chó đuổi theo một con
thằn lằn, hoặc giống như cách một con mèo đi bắt chim. Những người ở đây malin
bởi vì họ biết rằng con người chỉ là những con mồi.
Họ không phải là những người ngu ngốc. Họ rất nhỏ và nhẹ
cân. Như thể để trừng phạt sự mênh mông của sông và rừng ở đây, họ thích chính
mình làm người khác bị thương tổn. Họ không sử dụng nắm đấm. Họ sử dụng lòng
bàn tay, họ thích đẩy, xô lấn, vỗ tay. Buổi đêm, hơn một lần, bên ngoài một
quán bar hoặc một tiệm nhảy nhỏ, tôi nhìn thấy một kẻ như thể đã say xỉn đẩy và
xô, một tràng vỗ tay, trở thành một tên giết người có hệ thống, như thể vết
thương thứ nhất và chỗ chảy máu thứ nhất làm cho nạn nhân biến thành cái gì đó
kém một con người ,và thúc đẩy tên sát nhân hoàn thành sự tàn phá của mình.
Tôi không được bảo vệ. Tôi không có gia đình, không cờ,
không vật tổ. Ferdinand đã nói gì với lũ bạn của nó về điều đó? Tôi cảm thấy đã
đến lúc tôi phải chấn chỉnh mọi việc với Ferdinand, và cho nó biết một điều
khác về tôi.
Tôi sớm tìm thấy cơ hội. Một buổi sáng có thằng nhóc ăn
vận bảnh bao bước vào cửa hiệu với một quyển sổ cái cầm tay. Nó thuộc loại người
rụt rè. Nó nhìn quanh, tìm người và khi nó đi đến chỗ tôi, tôi nhìn thấy cuốn sổ
không có vẻ gì là sổ kinh doanh như thoạt nhìn. Gáy của cuốn sổ màu đen và nham
nhở vì bị cầm nhiều. Tôi cũng nhìn thấy cái áo của nó, rõ ràng là cái áo đẹp nhất
nó có, không sạch sẽ như tôi nghĩ. Đó là một cái áo đẹp nó chỉ mặc vào những dịp
đặc biệt, rồi cởi ra và treo lên một cái mắc áo, rồi mặc lại khi có một dịp đặc
biệt khác. Cổ áo vàng ệch ra ở bên trong.
Nó nói "Mis Salim".
Tôi cầm lấy cuốn sổ, còn nó ngó lơ, mi mắt sụp xuống.
Cuốn sổ thuộc về trường trung học và nó đã cũ lắm rồi.
Nó là một vật thuộc về giai đoạn cuối của chế độ thực dân: cả một danh sách
đăng ký cho một phòng tập thể dục mà trường trung học từng có kế hoạch xây dựng.
Bên trong bìa là nhãn của trường, với những cánh tay và khẩu hiệu. Đối diện với
đó là cái nổi bật hơn cả, bằng lối viết tng Anh bằng tay thuôn và đều đã bị người
châu Phi ở đây quên đi. Người đóng góp đầu tiên là thống đốc tỉnh, và ông ta ký
thật rõ ràng, trên cả một trang giấy. Tôi mở các trang, nhìn vào những chữ ký
riêng của các quan chức và thương gia. Tất cả còn mới, nhưng dường như đã thuộc
về một thế kỷ nào trước đây.
Tôi nhìn thấy, với sự quan tâm đặc biệt, chữ ký của một
người thuộc cộng đồng chúng tôi mà Nazruddin từng nói đến. Người này có những ý
tưởng rất cổ về tiền bạc và sự an toàn, ông ta dùng sự giàu có của mình để xây
lên một cung điện, mà ông ta đã phải rời bỏ sau độc lập. Các lái buôn, những
người đã thiết lập quyền lực cho chính phủ trung ương, đã đến đóng ở đó, giờ
đây cung điện là một trại lính. Ông ta đóng góp một khoản tiền lớn. Tôi thấy chữ
ký của Nazruddin – tôi ngạc nhiên, tôi đã quên rằng ông đã từng ở đây, ở giữa
những cái tên của thời thực dân đã chết này.
Phòng tập thể dục vẫn chưa được xây. Tất cả những phô
trương về lòng trung thành và lòng tin vào tương lai và niềm tự hào công dân
này đã đi tong. Nhưng cuốn sổ vẫn còn lại. Giờ đây nó đã bị đánh cắp, những tài
sản bằng tiền được công nhận. Ngày thágn đã bị viết đè lên, rất rõ, và tên của
cha Huisman đã được viết đè lên chữ ký của người đứng đầu giáo xứ trước ông.
Tôi nói với thằng bé đứng trước mặt "Tôi sẽ giữ cuốn
sổ này. Tôi sẽ đưa nó cho những người sở hữu nó. Ai đưa cho anh cuốn sổ này?
Ferdinand phải không?"
Trông nó thật thê thảm. Mồ hôi bắt đầu rịn ra từ cái
trán thấp của anh ta, và anh ta lau vội nó đi. Anh ta nói "Mis
Salim".
"Anh đã làm việc của anh rồi. Anh đưa cho tôi cuốn
sổ. Bây giờ thì đi đi".
Anh ta vâng lời.
Ferdinand đến vào buổi chiều hôm đó. Tôi biết nó – nó
muốn nhìn vào mặt tôi, và tìm ra dấu hiệu về cuốn sổ. Nó nói "Chú
Salim?" tôi không thèm nói. Tôi để nó đứng đấy. Nhưng nó không phải đứng
đó lâu.
Metty đang ở trong nhà kho,và Metty hẳn là phải nghe thấy
tiếng nó. Metty gọi "Oo-ông!" Ferdinand trả lời, và đi vào nhà kho.
Nó và Metty bắt đầu chuyện trò trong đó. Cơn nóng giận của tôi trào lên khi
nghe những âm thanh thoả mãn rì rào, nhiều ngữ điệu đó. Tôi lấy cuốn sổ về
phòng tập thể dục từ ngăn kéo bàn và đi vào nhà kho.
Căn phòng, với một cửa sổ nhỏ có chấn song ở trên cao,
một nửa đang ở trong bóng tối. Metty đang ở trên thang, đang kiểm lại hàng ở những
giá tường. Ferdinand đang cúi xuống những cái giá ở bức tường khác, chỉ ngay dưới
cửa sổ. Thật khó để nhìn thấy mặt nó.
Tôi đứng ở cửa ra vào. Tôi phác một cử chỉ về phía
Ferdinand với cuốn sổ và nói "Cháu đang gặp rắc rối đấy"
Nó nói "Rắc rối gì cơ?"
Nó nói theo cái lối thẳng băng, không âm sắc của nó. Nó
không hề muốn tỏ ra châm biếm, nó thực sự hỏi tôi đang nói về chuyện gì. Nhưng
tôi thật khó nhìn thấy mặt nó. Tôi nhìn thấy lòng trắng mắt nó, và tôi nghĩ tôi
nhìn thấy khoé miệng nó đang nhăn ra thành một nụ cười. Khuôn mặt này gợi đến
những cái mặt nạ đầy ghê sợ! Và tôi nghĩ: phải – rắc rối gì cơ?
Nói về rắc rối là tự coi như là có luật lệ và điều chỉnh
mà ai cũng phải công nhận. Ở đây chẳng có gì hết cả. Cũng đã từng có trật tự ở
đây, nhưng trật tự đó cũng có những vô lý và tàn ác – điều đó giải thích tại
sao thị trấn đã bị bốc sạch. Chúng tôi sống trong sự đổ nát đó. Thay vì những
quy định thì giờ đây chỉ các quan chức mới có thể phán định bạn đúng, sau khi bạn
đã trả tiền. tất cả những gì tôi có thể nói với Ferdinand là "Đừng có làm
hại ta, cậu bé, bởi vì ta có thể làm hại cháu nhiều hơn thế".
Tôi bắt đầu nhìn thấy gương mặt nó rõ ràng hơn.
Tôi nói "Cháu hãy mang cuốn sổ này trả về cho cha
Huismans. Nếu cháu không làm, thì chính chú sẽ làm. Và chú sẽ thấy ông ta đuổi
thẳng cháu về nhà".
Trông nó tái nhợt, như thể bị tấn công. Rồi tôi nhận ra
Metty đứng trên cầu thang. Metty căng thẳng, hồi hộp; mắt nó đã phản bội lại
nó. Và tôi biết là tôi đã sai lầm, đã dồn hết sự tức giận lên đầu Ferdinand.
Đôi mắt Ferdinand sáng bừng lên, và lòng trắng càng lộ
rõ ràng hơn. Đến lúc này, vào cái thời điểm khủng khiếp này, trông nó giống như
một nhân vật hoạt hình trong một bộ phim cổ lỗ. Nó dường như đang cúi về trước,
suýt mất thăng bằng. Nó thở thật sâu. Mắt nó rời khỏi mặt tôi. Nó đang điên lên
vì tức, cảm giác bị xúc phạm đã làm nó trở nên điên rồ. Hai tay nó để thẳng và
rộng ở hai bên sườn nên trông như dài hơn thường lệ. Đôi bàn tay nó co cứng lại.
Miệng nó mở rộng. Nhưng điều tôi nghĩ là một nụ cười lại hoàn toàn không phải nụ
cười. Nếu ánh sáng rõ hơn tôi có thể thấy cái đó từ đầu.
Trông nó thật đáng sợ, và tôi chợt nghĩ: đó là cách xử
sự của nó khi nhìn thấy máu nạn nhân của mình, khi nó thấy kẻ thù bị giết. Và
tiếp theo ý nghĩ đó là một ý nghĩ khác "Sự điên giận đang bao trùm lên cả
thị trấn".
Tôi có thể đẩy sự việc lên cao hơn, và biến sự giận dữ
đó thành những giọt nước mắt. Nhưng tôi đã không đẩy lên. Tôi nghĩ tôi đã cho cả
hai đứa một ý tưởng mới về việc tôi là người như thế nào, và tôi để chúng lại
trong nhà kho để bình tâm lại. Một lúc sau tôi nghe chúng nói với nhau, nhưng rất
nhỏ.
Vào lúc bốn giờ, giờ đóng cửa, tôi gọi to Metty. Và nó,
sung sướng vì có cơ hội để đi ra ngoài và được hoạt động nói,
"Patron", và nhăn nhó mặt mày để chứng tỏ nó làm công việc đóng cửa
hàng nghiêm túc đến mức nào.
Ferdinand đi ra, khá bình tĩnh, bước di với bước chân
nhẹ nhàng. Nó nói "Salim?" tôi nói "Chú sẽ mang trả cuốn sổ".
Và tôi nhìn thấy nó bước đi trên đường phố đỏ quạch, cao lớn, buồn bã và chậm
chạp dưới những cây phượng không lá, đi ngang qua những quầy hàng chợ của thị
trấn.
Cha Huismans không có đó khi tôi bước vào trường trung học
cùng với cuốn sổ. Chỉ có một người Bỉ trẻ tuổi ở phòng thường trực, anh ta nói
với tôi là cha Huismans thỉnh thoảng thích đi vắng vài ngày. Ông đi đâu?
"Ông đi đến vùng cây bụi. Ông đến tất cả các ngôi làng ở đó", người
đàn ông trẻ tuổi nói, rất nóng nảy – anh ta có thể là thư ký hoặc thầy giáo.
Anh ta còn nóng nảy hơn khi tôi đưa anh ta cuốn sổ quyên góp.
Anh ta nói "Chúng nó đến và cầu xin để được nhận
vào trường. Ngay khi cho chúng vào là chúng bắt đầu ăn cắp. Chúng có thể làm sạch
cả cái trường nếu anh đi vắng. Chúng đến và cầu xin trông coi con chúng. Thế rồi
trên phố chúng xô đẩy anh để anh thấy rằng chúng chẳng thèm quan tâm đến
anh". Anh ta trông không được khoẻ. Anh ta trông tái nhợt, nhưng lớp đa dưới
mắt anh ta lại đen, và anh ta toát mồ hôi khi nói. Anh ta nói "Tôi xin lỗi.
Sẽ là tốt hơn cho anh nếu nói với cha Huismans. Anh phải hiểu là không hề dễ
dàng cho tôi ở đây. Tôi sống bằng bánh mật và trứng".
Điều này vang lên như thể anh ta đang có một chế độ ăn
kiêng phong phú. Rồi tôi hiểu thực sự anh ta nói với tôi là anh ta đang chết
đói.
Anh ta nói "Cha Huismans kỳ này có ý định cho bọn
trẻ châu Phi đồ ăn. Có vẻ là tốt đấy. Có một bà châu Phi tại thủ đô làm được rất
nhiều điều kỳ diệu với tôm pandan và tôm cua. Nhưng ở đây lại có sâu và bánh
chân vịt trong nước xốt cà chua. Trông chỉ giống nước sốt cà chua thôi. Ngày đầu
tiên! Dĩ nhiên, chỉ là để cho lũ nhóc thôi, nhưng hình ảnh ấy làm dạ dày tôi cồn
cào cả lên. Tôi không thể đứng lại trong cảnh nhìn chúng nhai. Giờ thì tôi
không thể buộc mình ăn bất cứ thứ gì của nhà bếp nữa cả. Tôi không có đồ làm bếp
trong phòng, và ở xe của Weyden có mùi cống bốc lên từ hiên. Tôi phải đi đây.
Tôi phải ra đi. Cha Huismans thì ổn thôi. Ông ấy là người tu hành. Tôi thì
không phải là người tu hành. Ông đi vào vùng cây bụi. Tôi không muốn đi vào cây
bụi."
Tôi không thể giúp anh ta. Thực phẩm là vấn đề với tất
cả mọi người ở đây. Tôi cũng chẳng khá hơn là mấy; hôm đó tôi ăn trưa với một cặp
vợ chồng Ấn Độ, trong cái mùi khủng khiếp của a nguỳ và khăn trải bàn mùi dầu.
Một tuần sau trở lại trường tôi được biết rằng chỉ hai
ngày sau khi gặp tôi, anh chàng người Bỉ trẻ tuổi đã lên tàu thuỷ đi mất. Chính
cha Huismans báo cho tôi tin đó, và cha Huismans, da rám nắng và khoẻ khoắn sau
chuyến đi của mình, có vẻ như không lấy gì làm lo lắng về chuyện mất đi một
giáo viên. Ông nói ông rằng mừng thấy cuốn sổ quyên góp trở về. Đó là một phần
của lịch sử thị trấn, những đứa trẻ từng ăn cắp sách có thể nhận ra điều này
vào một ngày nào đó.
Cha Huismans trạc bốn mươi tuổi. Ông không ăn vận theo
lối tu sĩ, mà thường mặc quần bình thường và áo sơ mi khiến ông có vẻ như không
phải người ở đây. Ông có khuôn mặt "dài ngoẵng" mà tôi nhận thấy là một
số người châu Âu – người A rập hay người Ba Tư và Ấn độ thì không bao giờ -
cũng có. Trên những gương mặt đó có cái gì đó trẻ con ở cái môi chẻ và cái trán
dô ra. Có vẻ như là những người đó đẻ thiếu tháng, họ có vẻ như đã phải trải
qua những tháng trầm tư rất sớm. Một số người trong đó đúng là yếu ớt như vẻ
ngoài của họ, một số rất cứng rắn. Cha Huismans rất cứng rắn. Ấn tượng ông tạo
ra là cái gì đó chưa hoàn thành, sự yếu ớt và cứng rắn.
Ông rời khỏi bờ sông, đi thăm những ngôi làng ông biết,
và ông mang về nhà hai thứ - cái mặt nạ và bức chạm gỗ cũ kỹ. Ông thường xuyên
muốn nói về những thứ đó hơn là nói về người giáo viên đã bỏ đi hoặc về cuốn sổ
bị mất cắp.
Bức chạm gỗ thật tuyệt. Nó cao khoảng năm feet, một
khuôn mặt người rất gày gò, chỉ có những đường viền, cổ và đầu, rất chân
phương, được chạm trên một mẩu gỗ chu vi không lớn hơn sáu đến tám inch. Tôi biết
về bức chạm – đó là một trong những thứ chúng tôi buôn bán ở bờ biển, chúng tôi
tạo ra công việc cho một vài gia đình của một bộ lạc làm nghề chạm khắc. Nhưng
cha Huismans chẳng buồn để ý đến thông tin tôi nói với ông, mà chỉ nói về điều
ông thấy trong khuôn mặt ông mang về nhà. Với tôi nó là một mẩu gỗ cường điệu
quá mức và quá thô tháp, một trò đùa của người đã khắc ra nó (những người thợ
khắc thỉnh thoảng cũng làm những việc như thế), Nhưng cha Huismans hiểu khuôn mặt
gầy gò nói gì, và với ông nó là thứ đầy tưởng tượng và ý nghĩa.
Tôi lắng nghe, và cuối cùng ông mỉm cười nói
"semper aliquid novi". Ông đã dùng câu khẩu hiệu của trường để nói
đùa. Những từ này đã cổ lắm rồi, ông nói với tôi, và có nguồn gốc châu Phi. Một
nhà văn La Mã cổ đã vật câu đó về châu Phi rằng nơi đó "luôn có cái gì đó
mới mẻ" – semper aliquid novi. Và khi đề cập đến mặt nạ và chạm khắc, những
từ đó vẫn hoàn toàn đúng. Mọi tác phẩm chạm khắc, mọi mặt nạ đều phụng sự một mục
đích tôn giáo cụ thể, và chỉ có thể làm được một lần. Bản sao thì chỉ là bản
sao, không có cảm giác hay sức mạnh huyền bí nào trong chúng hết cả. Ông thấy
trong những cái mặt nạ và đồ chạm trổ một tính chất tôn giáo, không có tính chất
đó mọi vật đều sẽ chết cứng chẳng hề có vẻ đẹp gì hết.
Thật lạ là một giáo sĩ Cơ đốc lại có cách nhìn nhận như
thế đối với các tín ngưỡng châu Phi, những cái mà trên bờ biển chúng tôi chẳng
hề mảy may để ý đến. Và dù cha Huismans biết nhiều đến vậy về tôn giáo châu Phi
và lao vào cuộc biến động lớn đến thế để tìm những mẩu đó, tôi chưa bao giờ cảm
thấy ông quan tâm đến người châu Phi theo bất kỳ cách hiểu nào, ông có vẻ thật
bàng quan với thực trạng của đất nước. Tôi ghen tị với ông về sự bàng quan này,
và tôi nghĩ sau khi tôi từ chỗ ông về ngày hôm ấy, châu Phi của ông, châu Phi của
dòng sông và cây bụi này, đã khác với châu Phi của tôi. Châu Phi của ông là một
chốn đẹp đẽ, đầy ắp những điều mới mẻ.
Ông là một giáo sĩ, là người một nửa. Ông sống bằng những
lời thề tôi không thể nói và tôi tiếp cận ông với sự kính trọng của những người
như tôi kính trọng những con người thiêng liêng thánh thiện. Nhưng tôi bắt đầu
nghĩ về ông như một cái gì đó khác nữa. Tôi bắt đầu nghĩ ông là một người thuần
tuý. Sự có mặt của ông tại thị trấn làm tôi thích thú. Những thái độ của ông,
những mối quan tâm của ông, hiểu biết của ông thêm cái gì đó vào nơi đây, làm
cho nó bớt phần cằn cỗi. Tôi không thấy phiền gì khi ông chỉ quan tâm đến bản
thân ông, ông hờ hững với sự ra đi của một giáo viên của ông, rằng ông chẳng
coi tôi là cái thá gì khi nói chuyện với tôi. Với tôi điều đó là một phần của bản
chất tôn giáo đặc biệt ở ông. Tôi tìm kiếm ông và cố hiểu những quan tâm của
ông. Ông thường xuyên sẵn sàng nói (luôn nhìn xa vắng) và chỉ bảo những gì ông
vừa tìm thấy. Đôi khi ông cũng đảo qua cửa hiệu của tôi và mua một số thứ cho
trường. Nhưng sự rụt rè – không thực sự là rụt rè – không bao giờ rời bỏ ông.
Ông không bao giờ dễ dàng với chính mình. Ông vẫn mãi là một người lạc lõng.
Ông giải thích cho tôi khẩu hiệu thứ hai của thị trấn –
những từ La tinh khắc vào toà nhà đổ nát gần cầu tàu: Miscerique probat populos
et foedera jungi. "Ngài tán thành sự hoà trộn các dân tộc và những mối dây
ràng buộc của họ". Đó là nghĩa của những từ đó, và chúng cũng là những từ
hết sức cổ, từ mãi thời Rome cổ xưa. Chúng được trích từ một bài thơ về sự hình
thành Rome. Người anh hùng đầu tiên của Rome, đến Italy để xây dựng thị trấn
cho mình, dừng lại ở vùng đất bờ biển châu Phi. Nữ hoàng tại đây đem lòng yêu
chàng, và có vẻ như là chuyến đi Italy đã bị huỷ bỏ. Nhưng rồi các vị thần chứng
kiến đã giúp một tay, và một torng số các vị thần nói rằng vị thần Rome vĩ đại
không đồng ý định cư ở châu Phi, không đồng ý với sự hoà trộn các dân tộc ở đây
và những hiệp ước liên minh giữa người châu Phi và người Rome. Những từ đó mang
ý nghĩa như vậy trong bài thơ cổ tiếng La tinh. Tuy vậy, trong lời khẩu hiệu,
những từ được khắc vào đá granit bên ngoài những cánh cửa cầu tàu, rõ ràng một
công trình đã được dựng lên ở châu Phi, vị thần Rome vĩ đại đã đồng ý với sự
hoà trộn các dân tộc những mối dây ràng buộc ở châu Phi. Miscerique probat
populos et foedera jungi.
Tôi phân vân. Những từ ngữ xoáy tròn hai nghìn năm tuổi
được dùng để kỷ niệm sáu mươi năm có tàu thuỷ từ thủ đô! Rome là Rome. Nơi này
là cái gì đây? Khắc những từ ngữ lên một công trình bên cạnh dòng sông châu Phi
hẳn nhiên là để mời chào xây dựng thị trấn. còn lại chút gì lo lắng, như trong
câu thơ nguyên gốc nữa không? Và gần như là ngay khi được dựng lên công trình
đó đã bị phá huỷ, chỉ để lại vài mảnh đồng và những từ đầy mỉa mai, lắp bắp với
người dân, những người giờ đây đang sử dụng khoảng không gian trước nó để làm một
cái chợ và để dựng lều ngủ buổi tối, với những con dê và những chuồng gà cùng
khỉ bị xích (khỉ cũng là thực phẩm như dê và gà), khoảng hai ngày trước khi tàu
thuỷ khởi hành.
Nhưng tôi mừng vì không nói ra, vì với cha Huismans những
từ đó chẳng có gì là dương dương tự đắc hết cả. Chúng là những từ giúp ông tự
nhận mình ở châu Phi. Chỉ đơn giản là ông không tìm thấy chính mình tại nơi nào
đó trong vùng cây bụi, ông thấy bản thân mình như là một phần của đợt sóng lịch
sử khổng lồ. Ông thuộc về châu Âu, ông dùng những từ La tinh để nhắc đến chính
mình. Ông chẳng buồn để ý người châu Âu ở thị trấn chúng tôi đều thất học hoặc
có sự khác biệt giữa cái ông bảo vệ trong cuộc đời chính ông và cái mà khu ngoại
ô đổ nát gần những ghềnh nước bảo vệ. Ông có ý nghĩ riêng của mình về châu Âu,
có ý nghĩ riêng về văn minh. Đó là cái nằm giữa chúng tôi. Không có cái gì giống
vậy ở giữa tôi và những người mà tôi gặp ở Câu lạc bộ Hellenic. Và cha Huismans
nhấn mạnh vào Âu châu tính của mình cũng như sự tách biệt của ông với người
châu Phi hơn là những người đó với nhau. Xét theo khía cạnh nào ông cũng được
an toàn hơn.
Ông không hề cảm thấy bực bội, như một số người đồng
bào của ông, về những gì xảy đến với thị trấn châu Âu. Ông không bị tổn thương
bởi những lời sỉ nhục mà người ta ném lên các toà nhà và những bức tượng. Không
phải bởi vì ông sẵn lòng tha thứ hơn người khác, hoặc hiểu hơn về những gì đã
được làm cho người châu Phi. Với ông sự phá huỷ thị trấn châu Âu, thị trấn mà
những người đồng bào của ông đã xây dựng, chỉ là một bước lùi tạm thời. Những
cái đó xảy đến khi một cái gì đó lớn lao và mới mẻ được tạo ra, khi mà dòng chảy
lịch sử đã được biến đổi.
Đó vẫn luôn là một công trình bên khúc quanh của dòng
sông, ông nói. Đó là một địa điểm gặp gỡ tự nhiên. Các bộ lạc có thể thay đổi,
quyền lực có thể thăng trầm, nhưng người ta vẫn quay lại đó để gặp gỡ và buôn
bán. Thị trấn A rập có thể chỉ đáng kể hơn những công trình châu Phi một chút,
và về mặt công nghệ mà nói thì không hơn là bao nhiêu. Người A rập, ở rất sâu
trong nội địa, có thể phải xây dựng bằng các vật liệu của rừng, cbsn tại thị trấn
của họ chắc phải hơn nhiều một kiểu cuộc sống ở rừng. Người A rập chỉ chuẩn bị
con đường cho nền văn minh mạnh mẽ của châu Âu.
Với mọi thứ gắn liền với quá trình thuộc địa hoá của
châu Âu, sự mở rộng dòng sông, cha Huismans có một sự sùng kính có thể làm người
dân thị trấn kinh ngạc, những người này coi ông là người yêu quý châu Phi và do
đó, theo cách nghĩ của họ, là một người đã vứt bỏ quá khứ thuộc địa. Quá khứ
này từng thật đắng cay, nhưng dường như cha Huismans coi sự cay đắng là một thứ
quà tặng, ông nhìn nhận bên trên cái đó. Từ sân khu sửa chữa tàu gần trạm hải
quan, bị bỏ quên rất lâu, đầy những thừng chão và gỉ sắt, ông lấy đi những mảnh
của những chiếc tàu thuỷ cũ và các mảnh máy móc bị dỡ tung từ cuối những năm
1890 và để chúng – giống như những thánh tích của một nền văn minh sớm – tại
sân trong của trường trung học. Ông đặc biệt thích thú với một mảnh có trên
mình một tấm thép hình bầu dục và trên đó có tên những người đã làm ra nó tại
thị trấn Seraing nước Bỉ.
Ngoài những sự kiện đơn giản bên ngoài dòngsông rộng đầy
bùn này, ngoài sự trộn lẫn của những dân tộc, những điều lớn lao đang đến vào một
ngày nào đó. Chúng tôi chỉ mới bắt đầu chúng. Và với cha Huismans những vết
tích thực dân cũng quý giá như những gì thuộc về châu Phi. Châu Phi thực sự ông
thấy đang chết hoặc sắp sửa chết. Điều đó giải thích tại sao lại rất cần thiết,
trong khi châu Phi còn đang sống, phải hiểu và tập hợp cũng như lưu giữ những
gì thuộc về nó.
Những cái ông thu thập được từ châu Phi đang chết đi
này được đặt ở phòng để súng của trường trung học, nơi những khẩu súng trường cổ
lỗ sĩ của đội bảo vệ trường thường giữ lại từ những ngày xa xưa. Căn phòng rộng
bằng lớp học và tư~ GOÃI nhĩn vão trông chẳng khác gì một lớp học. Nhưng nó
không có cửa sổ mà chỉ có những cửa ra vào đóng ván ô cả hai bên, và chỉ có ánh
sáng của một bóng đèn để trần treo trên một sợi dây dài.
Khi cha Huismans lần đầu mở cửa căn phòng cho tôi, và
tôi cảm thấy cái mùi nồng ấm của mỡ, đất và chất béo cũ, và có một cảm giác mơ
hồ về những mặt nạ nằm trên những cái giá, tôi nghĩ: đây chính là thế giới của
Zabeth. Đó là thế giới mà cô trở về sau khi rời khỏi cửa hiệu của tôi. Nhưng thế
giới của Zabeth thì sống động, còn nơi đây thì chết. Đó là hiệu ứng của những
cái mặt nạ đặt nằm trên giá, nhìn lên không phải khu rừng hay bầu trời mà là mặt
dưới của giá phía trên. Chúng là những cái mặt nạ đã bị đặt thấp, theo nhiều
nghĩa, và đã mất đi sức mạnh của mình.
Tuy nhiên đó chỉ là cảm giác đến trong một khoảnh khắc.
Bởi căn phòng tối, nóng với những mặt nạ bốc mùi ngày một nặng này, cảm giác
kính sợ của tôi tăng dần lên, cảm giác của tôi về những cái nằm quanh chúng tôi
ở bên ngoài. Điều này cũng giống với nằm trên sông buổi tối. Cây bụi ngập tràn
linh hồn, trong bụi cây lan toả sự có mặt bảo vệ của tổ tiên loài người, còn
trong căn phòng này mọi tinh thần của những cái mặt nạ chết đó, những sức mạnh
chúng có, và sự khiếp sợ mang tính tôn giáo của những con người bình thường, dường
như được tập trung hết lại.
Những chiếc mặt nạ và hình chạm khắc trông rất cổ.
Chúng như thể đã một trăm tuổi, một nghìn tuổi. Nhưng chúng được đánh dấu niên
đại, cha Huismans đã ghi niên đại của chúng. Chúng khá là mới. Tôi nghĩ: cái
này mới chỉ năm 1940 thôi mà. Tôi sinh vào năm đó. Hoặc cái này chỉ năm 1963.
là năm tôi đến đây. Trong khi nó được làm ra thì tôi đang ăn trưa cùng Shoba và
Mahesh.
Thật cũ, thật mới. Và ngoài cái ý nghĩ kỳ cục về tương
lai, cha Huismans còn tự coi mình là tận cùng của tất cả, cuối cùng, chứng nhân
may mắn.
Phần lớn chúng tôi đều chỉ biết dòng sông và những con đường
nham nhở cùng những gì hai bên chúng. Ngoài đó ra đều là những thứ không được
biết đến; điều này có thể làm chúng tôi ngạc nhiên. Hiếm khi chúng tôi đến những
nơi ngoài các nơi đã quen thuộc. Trên thực tế, chúng tôi hiếm khi đi xa. Vì lẽ
đó, khi đã đi xa, chúng tôi không muốn đi xa đến thế. Chúng tôi chỉ gắn với những
gì đã biết – căn nhà, cửa hiệu, câu lạc bộ, quán bar, đường dọc sông vào lúc
hoàng hôn. Đôi khi chúng tôi đi chơi cuối tuần tới đảo hà mã trên sông, phía
trên ghềnh nước. Nhưng ở đó không có người, chỉ có hà mã – bảy con lần đầu tiên
tôi đến, và hiện còn ba con.
Chúng tôi biết đến những ngôi làng bị giấu kín chủ yếu
qua những gì chúng tôi thấy ở dân làng khi họ tới thị trấn. Họ trông rất kiệt sức
và bơ phờ sau những năm tháng sống biệt lập và muốn, và có vẻ như vui vẻ vì có
thể lại được đi lại tự do. Từ cửa hiệu nhìn ra tôi thường thấy họ đi lượn lờ
quanh những quầy hàng ngoài chợ trên quảng trường, nhìn chăm chăm các thứ đồ, vải
vóc và quần áo may sẵn, và lang thang trở lại những quầy hàng đồ ăn, những đống
kiến gió tẩm dầu rán (rất đắt, được bán theo từng thìa một) để trên những mảnh
báo, những con sâu có lông nhuộm màu da cam với cặp mắt phồng lên uốn éo trong
những cái chậu men, những con ấu trùng trắng, to béo, ẩm ướt và mềm nhũn trong
những gói đất ẩm, năm hay sáu con trong một túi – những con ấu trùng đó, hấp thụ
thẳng vào cơ thể, không có mùi, là một thực phẩm béo nhiều công dụng, ngọt với
những đồ ngọt, thơm với những đồ thơm. Tất cả đều là của rừng, những ngôi làng
đã mất chúng hoàn toàn (lũ ấu trùng sống trong lõi của cây cỗ thụ), và không ai
muốn đi kiếm chúng xa như vậy trong rừng.
Ngày càng có nhiều dân làng đến thăm và cắm trại ở lại
thị trấn. Ban đêm họ nấu ăn trên đường phố và các quảng trường. Trên vỉa hè dưới
những tấm bạt cửa hiệu, những bức tường tượng trưng được dựng lên che chắn cho
những chỗ ngủ - hàng rào thấp hoặc bìa cứng dựng giữa những hòn đá hoặc những
viên gạch, hoặc những đoạn dây thừng (giống những sợi cáp của một sàn quyền anh
thu nhỏ) giữa những ụ đá.
Từ chỗ bị bỏ rơi, thị trấn bắt đầu đông đảo trở lại. Có
vẻ như là không gì có thể ngăn dòng người đến từ những ngôi làng. Kể từ đó, từ
những nơi không được biết đến ngoài thị trấn, lan đi lời đồn đại về một cuộc
chiến tranh.
Và đó là cuộc chiến tranh cũ, cuộc chiến vẫn cứ tiếp diễn,
cuộc chiến tranh mang hơi hướng bộ lạc nổ ra vào lúc độc lập, đã phá huỷ và làm
trống trơn thị trấn. Chúng tôi từng nghĩ về nó và làm việc với nó, những niềm
say mê bùng phát. Không có gì khiến chúng tôi nghĩ khác được cả. Ngay cả những
người châu Phi bản địa cũng bắt đầu nói về thời đó như là một thời điên khùng.
Họ dùng đúng từ điên khùng. Qua Mahesh và Shoba tôi biết những câu chuyện khủng
khiếp về thời kỳ đó, về những vụ giết chóc dân thường của đám lính, những kẻ nổi
loạn và lính đánh thuê trong suốt nhiều tháng trời, về những người bị trói gô lại
theo đủ kiểu kỳ quái nhất và bị buộc phải hát trong khi đang bị đánh đến chết
trên đường phố. Không ai trong số những người đến từ các ngôi làng tỏ ra sẵn
sàng với kiểu đối xử rùng rợn đó. Giờ mọi chuyện lại sắp bắt đầu.
Vào thời điểm độc lập người vùng chúng tôi đã phát điên
vì giận dữ và sợ hãi – toàn bộ sự tức giận của thời thuộc địa và tất cả nỗi sợ
hãi bộ lạc lại thức dậy lần nữa. Người vùng chúng tôi đã quá bị lợi dụng, không
chỉ bởi người châu Âu và A rập mà cả bởi người châu Phi, và vào thời điểm độc lập,
họ từ chối sự quản lý của chính phủ mới ở thủ đô. Đó là một sự nổi loạn bột
phát, không có người chỉ huy lẫn phương hướng hành động. Nếu phong trào có lý
luận riêng, chứ không chỉ là một phong trào đơn giản là sự chối bỏ, người vùng
chúng tôi đã có thể coi thị trấn bên bờ sông là thuộc về họ, thủ đô của bất kỳ
bang nào mà họ dựng lên. Nhưng họ căm ghét thị trấn vì những kẻ lạ mắt đến đó để
quản lý, và họ thích phá huỷ thị trấn hơn là chiếm lấy nó.
Phá huỷ xong thị trấn của mình rồi, họ lại than khóc
nó. Họ muốn lại lần nữa thấy nó là nơi để sống. Và nhìn thấy nó đang dần trở lại
cuộc sống, họ lại một lần nữa sợ hãi.
Họ giống những người không biết tâm trí mình ở đâu. Họ
đã phải chịu quá nhiều nỗi khổ, họ đã chất lên chính mình quá nhiều nỗi khổ. Họ
dường như yếu ớt và lo lắng khi rời khỏi làng mình đi về phía thị trấn. Họ cần
thức ăn và hoà bình mà thị trấn có thể cung cấp. Nhưng họ lại quay trở về làng
mình, muốn phá bỏ thị trấn một lần nữa. Thật là điên rồ! Giống như một trận
cháy rừng âm ỉ phía dưới và bùng lên không ai nhìn thấy dưới những rễ cây nó đã
phá huỷ và sau đó trồi lên mặt đất nham nhở nơi nó có ít cái để tự nuôi mình, ở
lưng chừng sự phá hoại và ý muốn phá huỷ lại bùng lên.
Và cuộc chiến tranh, mà chúng tôi nghĩ là đã chết, bỗng
chốc lại bao quanh chúng tôi. Chúng tôi nghe tin về những cuộc mai phục dọc những
con đường mà chúng tôi biết, về những ngôi làng bị tấn công, về những tộc trưởng
và quan chức bị giết.
Chính vào lúc đó Mahesh nói một điều mà tôi còn nhớ. Đó
không phải là điều tôi thường trông chờ ở anh – một người chăm chút đến thế vẻ
bề ngoài và quần áo, người yêu vợ mình đến thế.
Mahesh nói với tôi "Anh làm gì vậy? Anh sống ở
đây, và anh còn hỏi điều đó? Anh làm cái tất cả chúng ta đều làm. Anh tiếp thục
thôi".
Quân đội kéo vào thị trấn của chúng tôi. Họ đến từ một
bộ lạc hiếu chiến phục vụ người A rập như những kẻ săn nô lệ trong vùng, và sau
này, với một hoặc hai cuộc binh biến bẩn thỉu, đi lính cho chính phủ thuộc địa.
Chính sách này đã có từ lâu rồi.
Nhưng người ta không còn cần nô lệ nữa, và mọi người ở
châu Phi hậu thuộc địa đều có thể có súng, mọi bộ lạc đều có thể trở thành bộ lạc
chiến đấu. Quân đội chẳng có gì là lạ nữa. Đôi khi cũng có những xe tải chở
lính trên đường phố - nhưng có vẻ như lính tráng chẳng bao giờ tỏ ra có súng.
Đôi khi có duyệt binh ở các trại lính – toà cung điện do người đàn ông vĩ đại của
cộng đồng chúng tôi xây lên, giờ đây trên hàng hiên cả tầng trên tầng dưới đều đầy
quần áo phụ nữ phơi (một người Hy Lạp giành được hợp đồng giặt những bộ quân phục),
Quân đội hiếm khi quá đáng như thế. Họ không đủ tiền để có thể khá hơn. Họ ở giữa
những kẻ thù truyền thống của mình, những người xưa kia là con mồi để họ săn nô
lệ, và dù họ được trả lương đều đặn và sống khá tươm tất, nhưng họ vẫn thiếu
quân trang quân dụng. Chúng tôi có một Tổng thống mới, một quân nhân. Đó là
cách của ông quản lý đất nước và quản lý quân đội khó khăn của mình.
Điều này tạo ra sự cân bằng cho thị trấn. Là những người
được trả lương cao, quân đội thường trú mua bán nhiều. Lính tráng chịu tiêu tiền.
Họ mua đồ gỗ, và họ thích thảm – đó là thị hiếu họ hoặc được từ người A rập.
nhưng giờ đây sự cân bằng của thị trấn chúng tôi đang bị đe doạ. Quân đội có một
cuộc chiến tranh thật sự để đương đầu, và không ai có thể nói liệu những người
này, có trong tay vũ khí hiện đại và được lệnh bắn giết, lại không quay trở lại
con đường săn nô lệ của tổ tiên mình và biến thành những toán giặc cỏ, như họ
đã làm vào thời điểm độc lập, khi mọi quyền lực sụp đổ.
Không, trong cuộc chiến này tôi trung lập. Tôi bị cả
hai phía đe doạ. Tôi không muốn thấy quân đội ăn chơi sa đọa. Và dù thông cảm với
người trong vùng, tôi không muốn thấy thị trấn bị phá huỷ lần nữa. Tôi không muốn
bên nào thắng hết, tôi muốn sự cân bằng cũ được giữ nguyên.
Một đêm tôi linh cảm thấy chiến tranh đã gần lắm rồi.
Tôi choàng tỉnh và nghe tiếng một chiếc xe tải đang chạy đi xa. Đó có thể là bất
kỳ chiếc xe tải nào, thậm chí nó có thể là một chiếc của Daulat, đang gần đến
đích chuyến đi gian khổ của mình từ phía Đông. Nhưng tôi cứ nghĩ: đó là âm
thanh của chiến tranh. Âm thanh này đều đều, tiếng gầm gừ của máy móc khiến tôi
nghĩ tới những khẩu súng, và khi đó tôi nghĩ đến những người dân làng khiếp hãi
và đói dở chống lại những khẩu súng đã bắt đầu được sử dụng, những người mà mớ
quần áo rách đã có màu tàn tro. Đó là nỗi lo sợ của một khoảnh khắc tỉnh giấc;
tôi ngủ lại.
Khi Metty mang cà phê đến cho tôi buổi sáng, nó nói
"Quân lính quay lại rồi. Họ đến cầu rồi. Và khi họ đến cầu súng của họ sẽ
tịt".
"Metty!"
"Cháu sẽ nói cho chú mà, patron."
Thật tồi tệ. Đúng là quân đội sẽ rút lui, thật là tệ,
tôi không muốn thấy quân đó rút đi. Nếu điều đó không đúng thì vẫn tệ. Metty đã
hóng hớt những lời đồn đại, và điều nó nói về những khẩu súng tịt ngòi có nghĩa
là những kẻ nổi loạn, những người rách rưới, đã tin là những viên đạn không thể
giết được mình, rằng tất cả những linh hồn của rừng và của sông vẫn đứng về
phía họ. Và điều đó có nghĩa là vào bất kỳ lúc nào, ngay khi có ai đó có lời
kêu gọi hợp lý, sẽ có thể có nổi loạn ngay tại thị trấn.
Thật là tôi tệ, và tôi không thể làm gì cả. Cái kho của
cửa hiệu – không có gì để bảo vệ cả. Tôi có thứ gì có giá trị nữa không? Có hai
hay ba kí lô vàng tôi đã tich trữ được từ những vụ buôn bán nho nhỏ, có những
thứ giấy tờ của tôi – giấy khai sinh và hộ chiếu Anh của tôi, có cái máy ảnh
tôi đã cho Ferdinand xem, nhưng không muốn chụp ai vào lúc này nữa cả. Tôi cho
tất cả những thứ đó vào một cái thùng gỗ. Tôi cũng nhét vào đó bức tranh tường
tôn kính mà bố tôi đã gửi Metty đem tới, và tôi cũng bắt Metty nhét hộ chiếu và
tiền của nó vào trong đó. Metty đã trở lại là một gia nhân, lo lắng cho uy tín,
thậm chí ngay cả vào lúc này, để làm sao cư xử thật giống tôi. Tôi phải ngăn nó
nhét đủ thứ linh tinh vào trong đó. Chúng tôi đào một cái hố ngoài sân ngay dưới
cầu thang lộ thiên – thật là dễ; không có hòn đá nào trong đất đỏ - và chôn cái
thùng gỗ xuống đó.
Lúc đó là sáng sớm. Sân sau nhà chúng tôi buồn tẻ, tầm
thường với ánh mặt trời và mùi những con gà nhà bên cạnh, tầm thường với lớp bụi
đỏ và những chiếc lá rơi cùng những bóng cây buổi sáng tôi từng biết khi còn ở
bờ biển, tầm thường đến nỗi tôi nghĩ: điều này thật là điên rồ. Một lúc sau tôi
nghĩ: mình đã phạm một sai lầm. Metty biết mọi thứ giá trị tôi có trong chiếc
thùng này. Tôi đã đặt mình vào tay nó.
Chúng tôi đi mở cửa hiệu, tôi vẫn bán hàng. Chúng tôi
bán được một chút ít vào giờ đầu tiên. Nhưng rồi quảng trường chợ trở nên vắng
teo và thị trấn yên ắng hẳn. Mặt trời chói chang, và tôi nhìn đăm đăm những
bóng cây cùng những sạp hàng, những toà nhà quanh quảng trường.
Đôi khi tôi nghĩ, tôi có thể nghe thấy tiếng của ghềnh
nước. Đó là tiếng ồn ào vô tận ở khúc quanh dòng sông này, nhưng vào một ngày
bình thường ở đây không thể nghe thấy tiếng đó. Giờ đây dường như nó đã tới và
tiếp với ngọn gió. Buổi trưa, khi chúng tôi đóng cửa hiệu để ăn trưa, và tôi đi
qua những con phố, chỉ có dòng sông ánh lên dưới cái nắng gay gắt, là còn có vẻ
sống động. Dù không có cá nược, chỉ những cây lan dạ hương trôi nổi đến từ phía
Nam, và trôi đi về phía Tây, từng lùm một, với những bông hoa màu tím nhạt rất
dày giống như những quả sồi.
Hôm đó tôi ăn trưa với cặp vợ chồng người châu Á đã có
tuổi – họ từng kinh doanh trong ngành vận chuyển cho tới khi độc lập, khi việc
buôn bán dừng lại, và những người khác trong gia đình bỏ đi. Không gì thay đổi ở
đó kể từ khi tôi thường xuyên đến ăn trưa với họ hai lần một tuần. Họ là những
người gần như không tin tức ,và chúng tôi rất ít nói chuyện với nhau. Từ mái
hiên của ngôi nhà xù xì như trại gia súc nhìn ra những chiếc xe bỏ không, tàn
dư của công việc buôn bán trước kia, đang hoen rỉ dần trong sân. Nhẽ ra tôi phải
đau lòng vì cảnh này nếu đó là của tôi. Nhưng hai ông bà già có vẻ chẳng hề
quan tâm đến việc họ đã mất mát quá nhiều. Họ có vẻ hài lòng với cuộc sống thế
này. Họ làm tất cả những gì tôn giáo và những truyền thống gia đình của mình
đòi hỏi, và họ cảm thấy – giống như những người già trong gia đình tôi – họ đã
sống tốt và hoàn chỉnh.
Ở bờ biển tôi thường chê trách những người trong cộng đồng
chúng tôi như thế, thờ ơ với những gì xảy ra quanh họ. Tôi muốn đánh thức họ dậy
và cảnh báo họ về nguy hiểm. Nhưng giờ thì lại thật vui được ở cùng những người
có tuổi bình tĩnh này, và hẳn là tuyệt lắm, trong một ngày như thế này, không
phải rời khỏi căn nhà đó, để được trở lại làm đứa trẻ, được sự khôn ngoan người
già bảo vệ, và để tin tưởng rằng họ luôn nhìn nhận đúng vấn đề.
Ai muốn triết học hay lòng tin vào những lúc sung sướng
? Chúng ta đều có thể tự đối mặt được với những lúc sung sướng . Chỉ những thời
khắc khó khăn chúng ta mới cần tập hợp lại. Và ở đây, ở châu Phi này, không ai
trong số chúng tôi có thể được tập hợp tốt như người châu Phi. Người châu Phi
đã khêu lên cuộc chiến tranh này, họ có thể chịu đựng rất giỏi, hơn bất kỳ ai
khác, nhưng họ có thể đối mặt. Ngay cả những kẻ rách rưới nhất trong số họ vẫn
còn có làng mạc và bộ lạc, những cái hoàn toàn thuộc về họ. Họ có thể chạy trốn
vào thế giới bí mật của họ và biến đi vào những thế giới đó, như họ từng làm
trước đây. Và ngay cả khi những điều khủng khiếp xảy đến với họ, họ vẫn chết
trong sự thoải mái khi biết rằng tổ tiên của họ đang nhìn xuống cổ vũ họ.
Nhưng điều này không đúng với Ferdinand. Với dòng máu
pha trộn của mình, nó trở nên người xa lạ của thị trấn này hệt như tôi. Nó đến
căn hộ buổi chiều, vẻ bối rối, gần như động kinh, vì sự khủng bố châu Phi đối với
những người châu Phi xa lạ.
Trường đã đóng cửa các lớp học vì sự an toàn của học
sinh và giáo viên. Ferdinand quyết định rằng trường không phải nơi an toàn, nó
nghĩ trường sẽ là một trong những nơi đầu tiên bị tấn công nếu bạo loạn nổ ra
trong thị trấn. Nó vứt bỏ tất cả những vai diễn của mình, mọi kiểu cách của
mình. Lưỡi dao cạo, mà có lúc nó lấy làm kiêu hãnh như một đặc điểm châu Phi mới,
nó đã vứt đi, một số thứ làm nó trở nên khác biệt quá vì sợ nguy hiểm, nó mặc
quần kaki dày thay cho quần soọc đồng phục của trường. Nó nói về một con đường
tưởng tượng đi về phía Nam đến với bộ tộc của cha nó. Nhưng con đường đó không
thể đi được – nó biết là không thể - và rõ ràng là phải gửi nó dọc sông về làng
mẹ nó.
Thằng bé cao lớn, gần thành một người đàn ông, nức nở
"Tôi không muốn về đó. Tôi không biết ai ở đó cả. Mẹ tôi muốn tôi đến đó.
Tôi không muốn ở lại thị trấn hay là đến trường. Tại sao bà ấy lại gửi tôi đến
trường?"
Chúng tôi, Metty và tôi, cảm thấy thoải mái vì có ai đó
để an ủi. Chúng tôi quyết định cho Ferdinand ngủ ở phòng Metty, và chúng tôi sửa
soạn chỗ ngủ cho nó. Sự chú ý vào Ferdinand giảm xuống. Chúng tôi ăn sớm, khi
trời hẵng còn sáng. Ferdinand im lặng trong khi ăn. Nhưng sau đó, khi chúng tôi
đã ở những căn phòng khác nhau, nó và Metty nói chuyện.
Tôi nghe Metty nói "Họ đến một cây cầu. Tất cả xe
tải dừng lại, và súng sẽ tịt ngòi."
Giọng Metty vống lên cao đầy phấn khích. Đó không phải
là giọng tôi vẫn thường nghe khi nó đến thông báo tin tức với tôi hàng sáng.
Bây giờ nó không nói như người châu Phi, những người nói cho nó nghe chuyện
này.
Buổi sáng quảng trường chợ bên ngoài cửa hiệu hoàn toàn
không có ai. Thị trấn vẫn trống trơn. Những người ngồi và nằm trên phố chắc là
đã bí mật bỏ đi.
Khi đến chỗ Shoba và Mahesh để ăn trưa tôi nhận ra những
chiếc thảm đẹp nhất của họ đã biến mất, cùng với một số đồ thuỷ tinh và bạc cao
cấp, cả cái mặt bằng pha lê của người đàn bà khoả thân. Shoba có vẻ căng thẳng,
đặc biệt quanh đôi mắt, và Mahesh có vẻ lo lắng về cô hơn về bất kỳ cái gì trên
đời. Tâm trạng Shoba luôn bao trùm lên bữa ăn, và hôm đó có vẻ như cô muốn trừng
phạt chúng tôi vì bữa trưa ngon lành mà cô đã chuẩn bị. Chúng tôi ăn một lúc
không nói gì, Shoba nhìn xuống bàn với cặp mắt mỏi mệt, Mahesh nhìn chằm chằm
vào cô.
Shoba nói "Nhẽ ra tuần này tôi đã ở nhà. Bố tôi ốm.
Tôi đã nói với anh chưa, Salim? Nhẽ ra tôi cần ở với ông ấy. Và hôm nay là sinh
nhật ông ấy".
Đôi mắt Mahesh dính chặt xuống bàn. Làm mất đi ý nghĩa
của những từ mà tôi thấy là rất khôn ngoan, anh nói "Chúng ta sẽ tiếp tục.
Sẽ tốt cả thôi. Tổng thống mới không phải là thằng điên. Ông ấy sẽ không tiếp tục
cứ ở lì trong nhà như người cuối cùng, không làm gì cả."
Cô nói "Tiếp tục đi, tiếp tục đi. Đó là tất cả những
gì tôi nhẽ ra phải làm. Đó là tại sao tôi bỏ phí cuộc đời mình. Rằng tôi sống
thế nào ở chỗ này, giữa những người châu Phi. Salim, đó có phải là một cuộc sống
không?"
Cô nhìn xuống đĩa thức ăn của mình, không nhìn tôi. Tôi
không nói gì.
Shoba nói "Tôi đã phí phạm cuộc đời mình, Salim ạ.
Anh không biết tôi đã phí phạm cuộc đời mình thế nào đâu. Anh không biết sống ở
đây tôi thấy sợ hãi thế nào đâu. Anh không biết tôi sợ đến thế nào khi tôi nghe
về anh, khi tôi tin có người lạ đến thị trấn. Tôi bị tất cả mọi người làm cho sợ
hãi, anh biết đấy" mắt cô giật giật. Cô ngừng ăn, chống đầu ngón tay vào
má, như để xua đi một nỗi đau bồn chồn. "Tôi xuất thân từ một gia đình
khá, một gia đình giàu có. Anh biết điều đó. Gia đình tôi có những dự định cho
tôi. Nhưng rồi tôi gặp Mahesh. Anh ấy có một cửa hiệu xe máy. Một cái gì đó khủng
khiếp xảy đến. Tôi ngủ với Mahesh gần như ngay sau khi gặp anh ấy. Anh biết
chúng tôi và cách chúng tôi sống đủ đẻ biết rằng đó là một việc khủng khiếp đối
với tôi. Nhưng nó còn khủng khiếp đối với tôi theo một cách khác nữa. Tôi không
muốn ai biết điều gì khác sau đó. Đó là lời nguyền của tôi. Tại sao anh không
ăn, Salim? Chúng ta phải tiếp tục".
Cặp môi Mahesh mím lại đầy bồn chồn, và trông anh gần
phát điên, cùng lúc ánh mắt anh ánh lên khi nghe sự ca ngợi trong những lời
phàn nàn, anh và Shoba đã ở với nhau được gần mười năm nay.
"Gia đình tôi truy lùng Mahesh ghê lắm. Nhưng điều
này lại càng làm tôi cương quyết thêm hơn. Các anh tôi doạ tạt axít vào người
tôi. Họ không đùa đâu. Họ cũng doạ giết Mahesh. Đó là nguyên nhân tại sao chúng
tôi đến đây. Tôi chờ đợi các anh tôi hàng ngày hàng giờ. Vẫn vậy. Tôi vẫn đợi họ.
Anh biết rằng với những gia đình như gia đình tôi một số điều không phải để
đùa. Và rồi, Salim, khi chúng tôi ở đây, một số điều còn tồi hệ hơn đã xảy ra.
Một hôm Mahesh nói tôi thật ngu xuẩn khi cứ nơm nớp lo sợ các anh tôi. Anh ấy
nói "Các anh của em chẳng có cách nào đến đây hết cả. Họ sẽ gửi một người
nào đó tới".
Mahesh nói "Đó là một câu đùa thôi mà".
"Không, đó không phải là đùa. Điều đó đúng. Bất kỳ
ai cũng có thể đến đây – họ có thể cử đến bất kỳ ai. Đó không thể là một người
châu Á. Đó có thể là một người Bỉ, Hy Lạp hoặc bất kỳ người châu Âu nào. Đó có
thể là một người châu Phi. Làm sao mà tôi biết được?"
Cô nói như thế hết cả bữa trưa, và Mahesh bỏ đấy đi,
anh có vẻ như đã phải đối mặt với chuyện này trước đó. Sau đó tôi đưa anh vào
trung tâm thị trấn – anh nói anh không muốn đi xe. Sự bồn chồn của anh biến mất
ngay khi chúng tôi rời chỗ Shoba. Anh có vẻ như không lo lắng gì về những chuyện
Shoba nói về cuộc sống chung của họ và không hề bình luận gì về việc đó.
Anh nói khi chúng tôi đi vào những con đường bụi đỏ
"Shoba cứ quá lên thôi. Mọi chuyện không tồi tệ như cô ấy tưởng đâu. Tổng
thống mới không điên đâu. Sáng nay tàu thuỷ đã chở người da trắng đến. Anh
không biết à? Hãy đi qua chỗ Van der Weyden anh sẽ thấy họ. Ông ta có thể là
con trai của một người hầu. Nhưng ông ta sẽ nắm được tất cả. Ông ta sẽ sử dụng
điều đó để đẩy nhiều người vào chỗ của họ. Hãy đến chỗ Van der Weyden. Anh sẽ
có một ý tưởng về mọi thứ sau độc lập".
Mahesh nói đúng. Tàu thuỷ đã tới, tôi đã thoáng thấy nó
khi chúng tôi đi ngang qua cầu tàu. Nó không hú còi và lúc trước tôi không nhìn
về phía đó. Boong thấp, đáy bằng, nó gần như bị giấu sau những kho hải quan, chỉ
để lộ phần cao đàng sau. Và khi tôi dừng lại bên ngoài cửa hiệu của Mahesh, nằm
đối diện với Van der Weyden, tôi nhìn thấy một số xe quân đội, và một số xe dân
sự cùng taxi đã được điều đến.
Mahesh nói "Thật tốt vì người châu Phi có trí nhớ
ngắn. Hãy đến nhìn những người đến để cứu chúng ta khỏi phải tự tử".
Van der Meyden không phải một toà nhà cổ, cao bốn tầng
bằng bê tông với những đường thẳng, một phần của cuộc bùng nổ kinh tế trước độc
lập, và dù tất cả những cái đó đã không còn, nó vẫn được coi là một khách sạn
hiện đại. Nó có nhiều cánh cửa bằng kính ở tầng trệt, hành lang có một sàn nhà
ghép hình, ở đó có những cái thang máy (giờ đây không chạy), có một bàn lễ tân
với những quảng cáo chuyến bay trước độc lâ .p và một tấm biển hotel complet
thường trực ("không còn chỗ trống") – điều này không đúng trong vài
năm gần đây.
Tôi tưởng sẽ thấy một đám đông ở hành lang, ầm ĩ, om
sòm. Tôi thấy chỗ đó trống trải hơn thường lệ, và gần như tĩnh lặng. Nhưng
khách sạn có khách, trên sàn nhà loang lổ có khoáng hai mươi hay ba mươi va li
dán nhãn tên người màu xanh in chữ Hazel s Travels. Những chiếc thang máy không
hoạt động, và chỉ có một người phục vụ của khách sạn – một người đàn ông luống
tuổi bận đồ phục vụ thời thực dân, quần kaki ngắn, áo vạt ngắn và một t.ap dề
to, thô, có nhiệm vụ khuân đồ lên những bậc thang đá mài cạnh thang máy. Ông ta
làm việc dưới sự trông coi trực tiếp của người châu Phi bụng to (đến từ nơi nào
đó ở hạ lưu dòng sông), người thường đứng sau bàn lễ tân xỉa răng và thô lỗ với
tất cả mọi người, nhưng giờ đây đang đứng cạnh những chiếc vali vẻ bận rộn và
nghiêm túc.
Một số khách mới của khách sạn đang đứng ở quầy bar
ngoài hiên, tại đó có vài cây cọ xanh và cây leo trên những chậu hoa bằng bê
tông. Sàn nhà bằng đá mài dốc về một cái phên sắt trung tâ m, và từ cái phên
đó, đặc biệt sau cơn mưa, thường xuyên bay đến mùi cống rãnh. Trong cái mùi đó
– giờ đây không đến nỗi khó chịu lắm, trời khô và nóng, ánh mặt trời làm thành
một hình tam giác nhảy nhót trên tường – những người đàn ông da trắng ngồi, ăn
bánh sandwich của Van der Meyden và uống bia nhẹ của Đức.
Họ mặc đồ dân sự, nhưng họ nổi bật ở mọi nơi. Một đám
người bình thường ở quầy bar thường đủ mọi kích thước và nhiều độ tuổi khác
nhau. Những người này có vẻ rất khoẻ mạnh, thậm chí một số người tóc xám trong
số họ còn chưa quá bốn mươi, họ như thể một đội bóng. Họ ngồi thành hai nhóm
tách biệt. Một nhóm trông có vẻ nghiêm trọng hơn, ầm ĩ, quần áo hào nhoáng, hai
hoặc ba người trong số đó rất trẻ, uống khá nhiều và làm trò. Những người trong
nhóm kia trầm hơn, râu ria cạo cẩn thận, nét mặt có học thức hơn, ý thức hơm về
vẻ bề ngoài của mình. Và bạn có thể nghĩ hai nhóm đã tình cờ gặp nhau ở quầy
bar, nếu bạn không thấy họ đi những đôi bốt nặng màu nâu giống hệt nhau.
Thường thì ở Van der Meyden những người phục vụ đều có
vẻ uể oải. Những người có tuổi, với những khuôn mặt nhỏ nhầu nhĩ cau có, ngồi ở
chỗ của mình và chỉ chăm chăm chờ tiền boa, mặc quần soọc và những cái tạp dề rất
to giống như đồng phục của những người về hưu (và đổi khi, trong sự trầm lặng của
mình, họ giấu tayvào trong tạp dề giống như thợ cắt tóc thường làm), những người
trẻ hơn, những cậu chàng thời hậu độc lập mặc quần áo của mình rôm rả sau quầy
thanh toán như thể là khách hàng. Giờ đây tất cả đều sẵn sàng lao đến phục vụ.
Tôi gọi một tách cà phê, và chưa từng bao giờ tôi có cà
phê nhanh đến thế ở Van der Meyden này. Một người đứng tuổi nhỏ nhắn phục vụ tôi.
Và tôi nghĩ, không phải là lần đầu tiên, là thời thực dân phục vụ ở khách sạn
thường được chọn theo hình dáng thấp nhỏ, để có thể dễ dàng túm lấy. Không có
gì khó hiểu khi ngày trước vùng này lại cung cấp nhiều nô lệ đến thế, những người
nô lệ thường thấp nhỏ về ngoại hình, chỉ là một nửa đàn ông, trừ khả năng truyền
giống.
Cà phê đến nhanh chóng, nhưng cái bình kim loại sạch
bong ông ta mang đến cho tôi chỉ có một nhúm sữa bột trông như đã hỏng. Tôi nhấc
cái bình lên. Người đàn ông đứng trước mặt tôi nhìn thấy trước khi tôi chỉ cho
ông ta, và ông ta có vẻ khiếp sợ đến nỗi tôi phải đặt cái bình xuống và nhấm nhấp
thứ cà phê khủng khiếp đó.
Những người đàn ông ở quầy bar hẳn phải đến đây để làm
việc gì đó. Có khả năng họ - hoặc những người cùng đi – thậm chí đã bắt tay vào
việc. Họ biết họ là những gương mặt gây ấn tượng mạnh. Họ biết tôi đến để xem họ
thế nào, họ biết những người phục vụ khiếp sợ họ. Cho đến sáng hôm đó những người
phục vụ khách sạn này vẫn kháo nhau những câu chuyện về sự bất khả chiến bại của
những tộc người trong rừng, và những người phục vụ khách sạn đó là những kẻ, một
khi bạo loạn nổ ra trong thị trấn, có thể làm những chuyện khủng khiếp với đôi
bàn tay bé nhỏ của mình. Giờ đây, thật nhanh chóng, họ vụt trở nên e dè. Theo
cách nào đó điều này thật tốt, nhưng cũng thật đáng thương hại. Đó chính là
cách hoàn cảnh tác động đến bạn, bạn không bao giờ biết phải nghĩ hay phải sợ
gì. Sợ hãi hay hổ thẹn – dường như giữa chúng không có cái gì khác cả.
Tôi quay về cửa hiệu. Đó là một cách đương đầu, và một
cách để giết thời gian. Những cây phượng dang thay lá, mỏng mảnh, một màu xanh
tơ. Ánh sáng đã thay đổi, bóng tối đã bắt đầu vây lấy quanh những phố phường
màu đỏ. Những hôm khác vào giờ đó tôi nhẽ ra có thể nghĩ đến một tách trà ở căn
hộ, chơi squash ở câu lạc bộ Hellenic, sau đó uống đồ ướp lạnh ở quầy bar nhỏ
thô mộc, ngồi ở một cái bàn kim loại và nhìn ánh nắng tắt dần đi.
Khi Metty đi vào, trước khi bốn giờ, giờ đóng cửa, một
chút, nó nói "Sáng nay người da trắng đã đến. Một số đến trại lính và một
số khác đến trạm thuỷ điện". Đó là tram thuỷ điện, ngược lên dòng sông vài
dặm. "Việc đầu tiên họ làm khi tới doanh trại là bắn chết đại tá Yenyi.
Chính Tổng thống ra lệnh cho họ làm vậy. Ông này không đùa được đâu, Tổng thống
ấy. Đại tá Yenyi chạy ra để gặp họ, họ không để ông ta nói. Họ bắn ông ta ngay
trước mặt đàn bà và mọi người. Và trung sĩ Iyanda – người đã mua cái mảnh vẽ
hình quả táo ấy – họ cũng bắn anh ta rồi, cùng một vài người lính nữa".
Tôi nhớ Iyanda với bộ quân phục gột hồ cứng đơ, khuôn mặt
to bè, và đôi mặt cười, nhỏ, ranh mãnh của anh ta. Tôi nhớ cách anh ta cọ lòng
bàn tay lên mảnh vải với hình những quả táo đỏ khổng lồ, cái cách đầy kiêu hãnh
khi anh ta rút tiền ra trả - chỉ một khoản nhỏ thôi, thật thế. Cái mành! Tin về
vụ hành quyết này hẳn làm mọi người dân ở đây thích thú. Không phải vì anh ta
là một kẻ tồi tệ, mà vì anh ta thuộc về cái bộ tộc săn nô lệ đáng ghét đó, cũng
giống như những người khác trong đội quân đó, giống như đại tá của anh ta.
Ngài Tổng thống đã gửi đến thị trấn và vùng chúng tôi sự
khủng khiếp. Nhưng cùng lúc, cũng bằng cách khủng bố đội quân, ông cũng tạo một
cử chỉ đối với người dân địa phương. Tin tức về vụ hành quyết lan rất nhanh, và
mọi người nhanh chóng trở nên bối rối và bồn chồn. Họ có thể cảm thấy – như tôi
cũng đã bắt đầu cảm thấy – rằng lần đầu tiên kể từ độc lập đã có một sự lãnh đạo
thông minh ở thủ đô, và cái độc lập tự do cho tất cả đã chấm dứt.
Tôi có thể thấy sự đổi thay ở Metty. Nó mang về tin tức
khá là đẫm máu. Dù sao nó cũng bình tĩnh hơn buổi sáng, và nó cũng làm
Ferdinand bình tĩnh hơn. Chiều muộn chúng tôi bắt đầu nghe thấy tiếng súng. Buổi
sáng hẳn tiếng súng đó đã phải làm chúng tôi kinh khiếp lắm. Giờ đây chúng tôi
thấy khá là thoải mái – tiếng súng ở xa, và tiếng ầm ì không khác gì tiếng sấm,
mà chúng tôi đã quá quen thuộc. Những con chó bị tiếng động lạ làm rối trí, tru
lên từng hồi, khi tiếng súng chùng xuống một chút. Ánh nắng chiều tà, cây cối,
khói bếp, đó là tất cả những gì chúng tôi có thể trông thấy khi đi ra tầng đệm
ngoài cầu thang lộ thiên để nhìn.
Không ánh sáng nào hiện lên vào lúc hoàng hôn. Không có
điện. Máy phát điện lại hỏng, hoặc người ta đã cố tình cắt cầu dao, hoặc trạm
phát điện đã bị những kẻ nổi loạn chiếm. Nhưng giờ đây không có điện cũng chẳng
sao, điều đó có nghĩa là chí ít cũng sẽ không có bạo loạn ban đểm. Người dân ở
đây không thích bóng tối, một số người đi ngủ mà vẫn bật điện trong nhà hoặc lều
của mình. Và không ai trong số chúng tôi – cả Metty lẫn Ferdinand và tôi – tin
là trạm phát điện bị quân nổi loạn chiếm. Chúng tôi đặt lòng tin vào những người
da trắng của Tổng thống . Tình thế này, lúc sáng còn quá rối rắm với chúng tôi,
giờ đây đã trở nên rất đơn giản.
Tôi ngồi nán lại trong phòng khách và đọc tạp chí cũ trong
ánh sáng của một ngọn đèn dầu. Trong phòng Metty và Ferdinand chuyện trò. Chúng
không nói giọng ban ngày hay giọng khi có điện. Cả hai đều nói chậm, trầm ngâm,
cũ kỹ, chúng nói như những ông cụ non. Khi vào đến hành lang qua khe cửa, tôi
nhìn thấy Metty đang ngồi trên cái võng của nó, mặc quần đùi và áo lót, và
Ferdinand, cũng quần đùi và áo lót, nằm dài trên đệm đặt sát sàn nhà, chân chống
vào tường. Trong ánh sáng đèn dầu cảnh tượng giống như bên trong một túp lều, sự
lười nhác của chúng, cách nói nhỏ nhẹ, đầy những khoảng dừng và khoảng im lặng,
rất hợp với dáng nằm ngồi của chúng. Lần đầu tiên trong ngày hôm nay chúng đang
thư giãn, và chúng cảm thấy giờ đây đã ở xa nguy hiẻm đến độ chúng bắt đầu nói
về nguy hiểm chiến tranh và các đội quân.
Metty nói nó đã thấy những người da trắng sáng nay.
Ferdinand nói "Có đầy lính da trắng ở miền Nam. Đó
đúng là một cuộc chiến tranh".
"Nhẽ ra mày nên nhìn họ sáng hôm nay. Họ đi thẳng
đến doanh trại và chĩa súng vào tất cả mọi người. Trước tao chưa bao giờ thấy
lính nào như thế cả".
Ferdinand nói "Tao thấy linh lần đầu tiên khi tao
còn rất nhỏ. Ngay sau khi người châu Âu đi ấy. Ở làng mẹ tao, trước khi tao rời
khỏi đó đến ở với bố tao. Tụi lính đó vào làng. Chúngkg có sĩ quan và cư xử thật
tệ".
"Chúng có súng không?"
"Dĩ nhiên là có rồi. Chúng tìm người da trắng để
giết. Chúng nói bọn tao giấu người da trắng. Nhưng tao nghĩ chúng chỉ muốn làm
loạn thôi. Mẹ tao nói chuyện với chúng và chúng bỏ đi. Chúng chỉ bắt theo vài
người phụ nữ thôi".
"Mẹ mày nói gì với chúng?"
"Tao không biết. Nhưng chúng rất sợ hãi. Mẹ tao có
quyền năng đặc biệt mà".
Metty nói "Thế thì giống người ở bờ biển chúng ta
rồi. Ông ta đến từ đâu đó gần đây này. Ông ta xúi giục giết người A rập. Bắt đầu
từ chợ.Tao có ở đó. Giá mà mày thấy cảnh đó, Ferdinand ạ. Chân tay cứ là bay tứ
tung khắp phố cả".
"Tại sao ông ta giết người A rập?"
"Ông ta nói ông ta vâng lệnh chúa trời của người
châu Phi".
Metty chưa bao giờ kể cho tôi nghe chuyện đó. Có thể vì
nó cho là chuyện đó chẳng có gì quan trọng, có thể chuyện đó làm nó sợ. Nhưng
nó đã nhớ.
Chúng im lặng một lát, tôi có cảm giác Ferdinand đang
kiểm lại những gì nó vừa nghe kể. Rồi chúng bắt đầu nói sang chuyện khác.
Tiếng súng vẫn tiếp tục. Nhưng chúng không lại gần hơn.
Đó là tiếng những khẩu súng ccz người da trắng tổng thốn phái đến, lời hứa về
trật tự và sự tiếp diễn, và nghe nó thật êm đềm, như thể tiếng mưa đêm. Tất cả
những gì đang đe doạ, trong cái bên ngoài chưa biết đó, đang được kiểm tra. Và
thật là một sự khuây khoả, sau nỗi sợ hãi, được ngồi trong căn hộ có ánh đèn và
nhìn cái bóng mà bóng đèn điện không thể tạo ra, và được nghe Ferdinand và
Metty trò chuyện bằng giọng ông già đầy lười biếng trong căn phòng đó, giờ đây
đã trở thành một cái động nhỏ bé ấm áp. Điều này hơi giống với việc được đưa đến
những ngôi làng bí mật trong rừng, đến với sự bảo vệ và bí mật của những túp lều
ban đêm – mọi thứ bên ngoài đều bỏ mặc, đều nằm lại sau một đường ranh giới bảo
vệ huyền hoặc, và tôi nghĩ, như đã từng nghĩ khi ăn trưa với cặp vợ chồng già,
rằng tuyệt làm sao nếu điều đó là sự thật. Nếu sáng ra chúng ta thức dậy và thấy
rằng thế giới đã tóp lại chỉ còn lại những gì chúng ta biết và những gì an
toàn.
Buổi sáng có máy bay chiến đấu tới. Gần như ngay khi bạn
nghe thấy tiếng nó, trước khi bạn có thời gian ra ngoài để nhìn, nó đã ầm ĩ,
bay thật thấp, vào gào lên theo cái cách khiến bạn khó có thể cảm thấy bạn vẫn
thuộc về cơ thể mình, bạn gần như mất hết cảm giác. Một chiếc phản lực bay rất
thấp, thấp đến độ bạn có thể nhìn thấy hình tam giác bạc ở thân dưới, là một thứ
giết người. Sau đó nó đi khỏi, nhanh chóng biến đi trên bầu trời, đang trắng
lên vì độ nóng của ngày đã bắt đầu. Nó lượn vài vòng nữa quanh thị trấn, chỉ một
cái máy bay duy nhất, giống như một con chim xấu xí không chịu bỏ đi. Rồi nó
bay qua vùng cây bụi. Cuối cùng nó nhào xuống, và chỉ một lúc sau, cách đó một
đoạn, những quả hỏa tiễn nó ném xuống nổ tung ở đó. Chúng kêu như những tiếng sấm
mà chúng tôi đã quá quen thuộc.
Nó còn quay lại vài lần trong tuần, vẫn cái máy bay đó,
bay là là trên thị trấn và vùng cây bụi, hú họa ném chất nổ xuống. Nhưng chiến
tranh đã qua ngày đầu tiên đó. Dù đà là một tháng trước khi quân đội phải trở về
từ vùng cây bụi, và cả hai tuần tròn trặn trước khi Van der Meyden bắt đầu mất
đi những người khách mới của mình.
Khi mới bắt đầu, trước khi những người đàn ông da trắng
tới, tôi tự coi mình là trung lập. Tôi từng chẳng hề muốn bên nào chiến thắng,
cả quân đội lẫn quân nổi loạn. Khi đã xong, cả hai bên đều thua trận.
Nhiều người lính – từ bộ lạc chiến binh nổi tiếng – đã
bị giết. Nhiều người hơn thế mất súng ống và quân phục thẳng đơ cùng bản doanh
mà họ đã chi khá tiền để trang hoàng. Quân đội được Tổng thống tổ chức lại, tại
nơi rằng xa, ở thủ đô, tại thị trấn chúng tôi quân đội trở nên ô hợp hơn, với
người từ nhiều bộ tộc, nhiều vùng khác nhau. Những người của bộ lạc hiếu chiến
không còn được bảo vệ tại thị trấn chúng tôi. Có những cảnh khủng khiếp ở doanh
trại, đàn bà than vãn trên đường vào rừng, vác theo cái bụng chửa. Một bộ lạc nổi
tiếng, giờ đây đã trở nên vô vọng giữa những con mồi truyền thống của mình, đó
là một trong những luật cũ kỹ của rừng, một thứ đến từ chính Thiên nhiên, đã được
chuỷên hóa.
Những người nổi loạn đói rách trong vùng chúng tôi
nhanh chóng bắt đầu xuất hiện trở lại thị trấn, đói rách và hèn hạ hơn, mang
trên m`inh những đống rẻ rách đen kịt, những người chỉ mới vài tuần trước đây từng
nghĩ mình đã tìm được sức mạnh bái vật đủ để làm súng của kẻ thù phải gập xuống
và thảy đạn xuống nước. Trên những gương mặt nhầu nhĩ đó là sự cay đắng, và một
số người khi rút lui có vẻ hơi điên khùng. Nhưng họ cần thị trấn mà họ từng muốn
phá huỷ, đúng như Mahesh đã nói, họ đã được cứu khỏi sự tự tử. Họ công nhận trí
tuệ mới đang lãnh đạo đất nước từ xa, và họ quay về với thói quen cũ của mình
là vâng lời.
Lần đầu tiên kể từ khi tôi đến đây có cái gì đó giống với
cuộc sống ở chỗ Van der Weyden. Những chiếc tàu hơi nước mang đến không chỉ đồ
tiếp tế cho người da trắng của Tổng thống , mà cả những người đàn bà hết sức bụ
bẫm ăn mặc đẹp, từ những bộ tộc dưới hạ lưu dòng sông, đứng cạnh họ đàn bà vùng
chúng tôi, những người chèo thuyền độc mộc và bốc vác, trông như những thằng bé
xương xẩu.
Cuối cùng chúng tôi được phép ra đập nước và trạm thuỷ
điện, gần nơi đã xảy ra đánh nhau. Máy móc ở đó không bị động đến, nhưng chúng
tôi đã mất đi một trong những hộp đêm mới của mình. Nó đã được dựng lên bởi một
người tị nạn từ lãnh thổ Bồ Đào Nha ở phía Nam (một người trốn quân dịch), và
có địa thê rất đẹp, trên một vách đá nhìn toàn cảnh dòng sông. Đó là chỗ chúng
tôi đã bắt đầu cảm thấy quen thuộc. Cây cối được trang hoàng bằng những bóng
đèn màu và chúng tôi ngồi tại những cái bàn kim loại uống rượu vang Bồ Đào Nha
nhẹ và nhìn hẻm núi cùng cái đập, như thế thật là sang trọng, và làm chúng tôi
trở nên sành điệu. Chỗ đó đã bị quân nổi dậy chiếm và phá tan. Toà nhà chính
đơn giản và rất tầm thường – tường bằng những khối bê tông bao quanh một sàn nhảy
ngoài trời với một quầy bar được quây kín một bên. Tường vẫn còn (dù họ đã cố đẩy
đổ, có những vết đạn chỗ người ngồi), nhưng toàn bộ đồ đạc ở đây đều bị phá huỷ.
Sự điên giận của những kẻ nổi loạn không khác gì sự điên giận chống máy móc, điện,
mọi thứ không thuộc về rừng rậm và châu Phi.
Có dấu hiệu về sự điên giận đó ở cả những chỗ khác nữa.
Sau trận đánh trước đó một cơ quan Liên Hiệp Quốc đã sửa lại trạm điện và bờ đường
trên đỉnh đập. Một mảnh kim loại được đặt trên một kim tự tháp nhỏ bằng dá,
cách đập một đoạn, ghi nhận lại chuyện đó. Mảnh kim loại đã bị xóa đi, bị đập bằng
những thứ đồ kim loại nặng, làm bay đi những chữ cái. Ở đoạn đầu bờ đường trên
đỉnh đập, những ngọn đèn theo tiêu chủân châu Âu từng được đặt để trang trí –
đèn cũ tại một trạm năng lượng mới. Một ý tưởng đẹp: nhưng những ngọn đèn đó
cũng bị bắn, và lại có mưu toan xoá sạch những chữ cái – tên của những người
làm ra đèn vào thế kỷ mười chín ở Paris.
Sự điên giận này tạo nên hình ảnh những người dân thường
tay không đương đầu với kim loại. Và chỉ sau vài tuần hoà bình, vẫn những người
ấy đến từ các ngôi làng, đói lả và xin ăn trong thị trấn, với họ mọi chuyện đã
xa quá rồi, khó mà tưởng tượng ra được nữa.
Chính trong những ngày xa xôi của hoà bình đó cha
Huismans đi chuyến đi quen thuộc của mình và đã bị giết. Cái chết của ông có thể
không bao giờ được phát hiện ra, có thể chỉ cần vùi xác ông đâu đó trong vùng
cây bụi. Nhưng những kẻ giết ông muốn chuyện đó được biết đến. Thi hài của ông
được đặt lên trên một cái thuyền độc mộc, và cái thuyền trối xuôi dòng sông
chính cho đến khi mắc vào bờ với một mớ lan dạ hương. Cơ thể ông nát nhừ, đầu bị
cắt và đâm thủng. Ông được chôn cất nhanh chóng, với nghi lễ tối thiểu.
Điều này thật là khủng khiếp. Cái chết đó làm cho cuộc
đời ông gần như một sự phí phạm. Biết bao hiểu biết đã bị chôn vùi cùng với ông
,và với tôi còn nhiều hơn hiểu biết – thái độ của ông, sự say mê châu Phi của
ông, cảm giác của ông về những niềm tin của rừng. Một phần của thế giới đã mất
đi cùng với ông.
Tôi từng ngưỡng mộ cha Huismans vì sự trong trắng của
ông, nhưng giờ đây tôi phải hỏi liệu cuối cùng cái đó có giá trị gì không. Một
cái chết như vậy làm chúng ta đặt câu hỏi về mọi thứ. Nhưng chúng ta là con người,
không kể đến những cái chết xung quanh chúng ta, chúng ta vẫn tiếp tục là người
trần mắt thịt, và chúng ta không thể mãi ở trong tâm trạng day dứt đó lâu được.
Khi đã thoát khỏi tâm trạng đó tôi cảm thấy – một người mới sâu sắc, mới yêu đời
làm sao, tôi không hề nghi ngờ điều đó – rằng ông đã sống đời của mình tốt hơn
hầu hết chúng ta. Ý tưởng mà cha Huismans có về văn minh đã khiến ông sống cuộc
đời hiến dâng khá đặc biệt của m`inh. Điều đó khiến ông nhìn ngắm, sưu tầm, điếu
đó khiến ông tìm ra sự giàu có của nhân bản, trong khi chúng ta, những người
còn lại, chỉ nhìn thấy cây bụi hay ngừng không tìm kiếm gì nữa hết cả. Nhưng ý
tưởng của ông về văn minh cũng chính là sự phù phiếm của ông. Cái đó làm cho
ông đi đến quá nhiều bộ tộc hổ lốn bên dòng sông của chúng tôi, và ông đã phải
trả giá vì điều đó.
Cái chết của ông còn nhiều bí ẩn. Nhưng cơ thể đã nổi lềnh
bềnh trên dòng sông chính trong một cái thuyền độc mộc và đã được nhiều người
nhìn thấy. Những lời đồn đại bay quanh trường trung học. Tại thị trấn chúng tôi
cha Huismans được tiếng – dù phần lớn người ở đây không hiểu mấy về ông – là
người yêu châu Phi, và một số cậu bé ở trường đã rất bối rối và hô thẹn. Một số
nổi đóa. Ferdinand – đã hồi lại sau ngày đánh nhau, không còn muốn trở về làng
cha mình hay mẹ mình nữa. Tôi không hề ngạc nhiên.
Ferdinand nói "Đó là một cái gì đo của người châu
Âu, một bảo tàng. Tại đó người ta chống lại chúa của người châu Phi. Chúng tôi
có mặt nạ trong nhà và chúng tôi biết nó ở đó để làm gì. Chúng tôi chẳng việc
gì phải đến bảo tàng của ông Huismans cả."
"Chúa của người châu Phi" – những từ của
Metty, và Metty đã học nó từ người lãnh đạo cuộc nổi loạn chống người A rập ở bờ
biển. Tôi đã nghe những từ này lần đầu tiên vào cái đêm khí tôi nghe tiếng súng
nổ vẳng đến từ trạm thủy điện và biết rằng chúng tôi được an toàn. Những từ
này, khi nói chúng ta, có vẻ như đã giải thoát điều gì đó cho Ferdinand. Những
ngày đó trong căn hộ là những ngày của cơn khủng hoảng đặc biệt đối với Ferdinand,
và kể từ đó nó không còn cố đóng một vai kịch nào khác nữa. Như thế đã là một
vai diễn có thêm nhiều ý nghĩa hơn. Nó không còn quan tâm đến việc là một kẻ lạc
loài ở châu Phi, đơn giản nó là một người châu Phi, và nó, sẵn sàng để tìm hiểu
mọi khía cạnh của tính cách mình.
Điều này không làm nó sống dễ dàng hơn. Nó không còn lịch
thiệp, nó trở nên hung hăng và ương bướng, với một sự bồn chồn bí ẩn. Nó bắt đầu
xa lánh cửa hiệu và căn hô. Tôi đồ rằng đó là cách thức để nó tự thể hiện, sau
cuộc chiến lớn của quân nổi loạn, rằng nó có thể làm mà không cần tôi. Nhưng rồi
một hôm Metty mang đến cho tôi một lá thư của Ferdinand ,và bức thư đã làm tôi
cảm động. Đó là lá thư chỉ gồm một câu viết bằng những chữ to cồ cộ trên một mặt
giấy kẻ ly xé ra từ một cuốn vở bài tập, và được gửi đi không có phong bì, mặt
giấy chỉ được gập lại thật nhỏ và gọn "Salim! Chú đã giúp cháu lúc đó và
coi cháu là thành viên gia đình chú. F."
Đó là lá thư cám ơn. Tôi đã cho nó trú ẩn dưới mái nhà
của tôi, và với nó, một người châu Phi, việc đó thật đặc biệt và cần được ghi
nhận. Nhưng nó không muốn tỏ ra xu nịnh hoặc yếu đuối, và mọi thứ trong bức thư
đều cộc cằn một cách có chủ đích – không phong bì, tờ giấy kẻ ly được xé ra từ
một cuốn vở rất to và rất bẩn, không có từ nào trực tiếp nói đến lời cám ơn.
"Salim!" chứ không phải "ngài Salim", "F" chứ
không phải Ferdinand.
Tôi thấy điều này thật buồn cười và đáng cảm động. Dù
sao cũng có cái gì đó mỉa mai trong toàn bộ sự việc. Hành động khiến Ferdinand
trở nên mềm mỏng là một cử chỉ đơn giản của một người đến từ bờ biển mà gia
đình sống thật gần, rất gần, với gia nhân của mình, những người đã từng một thời
là nô lệ, thuộc dòng dõi của dân tộc bị bắt cóc từ vùng này của châu Phi.
Ferdinand có lẽ sẽ tức điên nếu nó biết điều đó. Lá thư, và tính cách mới bớt
khoa trương của nó cũng cho thấy nó đã lớn lên được khá nhiều. Và đó chính là
điều mà mẹ nó, Zabeth, tâm niệm khi cô mang nó đến cửa hiệu nhờ tôi trông coi.
Điều Ferdinand nói về bộ sưu tập của cha Huismans, những
người khác cũng bắt đầu nói. Khi còn sống, cha Huismans, người thu thập những
thứ thuộc về châu Phi, từng được coi là một người bạn của châu Phi. Nhưng giờ
đây việc đó đã thay đổi. Có cảm giác như bộ sưu tập là một cái gì đó chống đối
lại tôn giáo châu Phi, và không ai ở trường trung học chịu lấy nó đi. Có lẽ
không còn ai ở đó còn đủ kiến thức và kiến văn cần thiết.
Những người khách tham quan đôi khi cũng xem bộ sưu tập.
Những bức chạm trổ bằng gốm vẫn còn nguyên, nhưng trong căn phòng để súng có lắp
quạt những chiếc mặt nạ đã bắt đầu hỏng và mùi đã trở nên thật khó chịu. Bản
thân những chiếc mặt nạ, nằm ngả nghiêng trên những cái giá mỏng mảnh, dường
như đã một đi quyền năng tôn giáo mà cha Huismans đã bảo tôi nhìn trong đó,
không có ông, chúng chỉ đơn giản là những đồ vật kỳ cục mà thôi.
Trong không khí hoà bình mới giờ đây đã được thiết lập
dài lâu ở thị trấn, chúng tôi bắt đầu đón những khách du lịch từ khoảng một chục
nước, giáo viên, sinh viên, cứu trợ này kia và những người chừng như muốn khám
phá châu Phi, sung sướng với bất cứ thứ gì tìm thấy, và cao ngạo nhìn những người
nước ngoài như chúng tôi sống ở đó. Bộ sưu tập bắt đầu bị phá hoại. Ai còn có
tính châu Phi hơn anh chàng châu Mỹ trẻ tuổi đã xuất hiện trong số chúng tôi ,
người luôn sẵn sàng mặc đồ châu Phi và nhảy những điệu nhảy châu Phi? Một hôm
anh ta đột ngột bỏ đi bằng tàu thuỷ, và sau đó chúng tôi phát hiện bộ sưu tập
trong phòng để súng đã bị đóng thùng đi cùng đồ đạc anh ta về Mỹ, không nghi ngờ
gì chúng sẽ trở thành trọng tâm của trưng bày nghệ thuật nguyên thủy mà anh ta
thường nói đã bắt đầu. Những sản phẩm phong phú nhất của rừng.
Nếu bạn nhìn một đàn kiến đang hành quân bạn sẽ thấy có một số
con rất lộn xộn hay đi sai đường. Đàn kiến không có thời gian cho chúng, nó vẫn
tiếp tục đi. Đôi khi những con lộn xộn chết. Ngay cả khi điều đó xảy ra cho đàn
kiến cũng chẳng mảy may rúng động. Có một sự rối loạn nhỏ chung quanh cơ thể
chuyện với xấu số, cuối cùng nó sẽ được mang theo – và nó mới nhẹ làm sao. Mọi
lúc sự tất bật vẫn cứ tiếp diễn, và điều đó rõ ràng mang tính xã hội rất cao,
cái khung cảnh gặp gỡ và chào hỏi mà những con kiến đi ngược chiều nhau, đi từ
tổ ra và đi về tổ, vẫn thường làm.
Vậy là đã sau cái chết của cha Huismans. Ngày xưa thì hẳn
cái chết của ông cũng làm chúng tôi nổi giận đấy, và mọi người hẳn cũng sẽ đổ
đi tìm những kẻ đã sát hại ông. Nhưng giờ đây chúng tôi – những người ngoài cuộc,
nhưng kể cả những người sống ở đây lẫn khách du lịch, những người không còn chỗ
nào khác tốt hơn để đi – chỉ cúi gục đầu xuống và tiếp tục công việc của mình.
Thông điệp duy nhất của cái chết của ông là chúng tôi
phải cẩn thận hơn và nhớ mình đang ở đâu. Và lạ hơn nữa, khi hành động như thế,
khi gục đầu và tiếp tục công việc, chúng tôi chợt nhận ra ông đã thấu thị cho
thị trấn chúng tôi. Ông từng nói thị trấn này có thể chịu đựng được sự thất bại
nhưng chỉ là tạm thời mà thôi. Mỗi lần sau thất bại, nền văn minh châu Âu lại
trở nên vững vàng hơn một chút ở khúc quanh dòng sông này, thị trấn luôn có thể
bắt đầu lại, và mỗi lần thật lại có thể phát triển thêm một chút. Trong hoà
bình mà hiện tại chúng tôi đang có, thị trấn không chỉ được tái thiết, nó còn
phát triển. Và sự nổi loạn và cái chết của cha Huismans thoảng qua rất nhanh.
Chúng tôi không có được nhãn quan rộng lớn của cha
Huismans. Một số trong chúng tôi có những ý tưởng riêng về người châu Phi và
tương lai của họ. Nhưng tôi thấy rằng chúng tôi đã thực sự chia sẻ lòng tin vào
tương lai với ông. Trừ phi chúng tôi tin rằng những thay đổi đó đến với chúng
tôi từ châu Phi, chúng tôi đã không thể nào làm công việc của mình. Có lẽ ở đó
kgcó gì quan trọng. Và mặc những cái bề ngoài – chúng tôi cũng có thái độ với
chính mình như ông từng có với chính ông. Ông tự coi mình là một phần của một
tiến trình lịch sử vĩ đại, ocó thể đã thấy trước cái chết của chính mình là cái
gì đó chẳng hề quan trọng, không mảy may gây xáo trộn - chúng tôi cũng cảm thấy
như thế nhưng từ một khía cạnh khác.
Chúng tôi là những người đơn giản có các nền văm minh
nhưng không có nhà. Mỗi khi được phép, chúng tôi làm những việc phức tạp chúng
tôi phải làm, chúng tôi giống như đàn kiến. Chúng tôi không có nhiều tiện nghi,
nhưng vào những khoảng thời gian tốt hoặc xấu chúng tôi sống với sự hiểu biết rằng
chúng tôi đáng giá, rằng sự lao động của chúng tôi vào bất cứ lúc nào cũng có
thể bị bỏ phí, rằng chính chúng tôi cũng có thể bị thổi bay, và rằng những người
khác có thể thay thế chúng tôi. Với chúng tôi đó là khía cạnh đau đớn, khi mà
những người khác có thể tới vào thời điểm tốt đẹp hơn. Nhưng chúng tôi sống như
đàn kiến, chúng tôi tiếp tục sống như thế.
Những người ở vị trí chúng tôi chuyển nhanh từ sợ hãi
sang lạc quan và lại quay trở lại sầu thảm. Giờ đây chúng tôi đang sống trong
giai đoạn bùng nổ kinh tế. chúng tôi cảm thấy trí tuệ cai trị mới – và cả nghị
lực – từ thủ đô, có nhiều tiền đồng được lưu hành, và hai thứ đó – trật tự và
tiền bạc – là đủ để mang lại niềm tin cho chúng tôi. Nó trả lại cho chúng tôi
nghị lực, và nghị lực, hơn là tính nhanh chóng hay vốn lớn, là cái chúng tôi sở
hữu.
Mọi loại dự án được bắt đầu. Các cơ quan chính phủ khác
nhau lại đến; và thị trấn ít nhất cũng trở thành nơi có thể làm việc được.
Chúng tôi đã có lại tàu hơi nước, giờ đây sân bay đã được hoạt động trở lại và
mở rộng, để đón những chuyến bay từ thủ đô (chở lính). Các cité đông người dần,
những cité mới cũng được xây dựng, dù chẳng thấm tháp gì so với làn sóng người
đến từ làng mạc, chúng tôi không bao giờ mất đi những trại ngủ đêm đêm trên những
đường phố và quảng trường trung tâm. Nhưng giờ đây đã có xe buýt, và nhiều taxi
hơn. Chúng tôi thậm chí còn có được một hệ thống điện thoại mới. Những cái đó
còn xa mới có thể coi là tốt đối với nhu cầu của chúng tôi, nhưng đó là cái mà
Người Đàn Ông Vĩ Đại ở thủ đô muốn cho chúng tôi.
Sự tăng lên của dân số có thể được tính qua số lượng
rác rưởi trong các cité. Họ không đốt rác của mình bằng dầu như chúng tôi vẫn
làm, họ chỉ ném nó ra những con đường nham nhở - những thứ rác rưởi châu Phi rời
rã, đầy tro. Những đống rác đó, dù thường xuyên được mưa gột đi, vẫn lớn lên
tháng này qua tháng nọ thành những cái đồi nhỏ vững chắc, và những cái đồi đúng
nghĩa về chiều cao như những ngôi nhà bằng bê tông trong các cité.
Không ai muốn chuỷên rác đi. nhưng những chiếc taxi sặc
mùi thuốc tẩy uế, các quan chức sở y tế chỗ chúng tôi tự hào về những chiếc
taxi. Và vì lý do đó. Thời thực dân phương tiện giao thông công cộng theo luật
được sở tẩy uế mỗi năm một lần. Những người tẩy uế phải trả tiền. Tập quán này
vẫn được ghi nhớ/ Ai cũng muốn được làm việc tẩy uế này, giờ đây taxi và xe tải
không còn được tẩy uế mồi năm một lần nữa, mà bất kỳ lúc nào chúng bị tóm. Mỗi
lần như thế phải trả phí, và những người tẩy uế ởtrongz chiếc xe jeep rình taxi
và xe tải trốn giữa những ngọn đồi rác. Những con đường bụi đỏ của thị trấn
chúng tôi, hàng năm nay bị bỏ quên, đã nhanh chóng oằn xuống dưới sức nặng của
giao thông, và những cuộc săn lùng tẩy uế đó theo một cách nào đó là một chuỷên
động chậm chạp đáng tò mò, với những chiếc xe của người săn lùng và bị săn lùng
chạy ngược xuôi những nếp gấp của đường như những chiếc thuyền ngoài biển.
Mọi người – cũng như các quan chức y tế - những người
làm việc qua ngày đều rất quyết tâm và sốt sắng làm việc đó, những người của
bên thuế, cảnh sát, thậm chí quân đội. Đội ngũ hành chính đã dầy lên, có những
người mà bạn có thể phải gọi đến. Bạn có thể được việc nếu bạn biết cách làm.
Và thị trấn ở bên khúc quanh của dòng sông lại bắt đầu
cái mà cha Huismans từng thường xuyên nói, rất lâu trước khi những người bên
kia bờ Ấn độ dương hau châu Âu tới. Nó đã trở thành trung tâm thương mại cho cả
vùng, một vùng rộng lớn. Giờ đây các marchand đến từ rất xa, trải qua hành
trình khó khăn hơn Zabeth nhiều, một số người phải đi mất cả tuần lễ. Tàu hơi
nước không còn đi dưới thị trấn của chúng tôi nữa, trên ghềnh nước chỉ có những
thuyền độc mộc (một số có động cơ lắp ngoài) và một số xuồng lớn. Thị trấn của
chúng tôi trở thành một kho hàng hoá, và tôi đã có được một số hãng (trở lại những
cái mà Nazruddin từng có) để mua các đồ dùng mà cho đến lúc này tôi chỉ mới mua
đi bán lại lẻ.
Có tiền trong các hãng. Sản phẩm càng đơn giản bao
nhiêu, hàng hoá càng dễ bán bấy nhiêu. Đó là một kiểu buôn bán khác với buôn
bán nhỏ lẻ. Chẳng hạn như pin điện – tôi đã mua và bán khá nhiều rất lâu trước
khi chúng tới, tôi không còn phải chạm tay vào chúng hoặc thậm chí không cần
nhìn đến chúng. Cái này cũng giống như buôn bán bằng nước bọt, mọi thứ trên giấy
tờ cả, cũng giống như một dạng trò chơi – cho đến một ngày bạn chợt nhận ra là
pin đã tốt, và bạn đến kho hải quan và nhìn thấy chúng ở đó, những thứ mà những
người công nhân ở đâu đó đã làm ra. Những thứ đồ hữu dụng, những thứ đồ cần thiết
đó – chúng có thể được nhận trong một hộp giấy màu nâu, nhưng những người đã
làm ra chúng hẳn là mất rất nhiều công để dán nhãn đẹp lên chúng với những lời
quảng cáo đầy hấp dẫn. Buôn bán, hàng hoá! Một sự bí hiểm mới lớn làm sao!
Chúng tôi không thể làm ra những thứ đồ mà chúng tôi bán, chúng tôi hiếm khi hiểu
được những nguyên lý của chúng. Chỉ có tiền mới mang lại những thứ kỳ diệu đó
cho chúng tôi, những người ở sâu trong vùng cây bụi, và chúng tôi buôn bán
chúng theo cách mới ngẫu nhiên làm sao!
Những người bán hàng từ thủ đô, phần lớn là người châu
Âu, giờ thích đi máy bay đến hơn là trôi nổi bảy ngày trên tàu thuỷ klhi ngược
dòng và năm ngày khi xuôi dòng, đã bắt đầu ở lại chỗ Van der Meyden, và họ tạo
ra một chút đa dạng cho cuộc sống xã hội của chúng tôi. Tại câu lạc bộ Hellenic,
tại các quầy bar, chí ít họ cũng mang tới hơi hướng của châu Âu và thành phố lớn
– bầu không khí trong đó ,trong những câu chuyện của họ, khiến tôi có cảm tưởng
Nazruddin từng sống ở đó.
Mahesh, cửa hiệu của anh ở đối diện với Van der Weyden,
thấy được những người đến và đi, và sự phấn khích đã dẫn anh vào một loạt những
cuộc phiêu lưu thương mại nhỏ. Mahesh thật lạ lùng. Anh luôn nhìn thấy một sự
bùng nổ kinh tế lớn, nhưng anh có thể tiêu tốn nhiều tuần lễ cho những thứ khá
là nhỏ nhặt.
Một hôm anh mu avề một cái máy cắt chữ số và anh mua một
đống những tờ giấy nhựa để dán số hoặc chữ. Ý tưởng của anh là cung cấp bảng
tên cho thị trấn. Anh tập luyện ở nhà, Shoba nói âm thanh thật là khủng khiếp.
Mahesh, trong căn hộ và tại cửa hiệu của mình, trưng ra những mẫu bảng tên làm
được như thể chính anh, chứ không phải cái máy, đã tạo ra những chữ đẹp đẽ đó.
Tính hiện đại và chính xác – và, hơn tất cả, cái vẻ "công nghiệp" của
những tấm bảng – thực sự làm anh phấn khích, và anh chắc chắn cũng làm những
người khác phấn khích theo.
Anh đã mua bộ dụng cụ từ một người bán hàng ở chỗ Van
der Weyden. Đó thực sự là cách làm ăn được chăng hay chớ của Mahesh, khi nghĩ cần
có những đơn đặt hàng in chữ, anh chỉ có thể nghĩ đến việc chạy ngang qua đường
đến chỗ Van der Weyden – ngược lại với chặng đường người bán hàng đã tới bán
máy cho anh. Anh dồn toàn bộ hy vọng của mình vào Van der Weyden. Anh làm lại hết
các bảng số phòng, mọi thứ bảng toilet, và anh gắn báng vào hầu hết cánh cửa ở
tầng dưới. Chỉ Van der Weyden thôi cũng khiến anh bở hơi tai hàng tuần và hoàn
được vốn cái máy. Nhưng những người sở hữu Weyden (một cặp vợ chồng người
italia trung niên ở tầng dưới cùng, trốn đàng sau những người châu Phi của
mình) không muốn dùng chúng. Và không nhiều người trong số chúng tôi cảm thấy
nhu cầu phải có tên mình trên những mảnh gỗ hình tam giác trên bàn. Thế là ý tưởng
tiêu tan, thứ dụng cụ đó bị bỏ xó.
Mahesh, mỗi khi ấp ủ một ý tưởng mới, lại thích tỏ ra
bí hiểm. chẳng hạn, thời gian anh nhập một chiếc máy từ Nhật Bản để cắt các mẩu
gỗ phẳng nhỏ và thìa ăn kem, anh không chịu nói thẳng ra. Anh bắt đầu bằng việc
tặng tôi một mẫu thìa trên một mảnh giấy mà người bán hàng đã đưa anh. Tôi nhìn
vào cái thìa nhỏ có hình chiếc giầy. Nó muốn nói lên điều gì? Anh bảo tôi ngửi
và nếm nó, và khi tôi làm vậy anh nhìn tôi theo cái cách làm tôi cảm thấy tôi sắp
phải ngạc nhiên đây. Chẳng có ngạc nhiên nào cả, anh chỉ cho tôi thấy – cái gì
đó mà tôi phải nói mà tôi chưa bao giờ ngừng nghĩ đến – rằng những cái thìa và
que kem này không có mùi vị gì hết.
Anh muốn biết liệu có loại gỗ nào trong vùng được như gỗ
Nhật không. Nhập khẩu gỗ từ Nhật với chiếc máy quả là quá phức tạp, và có thể
làm cho giá thành thìa và que kem đắt hơn cả kem. Vì vậy vào tuần sao chúng tôi
chỉ nghĩ và nói về gỗ. Ý tưởng này hấp dẫn tôi, tôi cũng chú ý vào đó, và bắt đầu
nhìn cây cối theo một cách khác. Chúng tôi nếm, ngửi và nếm các loại gỗ khác
nhau, trong đó có cả một số loại mà Daulat, người với những chiếc xe tải, mang
đến cho chúng tôi trên đường đi về phía đông. Nhưng rồi tôi nhận ra là thật
quan trọng việc tìm hiểu – trước khi chạy máy làm thìa – rằng liệu người dân địa
phương, với khứu giác của họ với gỗ, có sẵn sàng ăn kem không. Không hiểu tại
sao không ai nghĩ đến việc sản xuất kem, dù sao chúng tôi có người Italia trong
thị trấn cơ mà. Và làm kem thế nào đây, lấy sữa và trứng ở đâu ra bây giờ?
Mahesh nói "Anh cần trứng để làm kem à?"
Tôi nói "Tôi không biết. Tôi chỉ hỏi anh
thôi"
Kem không phải điều Mahesh quan tâm. Anh chỉ quan tâm đến
ý tưởng về cái máy đơn giản này, hay đúng hơn là ý tưởng là người duy nhất
trong thị trấn sở hữu một cái máy như thế. Khi Shoba gặp anh, anh là một người
sửa xe máy, và anh đã từng rất hãnh diện với lời tán tụng của cô rằng anh hơn
loại người đó rất nhiều. anh vẫn yêu thích những cái máy nhỏ bé và các loại dụng
cụ điện và coi chúng như là những dụng cụ huyền bí làm nên cuộc sống.
Tôi biết một số người như thế ở bờ biển, những người
trong cộng đồng chúng tôi, và tôi tin những người như thế tồn tại ở bất kỳ đâu
không làm ra được máy móc. Những người đó khéo tay và giỏi giang theo cách của
mình. Họ lú lẫn vì những thứ máy móc nhập về. Đó là một phần của trí tuệ của họ,
nhưng họ sớm bắt đầu cư xử như thể họ không chỉ sở hữu những cái máy, mà cả bằng
sáng chế ra nó nữa vậy, có vẻ họ thích thành những người duy nhất trên đời sở hữu
những dụng cụ huyền bí đó. Mahesh tìm kiếm những thứ đồ nhập khẩu tuyệt diệu mà
anh có thể độc quyền sở hữu, những thứ đồ đơn giản có thể tạo ra một lối tắt đến
với quyền lực và tiền bạc. Chính trong lối nghĩ đó mà Mahesh chỉ trên những
marchand một hai bậc, những người vẫn đến thị trấn mua đồ hiện đại để về bán ở
làng.
Tôi thường tự hỏi bằng cách nào mà một người như Mahesh
có thể tồn tại như đã tồn tại ở thị trấn của chúng tôi. Đó là một kiểu minh triết
lặng lẽ và tính cẩn trọng, không nghi ngờ gì nữa. Nhưng tôi cũng bắt đầu cảm thấy
anh sống sót được chính là vì cái tính vô tình đó, không mảy may nghi ngờ hay
lo lắng gì sâu xa, và – mặc dù anh luôn nói đến việc ra đi đến sống ở một đất
nước tốt đẹp hơn (lối nói chuyện điển hình giữa chúng tôi) – không hề có tham vọng
gì lớn hơn. Anh hợp với nơi này, anh có thể thấy khó khăn khi phải sống ở bất kỳ
nơi nào khác.
Shoba là vợ anh. Cô nói với anh – hoặc bởi sự tin tưởng
của cô vào anh – anh giỏi giang đến thế nào, và tôi tin anh cũng tự coi mình là
người mà vợ anh nghĩ. Ngoài ra, việc đến đâu thì anh xoay đến đó. Và giờ đây
theo cách vô tình nhất, hầu như không có chủ định nào về gí mật hay lừa gạt,
anh bỗng dính vào những vụ buôn bán "lớn" làm tôi sợ hãi khi anh nói
với tôi về chúng. Dường như anh không có khả năng chống lại bất cứ gì có thể được
miêu tả như một lời chào hàng. Và phần lớn những đơn chào hàng đó giờ đây đến với
anh từ quân đội.
Tôi không mấy hạnh phúc với quân đội mới. Tôi thích những
người đến từ các bộ lạc chiến đấu hơn, với đặc điểm hoang dã của họ. Tôi hiểu
niềm tự hào bộ tộc của họ, và – luôn luôn nghĩ đến điều đó – tôi thấy họ ngay
thẳng. Các sĩ quan của quân đội mới thuộc một giòng giống khác. Không có luật
nhà binh ở đó, không có. Tất cả đều có những cách thức biến đổi giống như
Ferdinand, và họ thường là những người trẻ tuổi giống như Ferdinand. Họ hung
hăng, nhưng lại không có vẻ lịch thiệp phô trương như ở Ferdinand.
Họ mặc những bộ quân phục theo cách một thời Ferdinand
từng mặc đồng phục của trường trung học, họ tự coi mình vừa là những con người
mới của châu Phi, vừa là người của châu Phi mới. Họ chơi trò đó cùng với lá quốc
kỳ và chân dung Tổng thống – cả hai giờ đây lúc nào cũng đi đôi với nhau – khiến
thoạt đầu tôi nghĩ, dù sao đất nước cũng đã trải qua, và tất cả những gì xảy ra
với họ, các sĩ quan, mọi nồi may mắn đã đưa họ đến nơi phải đến, lúc đầu tôi
nghĩ những sĩ quan mới này đứng về phía niềm tự hào mới, có tính chất xây dựng.
Nhưng điều này hoá ra lại đơn giản hơn. Lá cờ và chân dung Tổng thống chỉ giống
như là những tấm bùa hộ mệnh của họ, nguồn gốc quyền lực của họ. Những người trẻ
tuổi đó không thấy rằng cần xây dựng cái gì đó ở đất nước họ. Những gì liên
quan đến họ, tất cả đã có ở đây rồi. Họ chỉ cần lấy đi thôi. Họ tin rằng, một
khi dã là họ, họ có quyền để mang đi, và sĩ quan ở cấp càng cao tính dở hơi đó
lại càng lớn – đó là từ đủ nghĩa nhất.
Với súng và xe jeep, những người đó trở thành những kẻ
săn lùng ngà voi và ăn cắp vàng – và cả nô lệ nữa, chẳng khác gì thời xa xưa của
châu Phi. Những người đó có thể buôn bán nô lệ, nếu có một thị trường như thế.
Họ quay sang các thương gia ở thị trấn khi muốn rửa vàng của mình, hoặc đặc biệt
hơbn, bán ngà voi mà họ đã cướp được. Các quan chức và chính phủ khắp châu lục
này đều dính dáng vào hoạt động buôn bán ngà voi mà chính họ tuyên bố là bất hợp
pháp. Điều này làm cho buôn lậu trở thành dễ dàng hơn, nhưng tôi rất ghét dính
vào đó, vì một chính phủ tự mình vi phạm luật lệ mình đặt ra cũng rất dễ dàng
làm hại bạn. Đối tác làm ăn hôm nay của bạn ngày mai rất có thể thành người bỏ
tù bạn, hoặc còn có thể tệ hơn thế nữa.
Nhưng Mahesh không quan tâm đến điều đó. Giống như một
đứa trẻ, tôi thấy vậy, anh nhận mọi thư thuốc độc bọc đường mà người ta trao
cho anh. Nhưng anh không phải là một đứa trẻ, anh biết trogn đường có thuốc độc.
Anh nói "Ồ, họ sẽ làm hại anh thôi. Nhưng nếu họ
làm hại anh, họ sẽ trả tiền. Thế là đủ. Bạn được bù cho cái giá đã trả bằng
phúc lợi. Anh chỉ trả tiền thôi. Tôi không nghĩ là anh hiểu, Salim ạ. Và đó là
một điều không dễ hiểu đâu. Ở đây không có gì là đúng là sai hết cả. Không có
gì là đúng hết".
Đã hai lần tôi nhận được những cú điện thoại vô nghĩa của
anh như một lời cầu cứu, và tôi đã phải mang nhiều thứ khỏi căn hộ của anh.
Lần đầu tiên, một buổi chiều ,sau khi nói không ra đầu
ra đũa gì về tennis và giầy dép, anh bảo tôi lái xe đến căn hộ của anh và bóp
còi xe. Anh không xuống. Anh mở cửa phòng khách và hét xuống cho tôi đang ở dưới
phố "Tôi đang bảo đứa hầu mang giầy tennis xuống cho anh. Cứ đứng yên đấy,
Salim!" và vẫn đứng bên cạnh cửa sổ, anh quay vào và hét với ai đó bên
trong "Phonse! Aoutchikong cho Mis Salim!" aoutchikong, bắt nguồn từ
caoutchouc của tiếng Pháp chỉ cao su, là thổ ngữ chỉ giầy vải. trước mặt nhiều
người, đứa hầu Ildephonse mang xuống cái gì đó được bọc rất kỹ trong giấy báo.
Tôi để nó vào băng ghế sau và lái xe đi không nhìn ngang nhìn ngửa. Sau đó khi
mở gói ra, thì lại là một bó tiền nước ngoài, và, ngay khi trời tối, bó tiền được
đưa ngay xuống cái hố dưới sàn nhà cạnh chân cầu thang lộ thiên. Tôi giúp
Mahesh như thế, dù sao cũng chỉ để khích lệ anh. Lần sau đó tôi phải chôn một
ít ngà voi. Chôn ngà voi! Chúng ta đang sống trong thời đại nào thế này? Tại
sao người ta lại muốn ngà voi để làm, ngoài việc khắc chạm lên đó – tuy ngày
nay chẳng mấy ai làm như thế - những gạt tàn thuốc lá, tượng nhỏ và những thứ lặt
vặt?
Những chuyến buôn bán như thế đem lại tiền cho Mahesh,
và anh tỏ ra biết ơn tôi và lôi kéo tôi vào con đường bằng cách thêm vào kho
vàng nhỏ bé của tôi. Anh nói rằng không có gì là đúng cả. Tôi thấy thật khó
thích ứng được với điều đo, nhưng anh làm điều đó thật là giỏi. Anh luôn rất ngộ
và được chăng hay chớ, không bao giờ mất bình tĩnh. Tôi buộc phải ngưỡng mộ anh
về điều này, dù tính được chăng hay chớ có thể dẫn anh tới những tình huống khá
là lố bịch.
Một hôm anh nói với tôi, với cái kiểu ngây thơ quá mức
anh thường có khi định nói với tôi về một vụ buôn bán nào đó "Salim, anh
đã đọc báo nước ngoài. Anh có bao giờ đọc thấy gì về thị trường đồng không? Nó
như thế nào?" Thế nào cơ đồng cao giá. Chúng tôi đều biết điều đó, đồng là
nguyên nhân cuộc bùng nổ kinh tế nho nhỏ của chúng tôi. Anh nói "Người Mỹ
đang đánh nhau. Tôi nghe nói trong hai năm qua họ dùng nhiều đồng hơn cả thế giới
trong hai thế kỷ vừa qua". Đó là lối nói chuyện thậm xưng, một cuộc chuyện
gẫu của những người bán hàng tại chỗ Van der Meyden. Mahesh, vừa đi qua đường,
vẫn lủân quẩn với cuộc chuyện gẫu đó, không có nó, anh hẳn có ít ý tưởng hơn
anh từng có về những điều đang diễn ra trên thế giới.
Từ đồng anh quay sang các kim loại khác, và chúng tôi
nói chuyện một lúc, khá thờ ơ, về những khả năng của thiếc và chì. Rồi anh nói
"Thế còn Uranium thì thế nào nhỉ? Hiện nay giá cả của nó ra sao?"
Tôi nói "Tôi không nghĩ họ đăng giá uranium".
Anh nhìn tôi vẻ rất ngây thơ "Nhưng hẳn là cũng phải
cao đấy nhỉ? Một thằng cha ở đây muốn bán một mẩu"
"Họ bán uranium theo các mẩu à? Thế trông ra
sao?"
"Tôi đã nhìn thấy đâu. Nhưng thằng ca muốn bán nó
với giá một triệu đô la".
Đó là cái cách của chúng tôi. Một ngày làm vỡ mặt kiếm
sống, mở những cái lon hoen rỉ, nấu ăn bằng lò than trên những cái hố đào trên
mặt đất, và giờ đây thì nói về hàng triệu đô la như thể chúng tôi từng nói về
hàng triệu trong đời mình vậy.
Mahesh nói "Tôi nói thường thì nó chỉ có thể bán
cho một thằng cha giàu có ngoại quốc, thế là hắn bảo tôi đi tìm. Anh biết ông
già Mancini rồi đấy. Ông là lãnh sự một số nước ở đây, đó là một đường dây buôn
bán thật tuyệt, tôi luôn nghĩ vậy. Tôi đến gặp ông. Tôi nói thẳng vấn đề ra,
nhưng ông ấy không thích. Thực tế, Mancini điên lắm. Ông chạy ra đóng cửa rồi
ngồi sụp xuống, rồi bảo tôi đi ngay. Mặt ông ta đỏ ửng, đỏ lắm. Mọi người đều sợ
Người Đàn Ông Vĩ Đại ở thủ đô. Anh nghĩ tôi sẽ nói gì với ông tướng hả, Salim?
Hắn cũng sợ no6 t. hắn nói hắn trộm nó từ một chỗ tuyệt mật. Tôi không thích
thành kẻ thù của ông tướng. Tôi không thể để ông ta nghĩ tôi không cố làm. Anh
nghĩ tôi sẽ nói với ông ta như thế nào đây? Nghiêm túc đấy, nghiêm túc đấy"
"Anh nói ông ấy sợ?"
"Rất sợ".
"Thế thì bảo ông ấy đang bị theo dõi và không được
đến gặp anh nữa"
tôi đi tìm những quyển tạp chí khoa học và bách khoa
toàn thư cho trẻ con của mình (tôi từ lâu đã thích chúng) và đọc về uranium.
Uranium là một trong những thứ chúng ta đều từng nghe thấy nhưng hiếm ai trong
số chúng ta biết cặn kẽ. Giống như dầu lửa vậy. Tôi thường nghĩ, khi đọc về các
mỏ dầu, rằng dầu chảy trong những dòng suối ngầm. Chínhì những mẩu bách khoa
toàn thư đã cho biết mỏ dầu là đá và thậm chí đá hoa cương, với những túi dầu
nhỏ. Theo đúng cách như thế, tôi cho rằng ông tướng, nghe nói về giá trị lớn của
uranium, đã nghĩ nó như là một thứ kim loại siêu quý, một kiểu quặng vàng.
Mancini lãnh sự hẳn là cũng nghĩ thế. Sau khi đọc tôi biết phải xử lý hàng tấn
quặng rồi cô lại – thành những tảng to đùng.
Ông tướng, khi chào hàng một "mẩu" hẳn là đã
tự bịp mình. Nhưng vì một lý do nào đó – Mahesh có thể nói với ông là ông ta
đang bị theo dõi – ông ta sẽ không quấy rầy Mahesh nữa. và không lâu sau đó ông
đã biến khỏi thị trấn của chúng tôi. Đó chính là phương pháp của Tổng thống :
ông cho người của mình quyền lực và sức mạnh nhưng ông không bao giờ cho phép họ
được ở lâu một nơi để trở thành tiểu vương tại đó. Ông đã tránh được rất nhiều
rắc rối.
Mahesh lại trở nên điềm đạm như trước. Người duy nhất
còn sợ hãi là Mancini, viên lãnh sự.
Những ngày đó chúng tôi đã sống như vậy đấy. Chúng tôi
cảm thấy có kho báu ở quanh mình đang đợi để được tìm thấy. Chính cây bụi đã
cho chúng tôi cảm giác đó. Trong khoảng thời gian trống rỗng, lười biếng, chúng
tôi khá thờ ơ với cây bụi, trong những ngày bạo loạn nó đè nghiến chúng tôi. Giờ
đây nó làm chúng tôi phấn khích, cái mặt đất không quen thuộc, với lời hứa về
cái không quen thuộc. Chúng tôi quên rằng những người khác từng sống ở đây trước
chúng tôi, từng cảm thấy như chúng tôi vậy.
Tôi tham gia vào sự bùng nổ. Tôi hăng hái theo cách nhỏ
bé nhất của mình. Nhưng tôi cũng không ngừng. Bạn sẽ rất nhanh chóng quen với
hoà bình. Cũng giống như khi bạn mạnh khoẻ - bạn cho điều đó là được cho, và
quên rằng bạn từng đau ốm, lại mạnh khoẻ trở lại dường như giống với mọi thứ.
Và với hoà bình và sự bùng nổ lần đầu tiên trong đời, tôi bắt đầu thấy thị trấn
thật bình thường.
Căn hộ, cửa hiệu, cái chợ bên ngoài cửa hiệu, câu lạc bộ
Hellenic, những quầy bar, cuộc sống của dòng sông, những chiếc thuyền độc mộc,
những cây dạ lan hương nước – tôi biết tất cả thật rõ. Và đặc biệt vào những buổi
chiều nóng nực – với ánh sáng chói chang, những cái bóng đen ngòm, cảm giác về
sự trì trệ - dường như không còn hứa hẹn gì thêm nữa với con người.
Bản thân tôi không trôi qua phần còn lại của những ngày
của mình tại khúc quanh dòng sông như Mahesh và những người khác. Trong tâm trí
tôi chia tách mình với họ. Tôi thường nghĩ mình là một người chỉ đi lướt qua.
Nhưng đâu mới là chỗ tốt? Tôi không nói được. Tôi không bao giờ nghĩ thực sự thấu
đáo về điều đó. Tôi đang chờ đợi một sự loé sáng đến với mình, dẫn tôi đến chỗ
tốt và "cuộc đời" tôi vẫn hằng trông đợi.
Thỉnh thoảng thư từ của cha tôi cũng đến từ bờ biển, nhắc
tôi về ý muốn của ông thấy tôi được ổn định – lấy cô con gái của Nazruddin, đó
gần như là một cam kết gia đình. Nhưng hơn bao giờ hết, tôi thấy mình không sẵn
sàng để làm việc đó. Dù đó là một cơ hội để thấy rằng bên ngoài chỗ này vẫn còn
cả một cuộc đời chờ đợi tôi, tất cả những mối quan hệ trói buộc con người vào
trái đất này và cho anh ta cảm giác mình có một chỗ nào đó. Nhưng tôi biết rằng
điều này không thực sự giống như thế. Tôi biết rằng với chúng tôi thế giới
không còn an toàn được như thế nữa.
Và các sự kiện lại đến làm khuấy độngz lo lắng của tôi.
Có biến loạn ở Uganda, nơi Nazruddin có nhà máy tuốt bông. Uganda cho đến lúc
này vẫn là đất nước an toàn và phát triển mà Nazruddin từng thử lôi kéo chúng
tôi đến, đất nước đón nhận những người tị nạn từ các nước láng giềng. Giờ đây tại
chính Uganda một vị vua lại bị lật đổ và buộc phải rời khỏi đất nước, Daulat
mang đến những câu chuyện về một quân đội đang lớn mạnh. Nazruddin, như tôi còn
nhớ, sống với niềm tin rằng, dù may mắn, cuối cùng ông sẽ gặp những chuyện tồi
tệ, và tôi nghĩ sự may mắn của ông hẳn bây giờ đã bỏ đi. Nhưng tôi nhầm, sự may
mắn vẫn tiếp tục ở lại với Nazruddin. Biển động ở Uganda kéo dài không lâu, chỉ
mình ông vua phải chịu. Cuộc sống ở đó dần trở lại bình thường. Nhưng tôi bắt đầu
lo sợ cho Nazruddin và gia đình ông, và ý tưởng cưới con gái ông thôi không còn
là ý nghĩ về một trách nhiệm gia đình đúng đắn nữa. Nó đã trở thành một thứ
trách nhiệm đè nặng, và tôi cho nó vào tận cùng tâm trí mình như cái gì đó tôi
có thể sẽ phải đối mặt khi tình thế bắt buộc.
Thế nên giữa cuộc bùng nổ kinh tế tôi lại rất lo lắng
và trở nên gần như không thích thú và bồn chồn giống lúc đầu. Nó không chỉ nằm
bên ngoài những áp lực; hoặc sự cô độc và tính khí của tôi. Phải làm gì đó với
bản thân nơi này, theo cách đã bị hoà bình làm biến đổi. Đó không phải là lỗi của
ai hết. Đó chỉ là cái gì đó đã xảy ra. Trong những ngày nổi loạn tôi từng có cảm
giác rõ ràng nhất về vẻ đẹp của dòng sông và khu rừng, và đã tự hứa với mình phải
học điều đó, sở hữu được vẻ đẹp đó. Tôi đã không làm gì để được như thế, khi
hoà bình tôi tôi chỉ đơn giản là thôi không tự nhìn vào mình nữa. Và giờ đây
tôi cảm thấy sự huyền bí và bí ẩn của nơi này đã biến mất.
Trong những ngày hoảng sợ đó tôi cảm thấy chúng tôi đã
bị chạm tới, qua những người châu Phi, với tinh thần của dòng sông và khu rừng,
và chỉ thế thôi cũng đẩy thêm lên sự căng thẳng. Nhưng tất cả tinh thần giờ đây
dường như đã rời khỏi chốn này, như thể sau cái chết của cha Huismans, các linh
hồn đã rời bỏ mặt nạ của mình. Chúng tôi đã bồn chồn biết bao nhiêu cho những
người châu Phi trong những ngày đó, không có ai trong số chúng tôi được như vậy.
Chúng tôi là những kẻ đột nhập, những người bình thường, còn họ là những người
có tinh thần. Giờ đây linh hồn đã rời khỏi họ, họ thật bình thường, đê tiện, khốn
khổ. Không cần nỗ lực chúng tôi cũng trở thành những ông chủ, với những quyền
năng và xảo thuật họ cần. Và chúng tôi đơn giản biết bao. Trên mảnh đất giờ đây
sự tầm thường lại chiếm lĩnh cuộc sống tầm thường của chúng tôi, tại các quầy
bar và nhà thổ, hộp đêm. Ôi, thật nghèo nàn. Nhưng chúng tôi còn biết làm gì nữa
đây? Chúng tôi chỉ làm cái chúng tôi có thể làm. Chúng tôi theo triết lý của
Mahesh: chúng ta tiếp tục thôi.
Mahesh làm nhiều hơn thế. Anh đã làm xong một cú. Anh
tiếp tục tra cứu các catalog, điền vào những cái phiếu, viết thêm nhiều thông
tin, và cuối cùng, anh có được lô hàng anh tìm kiếm, cái mà anh có thể nhập khẩu
toàn bộ và sử dụng như một lối đi tắt tới công việc kinh doanh và tiền bạc. Anh
có được quyền uỷ nhiệm của Bigburger ở thị trấn chúng tôi.
Tôi không chờ đợi điêu này. Anh đang điều hành một cửa
hiệu nhỏ bán đủ mọi loại đồ sắt, đồ điện, máy ảnh, ống nhòm, hàng đống đồ lặt vặt
tiện dụng. Hamburger – Bigburger – chẳng hề giống với những gì anh đang buôn
bán. Tôi thậm chí còn không tin người dân thị trấn sẽ tới Bigburger. Nhưng anh
chẳng hề nghi ngại đến điều đó.
Anh nói "Họ đã tiến hành nghiên cứu thị trường và
quyết định mở một chiến dịch ở châu Phi. Họ có một văn phòng cho khu vực hiện
đang nằm ở một nơi thuộc quyền người Pháp ở bờ biển phía Tây. Hôm nọ thằng cha
đã tới và đo đạc đủ mọi thứ. Họ có vẻ như không chỉ gửi nước sốt đến đâu, anh
cũng biết mà, Salim. Họ gửi đến nguyên cửa hiệu".
Và họ làm đúng như vậy thật. Các loại thùng được chở đến
bằng tàu thuỷ trong suốt vài tháng chứa đủ toàn bộ một cửa hàng: bếp lò, máy
đánh sữa, máy pha cà phê, cốc chén, bát đũa, bàn ghế, quầy tính tiền, ghế đẩu,
tường được đo đạc cẩn thận với dòng chữ Bigburger. Và sau hết là một đống những
thứ đồ chơi: những lọ dấm của Bigburger, hộp đựng ketchup của Bigburger, thực
đơn và chỗ để thực đơn của Bigburger, và những câu quảng cáo dễ mến sau:
"Bigburger – khổng lồ - đẹp tuyệt", với những bức ảnh đủ loại khác
nhau về Bigburger.
Tôi nghĩ những bức ảnh của Bigburger trông giống như những
cặp môi trơn nhẵn màu trắng của bánh trên những cái lưỡi đen trộn lẫn thức ăn.
Nhưng Mahesh không thích khi tôi nói với anh như vậy, và tôi quyết định không
nói điều gì không mang tính kính trọng về Bigburger nữa. Mahesh hết sức vui nhộn
về dự án, nhưng ngay khi những thứ đồ lặt vặt tới anh lập tức trở nên cực kỳ
nghiêm trang, anh đã trở thành Bigburger.
Cửa hàng của Mahesh có cấu trúc khá đơn giản, những khối
bê tông chủân của thị trấn chúng tôi và không lâu cánh thợ Italia phải phá nó
đi cho những cái giá của Mahesh, phải đi lại đường điện, hàn chì lại, và sửa lại
một cái quầy bar có vẻ như được nhập khẩu từ bên Mỹ. Toàn bộ công việc chuẩn bị
cửa hàng được tiến hành, và thật là buồn cười khi có mặt ở Bigburger, rời khỏi
cái mùi cống rãnh, khỏi bụi và rác của đường phố, để bước vào một không gian hiện
đại, với các hình quảng cáo và đủ mọi thứ khác. Dù sao Mahesh cũng làm xong được
việc này.
Vẻ đẹp của cửa hàng cũng ảnh hưởng cả đến Shoba. Nó làm
cô trở nên có nghị lực và làm sống dậy trong cô cái gì đó liên quan tới tài làm
ăn của gia đình. Cô tổ chức địa điểm và sớm chạy nó êm ru. Cô sắp xếp những đợt
chuỷên thịt từ siêu thị mới của chúng tôi (giờ đây thịt đến từ Nam Phi, giống
như trứng) và cô dàn xếp với một người Italia về bánh mì. Cô huấn luyện đám bồi
bàn và lên lịch làm việc.
Ildephonse, đứa gia nhân, được lôi ra khỏi căn hộ và được
ấn lên đầu một cái mũ bếp trưởng Bigburger cùng áo vàng Bigburger và đứng đàng
sau quầy thu tiền. Chính Mahesh là người có ý tưởng gắn cho Ildephonse một cái
mác cho áo của anh ta với tên và chức danh – bằng tiếng Anh, cho có phong cách
lạ - Quản lý. Mahesh làm những việc nhỏ nhặt như thế và đôi khi làm bạn có cảm
giác, dù rất được chăng hay chớ, giờ đây bằng bản năng anh đã biết được phải quẫy
như thế nào ở thị trấn của chúng tôi. Anh nói anh gọi Ildephonse là quản lý để
tạo cảm giác cho người châu Phi về địa điểm mới, trông giàu có và cũng để thu
hút khách hàng người Phi. Và mỗi ngày anh để Ildelphonse quản lý trong vài tiếng
đồng hồ.
Dù sao Ildephonse cũng thật lạ lùng. Anh ta yêu bộ quần
áo Bigburger và anh ta yêu công việc mới của mình. Không ai lại nhanh nhẹn và
thân thiện, cũng như lo lắng làm bạn hài lòng hơn anh, khi Shoba và Mahesh ở
quanh đó. Họ tin tưởng Ildephonse, họ nói tướng lên là họ tin tưởng anh ta, tin
tưởng vào sự có mặt của anh ta. Nhưng ngay khi còn lại một mình, anh ta liền trở
thành một con người khác. Anh ta bỏ bê. Không phải cộc cằn, mà là bỏ bê. Tôi nhận
ra sự thay đổi này trong đội ngũ người làm châu Phi cả ở những nơi khác. Điều
này làm bạn cảm thấy trong khi làm việc theo cái lối hào nhóang khác nhau của
mình, họ chỉ đóng kịch với những người thuê họ, bản thân công việc chẳng mảy
may có ý nghĩa gì với họ, và họ có cái tài – khi ở một mình, và không ai để
đóng kịch cho xem, tự phân thân torng tâm trí ra khỏi địa điểm, công việc, bộ đồng
phục.
Bigburger là một thành công. Nhà Van der Weyden bên kia
phố, hài lòng kiêm itền từ giường và phòng của mình. Dịch vụ và đồ ăn tại đó
khiến người ta phải đi tìm cái ăn, và Bigburger có vi .trí hoàn hảo để chiếm
lĩnh sự buôn bán ẩn danh này. Bigburger hấp dẫn rất nhiều quan chức châu Phi và
cả người của quân đội – họ thich cách bài trí và sự hiện đại của nơi đây. Thế
là Mahesh, từ chỗ là chủ một cửa hiệu đồ sắt nhỏ vô danh, vụt trở thành trung
tâm của thị trấn chúng tôi.
Và điều này xảy đến thật nhanh chóng, trong vòng chưa đầy
một năm. Mọi thứ gIờ đây đều thật nhanh chóng. Cứ như thể mịo người phải nhanh
chân lên để bù cho những năm tháng đã mất, hoặc giả như ai cũng cảm thấy thời
gian thật ngắn ngủi, rằng địa điểm này có thể đóng lại bất cứ lúc nào.
Một hôm Mahesh nói với tôi "Noimon muốn mua lại của
tôi với giá hai triệu. Nhưng anh biết Noimon rồi đấy. Khi hắn ta trả hai, tức
là anh đáng giá bốn".
Noimon là một trong những người Hy Lạp giàu có ở chỗ
chúng tôi. Cửa hiệu đồ gỗ mới – đang bán rất chạy – chỉ là một trong những hoạt
động của ông ta. Hai triệu mà ông ta đề nghị là bằng đồng franc địa phương, ba
mươi sáu đồng bằng một đô la.
Mahesh nói "Tôi cho rằng chỗ của anh bây giờ cũng
đáng gía lắm. Nazruddin từng định bán nó cho tôi, anh cũng biết rồi đấy. Một
trăm năm mươi nghìn. Bây giờ anh nghĩ nó trị giá bao nhiêu rồi?"
Giờ đây ở đâu bạn cũng nghe thấy kiểu nói chuyện về bất
động sản như thế. Ai cũng say sưa tính xem mình kiếm chác được bao nhiêu từ cuộc
bùng nổ kinh tế, nó đáng giá bao nhiêu. Mọi người học được cách nói về những
con số khổng lồ một cách lạnh lùng.
Trước đã từng có một cơn sốt ngay trước khi kết thúc thời
thuộc địa, và khu ngoại ô đổ nát gần ghềnh nước là cái còn lại. Nazruddin từng
kể một câu chuyện về thời đó. Ông đã di đến dó vào một buổi sáng thứ bảy, đã
nghĩ rằng nơi này là đám cây bụi hơn là một bất động sản, và quyết định bán nó
đi. Ông thật là may mắn, nhưng giờ đây khu ngoại ô chết ngắc đó đang dần dần lấy
lại sinh khí. Sự phát triển hoặc tái phát triển đó đã trở thành đặc điểm quan
trọng nhất của cuộc bùng nổ của chúng tôi. Và nó là nguyên nhân của sự lên giá
nhà cửa trong thị trấn.
Vùng cây bụi gần ghềnh nước giờ đây đã được phát quang.
Đống đổ nát dường như là thường trực đã bị xe ủi san đi, những đại lộ mới sắp
được xây. Đó là việc làm của Người Đàn Ông Vĩ Đại, chính phủ đảm trách toàn bộ
khu vực này và đã quyết định nó trở thành đất của Nhà nước, và Người Đàn Ông Vĩ
Đại sẽ xây dựng cái gì đó giống như là một thị trấn nhỏ ở đây. Việc này sẽ diễn
ra rất nhanh. Tiền được đổ vào, đẩy vật giá tại thị trấn của chúng tôi leo
thang. Tiếng ì ầm sâu thẳm, làm rung chuyển mặt đất của những chiếc xe ủi hoà lẫn
với tiếng của ghềnh nước. Mỗi chuyến tàu thuỷ lại chở đến những người thợ xây dựng
và nghệ nhân người châu Âu, các chuyến bay cũng vậy. Nhà Van der Meyden hiếm
khi có đủ phòng cho thuê.
Mọi việc Tổng thống làm đều có nguyên do cả. Với tư
cách là người cầm cân nảy mực tại một vùng có nguy cơ nổi loạn, ông đã tạo ra một
khu vực mới, nơi ông và lá cờ của mình là tối thượng. Là người châu Phi, ông sẽ
xây dựng một thị trấn mới tại nơi từng là ngoại ô giàu có của người Âu – nhưng
cái ông sẽ xây lên sẽ có ý nghĩa vĩ đại. Tại thị trấn toà nhà duy nhất hiện đại
có "thiết kế" là của Van der Meyden, và với chúng tôi những khu nhà lớn
hơn của Khu thật là lung linh – mái hắt bằng bê tông, những tảng bê tông cỡ lớn,
kính nhiều màu. Những toà nhà nhỏ hơn – nhà ở và bungalow – giống với những cái
chúng tôi từng quen rồi hơn. Nhưng cả chúng cũng có kích thước lớn và, có điều
hoà nhiệt độ gắn vào nhiều chỗ như những khối nhà dựng lên, trông thật kỳ.
Không ai chắc chắn, dù sau khi một số nhà đã được hoàn
thành. Khu dùng để làm gì. Nhiều lời đồn dại về một trang trại thí điểm lớn và
trường nông nghiệp, một khu hội họp cho cả châu lục, nhà nghỉ cuối tuần cho những
công dân trung thành. Còn bản thân Tổng thống không có tuyên bố nào hết cả.
chúng tôi nhìn và tự hỏi khi nào bắt đầu sử dụng những toà nhà này. Và rồi
chúng tôi bắt đầu hiểu rằng điều mà Tổng thống hướng đến thật kỳ diệu trong
chính mắt ông đến độ ông không muốn tuyên bố ra. Ông đang tạo ra châu Phi hiện
đại. Ông đang tạo ra một điều kỳ diệu sẽ làm cả phần còn lại của thế giới sững
sờ. Ông dang đi ngay qua châu Phi thực tế, cái châu Phi khốn khó của cây bụi và
làng mạc, và tạo ra điều gì đó có thể đạt tới mọi thứ đang tồn tại ở nước khác.
Những bức ảnh của Khu nhà nước này – và những bức ảnh
khác về những vùng khác của đất nước – bắt đầu xuất hiện trên những tạp chí về
châu Phi xuất bản ở châu Âu, nhưng được những chính phủ như chính phủ của chúng
tôi tài trợ tiền. Trong những bức ảnh đó thông điệp của Khu thật đơn giản. Dới
thời Tổng thống mới của chúng tôi điều kỳ diệu đã diễ nra. Người châu Phi đã trở
thành những con người hiện đại, tự mình xây dựng được bằng bê tông và kính và
ngồi trong những chiếc ghế êm ái bọc nhung. Cái đó cũng giống như sự đầy đủ
trong lời tiên tri của cha Huismans về sự bùng khởi của châu Phi của người châu
Phi, và thành công của sự hoà trộn với châu Âu.
Khách đến tham quan được khuyến khích, họ đến từ các
cité và thị trấn đầy lều, từ những ngôi làng lân cận. Chủ nhật có xe buýt và xe
tải quân đội chở người đến đó, và lính tráng trở thành hướng dẫn viên, dẫn mọi
người đi dọc những con đường một chiều được đánh dấu bằng những mũi tên chỉ hướng,
chỉ cho họ, những người mới đây từng muốn phá huỷ thị trấn, những gì vị Tổng thống
của họ đã làm cho châu Phi. Những toà nhà xấu xí đó, sau khi bạn đã quen với những
dáng vẻ, những đồ gỗ hào nhoáng đó – Noimon đã vớ bẩm với cửa hiệu đồ gỗ của
mình. Xung quanh đây, cuộc sống của những con thuyền độc mộc và lạch sông và
làng mạc vẫn tiếp diến, tại các quầy bar của thị trấn những người thợ xây dứng
và nghệ nhân nước ngoài uống rượu và đùa nhảm về vùng đất này. Điều này thật
đau lòng và đáng buồn.
Tổng thống muốn cho chúng tôi thấy một châu Phi mới. Và
tôi thấy châu Phi theo cách trước đây tôi chưa từng bao giờ thấy, thấy những
khiếm khuyết và những nỗi nhục mạ cho đến khi đó tôi chỉ coi là một phần của cuộc
đời. V tôi cảm thấy thế - đầy niềm cảm thông với Người Đàn ông Vĩ Đại về những
người làng rách rưới đi vòng quanh Khu, và những người lính chỉ họ bằng những dấu
hiệu bẩn thỉu – cho đến khi một người lính nào đó đùa cợt tôi hoặc khi phải đối
mặt với một quan chức khó tính nào đó tại hải quan, và rồi tôi cảm thấy lại rơi
vào những cảm giác cũ, những thái độ dễ dàng hơn của những người ngoại quốc ở
các quầy bar. Châu Phi cũ, cái dường như hấp thụ mọi thứ, thật đơn giản, nơi đó
làm bạn luôn căng thẳng. Căng thẳng làm sao, nó đưa bạn đi theo con đường qua sự
ngu xuẩn và hung hăng, kiêu hãnh và tổn thương!
Nhưng Khu dùng để làm gì? Những toà nhà mang lại niềm tự
hào, hoặc có ý nghĩa như vậy, chúng làm thoả mãn một nhóm người nào đó cần có sự
tự hào về Tổng thống . tất cả những cái đó để làm gì?Nhưng họ đã tiêu hàng triệu
vào đó. Không có trang trại. Người Trung Quốc hay Đài Loan không chịu đến khi
Khu chưa có được một trang trại châu Phi mới,sáu nhà thầu mà một chính phủ nước
ngoài nào đó cung cấp ở sát nhau. Bể bơi lớn gần toà nhà được cho là khu họp đã
bắt đầu nứt và vẫn trống không, với một cái lưới dây thừng to tướng trên nóc.
Khu đã được xây rất nhanh, và mặt trời cùng mưa cũng đã làm nó đổ nát đi nhanh
chóng. Sau mùa mưa đầu tiên nhiều cây mới trồng bên cạnh đại lộ chính rộng rãi
đã chết, rễ của chúng đầy nước và bị úng.
Nhưng với vị Tổng thống còn ở thủ đô thì Khu vẫn là một
cái gì đó sống động. Những bức tượng và đèn đóm theo tiêu chuẩn được mang tới.
Những chuyến thăm ngày chủ nhật vẫn tiếp tục, những bức ảnh tiếp tục xuất hiện
trên các tạp chí chuyên sâu về châu Phi được chính phủ tài trợ. Và chí ít đó
cũng là một cách sử dụng những toà nhà này.
Khu trở thành một khu đại học và trung tâm nghiên cứu.
Toà nhà phòng họp được biến thành một trường bách khoa cho người dân trong Khu,
và những toà nhà khác được biến thành ký túc xá và khu nhân viên. Các giảng
viên và giáo viên bắt đầu đến từ thủ đô, và rất sớm sủa từ các nước khác, một
cuộc sống song song đã được phát triển ở đó, mà chúng tôi ở thị trấn chỉ biết rất
ít. Và nơi đó trở thành trường bách khoa – trên khu ngoại ô chết của châu Âu mà
với tôi khi lần đầu đến từng cho rằng đống đổ nát của một nền văn minh đã đến
và đã đi – mà Ferdinand được gửi đến với một học bổng của chính phủ, khi nó học
xong trung học.
Khu cách thị trấn vài dặm. Có xe buýt đi đến đó, nhưng
không đều đặn lắm. trước tôi không thường gặp Ferdinand, giờ lại càng hiếm khi.
Metty mất đi một người bạn. Sự chuyển biến này rõ ràng cuối cùng đã tạo ra khác
biệt giữa hai đứa, và tôi nghĩ chắc Metty phải buồn lắm.
Những cảm giác của tôi còn phức tạp hơn. Tôi thấy một
tương lai bất ổn của đất nước. Không ai được an toàn ở đây hết, số phận những
người sống ở đây không hề bị ghen tị. Thế nên tôi nghĩ Ferdinand thật là may mắn,
mọi thứ với nó mới dễ dàng làm sao. Bạn lôi một cậu bé ra khỏi vùng cây bụi,
xây dựng một trường bách khoa và dạy nó đọc và viết, bạn san phẳng vùng cây bụi
và gửi nó đến đấy. dường như quá là dễ dàng, nếu bạn sinh ra muộn màng trong thế
giới này và mọi thứ đã sẵn sàng hết cả, những thứ mà các nước khác và những dân
tộc khác đã đạt đến từ lâu – viết, in, trường đại học, sách vở, kiến thức. Còn
những người còn lại như chúng tôi phải chập chững. Tôi nghĩ đến gia đình tôi,
Nazruddin, bản thân tôi – chúng tôi bị trói buộc vào cái mà hàng thế kỷ nay đã
đeo bám vào tâm trí và trái tim chúng tôi. Ferdinand, khởi đầu từ không có gì cả,
đã có được một bước tiến làm cho nó tự do, và đã sẵn sàng để đi trước chúng
tôi.
Khu, với sự lớn lao của nó, là một trò lừa. Cả Tổng thống
, người đã làm ra nó, cả những người nước ngoài đã kiếm lời lớn khi xây dựng nó
đều đặt niềm tin vào cái mà họ đã tạo ra. Nhưng liệu trước đây đã có lòng tin lớn
hơn chưa? Miscerique probat populos et foedera jungi: cha Huismans đã đấy sự
cao ngạo của câu tuyên ngôn này. Ông từng tin tưởng vào chân lý của nó. Nhưng
bao nhiêu người thợ xây dựng của thị trấn trước đây có thể đồng ý với ông? Trò
lừa trước đây đó theo một cách nào đó đã giúp những người dân của đất nước, và
những người đó cũng có thể lại bị đánh lừa nữa. Ferdinand coi trường bách khoa
là cái gì đó thật nghiêm túc, cái sẽ tạo cho nó khả năng vào được giới cầm quyền
và cuối cùng tới một địa vị có quyền lực. Với nó Khu thật là tuyệt, và nhất thiết
là như thế. Nó coi ở trường bách khoa là tuyệt vời hơn rất nhiều so với ở trường
trung học.
Thật phi lý khi ghen tị với Ferdinand, người dù sao vẫn
đi về nhà ở vùng cây bụi. Nhưng tôi không ghen tị với nó chỉ vì tôi cảm thấy nó
sẽ đi trước tôi về mặt kiến thức và đi vào những chốn thần tiên, tôi không thể
đặt chân tới. Tôi ghen tị hơn về ý tưởng nó luôn luôn có được cái tầm quan trọng
của nó, sự quyến rũ của nó. Chúng tôi sống trong cùng một dải đất, chúng tôi
cùng nhìn theo cùng một hướng. Với nó thế giới luôn đổi mới và luôn mới hơn, với
tôi, vẫn thế giới đó thật đen đúa, không có chút khả năng nào hết.
Tôi ngày càng ghét cảm giác thực thể về vị trí. Căn hộ
của tôi vẫn luôn như vậy. Tôi đã không hề thay đổi gì hết ở đây, vì tôi sống với
ý tưởng về một sự nhận xét mang tính thời điểm rằng tôi phải coi nó như là đã mất
đi – cái phòng ngủ với nẹp cửa sổ sơn trắng và cái giường to có đệm cỏ, những
giá bát đĩa thô mộc, quần áo và giày dép của tôi, cái bếp với mùi dầu hoả và dầu
rán, rá, bụi và gián, cái phòng khách màu trắng trống trơn. Luôn luôn ở đó,
không bao giờ thực sự là của tôi, giờ đây chỉ chăm chăm nhắc nhở tôi về sự trôi
qua của thời gian.
Tôi ghét những cái cây trang trí nhập ngoại, những cái
cây tuổi thơ tôi, ở đây trông mới phi tự nhiên làm sao, với màu bụi đỏ đường phố
chuyển sang thành bùn khi trời mưa, bầu trời u ám chỉ có ý nghĩa là nóng thêm
lên, bầu trời sáng sủa có nghĩa một mặt trời đang thiêu đốt, cơn mưa hiếm khi
mát mẻ và thường ẩm ướt, dòng sông màu nâu với những bông hoa màu tử đinh hương
trên những cuống màu xanh nhợt trôi nổi ngày đêm.
Ferdinand đã chuỷên đi, chỉ cách vài dặm. Và tôi, dù lớn
hơn nó, cảm thấy ghen tức và hoang vắng.
Cả Metty dường như cũng thế. Tự do có giá của nó. Trước
đây nó từng có được sự an toàn khi còn là nô lệ. Ở đây nó đạt tới ý niệm về bản
thân nó như thể một người được chỉ định để chống lại những người khác. Điều này
hẳn không làm nó thích thú. Nhưng giờ đây dường như nó cũng cảm thấy đôi chút
cay đắng nào đó. Dường như nó tự lánh xa bạn bè của mình.
Nó có rất nhiều bạn, mọi loại người đến cửa hiệu và căn
hộ để hỏi nó. Hoặc đôi khi họ gửi người khác đến hỏi về nó. Tôi còn nhớ một sứ
giả như thế. Đó là một cô gái gầy guộc, loại con gái bạn có thể nhìn thấy đang
chèo thuyền độc mộc, mà mọi người đều biết là người lao động chân tay. Công việc
nặng nhọc và thức ăn kém dường như đã làm nó tê liệt, mất đi nữ tính, và đầu gần
như trọc lóc.
Nó thường đến gặp Metty ở cửa hiệu, đứng ở bên ngoài.
Đôi khi Metty nói chuyện với cô bé, đôi khi nó tỏ ra ác nghiệt với cô. Có lúc
nó tìm cách đuổi cô bé đi, cúi người như để nhặt đá, cách mà người ở đây làm
khi muốn dọa một con chó rách rưới. Không ai có thể bằng người nô lệ trong cách
xử sự hay nói chuyện với người nô lệ khác. Cô bé này thuộc về những người thấp
bé nhất trong số những người thấp bé, dù cô bé thuộc gia đình châu Phi nào đi nữa
thì cô vẫn chẳng khác gì một nô lệ.
Metty tìm cách đuổi cô bé khỏi cửa hiệu. Nhưng một chiều,
khi về căn hộ, tôi thấy cô bé trên hè phố, đứng trong đống bụi cỏ hoang gần lối
vào sân sau nhà chúng tôi. Một chiếc áo khoác vải, tay và cổ rộng, toang hoang
từ vai và cho thấy cô chẳng mặc gì bên trong cả. Tóc cô bé thưa đến nỗi trông
cô như thể đã cạo đầu. Khuôn mặt gầy guộc đang ở trạng thái nhăn nhó nhưng
không hẳn là nhăn nhó mà chỉ có ý nghĩa là đang nhìn tôi.
Cô bé vẫn ở đó khi tôi đi xuống sau khi đã uống một
tách trà và thay quần áo. Tôi đi đến câu lạc bộ Hellenic để chơi squash. Đó là
nguyên tắc của tôi, dù trong hoàn cảnh nào, dù tâm trạng có tồi tệ đến đâu,
cũng không bỏ tập. Sau đó tôi lái xe đến đập nước, đến hộp đêm Bồ Đào Nha bên
dòng nước, giờ đã hoạt động trở lại, ăn vài con cá rán ở đó – tôi chắc chắn ở Bồ
Đào Nha họ làm cá ngon hơn. Còn quá sớm cho người trong thị trấn, nhưng đập nước
đã tràn ngập ánh sáng và họ bật đèn màu trên cây cho tôi.
Cô bé vẫn ở trên hè phố khi tôi trở về căn hộ. Đến lúc
này thì cô ta gọi tôi, cô nói "Mety-ki là?" (Metty có ở đây không?)
Cô chỉ biết nói vài thổ ngữ, nhưng cô có thể hiểu khi
người khác nói, và khi tôi hỏi cô muốn gì, cô nói "Popo malade. Dis-li
Metty" (Đứa bé bị ốm, nói cho Metty biết) Popo có nghĩa là "đứa
bé". Metty đã có con ở đâu đó trong thị trấn, và đứa bé đang ốm. Metty có
cả một cuộc đời ở đâu đó, tách biệt hẳn với cuộc sống với tôi ở căn hộ, tách biệt
hẳn với việc nó mang cà phê cho tôi mỗi sáng, tách biệt hẳn với cửa hiệu.
Tôi bị sốc. Tôi cảm thấy bị phản bội. Nếu chúng tôi
đang sống ở khu nhà chúng tôi ở bờ biển, nó có thể sống cuộc sống của riêng nó,
nhưng ở đó không có gì là bí mật hết. Tôi có thể biết ai là người đàn bà của
nó, tôi có thể biết khi con nó ra đời. Tôi đã mất Metty cho vùng đất châu Phi
này. Nó đã đến nơi phần nào đó là nhà nó, và tôi đã mất nó. Tôi cảm thấy bị bỏ
rơi. Tôi đã từng rất ghét nơi này, ghét căn hộ, giờ tôi thấy cuộc sống tôi tạo
dựng cho riêng tôi trong căn hộ này thực ra khá tốt, và giờ đây tôi cũng mất nốt.
Cũng giống như cô bé ở ngoài, cũng giống như nhiều người
khác, tôi chờ đợi Metty. Và khi rất muộn, nó về đến nơi, tôi bắt đầu nói ngay.
"Ôi Metty, tại sao mày không nói với tao, tại sao
mày làm điều đó với tao?" Rồi tôi gọi nó bằng tên mà chúng tôi từng gọi nó
khi còn ở nhà "Ali, Aliwa! Chúng ta sống cùng nhau. Tao cho mày ở dưới mái
nhà và coi mày như thành viên gia đình. Thế mà giờ mày làm thế đấy".
Rất khó nhọc, giống như một gia nhân ngày xưa, nó cố tỏ
ra đồng cảm với tôi, làm như nó cũng chịu đựng với tôi vậy.
"Tôi sẽ bỏ nó, patron. Nó là một con vật".
"Làm sao mày có thể bỏ cô ta? Mày đã làm điều đó.
Mày không thể chối bỏ. Mày đã có đứa con ở đâu đó. Ôi, Ali, mày đã làm gì vậy?
Mày không nghĩ thật tệ khi có một đứa con nhỏ châu Phi chạy nhảy trong một cái
sân cca ai đó, với toto (con chó) của nó ve vẩy hai bên sao? Mày không ngượng
hay sao? Một người như mày?"
"Thật đáng tởm, Salim ạ." Nó nói và đặt tay
lên vai tôi "Tôi hổ thẹn lắm. Nó chỉ là một đứa con gái châu Phi thôi mà.
Tôi sẽ bỏ nó".
"Làm sao mày có thể bỏ cô ta? Giờ đây đó là cuộc sống
của mày. Mày không biết thế hay sao? Chúng tao đã gởi mày đi học, chúng tao đã
thuê giáo sĩ dạy mày. Thế mà giờ đây mày làm như thế đấy!"
Tôi đang đóng kịch. Nhưng có những lúc khi chúng ta
đóng kịch về cái chúng ta thực sự cảm thấy, những lần khi chúng ta không thể đối
mặt với một số cảm xúc, và thật dễ dàng hơn để đóng kịch. Và Metty cũng đóng kịch
nốt, vờ tỏ ra trung thành, nhắc tôi nhớ về quá khứ, về những nơi khác, nhắc tôi
về những điều tôi khó chịu đựng được vào đêm đó. Khi tôi nói, rất kịch. "Tại
sao mày không nói với tao hả Metty?" thì nó lại quay trở lại hùa với tôi.
Nó nói "Tôi làm sao có thể nói với ông được, Salim? Tôi biết ông sẽ làm
như thế mà".
Làm sao nó biết được?
Tôi nói "Mày biết đấy, Metty, ngày đầu tiên mày đến
trường, tao đã đi cùng mày Mày la hét suốt, mày bắt đầu khóc ngay khi chúng ta
rời khỏi nhà".
Nó thích nhắc lại về điều đó, được nhớ đến từ xa xôi đến
thế. Nó mỉm cười mơ hồ "Tôi đã la hét nhiều ư? Tôi đã ầm ĩ lên ư?"
"Ali, mày đã hét tướng lên. Mày đội mũ trắng, và
mày đi xuống lối đi nhỏ bên cạnh nhà Gokool, rồi mày nói ầm lên. Tao không thể
biết mày đi đâu. Tao chỉ nghe mày nói ầm ĩ. Tao không chịu được. Tao nghĩ họ
đang làm điều gì rất kinh khủng với mày, và tao cầu Chúa mày không phải đến trường.
Rồi rắc rối xảy ra khi mày về nhà. Mày đã quên, tại sao mày phải nhớ chứ? Tao
không hề chú ý gì đến mày từ khi mày ở đây. Mày ra dáng lắm rồi mà".
"Ôi, Salim! Đừng nói thế. Tôi vẫn luôn kính trọng
ông mà".
Điều đó đã từng đúng. Nhưng nó đã về nhà, nó đã tìm được
cuộc sống mới. Nó luôn muốn vậy, nó không thể quay ngược lại. Tay nó đặt lên
vai tôi – giờ thì còn tốt đẹp gì nữa.
Tôi nghĩ, không gì còn lại nữa. Mọi thứ thay đổi. Tôi sẽ
không thừa kế nhà, và không ngôi nhà nào tôi xây sẽ dành cho con của tôi. Đó là
cách cuộc đời diễn tiến. Tôi đã quá tuổi hai mươi, và điều tôi trông chờ kể từ
khi rời khỏi nhà đã không đến với tôi. Tôi chỉ có chờ đợi thôi. Tôi sẽ chờ
trong suốt phần còn lại của cuộc đời tôi. Khi tôi đến đây, căn hộ này vẫn còn
thuộc về một bà người Bỉ. Nó không phải là nhà tôi, nó giống như một cái trại.
Rồi cái trại đó trở thành nhà tôi. Giờ thì không nữa rồi.
Sau đó tôi nằm yên lặng cô đơn trong phòng ngủ, trong
cái thế giới thù địch này. Tôi cảm thấy cơn đau tim của đứa trẻ khi phải ở một
chỗ lạ. Qua cửa sổ sơn trắng tôi nhìn thấy những cái cây bên ngoài – không phải
bóng của chúng, mà là những gợi ý về hình dạng của chúng. Tôi đang ở trạng thái
nhớ nhà, đã nhớ nhà như thế từ nhiều tháng nay. Nhưng nhà hiếm khi là nơi ta có
thể quay về. Nhà là cái gì đó trong đầu chúng ta. Nó là cái gì đó chúng ta đã
đánh mất. Và trong đó tôi giống như những người châu Phi rách rưới thấp kém
trong thị trấn mà chúng tôi phục vụ
Phát hiện những cách thức của đau khổm, sự già đi mà nó gây
ra, tôi không ngạc nhiên khi thấy Metty và tôi lại gắn bó với nhau đến vậy ngay
đúng vào lúc chúng tôi hiểu phải đi mỗi người một đường. Cái đã tạo ra ảo tưởng
về sự gắn kết tối đó chỉ là nỗi hoài tiếc quá khứ của chúng tôi, nỗi buồn của
chúng tôi vi nỗi thế giới đó không còn nữa.
Cuộc sống chung của chúng tôi không thay đổi. Nó tiếp tục
sống ở căn phòng trong nhà tôi, và sáng sáng nó tiếp tục mang cà phê đến cho
tôi. Nhưng giờ đây đã được ngầm hiểu là nó có một cbsn hoàn toàn ở bên ngoài.
Nó thay đổi. Nó mất đi sự tươi sáng và vui vẻ của một tên gia nhân biết mình
đang chăm sóc cái gì, rằng những người khác quyết định cho nó, và nó mất đi cái
đi cùng với sự tươi sáng đó – sự thờ ơ với cái vừa diễn ra, khả năng quên, sự sẵn
sàng cho mỗi ngày mới. Nó dường như đi sâu vào bản thân mình hơn. Trách nhiệm
là một khái niệm mới với nó, và với trách nhiệm nó cũng phải nhận ra sự cô độc,
dù nó có bạn bè và gia đình mới.
Cả tôi cũng đã đánh mất đi chuỗi ngày cũ, đã phát hiện
nỗi cô độc và nỗi buồn thương là cơ sở của tôn giáo. Tôn giáo biến nỗi buồn
thương thành nỗi sợ hãi và hy vọng tăng dần. Nhưng tôi đã vứt bỏ những cách thức
và lễ nghi tôn giáo, tôi không thể quay trở lại với chúng được nữa, chỉ thế
thôi. Nồi buồn thương về thế giới này vẫn là cái gì đó tôi phải cho đi kèm với
bản thân tôi. Vào lúc nào đó nó thật sắc nhọn, lúc khác nó lại không ở đó.
Và ngay khi tôi nhấm nháp nỗi buồn về Metty và quá khứ
này, một ai đó trong quá khứ bỗng hiện lên. Một buổi sáng anh ta đi vào cửa hiệu,
Metty dẫn đường cho anh ta. Metty gọi tướng lên, giọng phấn khích "Salim!
Salim!"
Đó là Indar, người đầu tiên đã mang đến cho tôi nỗi sợ
hãi khi còn ở bờ biển, từng đối diện với tôi – sau trận đấu tại sân squash trong
ngôi nhà lớn của anh – với những nỗi sợ của tôi về tương lai, người đã tiễn tôi
khỏi nhà anh với viễn cảnh về thảm hoạ. Anh nói anh đã đi máy bay đến. Anh đã
đi Anh, đến trường đại học, và đã bay đến đây.
Và giờ đây tôi cảm thấy, khi Metty dẫn anh đến, và anh
ta lại tóm được tôi lần nữa đúng lúc tôi đang ngồi tại bàn trong cửa hiệu, với
hàng hóa để ngổn ngang trên sàn nhà, như vẫn thường như vậy, và với những giá đầy
những thứ vải và giấy dầu rẻ tiền cùng pin và sách bài tập.
Anh nói "Vài năm trước ở London tôi có nghe nói
anh ở đây. Tôi tự hỏi anh đang làm gì". Cách nói của anh lạnh giá, cân bằng
giữa sự kích động và chế nhạo, dường như để nói nhẽ ra anh không nên hỏi điều
đó vào lúc này, và rằng anh không hề ngạc nhiên về điều anh nhìn thấy ở đây.
Điều này diễn ra nhanh quá. Khi Metty chạy tới nói
"Salim! Salim! Đoán xem ai đây này" ngay lập tức tôi đã nghĩ đó có thể
là ai đó mà chúng tôi đều quen biết vào những ngày xa xưa đó. Tôi nghĩ đó có thể
là Nazruddin, hay một người trong gia đình tôi, một ông anh rể hoặc đứa cháu
nào đó. Và tôi đã nghĩ, mình không thể gặp được. Cuộc sống giờ không còn như
trước nữa. Tôi không thể nhận trách nhiệm này. Tôi không muốn tiếp đón ai.
Dự tính rằng ai đó sắp trách cứ tôi nhân danh gia đình,
cộng đồng và tôn giáo, và chuẩn bị gương mặt và thái độ với người đó, tôi thật
bất ngờ khi Metty dẫn Indar vào cửa hiệu. Metty vui vẻ đứng bên anh ta, giờ
không giả vờ mà là thực sự thích thú tái tạo cái gì đó thuộc về những ngày xưa
cũ, trở thành người nối các gia đình lớn với nhau. Và từ chỗ định tung ra một đống
phàn nàn, buồn rầu từ chối người mới đến "Ở đây không đủ chỗ đâu. Không có
chỗ cho kẻ không nhà. Tìm chỗ khác đi" – từ chỗ là người như thế, tôi buộc
phải quay sang hướng ngược hẳn lại. Tôi phải trở thành người cư xử tốt và còn
hơn cả tốt, người mà cửa hiệu xập xệ chẳng giống gì với một vụ buôn bán lớn tạo
ra hàng triệu đồng. Tôi buộc phải là người vạch toàn bộ kế hoạch, người phải
phá huỷ thị trấn bên khúc quanh dòng so6ng vì đã thấy trước một tương lai giàu
có.
Tôi không thể có cách khác với Indar. Anh vẫn luôn làm
tôi cảm thấy mình thật tụt hậu. Gia đình của anh, dù mới tới vùng bờ biển, vẫn
luôn vượt xa chúng tôi, và thậm chí sự khởi đầu thấp kém của họ - người ông chỉ
là một nhân viên hoả xa, rồi cho vay nặng lãi – đã trở thành (theo như người ta
nói) gần như thần thánh, một phần của truyện thần tiên. Họ đầu tư liều lĩnh và
tiêu khối tiền, cách sống của họ cao sang hơn chúng tôi, và có một niềm say mê
khác thường về các trò chơi và tập luyện thân thể. Tôi luôn nghĩ về họ như là
những người "hiện đại", với phong cách sống khá là khác với chúng
tôi. Bạn quen với những khác biệt như thế, thậm chí chúng còn bắt đầu có vẻ rất
tự nhiên.
Khi chúng tôi chơi squash chiều hôm đó, Indar đã nói với
tôi rằng anh sẽ đi Anh để học đại học, tôi không cảm thấy đố kị hay ghen tức với
anh vì điều anh sẽ làm. Ra nước ngoài, trường đại học – đó là một phần của
phong cách sống của anh, có thể đoán trước được. Sự chán chường của tôi là sự
chán chường của một người bị bỏ lại đằng sau, không được chuẩn bị cho những gì
sẽ đến. Và sự đô kỵ của tôi với anh hẳn là có liên quan đến sự bất an mà anh
khiến tôi cảm thấy. Anh từng nói "Chúng ta bị lãng phí ở đây, cậu cũng biết
mà", Những lời đó là đúng, tôi biết chúng là đúng. Nhưng tôi không muốn
anh nói đến nó, anh nói như thể anh là người nhìn được trước tất cả và đã có tất
cả trong tầm tay vậy.
Kể từ ngày đó tám năm đã trôi qua. Điều anh nói sẽ xảy
ra giờ đã xảy ra. Gia đình anh đã mất mát nhiều, họ đã mất đi ngôi nhà, họ (những
người đã thêm tên thị trấn bên bờ biển vào họ của mình) đã phân tán, cũng như
gia đình tôi. Giờ đây, khi anh đến cửa hiệu của tôi, dường như khoảng cách giữa
chúng tôi vẫn giữ nguyên như vậy.
Có hình dáng London trong quần áo, chiếc áo phông sọc
anh mặc, cách anh để tóc, đôi giày của anh (màu máu bò, mảnh nhưng chắc chắn,
hơi bó vào ở đầu ngón chân). Và tôi đang ở trong cửa hiệu của mình, với con đường
bụi đỏ và quảng trường chợ bên ngoài. Tôi đã đợi lâu lắm, đã chịu đựng lâu lắm,
đã thay đổI với anh tôi chẳng hề thay đổi gì hết cả.
Cho đến lúc đó tôi vẫn ngồi. Khi đứng dậy tôi cảm thấy
nhói lên nỗi sợ. dường như anh xuất hiện để mang lại tin xấu cho tôi . Và tất cả
những gì tôi nói ra được là "Điều gì đã đưa anh đến nơi hẻo lánh
này?"
Anh nói "Tôi không thể nói được. Anh vẫn ở đó
thôi".
"Thế nào là vẫn ở đó?"
"Nơi những điều lớn lao xảy đến. Dù sao tôi cũng
không thể ở đây được."
đó là một sự giảm nhẹ. Chí ít anh cũng không lại ra lệnh
cho tôi, không nói cho tôi biết phải đi đâu.
Metty trong lúc đó vẫn cười với Indar và lắc đầu từ bên
này sang bên nọ, nói "Indar! Indar!" Và chính Metty là người nhớ ra
nhiệm vụ chủ nhà của chúng tôi. Nó nói "Cậu có muốn một tách cà phê không,
indar?" Như thể chúng tôi đang từng ở bờ biển, trong cửa hiệu gia đình, và
anh vừa bước xuống đến gian hàng Noor và mang lại vài cái cốc đồng thứ cà phê
ngọt và sền sệt trên một cái khay đồng nặng. không đâu cà phê giống như ở đây:
chỉ có Nescafé, sản xuất ở Côte d Ivoire và được pha trong những chiếc tách sứ.
Không cùng cách uống, bạn không thể ngâm nga, luôn cắn phải một mẩu đường.
Indar nói "Tuyệt lắm, Ali ạ."
Tôi nói "Tên của nó ở đây là Metty, nghĩa là con
lai".
"Mày để họ gọi vậy sao, Ali?"
"Người châu Phi ấy mà, cậu Indar. Kafar. Cậu biết
nghĩa là gì rồi mà".
Tôi nói "Đừng tin nó. Nó thích thế mà. Điều đó làm
nó trở nên vĩ đại trong mắt con gái ở đây. Ali giờ đã là người của một gia đình
lớn rồi. Nó đã lạc lối rồi".
Metty, đi vào nhà kho để đun nước pha Nescafé, nói
"Salim, Salim. Đừng có hạ nhục tôi như thế chứ".
Indar nói "Nó đã lạc đường từ lâu rồi. Anh có nghe
tin gì về Nazruddin không? Tôi gặp ông ấy ở Uganda vai` tuần trước".
"Bây giờ ở đó thế nào rồi?"
"Đã ổn trở lại. Không biết là bao lâu. Không một tờ
báo chó đẻ nào ủng hộ đức vua. Anh có biết điều đó không? Khi điều đó xảy đến với
châu Phi, người dân không muốn biết hoặc họ có những nguyên tắc của mình. Không
ai thèm lo gì cho những người sống cùng".
"Anh đi nhiều nơi nhỉ?"
"Đó là công việc của tôi. Ở đây mọi chuyện như thế
nào?"
"Khá tốt kể từ cuộc nổi loạn. Đang có bùng nổ kinh
tế ở đây. Sự giàu có thật kỳ diệu. Tại đây một số nơi giá đất lên tới hai trăm
francs một foot vuông".
Indar có vẻ như không bị ấn tượng – nhưng cửa hiệu
không phải một chỗ gây ấn tượng. Tôi cũng cảm thấy thế, tôi đã làm trái ngược với
những gì tôi định làm với Indar. Muốn cho anh biết rằng những giả định của anh
về tôi đã sai. Thực tế tôi đang diễn cái vai mà anh ta đang thấy. Tôi đang nói
theo cách tôi từng nghe các lái buôn tại thị trấn nói, và thậm chí nói cả những
điều họ đã nói.
Tôi nói, cố tạo ra một lối ngôn ngữ mới "Ở đây
chúng tôi buôn bán theo lối chuyên môn hoá. Một thị trường rất tinh xảo có thể
dễ dàng hơn theo một cách nào đó. Nhưng ở đây anh không thể theo những ý thích
và không thích của cá nhân. Anh phải biết chính xác cái gì là cần. Và dĩ nhiên
có những đại lý. Có tiền thật ở đây đấy".
Indar nói "Phải, phải. Anh vẫn như xưa, Salim ạ".
Tôi bỏ qua quá khứ đó. Nhưng tôi quyết định nhấn mạnh
vào mọi thứ. Tôi nói "Dù sao tôi cũng không biết chuyện này sẽ kéo dài bao
lâu",
"Nó sẽ kéo dài cho đến khi nào Tổng thống muốn. Và
không ai có thể nói nó kéo dài bao lâu. Ông ấy là một người kỳ lạ. Dường như
ông ấy chẳng làm gì hết cả, và rồi ông ấy làm như một bác sĩ phẫu thuật. Cắt bỏ
những phần ông ấy không thích".
"Chính vì vậy ông ấy đã hạ quân đội cũ. Thật là khủng
khiếp Indar ạ. Ông ấy gửi một thông điệp đến đại tá Yenyi bắt ông này ở lại
doanh trại để chờ chỉ huy quân lê dương. Thế là ông đại tá ở lại với đầy đủ
quân phục và khi họ đến ông bắt đầu đi ra cửa. Họ bắn khi ông ấy đang bước đi.
Và tất cả những người ở chỗ ông ấy nữa".
"Điều đó dù sao cũng cứu công việc làm ăn của anh
đấy. Nhân tiê.nó đây tôi có cái này cho anh. Trước khi tới đây tôi đã đến gặp
cha mẹ anh".
"Anh đã về nhà à?" Tôi hoàn toàn không trông
chờ điều này.
Anh nói "Ồ, tôi đã về đó vài lần kể từ những sự kiện
vĩ đại. Không tệ lắm đâu. Anh còn nhớ nhà anh không? Họ đã sơn lại nó theo màu
của đảng. Giờ đây có cái gì đó như nhà của đảng. Mẹ anh gửi cho anh một chai
tương dừa đây. Và không phải cho riêng anh đâu đấy. Cho Ali và anh. Bà ấy nói
rõ như thế" và với Metty, lúc này đã trở lại với bình nước nóng và những
tách cùng hộp nescafé và sữa hộp, anh ấy nói "Mẹ gửi cho mày tương dừa đấy,
Ali".
Metty nói "Tương ,tương dừa à. Thức ăn ở đây thật
là horrible[1] Indar ạ".
Cả ba chúng tôi ngồi vào bàn, trộn cà phê, nước, sữa và
quấy lên.
Indar nói "Tôi không muốn quay lại. Không phải lần
đầu tiên. Tôi không nghĩ tim tôi chịu được điều đó. Nhưng máy bay là một thứ rất
tuyệt. Bạn vẫn ngồi một chỗ khi đã tới chỗ khác. Máy bay nhanh hơn trái tim. Bạn
tới nơi nhanh chóng và rời đi cũng nhanh chóng. Bạn không phải buồn thương nhiều
quá. Và còn có một cái gì đó khác về máy bay. Bạn có thể quay trở lại một địa
điểm nhiều lần. Và điều gì đó lạ lẫm xảy tới nếu bạn quay trở lại thường xuyên.
Bạn không còn buồn tiếc về quá khứ nữa. Bạn thấy rằng quá khứ là cái gì đó chỉ
tồn tại trong óc, không tồn tại trong cuộc sống thực. Bạn dẫm chân lên quá khứ,
bạn đè nghiến nó. Đầu tiên thì giống như dẫm chân lên một khu vườn. Cuối cùng
không khác gì bạn đang đi trên mặt đất. Đó là cách chúng ta phải học sống bây
giờ. Quá khứ đang ở đây". Anh ta chạm tay vào ngực trái "Không phải ở
đây" và anh chỉ ra con đường bụi mù.
Tôi cảm thấy anh đã từng nói những lời đó trước đây, hoặc
đã để nó trong óc. Tôi nghĩ, anh chiến đấu để giữ được phong cách của mình. Có
lẽ trong chúng tôi anh là người chịu đựng nhiều nhất.
Ba người chúng tôi ngồi, uống Nescafé. Và tôi nghĩ thời
khắc này thật đẹp.
Cuộc trò chuyện vẫn hoàn toàn là độc thoại. Anh biết mọi
điều về tôi, tôi không biết gì về cuộc sống gần đây của anh. Khi lần đầu tiên tới
thị trấn tôi đã nhận ra phần lớn cuộc trò chuyện của người ở đây đều nhằm để trả
lời những câu hỏi về chính họ, họ hiếm khi hỏi bạn về bạn, họ lơ lửng quá lâu.
Tôi không muốn Indar cũng cảm thấy thế về tôi. Và tôi thực sự muốn biết về anh.
Thế nên, hơi rụt rè một chút, tôi bắt đầu hỏi anh.
Anh nói anh đã ở thị trấn được vài ngày và sẽ ở lại vài
tháng. Anh đến bằng tàu thuỷ à? Anh nói "Anh điên sao? Chết gí với bọn người
châu Phi của dòng sông suốt bảy ngày ư? Tôi đi bằng máy bay chứ".
Metty nói "Tôi không thể đi mọi nơi bằng tàu thuỷ.
Họ nói là kinh khủng lắm. Và thậm chí còn tệ hơn nếu đi thuyền, với nhà xí và mọi
người nấu nướng cùng với ăn uống khắp nơi. Thật là kinh khủng, kinh khủng, họ
nói với tôi như thế."
Tôi hỏi Indar anh sẽ ở đâu, tôi nghĩ rằng tôi nên đề
nghị anh đến nhà tôi ở. Liệu anh có ở chỗ Van der Meyden không?
Đó là câu hỏi anh đợi được hỏi. Anh nói bằng giọng nhẹ
nhàng không cần nhấn mạnh "Tôi ở khu nhà nước. Tôi có một ngôi nhà ở đó.
Tôi là khách của chính phủ".
Và Metty xử sự bùng phát hơn tôi. Metty vỗ mạnh xuống
bàn và nói "Indar!"
Tôi nói "Người Đàn Ông Vĩ Đại mời anh à?"
Anh bắt đầu hạ thấp mức độ "Không hoàn toàn. Tôi
có hãng riêng. Tôi đến dạy một học kỳ ở trường bách khoa. Anh có biết trường đó
không?"
"Tôi biết một người ở đó. Một sinh viên".
Indar làm như tôi đã ngắt lời anh, như thể vậy, dù tôi
sống ở nơi này, và anh thì vừa mới đến – tôi đi ngang qua, và không có quyền biết
một học sinh ở trường bách khoa.
Tôi nói "Mẹ nó là một marchande, người mua hàng của
tôi."
Điều này rõ là tốt hơn. Anh nói "Anh phải đến và gặp
những người khác ở đó đi. Anh có thể không thích điều sẽ diễn ra. Nhưng anh phải
dự đoán trước là sẽ diễn ra. Anh không được lặp lại sai lầm đó nữa".
Tôi muốn nói "Tôi sống ở đây. Tôi đã trải qua rất
nhiều thứ trong sáu năm rồi". Nhưng tôi không nói điều đó. Tôi đang phỉnh
nịnh Indar. Anh có ý tưởng riêng của mình về việc tôi là ai – và trên thực tế
anh đã tóm được tôi tại cửa hiệu, với công việc làm ăn buôn bán dở hơi của tôi.
Anh có ý tưởng riêng về chuyện anh là ai và anh đã làm gì, khoảng cách đã được
thiết lập giữa anh và chúng tôi.
Sự tự đắc của anh không làm tôi tức tối. Tôi thấy thích
thú nó là đằng khác, theo cách nhiều năm trước, tại bờ biển, khi còn là một đứa
bé. Tôi đã thích thú những câu chuyện của Nazruddin về sự may mắn và những thú
vui trên đời của ông, tại thị trấn thời thuộc địa. Tôi không vỗ bàn như Metty,
nhưng tôi ấn tượng bởi cái tôi thấy ở Indar. Và đó là một điều làm giảm nhẹ những
nỗi ác cảm mà anh làm tôi cảm thấy, để quên đi việc đã bị bắt tại trận, và để
dành cho anh sự ngưỡng mộ thẳng thắn về cái anh đã làm cho chính an – với những
áo quần London và sự ưu thắng mà anh nói tới, về sự đi lại của anh, ngôi nhà ở
Khu của anh, địa vị của anh ở trường bách khoa.
Để ngưỡng mộ anh, để tỏ ra không ganh đua hay chống đối,
phải tạo cho anh cảm giác thoải mái. Khi chúng tôi chuyện vãn bên tách Nescafé,
khi Metty thỉnh thoảng kêu ầm lên, biểu lộ theo cung cách gia nhân của mình sự
ngưỡng mộ mà người chủ của hắn cảm thấy, sự cáu kỉnh của Indar đã biến đi. Anh
trở nên dễ mến, đầy hóm hỉnh, rất quan tâm. Cuối buổi sáng, tôi cảm thấy cuối
cùng tôi đã có được một người bạn cùng dạng với mình. Tôi rất cần một người bạn
như thế.
Và không những không trở thành chủ nhà và người hướng dẫn
cho anh, tôi còn được anh dẫn dắt. Đó chưa phải toàn bộ sự phi lý. Tôi có quá
ít ỏi thứ để cho anh xem. Mọi điểm quan trọng của thị trấn tôi biết đều được
đem ra nói chỉ trong vài giờ đồng hồ, đó là điều tôi phát hiện khi lái xe chở
anh sáng hôm đó.
Có dòng sông, với một đoạn đi dạo gần cầu tàu. Có cầu
tàu: những sàn sửa chữa với những mảng sắt nhăn đầy những mẩu linh kiện máy rỉ
hoen, và ở một đoạn dọc sông là nhà thờ lớn đổ nát, được bao phủ rất đẹp và có
dáng vẻ cổ kính, giống như ở châu Âu – nhưng bạn chỉ có thể nhìn từ con đường,
vì cây bụi quá dầy và nơi đó nổi tiếng nhiều rắn. Có những quảng trường trầy xước
với hàng cột xấu xí và không có tượng, những toà nhà hành chính từ thời thuộc địa
trên những đại lộ hai bên trồng cọ, trường trung học, với những chiếc mặt nạ hỏng
hết để trong phòng để súng (nhưng cái đó làm Indar chán ngấy), Van der Meyden
và Bigburger của Mahesh, những nơi chẳng có mấy thứ có thể mang ra khoe với một
người đã từng ở châu Âu.
Có các cité và những khu nhà mọc lên bất hợp pháp (một
số trong đó tôi đã lái xe đến vào lần đầu tiên) với hàng đống rác, những ụ bụi
nhầu nhĩ, và rất nhiều lốp xe cũ trong bụi. Với tôi những đống rác và lốp xe
này là những đặc điểm của các cité và thị trấn tồi tàn. Những đứa bé gầy gò ở
đây biết nhảy lên rất giỏi trên những cái lốp đó, chạy, nhảy trên lốp xe, và rồi
bắn lên cao trong không khí. Nhưng đã gần giữa trưa. Không còn trẻ con chơi trò
nhảy nhót đó nữa khi chúng tôi lái xe đến, và tôi nhận ra rằng (sau một công
trình không có gì ở trong, và những hàng cột không có tượng) nói đúng ra tôi
đang chỉ cho Indar xem rất nhiều rác rưởi. Tôi đột ngột quay xe khi nghĩ vậy.
Ghềnh nước và làng chài – đã được gắn vào Khu nhà nước, anh đã thấy chúng rồi.
Khi chúng tôi lái xe đến Khu – vùng đệm, một thời hoang
vắng, giờ đây đầy những lêù của những người mới đến từ các làng, những cái lều
mà cùng với Indar, tôi như có thể thấy lần đầu tiên vậy, mặt đất đỏ giữa những
túp lều róc rách những dòng suối nhỏ đầy rác rưởi màu đen hoặc xanh xỉn, cây
ngô và sắn trồng tại mọi khoảng đất – trong khi tôi lái xe, Indar nói "Anh
nói anh ở đây được mấy năm rồi nhỉ?"
"Sáu năm".
"Và anh đã chỉ cho tôi mọi thứ rồi chứ?"
Tôi còn chưa chỉ cho anh gì nhỉ? Còn một ít cửa hiệu,
nhà và căn hộ. Cậu lạc bô Hellenic – và những quầy bar. Nhưng tôi không thể chỉ
cho anh những quầy bar được. Và quả thật, nhìn vào chỗ này với đôi mắt của anh,
tôi thực sự kinh ngạc với những gì thật ít ỏi quanh tôi. Và tôi ngừng tìm kiếm
nhiều hơn nữa. Chỉ có thể thôi. Tôi đã nghĩ về thị trấn như một thị trấn thực
thụ, giờ đây tôi thấy nó như một đống hổ lốn những túp lều. Tôi nghĩ tôi đã chịu
đựng nơi này. Nhưng tôi chỉ đơn giản là đang sống mù quáng – giống những người
mà tôi biết, mà trong sâu thẳm tôi nghĩ mình khác hẳn.
Tôi không thích khi Indar nói tôi đang sống trong điều
kiện hệt như cộng đồng chúng tôi hồi trước, không quan tâm đến điều sẽ diễn ra.
Nhưng cho đến lúc này anh không hề sai. Anh nói về Khu, và chúng tôi ở tại thị
trấn mà Khu chỉ coi là một trong số các đầu mối cung cấp hàng hoá. Chúng tôi biết
ít về cuộc sống ở đó, và chúng tôi không muốn tìm hiểu. Chúng tôi coi Khu là một
phần của sự lãng phí và sự điên rồ của đất nước. Nhưng quan trọng hơn, chúng
tôi coi nó là một phần của chính sách của Tổng thống , và chúng tôi không muốn
bị trộn lẫn vào đó.
Chúng tôi cảnh giác với những người nước ngoài mới tại
ngoại vi thị trấn chúng tôi. Họ không giống các kỹ sư, lái buôn và nghệ nhân mà
chúng tôi biết, và tôi khá là ghét họ. Người trong Khu giống như những người
khách du lịch, nhưng họ không phải những người tiêu nhiều tiền – mọi thứ họ đều
tìm thấy ở Khu. Họ không quan tâm đến chúng tôi, với ý nghĩ rằng họ là những
người được bảo vệ, chúng tôi thấy họ như những người tách biệt khỏi cuộc sống
thực sự ở nơi này, nhưng với lý do không mấy thực tế đó, và không thực tế như
chính chúng tôi.
Không biết điều đó và nghĩ lúc nào chúng tôi cũng cúi đầu,
khôn ngoan và bảo vệ những quyền lợi của mình, chúng tôi trở nên giống với những
người châu Phi mà Tổng thống cai trị. Chúng tôi chỉ đơn giản là cảm thấy sức nặng
của quyền lực Tổng thống . Khu đã được Tổng thống tạo ra, vì những lý do riêng
của ông mà ông gọi những người nước ngoài đến sống ở đây. Với chúng tôi thê là
đã đủ, chúng tôi chẳng việc gì phải đặt câu hỏi thêm nữa.
Vài lần sau, khi Ferdinand tới thị trấn để gặp mẹ nó đến
mua đồ, tôi lái xe đưa nó về ký túc xá của khu. Điều tôi thấy khi đó là tất cả
những gì tôi biết cho đến khi Indar trở thành người dẫn đường cho tôi.
Đó là điều Indar đã nói. Anh có một ngôi nhà trong Khu
và là khách của chính phủ. Nhà anh trải thảm và trang trí theo kiểu phòng trưng
bày – mười hai chiếc ghế ăn chạm khắc bằng tay, những chiếc ghế nhồi bọc nhung
tổng hợp có tua xếp thành hai hàng trong phòng khách, đèn, bàn, điều hoà khắp
nơi. Điều hoà nhiệt độ là rất cần thiết. Những ngôi nhà của Khu, được xây trên
khu đất được san phẳng, giống như những hộp bê tông khổng lồ, với mái ngói
không chìa ra ngoài chút nào, để vào bất kỳ giờ nào của một ngày nắng chói
chang một bức tường, hoặc hai, phải chịu hoàn toàn sức nóng của mặt trời. Mỗi
ngôi nhà đó có một gia nhân, mặc trang phục phục vị của Khu – quần trắng, áo trắng
và một cái áo khoác cho gia nhân (thay cho cái tạp dề thời thuộc địa). Đó là
phong cách Khu với những người ở vào địa vị của Indar. Phong cách đó thuộc về Tổng
thống . Đó là người đã quy định đồng phục của những người hầu.
Và trong cái thế giới Khu lạ lùng này Indar rõ ràng rất
được kính trọng. Một phần sự kính trọng đó dành cho "đơn vị" mà anh
là thành viên. Anh không thể giải thích rõ ràng cho tôi đơm vị nào đã gửi anh đến
châu Phi – hoặc giả tôi quá ngây thơ để tin điều đó. Nhưng nhiều người trong
Khu dường như thuộc về những đơn vị rất bí hiểm, và họ coi Indar không phải như
một người thuộc cộng đồng chúng tôi hay một người tị nạn đến từ khu bờ biển,
anh là người của họ. Đối với tôi, điều này khá là kỳ quặc.
Những người nước ngoài theo phong cách mới này chúng
tôi đã từng thấy họ tới trước đây trong thị trấn. Chúng tôi đã thấy họ mặc đồ
châu Phi, chúng tôi đã nhận ra sự vui tươi của họ, thật khác với sự khó đăm đăm
của chúng tôi, niềm vui sướng của họ với tất cả những gì họ tìm thấy. Và chúng
tôi từng coi họ như những kẻ ăn bám và khá nguy hiểm, phục vụ một mục tiêu bí ẩn
nào đó của Tổng thống , những người cần phải dè chừng.
Nhưng giờ đây sống cùng với họ ở Khu, nơi mà theo cách
nào đi nữa đều là chỗ nghỉ mát của họ, và được tiếp nhận dễ dàng vào cuộc sống
của họ, thế giới của bungalow và điều hoà nhiệt độ cùng sự dễ dãi hội hè của họ,
nghe được trong những cuộc trò chuyện đầy học thức của họ tên những thành phố nổi
tiếng, tôi ngả sang hướng khác và bắt đầu nhận thấy chúng tôi, những người
trong thị trấn, trong mắt họ mới thật là câm nín, xoàng xĩnh và trây ì biết bao
nhiêu. Tôi bắt đầu có một số cảm giác về những niềm phấn khích xã hội về cuộc sống
ở Khu, về những người gắn liền với một con đường mới, đã mở rộng hơn, ít liên
quan hơn đến những kẻ thù và hiểm nguy, sẵn sàng hơn để được quan tâm và giải
trí, tìm kiếm giá trị nhân văn ở những người khác. Trong Khu họ có cách riêng của
mình để nói về mọi người và các sự kiện, họ gắn liền với thế giới, ở chỗ họ có
cảm giác về sự phiêu lưu.
Tôi nghĩ về cuộc đời tôi, cuộc đời Metty, Shoba và
Mahesh và sự riêng tư quá mức của họ, về những người Italia và Hy Lạp – đặc biệt
người Hy Lạp – thẳng ruột ngựa và lo toan cho gia đình và sự bồn chồn của châu
Phi và người châu Phi. Hiếm khi có cái gì mới mẻ ở đó. Cho nên chỉ đi vài dặm từ
thị trấn đến Khu luôn tạo ra một sư điều chỉnh, buộc phải có một thái độ mới,
và gần như lần nào cũng như gặp một đất nước khác hẳn. Tôi hổ thẹn với bản thân
mình về những phán xét mới mà tôi có về những người bạn Shoba và Mahesh, những
người đà làm rất nhiều việc cho tôi trong bao nhiêu năm qua và với họ tôi cảm
thấy an toàn. Nhưng tôi không thể không có những ý nghĩ đó. Tôi nghiêng về việc
nghĩ theo một cách khác, đến cuộc sống ở Khu, như tôi đã thấy khi đi cùng với
Indar.
Ở Khu, tôi nhận thấy mình thuộc về một thế giới khác.
Khi cùng với Indar gặp những người ở đó tôi tìm được ít điều để nói. Có những
lúc tôi nghĩ tôi có thể bỏ anh lại đó. Nhưng dường như anh không hề có ý nghĩ
đó trong đầu. Anh dẫn tôi đi khắp nơi như một người bạn của gia đình anh ở bờ biển,
một thành viên cộng đồng của anh. Anh không chỉ muốn tôi chứng kiến thành công
của anh với những người ở Khu, anh dường như còn muốn tôi chia sẻ nó nữa. Đó là
cách anh trả công cho sự ngưỡng mộ của tôi và tôi thấy được sự tế nhỉ ở anh mà
tôi chưa từng thấy khi còn ở bờ biển. Các đối nhân xử thế của anh giống như một
hình thức cân nhắc, và dù cơ hội nhỏ đến mấy, cách xử sự đó của anh vẫn không hề
thất bại. Chúng là cách xử sự của một ông bầu gánh hát, hơi giống vậy. Nhưng
cũng vẫn còn phong cách cũ của gia đình anh, như thể anh cần có sự an toàn và
ngưỡng mộ để thực hiện lại nó. Trong tính nhân tạo của Khu anh tìm thấy sàn diễn
tuyệt vời cho mình.
Trong thị trấn chúng tôi không thể dành cho Indar sự
coi trọng và niềm phấn khích tập thể mà anh có được ở Khu; chúng tôi hiếm khi
tán thành những gì anh có được ở đó. Với tính nhạo báng của mình, được tạo ra
sau nhiều năm bất ổn, chúng tôi có thể nhìn nhận một con người theo cách nào nữa?
Chúng tôi đánh gía những người bán hàng ở Van der Weyden bởi những hãng mà họ đại
diện, sự khéo léo của họ khi bán hàng cho chúng tôi. Biết những con người đó,
có được những dịch vụ mà họ cung cấp, và được phỉnh phờ ở chỗ chúng tôi không
phải khách hàng bình thường trả đủ tiền hoặc chỗ chúng tôi phải xếp hàng, chúng
tôi nghĩ đã nắm được cả thế giới, và chúng tôi coi những người bán hàng đó như
là những người đại diện đầy quyền lực cần phải tính đến. Chúng tôi đánh giá những
người lái buôn bằng những đòn của họ, những hợp đồng, những hãng mà họ mang đến.
Cũng vậy với người châu Phi, chúng tôi đánh gía họ qua
sự khéo léo, như những người trong quân đội hoặc các quan chức hải quan và cảnh
sát, để phục vụ chúng tôi, và đó cũng chính là cách họ tự đánh giá mình. Bạn có
thể điểm mặt những người có tai mắt ở chỗ Bigburger. Họ, chia sẻ cuộc bùng nổ với
chúng tôi, và không còn tiều tuỵ như trước đây nữa, đeo vàng hết mức có thể -
những cặp kính mạ vàng, nhần vàng, bút máy bút chì vàng, đồng hồ vàng với dây
đeo bằng vàng chắc nịch. Chúng tôi thường đùa cợt với nhau về sự tầm thường và
tính say mê vàng của người châu Phi. Vàng – làm thế nào nó có thể thay đổi con
người, những người dù sao cũng chỉ là người châu Phi ? Nhưng chúng tôi cũng muốn
có vàng, và chúng tôi thường xuyên coi trọng những người châu Phi đeo vàng trên
người.
Những ý tưởng của chúng tôi về con người chỉ đơn giản
thế thôi, châu Phi là nơi mà chúng tôi phải sống. Nhưng tại Khu thì khác hẳn. Tại
đó họ có thể chế nhạo việc buôn bán vàng, vì trong bầu khí quyển ma thuật của
Khu, giữa các đại lộ và nhà cửa mới, một châu Phi khác đã được tạo ra. Trong
Khu, người Phi – những người trẻ tuổi ở trường bách khoa – thật lãng mạn. Họ
không phải lúc nào cũng có mặt tại các bữa tiệc hoặc hội họp, nhưng toàn bộ cuộc
sống của Khu được xây dựng quanh họ. Trong thị trấn "châu Phi" có thể
là một từ bị lạm dụng với nghĩa xấu, trong Khu, từ đó là một từ có ý nghĩa lớn
hơn. Một "người châu Phi" tại đó là một người mới khác mọi người đang
bận rộn làm việc, một người được thừa hưởng – người quan trọng mà nhiều năm trước
Ferdinand từng tự coi mình như thế.
Trong thị trấn, khi còn ở trừơng trung học, Ferdinand
và bạn bè nó – dĩ nhiên bạn bè nó – vẫn gắn chặt với những con đường làng. Khi
chúng không còn trách nhiệm, không ở trường trung học hoặc với những người như
tôi, chúng liền vươn tới cuộc sống mới của châu Phi của thị trấn. Ferdinand và
Metty – hoặc Ferdinand và bất kỳ thằng bé châu Phi nào – có thể trở thành bạn
bè vì giữa chúng có nhiều điểm chung. Nhưng trong Khu không cách nào có thể nhầm
giữa Ferdinand và những đứa bạn trong bộ đồng phục màu trắng gia nhân.
Ferdinand và bạn bè nó có ý tưởng rõ ràng về việc chúng
là ai và chúng được trông chờ gì. Chúng là những người trẻ tuổi được học bổng của
chính phủ, chúng có thể sớm trở thành những quan chức tại thủ đô, phục vụ Tổng
thống . Khu là sáng tạo của Tổng thống , và trong Khu với sự hiện diện của những
người nước ngoài chúng có một ý tưởng lớn về một châu Phi mới. Ngay cả tôi, khi
ở Khu, cũng bắt đầu cảm thấy một ít tính lãng mạn của ý tưởng đó.
Như vậy là người nước ngoài và người châu Phi xử sự và
phản ứng với nhau, và mỗi người bị khóa kín trong ý tưởng về vinh quang và cái
mới. Ở mọi nơi ảnh Tổng thống nhìn xuống chúng tôi. Trong thị trấn, trong những
cửa hiệu của chúng tôi và các toà nhà chính phủ, chỉ có ảnh Tổng thống , người
cai trị, một cái gì đó hiển nhiên phải ở đó. Tại Khu vinh quang của Tổng thống
đè nát tất cả những người châu Phi mới của ông.
Và những thanh niên đó thật sáng chói. Tôi từng nhớ
chúng là những kẻ ăn cắp vặt, ngoan cố và điên rồ, chỉ có lối khôn lỏi làng xã;
và tôi từng cho rằng học hành với chúng chỉ là chuyện nhồi sọ. Cũng giống những
người khác trong thị trấn, tôi tin rằng những khóa học đó bị xếp hạng thấp hoặc
thay đổi đối với người châu Phi. Điều đó là có thể, chúng có một số môn – quan
hệ quốc tế, bối cảnh chính trị, nhân học. Nhưng những người trẻ tuổi đó có trí
tuệ thật sắc bén và nói rất hay – và nói bằng tiếng Pháp, chứ không phải thổ ngữ.
Họ đã phát triển nhanh. Mới chỉ có vài năm trước thôi, Ferdinand còn không có
khả năng nắm bắt được ý tưởng về châu Phi. Bây giờ thì không thế nữa. Các tạp
chí về tình hình châu Phi – dù khá là giả tưởng, những tạp chí được tài trợ từ
châu Âu – và báo chí, dù bị kiểm duyệt, đã nhân rộng những tư tưởng, kiến thức,
thái độ mới.
Một tối Indar dẫn tôi đến buổi hội thảo của anh, trong
phòng học của toà nhà bách khoa rộng lớn. Cuộc hội thảo không thuộc về khóa học
nào cả. Nó là hoạt động ngoại khóa, và được miêu tả trên cửa là một bài tập nói
tiếng Anh. Nhưng hẳn là Indar trông chờ nhiều hơn thế. Phần lớn bàn đều kín người.
Ferdinand có ở đó, trong một nhóm nhỏ bạn của nó.
Những bức tường màu bánh bích quy của phòng học để trống,
chỉ treo một bức ảnh Tổng thống – không phải mặc quân phục đội mũ lưỡi trai da
cáo của lãnh đạo, một áo khoác vạt ngắn và một chiếc ca vát lốm đốm, Indar, ngồi
dưới bức ảnh này, bắt đầu nói, rất thoải mái, về những Khu khác của châu Phi mà
anh từng đến, và những người trẻ tuổi nghe rất say sưa. Sự ngây thơ và hăng hái
của họ thật đáng kinh ngạc. Dù cho những cuộc chiến tranh và đảo chính mà họ đã
từng nghe, châu Phi với họ vẫn cứ là một châu lục mới, và họ cư xử như thể
Indar cảm thấy giống họ, là một trongsố họ. Bài học tiếng trở thành một cuộc thảo
luận về châu Phi, và tôi có thể cảm nhận được chủ đề bách khoa, chủ đề bài giảng,
đã biến thành cái cớ. Một số câu hỏi rất hiểm hóc, nhưng Indar rất giỏi, luôn
bình tĩnh, không bao giờ ngạc nhiên. Anh giống như một triết gia, anh thử hướng
những người trẻ tuổi kiẻm tra những từ mà họ đang sử dụng.
Họ nói một lúc về đảo chính ở Uganda, và về những khác
biệt về sắc tộc và tôn giáo ở đó. Rồi họ bắt đầu nói chung hơn về tôn giáo ở
châu Phi.
Có một vài cử động trong nhóm quanh Ferdinand. Và
Ferdinand – không để ý đến tôi – đứng dậy và hỏi "Liệu vị khách đáng kính
có thể cho biết ông nghĩ gì về những người châu Phi đang theo đạp Cơ Đốc?"
Indar làm điều anh từng làm trước đó. Anh nhắc lại câu
hỏi. Anh nói "
Tôi cho rằng điều anh thực sự muốn hỏi là liệu châu Phi
có thể được phục vụ bởi một tôn giáo không thuộc về châu Phi không? Đạo Hồi có
phải một tôn giáo châu Phi không? Anh có cảm thấy đạo Hồi sẽ được truyền bá rộng
rãi ở châu Phi không?"
Ferdinand không trả lời. Cũng giống như ngày trước – nó
không bao giờ nghĩ quá một điểm nào cả.
Indar nói "Nào, tôi cho rằng anh có thể nói đạo Hồi
đã trở thành một tôn giáo của châu Phi. Nó đã ở đây lâu lắm rồi. Và anh có thể
nói những người Ai cập theo đạo Cơ đốc cũng vậy. Tôi không biết – có lẽ anh cảm
thấy rằng những người đó đã bị giải nhân cách bởi những tôn giáo đó đến mức họ
không còn liên quan gì đến châu Phi nữa cả. Anh có định nói như thế không? Hay
là anh muốn nói họ là những người châu Phi có số phận khác biệt?"
Ferdinand nói "Ngài khách mời rất đáng kính biết rất
rõ về loại Cơ đốc giáo mà tôi muốn nói. Ông đang làm rối vấn đề. Ông biết về trạng
thái thấp kém của tôn giáo châu Phi và ông biết rất rõ rằng đó là một câu hỏi
trực tiếp tới ông về sự gợi mở hoặc ngược lại về tôn giáo châu Phi. Ngài khách
mời là một quý ông rất có thiện cảm với châu Phi, ông đã đi đến nhiều nơi thuộc
châu Phi. Ông có thể khuyên chúng tôi. Đó là điều chúng tôi muốn hỏi".
Một số dãy bàn tỏ ý đồng tình.
Indar nói "Để trả lời câu hỏi đó anh phải cho phép
tôi hỏi anh một câu đã. Các anh là sinh viên. Các anh không phải dân làng. Các
anh không thể giả bộ mình là ai. Các anh sẽ sớm phục vụ Tổng thống của các anh
và chính phủ của ông theo nhiều cách khác nhau. Các anh là người của một thế giới
hiện đại. Các anh có còn cần tôn giáo châu Phi nữa không? Hoặc các anh còn nhiều
tình cảm cho nó? Liệu các anh có tức giận khi mất nó không? Hoặc các anh có cảm
thấy các anh phải tiếp tục chỉ bởi vì nó là của các anh?"
Mắt Ferdinand đanh lại. Nó dịch bàn ra và đứng dậy.
"Ông đang hỏi một câu hỏi phức tạp".
Và từ "phức tạp" vang lên giữa các sinh viên,
rõ ràng một từ không đồng tình,
Indar nói "Anh đang quên đấy. Tôi không nêu câu hỏi.
Anh nêu nó ra, và tôi chỉ hỏi thêm thông tin thôi".
Câu nói này lập lại trật tực, chấm dứt những tiếng đập
bàn. Nó làm cho Ferdinand trở lại thân thiện, và nó tiếp tục thân thiện như thế
cho đến cuối buổi hội thảo. Cuối buổi nó đi đến chỗ Indar, khi những người phục
vụ mặc jackets de boy (áo khoác gia nhân) đẩy những chiếc xe đẩy đến phục vụ cà
phê và bánh bích quy (một phần của phong cách Tổng thống đã quy định cho Khu).
Tôi nói với Ferdinand :Cậu đã vặn vẹo bạn tôi đấy".
Nó nói "Cháu đã không làm thế nếu biết đó là bạn của
chú".
Indar nói "Thế những suy nghĩ thực sự của anh về
tôn giáo là như thế nào?"
Ferdinand nói "Tôi không biết. Đó là điều tôi đã hỏi.
Không phải câu hỏi dễ với tôi".
Sau đó, khi Indar và tôi rời khỏi toà nhà trường bách
khoa để đi bộ về nhà anh, Indar nói "Chàng trai khá là ấn tượng đấy. Anh
ta là con trai marchande của anh à? Điều này giải thích nhiều điều. anh ta có nền
tảng khá đặc biệt".
Trong sân bên ngoài toà nhà bách khoa tràn ngập cờ. Đèn
cao thế sáng rực cả hai bên lề đại lộ chính, và đại lộ cũng ngập ánh sáng, giống
như một đường băng. Một số bóng đèn đã vỡ và cỏ đã mọc cao xung quanh.
Tôi nói "Mẹ nó còn là một phù thuỷ".
Indar nói "Anh chẳng cần quan tâm lắm đâu. Đêm nay
chúng thật kinh, nhưng chúng không hỏi những câu hỏi thực sự khó. Anh có biết
câu hỏi đó là gì không? Là liệu người châu Phi có phải là nông dân không. Đó là
một câu hỏi vô nghĩa, nhưng xung quanh nó có cả đống cuộc chiến đấy. Nói gì anh
cũng rơi vào bất định. Anh thấy tại sao tôi cần có đơn vị của mình. Trừ phi
chúng ta có thể làm họ nghĩ được, và cho họ được những ý tưởng thực sự thay vì
chỉ có chính trị và những nguyên lý, nếu không những người trẻ tuổi đó sẽ để thế
giới của chúng ta hỗn loạn trong nửa thế kỷ nữa cho mà xem".
Tôi nghĩ cả hai chúng tôi đã đi quá xa khi nói về châu
Phi như vậy. Chúng tôi thậm chí đã coi trò phù thuỷ châu Phi là nghiêm túc. Ở bờ
biển không như thế. Nhưng tối đó khi chúng tôi nói chuyện về cuộc hội thảo, tôi
bắt đầu tự hỏi liệu Indar và tôi có tự làm rối trí và liệu chúng tôi có không
cho phép châu Phi mà chúng tôi nói đến được trở nên một châu Phi quá khác biệt
so với hiện nay không. Ferdinand không muốn mất đi mối liên lạc với các linh hồn,
nó nóng lòng được tự là mình. Đó là mặt sau của câu hỏi. Chúng tôi đều hiểu nỗi
lo lắng của nó, nhưng ở buổi hội thảo dù sao ai cũng xấu hổ, hoặc sợ hãi, hoặc
không dám nói thẳng đến điều đó. Cuộc tranh luận đầy những từ ngữ theo một cách
khác, về tôn giáo và lịch sử. Giống là về Khu, châu Phi là một nơi đặc biệt.
Tôi cũng tự hỏi về Indar. Làm thế nào anh có thể có được
những thái độ đó? Hồi còn ở bờ biển tôi từng nghĩ anh căm ghét châu Phi. Anh đã
mất mát nhiều, tôi không nghĩ anh lại có thể tha thứ. Nhưng anh đã toả sáng ở
Khu, đó là địa bàn của anh.
Tôi không "phức tạp" đến thế, tôi thuộc về thị
trấn. Và rời khỏi Khu để trở về thị trấn, nhìn lại những túp lều, từng đống từng
đống, những đống rác, cảm thấy sự hiện diện của dòng sông và cánh rừng chung
quanh (giờ đây chúng có ý nghĩa nhiều hơn một cảnh trí), nhìn thấy những tốp
người rách rưới bên ngoài những nơi uống rượu, những bếp lửa lều trại trên hè
phố ở trung tâm thị trấn – làm điều đó khác nào quay trở lại với châu Phi mà
tôi biết. Đó chính là hạ nhiệt từ sự phấn khích ở Khu, nắm bắt lại thực tế. Liệu
Indar có tin vào châu Phi chỉ qua lời lẽ? Liệu ai đó ở Khu biết không? Cách
chúng tôi sống ở thị trấn, chuyện gãu của những người bán hàng tại Van der
Weyden và các quán bar, những bức ảnh của Tổng thống tại các cơ quan chính phủ
và trong cửa hiệu của chúng tôi, doanh trại quân đội ở lâu dài đã được sửa sang
của người trong cộng đồng chúng tôi – liệu tất cả có là sự thật không?
Indar nói "Liệu có ai tin vào cái gì đó không?
Quan trọng gì chứ?"
Đây là một lễ nghi tôi làm mỗi khi tôi phải thanh toán
một lô hàng khó với hải quan. Tôi điền mẫu tờ khai, gập nó lại trên tờ năm trăm
quan và đưa nó cho viên hải quan đang ngồi ở đó. Anh ta có thể - ngay khi anh
ta bảo bộ hạ ra khỏi phòng (và họ dĩ nhiên biết tại sao được lệnh ra khỏi phòng
– liếc nhìn xấp giấy bạc để kiểm tra. Khi đó anh ta sẽ lấy tiền, những điều khoản
trên tờ khai có thể được kiểm tra với sự chú ý cường điệu, và anh ta sẽ nhanh
chóng nói "C est bien, Mis Salim, vous êtes en ordre[2]" Cả anh ta và
tôi đều nhớ đến những tờ giấy bạc. Chúng tôi chỉ có thể nói về chi tiết trên tờ
khai, đã được điền rất đúng, được công nhận đúng đắn, có thể được coi là tấm lá
chắn cho sự đúng đắn của cả hai chúng tôi. Cái còn nằm lại ở trung tâm của cuộc
trao đổi có thể được đi qua trong sự yên lặng, và sẽ không để lại dấu vết nào
trong hồ sơ.
Do đó, trong những cuộc trò chuyện của tôi với Indar về
châu Phi – mục đích của đơn vị của anh, Khu, những lo lắng c anh về các học
thuyết mới du nhập, sự nguy hiểm với châu Phi về tính mới mẻ nhất của nó, những
ý tưởng đầu tiên được xem an toàn nhất bởi những đầu óc mới cũng dính chắc như
dải băng dính – tôi cảm thấy rằng giữa chúng tôi có một sự giả dối nào đó, hoặc
chỉ là một sự loại bỏ, một khoảng trống nào đó, giữa những cái cả hai chúng tôi
đều lượn lờ rằng cẩn trọng. Sự loại trừ này liên quan đến quá khứ của chúng
tôi, về cuộc sống bị nghiền nát tại cộng đồng của chúng tôi, Indar từng gợi lại
cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi tại cửa hiệu. Anh nói anh đã học được cách dẫm
chân lên quá khứ. Thoạt đầu giống như bước trên khu vườn, rồi sau đó giống như
bước trên mặt đất.
Tôi rối bời với chính mình. Khu là một trò chơi khăm.
Nhưng cùng lúc nó lại rất thật, vì nó đầy những người đàn ông nghiêm túc ( và một
số phụ nữ). Liệu có một sự thật nào đó bên ngoài con người? Liệu con người có
thể tạo ra sự thật cho chính mình? Mọi điều người ta làm hoặc tạo ra đều trở
thành có thực. Cho nên tôi chao đảo giữa Khu và thị trấn. Luôn là an toàn được
trở về thị trấn mà tốt biết, thoát khỏi cái châu Phi của những từ ngữ và tư tưởng
tồn tại ở Khu (và từ đó thường thì người châu Phi theo nghĩa thực thể vắng mặt).
Nhưng Khu, như vinh quang và những niềm phấn khích xã hội của cuộc sống ở đó,
luôn vẫy gọi tôi trở lại.
Chú thích:
[1] tiếng Pháp: khủng khiếp
[2] Tốt rồi ngài Salim, Ông điền đúng rồi
Indar nói "Tối nay chúng tôi sẽ dự một bữa tiệc.
Yvette tổ chức. Anh có biết cô ấy không? Chồng cô ấy, Raymond, không có tiếng
tăm mấy, nhưng là người điều hành toàn bộ ở đây. Tổng thống, hay Người Đàn Ông
Vĩ Đại như anh gọi, đã gửi ông ấy đến đây để để mắt đến mọi việc. Ông ấy là người
da trắng của Người Đàn Ông Vĩ Đại. Tại mọi chỗ như thế luôn có những chuyện như
vậy. Dù sao đó cũng là cả một câu chuyện. Raymond biết nhiều về đất nước này
hơn bất kỳ ai trên đời".
Tôi chưa từng bao giờ nghe nói về Raymond. Tổng thống
thì tôi chỉ nhìn thấy trên những bức ảnh – lần đầu tiên trong bộ quân phục, rồi
trong chiếc áo khoác ngắn vạt và chiếc ca vát phong cách, và giờ đây với chiếc
mũ lông cáo của lãnh tụ và chiếc can chạm trổ, biểu tượng cho quyền lực lãnh đạo
của ông – và tôi chưa từng bao giờ nghĩ ông lại là một người đọc sách. Điều
Indar nói với tôi đã đưa Tổng thống lại gần tôi hơn. Cùng lúc nó cho tôi thấy
tôi, và những người giống tôi, cách xa cái ghế quyền lực đến chừng nào. Tự nhìn
nhận mình từ khoảng cách đó, tôi thấy chúng tôi mới thật nhỏ bé và dễ bị thương
tổn đến thế nào, và dường như không đúng đắn khi ăn mặc như tôi để đến Khu sau
bữa tối để gặp những con người có quan hệ trực tiếp với con người kỳ vĩ. Điều
này thật lạ lùng, nhưng tôi không còn cảm thấy bị chèn ép bởi đất nước, khu rừng,
sông suối và những bộ tộc xa xôi; tôi cảm thấy mình cao hơn tất cả những cái
đó, nhìn nhận nó dưới một góc độ mới của quyền lực.
Từ điều Indar nói tôi đoán rằng Raymond và Yvette hẳn
phải cứng tuổi rồi. Nhưng cô – mặc đồ chùng màu trắng với chất liệu gìđó rất
óng ánh – tới gặp chúng tôi sau khi người hầu mặc đồ trắng để chúng tôi lại, rất
trẻ, chừng mới sắp sang độ tuổi ba mươi, ngang tuổi tôi. Đó là sự ngạc nhiên thứ
nhất. Điều thứ hai là cô để chân trần, chân trắng và đẹp nuột nà. Tôi nhìn chân
cô trước khi nhìn mặt và áo cô, bằng lụa đen, thêu xung quanh cái cổ cắt sâu –
những thứ đồ rất đắt, không thuộc về những thứ bạn có thể kiếm được tại thị trấn.
Indar nói "Quý bà đáng yêu đây là chủ nhà của
chúng ta. Tên quý bà là Yvette".
Anh cúi người về phía trước và làm ra vẻ định ôm chầm lấy
cô. Đó là một trò đóng kịch. Cô cũng điệu đà cong lưng để đón cái ôm hôn, nhưng
má anh chỉ phớt nhẹ má cô, và anh không hề chạm vào ngực cô, và những ngón tay
anh dừng lại trên lưng cô, trên chiếc áo lụa đen.
Đó là một ngôi nhà của Khu, giống nhà của Indar. Nhưng
toàn bộ đồ đạc đã được dọn khỏi phòng khách và đã được thay thế bằng những tấm
nệm và gối ôm cùng đệm châu Phi. Hai trong số ba ngọn đèn đọc sách đã được để
xuống sàn nhà, nên nhiều phần trong phòng chìm trong bóng tối.
Yvette nói về các thứ đồ gỗ, "Tổng thống có ý tưởng
khá kỳ quặc về nhu cầu của người châu Âu, tôi đã quẳng tất cả đống đồ nhung vào
một phòng ngủ rồi".
Nhớ lại điều Indar đã nói với tôi, tôi không nhận ra sự
mỉa mai trong giọng nói của cô, và cảm thấy cô nói điều đó với sự ưu tiên, sự
ưu tiên của một người gần gũi với Tổng thống .
Một số người đã có ở đó. Indar đi theo Yvette vào sâu
hơn trong phòng, và tôi đi theo Indar.
Indar nói "Thế còn Raymond ra sao rồi?"
Yvette nói "Anh ấy đang làm việc. Anh ấy sẽ vào
sau".
Cả ba chúng tôi ngồi xuống cạnh một giá sách. Indar dựa
lưng vào cái gối ôm, tỏ ra rất nhẹ nhàng. Tôi tập trung vào âm nhạc. Rất thường
xuyên khi ở chỗ Indar tại khu, tôi đã được chuẩn bị để nnìn và lắng nghe. Và điều
này là hoàn toàn mới đối với tôi. Tôi chưa từng đến một bữa tiệc trong Khu nào
như thế này. Và không khí bản thân nó trong phòng đã là cái gì đó tôi chưa từng
biết đến trước đây.
Hai hoặc ba cặp đang nhảy, tôi nhìn thấy nhiều chân phụ
nữ. Tôi đặc biệt chú mục vào một cô gái bận đồ màu xanh lá cây ngồi trên một
cái ghế ăn thẳng (một trong bộ mười hai cái ghế của ngôi nhà). Tôi nghiên cứu đầu
gối, chân, mắt cá, giày của cô. Chúng không phải là cặp chân đặc biệt, nhưng
chúng tác động lên tôi. Kể từ khi trưởng thành đến giờ tôi đã nhìn chán chê
trong những quán bar của thị trấn. Tôi chỉ biết đến những người đàn bà mà mình
phải trả tiền. Mặt kia của cuộc sống đam mê, của những ôm hôn tự do cho và nhận,
tôi chẳng biết gì, và bắt đầu nhận thấy sự đồng minh, cái gì đó không thành phố
fcho tôi. Và do đó những khoái cảm của tôi chỉ mới là những khoái cảm do nhà thổ
đem lại, hoàn toàn không phải là khoái cảm gì hết. Tôi cảm thấy chúng đã đưa
tôi đi xa mãi, xa mãi khỏi cuộc sống thật của những cảm giác và tôi sợ chúng sẽ
làm tôi vô cảm về cuộc sống đó.
Tôi chưa từng bao giờ ở trong một gian phòng có đàn ông
và phụ nữ nhảy vì sự thích thú chung, chứ không phải sự thích thú của một bên.
Dự đóan run rẩy nằm ở đôi chân nặng nề của cô gái, cô gái mặc bộ đồ màu xanh lá
cây. Đó là một bộ quần áo mới, khoét rất rộng, không là ly, vẫn mời gọi về nhục
thể như là đã được đo và mua. Sau đó tôi thấy cô nhảy, nhìn những động tác chân
của cô, đôi giày của cô, và một sự ngọt ngào lan toả trong tôi khi tôi cảm thấy
tôi đã bao phủ một phần bản thân mình, phần ma1 tôi đã đánh mất. Tôi không hề
nhìn vào mặt cô gái, và cũng không dễ nhìn thấy trong sự tranh tối tranh sáng
này. Tôi muốn được chìm vào sự ngọt ngào, tôi không muốn một điều gì làm hỏng
đi tâm trạng lúc này.
Và tâm trạng ngày càng ngọt ngào hơn. Âm nhac đã hết,
và căn phòng với ánh sáng tuyệt vời, những vòng sáng mờ mờ chiếu rọi lên trần
nhà từ những ngọn đèn của sàn nhà, mọi người ngưng nhảy. Điều sau đó đến thẳng
trái tim tôi – những giai điệu guitar, một bài hát buồn, một cô gái người Mỹ
hát "Barbara Allen".
Ôi cái giọng hát đó! Nó không cần âm nhạc, cũng chẳng cần
lời. Chính bản thân nó dã được tạo ra cho giai điệu, bởi chính nó đã tạo ra
toàn bộ thế giới cảm giác. Đó là điều mà những người ở chỗ tôi tìm kiếm cho âm
nhạc và tiếng hát: cảm giác. Điều đó đã làm cho chúng tôi hét lên "Wa-wa!
Hoan hô!" và vứt tiền cùng vàng theo gót người ca sĩ. Nghe giọng hát này,
tôi cảm nhận được phần sâu kín nhất của tôi đang thức dậy, phần biết đến mất
mát, nhớ nhà, buồn thương, và kéo dài cho tình yêu. Và trong giọng hát đó có lời
hứa về một sự bừng nở cho bất kỳ ai nghe nó.
Tôi nói với Indar "Ca sĩ nào thế?"
Anh nói "Joan Baez. Cô ấy rất nổi tiếng ở Mỹ".
"Và là triệu phú đấy" Yvette nói.
Tôi bắt đầu nhận ra sự mỉa mai của cô. Nó làm cô có vẻ
như đang nói về cái gì đó mà cô đã nói rất it – và dùsao cô cũng chơi trò tại
nhà cô. Cô mỉm cười với tôimùi có thể là mỉm cười vì điều cô vừa nói, hoặc có
thể là mỉm cười vì tôi là bạn của Indar, hoặc là cười vì cô tin nó đã trở thành
chính cô.
Chân trái cô gập lên, chân phải để nằm trên nệm mà cô
đang ngồi, cho nên hông phải của cô gần như nằm trên mắt cá chân trái. Đôi bàn
chân thật đẹp, và màu trắng của chúng thật tuyệt tương phản với màu áo chùng của
cô. Dáng vẻ khiêu khích của cô, nụ cười của cô – chúng đã trở thành một phần
tinh thần của bài hát, thật tuyệt để mà ngắm nhìn.
Indar nói "Salim đến từ một torng những gia đình
trên bờ biển ngày xưa của chúng tôi. Câu chuyện của anh ấy hấp dẫn lắm đấy".
Tay Yvette nằm trắng muốt trên đùi phải.
Indar nói "Để tôi chỉ cho anh cái này".
Anh ngả ra trên chân tôi và vươn người tới giá sách.
Anh lấy ra một quyển sách, mở nó và chỉ cho tôi chỗ cần đọc. Tôi cầm quyển sách
để xuống sàn, tìm dòng chữ từ ánh đèn, và nhìn thấy, trong danh sách tên, tên của
Yvette và Raymond, được tác giả quyển sách cảm ơn như là "những người chủ
nhà tuyệt vời nhất" vào một thời điểm mới đây tại thủ đô.
Yvette tiếp tục mỉm cười. Dù sao cũng không hề có gì bối
rối hay đóng kịch gì hết, giờ thì cũng không có cả sự mỉa mai. Tên cô trên quyển
sách có tác động đến cô.
Tôi đưa lại quyển sách cho Indar, nhìn từ Yvette sang
ah, và quay trở lại giọng hát. Không phải bài nào cũng giống như "Barbara
Allen". Một số bài hát hiện đại, về chiến tranh và sự bất công và áp bức
cùng bom hạt nhân. Nhưng luôn luôn có những giai điệu cổ hơn, êm ái hơn. Có những
bài tôi chờ đợi để nghe, nhưng cuối cùng giọng hát nối liền hai lọai bài hát với
nhau, nối liền những cô gái và người tình và những cái chết buồn về những thời
đã xa với những con người ngày nay đang bị áp bức và sắp chết.
Đó là sự vờ vĩnh – tôi không bao giờ nghi ngờ điều đó.
Bạn không thể nghe những bài hát êm ái về bất công trừ khi bạn dự tính về công
bằng và nhiều lúc có được nó. Bạn không thể hát những bài hát về kết cục của thế
giới trừ khi – giống như những người khác trong phòng, thật đẹp với những điều
đơn giản như vậy; những tấm đệm châu Phi trên sàn nhà và những tấm màn treo
trên tường, dáo mác và mặt nạ - bạn cảm thấy thế giới đang tiếp diễn và bạn được
an toàn trong đó. Thật dễ dàng làm sao, trong gian phòng này, để có thể nói đến
những điều như thế!
Còn ở ngoài kia thật là khác và Mahesh hẳn là sẽ chế giễu.
Anh từng nói "Chẳng có gì là đúng là sai ở đây hết. Chẳng có gì là đúng hết
cả". Nhưng Mahesh ở xa quá. Sự khó nhọc của cuộc sống này, đã từng là của
tôi! Tốt hơn là tôi nên giả vờ, và tôi có thể giả vờ vào lúc này. Tốt hơn là
tôi nên chia xẻ sự giả vờ này, để cảm thấy trong gian phòng này tất cả chúng
tôi đều sống thật đẹp và trung thực với bất công và cái chết định sẵn và an ủi
chính mình với tình yêu. Ngay cả trước khi những bài hát kết thúc tôi cảm thấy
mình đã tìm ra cách sống mà tôi muốn; tôi không bao giờ còn muốn tầm thường nữa.
Tôi cảm thấy điều đó bằng một phần may mắn mà tôi đã rơi tuột vào cái tương tự
như nhiều năm trước Nazruddin từng tìm thấy chính ở nơi đây.
Raymond đến rất muộn. Với sự khẩn khoản của Indar, tôi
đã nhảy cùng Yvette và cảm thấy làn da của cô dưới áo choàng, và khi nhìn thấy
Raymond những ý nghĩ của tôi – cho đến thời điểm đó của buổi tối nhảy từ khả
năng này sang khả năng khác – đầu tiên chỉ về sự khác biệt về tuổi tác giữa họ.
Hẳn Yvette phải kém chồng đến ba mươi tuổi, Raymon khoảng lục tuần.
Nhưng tôi cảm thấy những khả năng đó mờ đi, cảm thấy
chúng như những giấc mơ, khi tôi nhìn thấy cái liếc nhìn quan tâm trên gương mặt
Yvette – hoặc đúng hơn là đôi mắt cô, nụ cười vẫn thường trực, một thủ đoạn của
khuôn mặt cô, khi tôi nhìn thấy sự chắc chắn trong lối cư xử của Raymond, nhớ đến
công việc và địa vị của ông, và sự khác biệt về vẻ ngoài của ông . Đó là sự nổi
bật về trí tuệ và công việc về trí óc. Trông ông như thể vừa bỏ kính ra và đôi
mắt đáng mến của ông trông mệt mỏi một cách thu hút. Ông mặc một áo khoác đi
săn vạt dài, tôi nghĩ phong cách đó – vạt dài thay vì ngắn – ông đã thừa hưởng
từ Yvette.
Sau cái nhìn quan tâm với chồng, Yvette lại ngả ra với
nụ cười cố định của cô. Indar đứng dậy và đem chiếc ghế ăn dựa ở tường lại.
Raymond tiến tới chỗ chúng tôi đứng, ông bỏ cơ hội ngồi gần Yvette, và khi
Indar trở lại với chiếc ghế, anh ngồi luôn trên đó.
Yvette nói, không cử động "Anh có muốn uống gì
không, Raymond?"
Ông nói "Evie sẽ đun nước cho anh. Anh sẽ về phòng
trong một phút nữa".
Sự có mặt của Raymond trong phòng đã được nhận thấy. Một
thanh niên trẻ và một cô gái đến nhóm chúng tôi. Một hay hay người khác cũng tiến
đến. Họ chào nhau.
Indar nói "Tôi hy vọng không làm phiền mọi người"
Raymond nói "Thật là một chỗ dễ chị. Nếu trông tôi
có xộc xệch, thì chỉ là bây giờ thôi, vừa nãy ở trong phòng tôi đã thất vọng
quá . Tôi bắt đầu nghĩ, như tôi vẫn thường nghĩ, liệu có thể biết được sự thật
không. Ý tưởng không mới, nhưng có những lúc nó trở nên thật đau đớn. Tôi cảm
thấy mọi thứ ai đó làm chỉ là sự lãng phí mà thôi".
Indar nói "Ông nói linh tinh rồi, Raymond. Dĩ
nhiên có những lúc ai đó như ông được nhận ra, nhưng nó chỉ đến vào lúc cuối
cùng thôi. Lĩnh vực của ông không thông thường lắm mà".
Yvette nói "Anh nói với anh ấy điều đó hộ tôi nhé,
xin anh mà".
Một trong hai người đang đứng nói "Những phát hiện
mới thường xuyên bắt chúng ta phải ngoái nhìn lại về quá khứ. Sự thật luôn ở
đó. Có thể đến đó. Công việc đã làm xong, thế thôi".
Raymond nói "Thời gian, kẻ phát hiện sự thật. Đó
là ý tưởng cổ điển rồi, ý tưởng của tôn giáo. Nhưng có những lúc bạn bắt đầu tự
hỏi. Liệu chúng ta có thật sự biết về lịch sử Đế chế La Mã không? Liệu chúng ta
có thật sự biết về điều gì đã xảy ra trong cuộc chinh phục xứ Gaul không? Tôi
ngồi trong phòng và buồn rầu nghĩ về tất cả những điều còn chưa được ghi lại.
Các bạn có nghĩ chúngta có lúc nào đạt đến sự thật về điều đã xảy đến với châu
Âu trong một trăm năm hay thậm chí năm mươi năm qua không? Mọi cuộc chiến, mọi
cuộc nổi loạn, mọi lãnh tụ, mọi thất bại?"
Một khoảng im lặng. Chúng tôi nhìn Raymond, người đã
mang đến một chủ đề thảo luận trong buổi tối của chúng tôi. Rõ ràng tâm trạng
chỉ là sự mở rộng tâm trạng của những bài hát của Joan Baez. Và trong một lúc,
không có sự trợ giúp của âm nhạc, chúng tôi chiêm ngưỡng nỗi buồn của châu lục.
Indar nói "Ông đã đọc bài báo của Muller
chưa?"
Raymond nói "Về cuộc nổi loạn Bapende à? Ông ấy đã
gửi cho tôi một bản. Một thành công lớn, tôi nghe nói vậy".
Người thanh niên đi cùng cô gái nói "Tôi nghe nói
người ta đã mời ông ấy đến Texas giảng bài trong một học kỳ".
Indar nói "Tôi nghĩ đó là một mớ rác. Tất cả những
loại câu nói rập khuôn mà cứ như là một minh triết mới. Azande, đó là một cuộc
nổi loạn bộ lạc. Bapende, đó chỉ là một sự áp bức về mặt kinh tế, liên quan đến
cao su. Chúng được xếp vào cùng với Budja và Babwa. Và làm vậy nhờ dựa vào yếu
tố tôn giáo. Đó là cái đã làm sự vùng dậy của Bapende trở nên tuyệt vời. Đó chỉ
là thứ diễn ra khi người ta quay sang châu Phi để chơi trò học thuật
thôi".
Raymond nói "Ông ấy đã đến gặp tôi. Tôi đã trả lời
toàn bộ câu hỏi của ông ấy và đã đưa ông ấy mọi ghi chép của tôi".
Người thanh niên nói "Muller thì cái gì cũng mó
vào một tí, tôi nghĩ thế".
Raymond nói "Tôi thích ông ấy".
Yvette nói "Ông ấy đến ăn trưa. Ngay khi Raymond rời
khỏi bàn, ông ấy đã quên mọi thứ về Bapende và nói với tôi "Bà có muốn đi
dạo với tôi không? Đúng thế đấy. Một phút sau Raymond quay trở vào".
Raymond mỉm cười.
Indar nói "Tôi đã nói với Salim, Raymond ạ, rằng
ông là tác giả duy nhất mà Tổng thống đọc."
Raymond nói "Tôi không nghĩ hồi ấy ông ấy bỏ nhiều
thời gian để đọc đâu".
Người thanh niên đứng bên cạnh cô gái nói "Ông đã
gặp ông ấy như thế nào?"
"Đó là một chuyện vừa đơn giản vừa đặc biệt"
Raymond nói "Nhưng tôi không nghĩ lúc này chúng ta có đủ thời gian"
ông nhìn Yvette.
Cô nói "Em không nghĩ mọi người chịu đợi đến lúc
khác đâu".
"Đã lâu rồi" Raymond thong thả. "Thời
thuộc địa ấy. Tôi dạy học tại một trường trung học tại thủ đô. Tôi dạy sử.
Nhưng dĩ nhiên thời ấy không hề có chuyện trừng phạt. Có kiểm duyệt mà người ta
làm ra vẻ không tồn tại, dù có đạo luật nổi tiếng năm 1922. Và dĩ nhiên thời đó
châu Phi không phải thuộc dân. Nhưng tôi không bao giờ làm ra vẻ bí mật về điều
tôi đã cảm thấy hoặc về vị trí của tôi, tôi cho rằng từ đó phải được nói ra. Một
hôm tại trường tôi được cho biết là một phụ nữ châu Phi già muốn gặp tôi. Một
người hầu châu Phi đến báo tin cho tôi, anh ta không mấy ấn tượng với người
khách đó.
"Tôi bảo anh ta dẫn bà ta vào. Bà đứng tuổi chứ
chưa hẳn đã già. Bà làm phục vụ tại khách sạn lớn của thủ đô, và bà ta đến nói
với tôi về con trai bà. Bà là người của một bộ lạc nhỏ, những người không hề
đáng nói, và tôi cho rằng bà không còn ai cùng đẳng cấp để có thể cầu cứu. Cậu
bé đã bỏ trường. Cậu tham gia một câu lạc bộ chính trị nào đó và đã làm nhiều
chuyện ngớ ngẩn. Nhưng cậu ta dã ngừng tất cả những việc đó. Cậu đang không làm
gì hết cả. Cậu chỉ ở nhà thôi. Cậu không đi tìm ai hết. Cậu bị đau đầu, nhưng
không ốm lắm. Tôi nghĩ bà sẽ đề nghị với tôi tìm cho cậu bé một việc làm. Nhưng
không. Bà chỉ muốn tôi gặp cậu bé và nói chuyện với nó.
"Bà gây cho tôi một ấn tượng mạnh. Phải, phẩm cách
của người hầu khách sạn này thật đáng kể. Một người phụ nữ khác hẳn nghĩ con
trai mình bị quỷ ám, và sẽ thực thi những biện pháp truyền thống. Còn bà, theo
cách đơn giản của mình, đoán rằng bệnh cccon trai mình có nguồn gốc từ giáo dục.
Chính vì vậy bà đến tìm tôi, giáo viên trường đại học.
"Tôi bảo bà gửi con trai đến. Cậu ta không thích mẹ
cậu nói về cậu với tôi, nhưng cậu vẫn đến. Cậu nóng nảy như một con ngựa non.
Điều làm cậu bất bình thường – thậm chí tôi có thể nói đặc biệt – là niềm tuyệt
vọng lớn lao của cậu. Đó không chỉ là vấn đề nghèo khổ và thiếu cơ hội. Nó sâu
xa hơn. Và, thực tế, khi thử nhìn vào thế giới của cậu theo quan điểm của cậu
nghĩa là bạn cũng bắt đầu đau đầu luôn. Cậu không thể đối diện với thế giới
trong đó mẹ cậu, một phụ nữ nghèo khó châu Phi, đã phải chịu những nhục nhã đó.
Không có gì đảo ngược điều đó. Không gì có thể mang lại cho cậu một thế giới tốt
đẹp hơn.
"Tôi nói với cậu, tôi đang nghe cậu, và tôi biết một
ngày nào đó cảm giác tuyệt vọng sẽ chấm dứt và cậu sẽ muốn hành động. Điều cậu
phải tránh là dính líu vào các hoạt động chính trị hiện nay. Các câu lạc bộ và
tổ chức đó bàn cãi về những cửa hiệu, tranh luận về hãng kinh doanh, tại đó người
châu Phi ngả về châu Âu và hy vọng học được một chút từ đó. Chúng sẽ hút hết niềm
say mê của cậu và tiêu diệt những phẩm chất của cậu. Cậu sẽ lấy làm lạ về điều
tôi sắp nói với cậu đây. Cậu phải vào Lực lượng quốc phòng. Cậu sẽ không lên
cao, nhu_Người cậu sẽ hoặc được một kỹ năng thật sự. Cậu có thể học về vũ khí
và vận tải, và cậu sẽ học về con người. Một khi cậu hiểu quốc phòng như thế
nào, cậu sẽ hiểu bản chất đất nước. Cậu có thể nói với tôi "Nhưng tốt hơn
là tôi trở thành luật sư được gọi là maitre?" tôi sẽ nói "Không. Điều
đó không tốt hơn là cậu trở thành binh nhì và gọi trung sĩ là ngài". Đây
không phải là lời khuyên tôi muốn dành cho bất kỳ ai đâu. Nhưng tôi tặng nó cho
cậu đấy".
raymond cuốn hút tất cả chúng tôi. Khi ông dừng nói,
chúng tôi đều giữ im lặng, nhìn ông ngồi trên chiếc ghế ăn trong chiếc áo khoác
đi săn, thật khác biệt, tóc chải lật ra sau, có dáng vẻ của một trưởng lão.
Cuối cùng Raymond tiếp tục nói, phá tan sự im lặng, bằng
một giọng chắc nịch hơn "Đó thực sự là một người đàn ông đáng trọng. Tôi
không nghĩ chúng ta đã đền đáp được đủ cho những gì ông đã làm. Chúng ta chỉ hưởng
thụ những cái đó thôi. Ông đã đưa quân đội vào nền nếp và đem hoà bình về cho
vùng đất đông người này. Bây giờ đã lại có thể đi từ đầu này sang đầu kia đất
nước – một điều mà chỉ quyền lực thực dân nghĩ là có thể mang lại. Và điều đáng
chú ý nhất ở đây là ông đã làm vậy mà không cần ép buộc, và hoàn toàn với sự đồng
thuận của mọi người. Các bạn không nhìn thấy cảnh sát trên đường phố. Các bạn
không nhìn thấy súng đạn. Các bạn không nhìn thấy quân đội".
Indar, ngồi gần Yvette đang mỉm cười, có vẻ như định đổi
thế ngồi để nói điều gì đó. Nhưng Raymond giơ tay lên và Indar bỏ ý định.
"Và có tự do" Raymond nói "Đó là điều có
ý nghĩa cho mọi tư tưởng của mọi hệ thống. Tôi không nghĩ" ông nói, nhìn
thẳng vào Indar, như thể để buộc anh phải im lặng "rằng bất kỳ ai cũng có
thể gợi ý với anh rằng có những điều anh phải nói và những điều không được phép
nói ra".
Indar nói "Ở đây chúng ta từng có một lối đi dễ
dàng mà".
"Tôi không nghĩ ông ấy muốn kiểm duyệt anh. Ông ấy
cho rằng mọi ý tưởng đều có thể được tạo ra cho một mục đích nào đó. Bạn có thể
nói rằng ông không có một sự say mê tuyệt đối về các ý tưởng. Ông sử dụng chúng
theo cách riêng của mình".
Yvette nói "Tôi mong ông ấy thay đổi đồng phục của
bọn người hầu. Ngày xưa thời thuộc đia, là quần ngắn và một tạp dề dài màu trắng.
Hoặc quần dài và một áo khoác. Chứ không phải quần áo vũ hội hoá trang, quần ngắn
và áo khoác như thế này"
Tất cả chúng tôi đều cười, cả Raymond, như thể chúng
tôi muốn chấm dứt sự nghiêm trang. Và sự táo gan của Yvette giống như tấm lá chắn
cho tự do mà Raymond vừa nói đến.
Raymond tiếp "Yvette nói về đồng phục của những
người hầu. Nhưng thực ra cần phải nói tới đồng phục quân đội và đồng phục người
mẹ từng là người hầu tại khách sạn. Người mẹ đó đã từng mặc một bộ đồng phục nữ
gia nhân thời thuộc địa suốt cuộc đời làm lụng của bà. Những người giúp việc
trong Khu có bộ đồ của mình. Đó không phải đồng phục thời thuộc địa – đây chính
là điểm mấu chốt. Trên thực tế, giờ đây mọi người mặc đồng phục đều phải hiểu
điều đó. Mọi người mặc đồng phục đều phải cảm thấy rằng anh có một hợp đồng với
Tổng thống . Và cố giúp những người giúp việc đó thoát ra khỏi đồng phục của họ.
Bạn không thể thành công, Yvette đã cố. Họ muốn mặc đồng phục đó, dù cho điều
này trong mắt các bạn có phi lý đến đâu chăng nữa. Con người châu Phi thật là kỳ
cục với những thiên hướng, cái hiểu biết về những gì người ta cần, và khi nào cần,
của họ.
"Chúng ta đều có ảnh hưởng của ông bận trang phục
châu Phi ngày nay. Tôi phải thú nhận tôi rất không thích khi trang phục này bắt
đầu xuất hiện nhiều quá. Một hôm ở thủ đô tôi đã nêu vấn đề với ông. Tôi hoàn
toàn bị thuyết phục bởi cách trả lời của ông. Ông nói "Năm nước trước,
Raymond ạ, tôi có thể đồng ý với ông. Năm năm trước người châu Phi chúng tôi, với
sự hài hước khủng khiếp của họ, có thể cười, và điều lố bịch đó có thể phá huỷ
đất nước chúng tôi, với những giao kèo lỏng lẻo. Nhưng thời thế đã thay đổi. Giờ
đây người ta đã có hoà bình. Họ muốn một cái gì đó khác. Vậy là họ không còn
nhìn thấy ảnh một người lính nữa. Họ thấy ảnh một người châu Phi. Và đó không
phải là ảnh của tôi, Raymond ạ. Đó là ảnh của mọi người châu Phi".
Đó cũng chính là điều tôi cảm thấy, nên tôi nói
"Phải! Không ai trong số chúng tôi ở thị trấn treo những ảnh cũ nữa. Nhưng
thật là khác khi nhìn những bức ảnh mới, nhất là ở Khu".
Raymond cho phép sự ngắt lời đó. Dù vậy, tay phải ông
giơ lên, để xin phép tiếp tục. Và ông tiếp lời.
"Tôi nghĩ mình có thể kiểm chứng điều đó. Điển
hình là một chuyện chỉ mới tuần trước thôi. Tôi bất chợt gặp một trong số những
sinh viên của chúng ta bên ngoài toà nhà chính. Với mục đích khiêu khích, tôi
nhận xét vu vơ về số lượng ảnh Tổng thống . Người thanh niên quay phắt lại nhìn
tôi. Thế là tôi hỏi anh ta cảm thấy gì khi anh ta nhìn thấy ảnh tông thống. Bạn
có thể ngạc nhiên thế nào về điều anh ta nói với tôi, anh thanh niên đó, đứng
nghiêm như thể một quân nhân vậy. "Đó là ảnh của Tổng thống . Nhưng ở Khu,
với tư cách một sinh viên bách khoa, tôi coi đó là ảnh của chính tôi! Thê
đấy! Nhưng đó là phẩm chất của những nhà lãnh đạo lớn
– họ cảm nhận được nhu cầu của dân tộc mình rất lâu trước khi những nhu cầu đó
thành hình. Đây là điều một người châu Phi cai trị châu Phi trong những chính
phủ thuộc địa không bao giờ thực sự hiểu được. Dù phần lớn chúng ta nghiên cứu
châu Phi, dù chúng ta có cảm tình với lục địa này, thì xét về bản chất chúng ta
vẫn cứ là người ngoài".
Người thanh niên, lúc này đã ngồi bên cạnh người đàn
ông đi cùng với cô gái, hỏi "Các ngài có hiểu ý nghĩa biểu tượng của con rắn
trên chiếc gậy của Tổng thống không? Đúng là có một cái bùa ở bụng của mặt người
trên gậy chứ?"
Raymond nói "Tôi không biết điều đó. Đó là một cái
gậy. Nó là gậy của người lãnh đạo. Nó giống như một cái q uyền trượng hay mũ tế.
Tôi không nghĩ chúng ta lại rơi vào sai lầm nhìn thấy ở mọi nơi những điều huyền
bí châu Phi".
Lời nhận xét mang tính chỉ trích vang lên nhẹ nhàng,
nhưng dường như Raymond không để ý.
"Gần đây tôi có cơ hội xem lại toàn bộ các bài diễn
văn của Tổng thống . Hiện tại, giá mà xuất bản được chúng thì hay quá! Không phải
tất cả các bài diễn văn, hiển nhiên chúng liên quan đến quá nhiều vấn đề. Mà là
tuỷên chọn. Những ý tưởng chủ đạo".
Indar nói "Ông có làm việc đó không? Ông ấy có hỏi
ý kiến ông không?"
Raymond nhấc một cánh tay và nhún vai, ngụ ý điều đó là
có thể, nhưng ông không thể nói về vấn đề quá riêng tư như vậy.
"Thật thú vị khi đọc những bài diễn văn đó theo trình
tự của chúng. Tại đó các bạn có thể thấy rất rõ rràng cái mà tôi đã miêu tả là
một sự hăng say các ý tưởng. Thoạt đầu các ý tưởng rất đơn giản. Thống nhất,
quá khứ thuộc địa, nhu cầu hoà bình. Rồi chúng trở nên đặc biệt phức tạp và tuyệt
vời về châu Phi, chính phủ, thế giới hiện đại. Một công trình như thế, nếu được
chuẩn bị tốt, có thể sẽ dễ dàng trở thành một cuộc cách mạng trên cả lục địa.
Các bạn luôn có cảm giác là sự thiệt hại không bao giờ có thể sửa chữa được.
Luôn luôn có nhận xét đó, với những người chịu lắng nghe, về người đàn ông trẻ
tuổi than khíoc cho những nỗi nhục nhã của mẹ mình, người hầu ở khách sạn. vẫn
luôn như thế. Tôi không nghĩ có nhiều người biết rằng đầu năm ông ấy và toàn thể
chính phủ đã hành hương về ngôi làng của người đàn bà châu Phi đó. Ông đã bao
giờ làm thế trước đây chưa? Hành động cảm thương này là cái gì đó làm nó nta phải
trào lệ. Liệu các bạn có thể tưởng tượng những nỗi nhục nhã của một người hầu
khách sạn châu Phi thời thuộc địa không? Không có sự cảm thương nào đủ cho điều
đó. Nhưng cảm thương là cái mà tất cả chúng ta đều phải có".
"Hoặc chúng ta có thể quên" Indar nói
"Chúng ta có thể giẫm thẳng lên quá khứ".
Raymond nói "Đó là việc mà hầu hết các lãnh đạo của
châu Phi đều làm. Họ muốn chôn vùi những toà nhà chọc trời trong đám cây bụi.
Còn ông ấy muốn xây một hầm mộ".
Nhạc không lời vẳng đến từ bên ngoài. Bài "Barbara
Allen" bắt đầu lại một lần nữa, và từ ngữ bắt đầu loãng ra. Raymond đứng
lên. Người đàn ông ngồi trên đệm đến vặn nhỏ đài. Raymond chỉ ra rằng ông không
phiền gì, nhưng bài hát nhỏ dần đi.
Raymond nói "Tôi muốn ở lại cùng các bạn lắm,
nhưng thật không may tôi phải quay lại làm việc tiếp. Nếu không tôi sẽ đánh mất
cái gì đó. Tôi thấy rằng điều kh khăn nhất khi viết văn xuôi là liên kết một ý
tưởng này với một ý tưởng khác. Sự kết nối chỉ có thể là một câu, thậm chí một
từ. Nó tóm tắt tất cả những gì đã viết trước đó và chuẩn bị cái sẽ đến. Khi tôi
ngồi với các bạn tôi nảy ra một ý tưởng về giải pháp khả thi cho một vấn đề đã
bắt đầu trở nên không tìm nổi hướng giải quyết. Tôi phải đi ghi lại ngay đây. Nếu
không tôi có thể sẽ quên mất".
Ông rời khỏi chúng tôi. Nhưng ông bỗng dừng lại và nói
"Tôi không nghĩ các bạn có thể hiểu được việc viết về những cái chưa từng
được viết trước đây là khó khăn đến thế nào. Các công trình nghiên cứu rải rác
về một chủ đề nhất định, cuộc nổi loạn Bapende hoặc bất kỳ cái gì khác – có
hình thức riêng của mình. Viết rộng hơn lại là một vấn đề khác. Và đó là tại
sao tôi đã bắt đầu coi Theodor Mommsen [1] là một người khổng lồ của văn chương
lịch sử hiện đại. Giờ đây mọi thứ chúng ta tranh luận về Cộng hoà La Mã chỉ là
tiếp tục Mommsen mà thôi. Các vấn đề, các chủ đề, câu chuyện chính, đặc biệt về
những năm đặc biệt náo động cuối thời Cộng hoà – có thể nói rằng con người
thiên tài người Đức đã phát hiện hết rồi. Dĩ nhiên, Theodor Mommsen có cái dễ của
mình vì ông biết chủ đề của mình là vĩ đại. Chúng ta không có sự đảm bảo đó khi
làm việc với lĩnh vực của mình. Chúng ta không biết hậu thế sẽ xem trọng đến
đâu các sự kiện chúng ta ghi lại. Chúng ta không biết châu lục sẽ đi về đâu.
Chúng ta chỉ có thể tiếp tục thôi."
Ông đột ngột ngừng lời, và đi ra khỏi phòng, để lại
chúng tôi đang yên lặng, nhìn theo nơi ông vừa biến mất, và chầm chậm chú mục
vào Yvette, giờ đây là đại diện của ông ở trong căn phòng này, đang mỉm cười,
nhận ra cái nhìn của chúng tôi.
Sau một lúc Indar nói với tôi "Anh có biết công việc
của Raymond là gì không?"
Dĩ nhiên anh thừa biết câu trả lời. Nhưng, để mở đường
cho anh, tôi nói "Không, tôi không biết công việc của ông ấy".
Indar nói "Đó là bi kịch của địa điểm. Những con
người vĩ đại của châu Phi không được biết đến".
Điều này giống như một bài diễn văn cám ơn chính thức.
Và Indar đã chọn từ rất chuẩn. Anh đã biến tất cả chúng tôi thành đàn ông và phụ
nữ của châu Phi, và vì chúng tôi không phải là người châu Phi, lời tuyên bố gây
cho chúng tôi một cảm giác về bản thân chúng tôi mà, cho đến giờ tôi vẫn hằng
quan tâm đà sớm được nhấn mạnh bởi giọng hát của Joan Baez, lại tiếp tục, dịu
dàng nhắc nhở chúng tôi, sau những căng thẳng Raymond đã tạo ra giữa chúng tôi,
về sự gan dạ và nỗI buồn chung.
Indar ôm hôn Yvette khi chúng tôi ra về. Và tôi cũng được
ôm hôn, như một người bạn. Với tôi điều này thật tuyệt vời, là điểm nút của buổi
tối nay, khi được ấn sát vào cơ thể đó, mềm mại vào cái giờ muộn mằn này, và cảm
thấy lụa áo khoác của cô và sự tươi mát đấy lần áo lụa.
Trời có trăng – lúc trước không hề có. Nó nhỏ và cao. Bầu
trời đầy những đám mây nặng nề, ánh trăng trải đây đó. Rất yên tĩnh. Chúng tôi
có thể nghe tiếng ghềnh nước cách đây khoảng một dặm. Ghềnh nước trong ánh
trăng! Tôi nói với Indar "Ra sông đi" và anh đồng ý.
Trên khoảnh đất rộng được san phẳng của Khu những toà
nhà mới dường như thật nhỏ, và mặt đất t mênh mông. Khu d nhập hoàn toàn vào rừng,
sạch sẽ nhất trong sự mênh mông của cây bụi và dòng sông – cái thế giới không
có gì khác nữa cả. Ánh trăng làm biến dạng những khoảng cách, và bóng tối, khi
nó đến, dường như rơi xuống đầu chúng tôi.
Tôi nói với Indar "Anh nghĩ gì về những điều
Raymond nói?"
"Raymond kể rất hay một câu chuyện. Nhưng phần lớn
những gì ông ấy nói là đúng cả đấy. Điều ông ấy nói về Tổng thống và các ý tưởng
chắc chắn là đúng. Tổng thống sử dụng tất cả chúng ta và cách nào đó phối hợp
chúng với nhau. Ông là một nhà lãnh đạo vĩ đại của châu Phi ,và ông cũng là người
của dân chúng. Ông là người hiện đại hóa và cũng là người châu Phi khám phá được
tâm hồn châu Phi của mình. Ông bảo thủ, cách mạng, đủ thứ. Ông lùi lại những
ngày xưa, và ông cũng là người tiến lên phía trước, người sẽ biến đất nước
thành cường quốc thế giới vào năm 2000. Tôi không biết liệu ông làm điều đó vô
tình hay là do ai đó cho ông điều cần làm. Nhưng vẫn hỗn tạp vì ông cho thay đổi,
không giống những người khác. Ông là người lính quyết định trở thành một người
chỉ huy theo klểu cũ, và là người chỉ huy mà mẹ là một người hầu trong khách sạn.
Điều này cho ông tất cả mọi thứ, và ông sử dụng mọi thứ. Không có ai ở đất nước
từng nghe đến người mẹ từng làm phục vụ khách sạn đó cả".
tôi nói "Chúng làm tôi nhớ đến chuyến hành hương về
làng người mẹ. Đọc báo tôi biết đó là một chuyến hành hương quy mô không lớn.
Tôi nghĩ chỉ có thế thôi".
"Ông ấy xây hầm mộ ở vùng cây bụi để tưởng niệm mẹ
mình. Và cùng lúc ông xây dựng châu Phi hiện đại. Raymond nói ông không xây nhà
chọc trời. Tốt, ông không làm điều đó. Ông xây dựng những Khu đắt đỏ như thế
này".
"Nazruddin từng ở đây ngày trước".
"Và ông ấy bán đi giá bèo. Anh có định nói với tôi
thế không? Đó là câu chuyện của châu Phi".
"Không, Nazruddin bán giá cao. Ông bán đúng cơn sốt
đất trước khi độc lập. Ông đi khỏi một buổi sáng chủ nhật và nói "nhưng đó
chỉ là cây bụi thôi mà" và bán nó đi".
"Cũng có thể lại thế lắm"
Âm thanh của ghềnh nước to dần. Chúng tôi đã bỏ lại những
toà nhà mới của Khu sau lưng và lại gần những túp lều của làng chài, nằm chết
lì trong ánh trăng. Những con chó gầy guộc của làng, tái nhợt trong ánh trăng,
những cái bóng ngả đàng sau, lười nhác bước đi tránh chúng tôi. Những cái hố và
lưới đánh cá tối om tương phản với sự lấp lánh của dòng sông. Và khi chúng tôi
đến điểm quan sát, giờ đã được sửa chữa, được xây tường mới, xung quanh chúng
tôi mọi thứ khác chìm khuất trong tiếng nước phia trên những tảng đá. Những đám
dạ lan hương trôi qua. Những bông hoa trắng trong ánh trăng, những cái rễ rối
bù tối thẳm hằn lên trong cái bóng màu đen. Khi ánh trăng tới, không thể nhìn
thấy gì nữa, thế giới khi đó chỉ là âm thanh cũ kỹ của dòng nước sôi lên.
Tôi nói "Tôi chưa bao giờ nói với anh vì sao tôi đến
đây. Tôi không chỉ đi khỏi bờ biển để lái xe đến cửa hiệu ở đây đâu. Nazruddin
thường kể cho chúng ta những câu chuyện tuyệt diệu thời chúng ta còn ở đó. Đó
là nguyên nhân vì sao tôi đến. Tôi nghĩ tôi có thể sống cuộc sống của chính mình
và tôi nghĩ rằng đến lúc mình sẽ tìm ra những gì Nazruddin đã tìm ra. Rồi tôi mắc
kẹt. Tôi không biết tôi có thể làm gì nếu anh không tới. Nếu anh không tới có lẽ
tôi đã chẳng biết điều gì diễn ra ở đây, ngay dưới mắt tôi."
"Đó là sự khác biệt giữa những gì chúng ta vẫn biết.
Với những người như chúng ta điều đó thật là hấp dẫn. Châu Âu, châu Phi, châu
Phi hậu thực dân. Nhưng không phải châu Âu hay châu Phi. Và nó có vẻ khác biệt
từ bên trong. Tôi có thể nói với anh".
"Anh muốn nói mọi người không tin vào điều đó? Họ
không tin vào những điều họ nói và làm?"
"Không ai thô lỗ đến mức đó. Chúng ta tin và không
tin. Chúng ta tin bởi vì bằng cách đó mọi thứ đều trở nên đơn giản hơn và có ý
nghĩa hơn. Chúng ta không tin cũng vì vậy". Và Indar vẫy tay chỉ về ngôi
làng chài, cây bụi, dòng sông tràn ngập ánh trăng.
Một lúc sau anh nói "Raymond thích làm rối vấn đề.
Ông ấy phải giả vờ mình là người dẫn đường và cố vấn, để tránh không chịu nhận
rằng thời gian này ở đây ông chỉ nhận các mệnh lệnh. Thực ra, không chỉ nhận mệnh
lệnh, ông còn bắt đầu đi trước mệnh lệnh. Ông ấy sè phát điên nếu phải công nhận
tình hình đó. Ôi, bây giờ ông ấy có trọng trách lớn lắm. Nhưng ông ấy đang trên
đà trượt xuống. Ông đã bị đuổi khỏi thủ đô. Người Đàn Ông Vĩ Đại sẽ tự đi con
đường của mình, và ông sẽ không còn cần Raymond nữa. Mọi người đều biết điều
đó, nhưng Raymond lại nghĩ không ai biết cả. Đó là một điều khủng khiếp với một
người ở tuổi đó".
Nhưng điều Indar nói không làm tôi nghĩ về Raymond. Tôi
nghĩ đến Yvette, gần gũi hơn rất nhiều so với nỗi khốn khổ của chồng nàng. Tôi
quay lại với những hình ảnh của nàng tối đó, quay lại cuốn phim, nói, xây dựng
lại và đóng lại những gì tôi đã thấy, tạo lại người đàn bà đó, gắn liền nàng với
dáng vẻ đã mê hoặc tôi, đôi chân để sát nhau, một chân nhấc lên, một để nằm và
cong, vẽ lại khuôn mặt nàng, nụ cười của nàng, trở lại toàn bộ hình ảnh trên nền
những bài hát của Joan Baez và những gì họ đã để lại trong tôi, và thêm vào cái
bối cảnh bên ngoài của ánh trắng, ghềnh nước, và toàn bộ những cây lan dạ hương
của dòng sông vĩ đại của châu Phi.
Chú thích:
[1] Sử gia người Đức, giải Nobel văn chương 1902.
Cao Việt Dũng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét