1. Trạng
thái “điên“ của Bùi Giáng có ý nghĩa gì ?. (*)
Theo thầy Thích Nguyên Tạng (chùa Pháp Vân, Gia Định, Sàigòn), Bùi Giáng tự
ghi tiểu sử cuả mình cho thầy trong cuốn sổ tay vào buổi trưa ngày
mùng 10 tháng 11 năm 1993 như sau:
“1971 - 75 - 93
Điên rồ
lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang
Rong chơi
như hài nhi (con nít)
Được gia
đình ông Phó Chủ Tịch (482) Lê Quang Định, Hội Đồng Thành Phố đối xử thơ mộng thênh… “
Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 ỏ làng Thanh Châu xã
Vĩnh-Trinh huyện Duy Xuyên Quảng Nam. Tạ thế tại bệnh viện Chợ Rẫy Sai-Gòn,
hồi 2 giờ chiều ngày 7 tháng 10 năm 1998. Ông là cháu ngoại của
tổng-đốc Hoàng-Diệu, con của ông Bùi-Thuyên và bà Huỳnh-Thị Kiền làm nghề dạy
học ở Đà-Lạt, Sài-Gòn, biên soạn sách giảng luận về văn học, triết học, kiếm
hiệp, viết văn, làm thơ…
Theo Võ
Đắc Danh, hồ sơ lưu trữ tại nhà thương điên Biên Hòa ghi nhận Bùi
Giáng nhập viện hai lần. Lần thứ nhất vào năm 1969, lần thứ hai vào năm 1977,
thời gian này Nguyễn Ngu Í vẫn còn trong bệnh viện, hai người cùng ở khu 3.
Bệnh án
của Bùi Giáng có đoạn ghi: "Bệnh tái phát từ tháng 4 năm 1969, có hôm
thức suốt đêm để viết, nói huyên thuyên, chơi chữ, có khi la thất thanh, ý
tưởng tự cao tự đại. Hay phát biểu ý kiến về những vấn đề chính trị, văn hoá
trọng đại, có ý nghĩ bị người ta phá hoại sự nghiệp văn chương. Tháng 3 năm
1969 bị cháy nhà và cháy tất cả sách vở quý báu nên đương sự bị bệnh mỗi ngày
một nặng hơn...".
Tuy nhiên đọc thơ Bùi Giáng, tôi không thấy bệnh điên ảnh hưởng gì đến câu chữ
cuả ông. Trái lại, ông ý thức rõ trạng thái điên cuả mình, điên là một thái
độ sống có ý thức.
Đời này đất đá cằn khô
Điên
duỗi dọc, điên ngửa nghiêng
Điên
là hạnh phúc thần tiên ở đời
(Dzách)
Uống và
say nói lăng nhăng
Miệng mồm lý nhý thằn lằn đứt đuôi
Tâm
can chân thể chôn vùi
Mặt trời không mọc với người lem nhem
Còn đâu nguyệt tỏ bên thềm
Ôi người uống rượu còn thêm điên rồ
(Người
Điên Uống Rượu)
Ông điên từ một lần đầu
Tới lần đuôi đứt ruột rầu rĩ đau
Tuyệt mù biển cạn sông sâu
Bụi hồng tản mác trước sau bây giờ. 1996
(Ông
Điên)
Anh đã định suốt thiên thu vạn kỷ
Làm thằng điên rồ dại suốt thiên thâu
Nhưng em ạ, dường như anh vô lý
Lúc đoạn trường anh đứt ruột khổ đau.
(Quá
Khứ Của Anh)
Những
dòng thơ “điên“ ở trên như ẩn chứa một điều gì sâu kín lắm trong tâm hồn Bùi
Giáng. Ngôn ngữ thơ vừa gói kín vừa gợi ra trạng thái mơ hồ, nửa như đùa,
nửa như thật, nửa hồn nhiên, nửa thương đau và cô độc của tâm hồn Bùi Giáng.
Không có mặt trời mọc, không có trăng bên thềm, chỉ có tuyệt
mù sông sâu, biển cạn, bụi hồng và sự hiện
hữu người ngợm vô thường trong nỗi đau đứt ruột.
2. Thơ Bùi
Giáng, thơ tư tưởng
Trong thơ, người đọc khó khám phá ra nỗi đau thực sự của Bùi Giáng là gì,
nhưng nỗi đau ấy bàng bạc trong hồn thơ ông:
Niềm đau
đớn xót xa như vĩnh quyết
Niềm điêu linh như vĩnh biệt muôn đời
Tôi về giữ mộng mù khơi
Kết thành viễn tượng cho đời chiêm bao
(Ngày
Nay Ngày mai)
Ăn làm
sao? nói làm sao?
Thủy chung muôn một? còn đau đớn nghìn?
(Mười
Hai Con Mắt)
Phải chăng đó là nỗi đau của những cuộc tình “rã đôi“ không
thành lời. Sự “chia ngã đường thu“ đã để lại những vết
thương tâm không rõ nguồn cơn, nở thành những “đóa đóa sầu“ để Bùi Giáng tặng cho đời... Ông có nhắc đến một vài người
cụ thể: “Bình sinh mộng tưởng vấp phải niềm thương yêu của Kim Cương Nương
Tử, Hà Thanh Cố Nương và Mẫu Thân Phùng Khánh (tức Trí Hải Ni
Cô)“ (tiểu sử tự ghi) Nhưng những người phụ nữ này được Bùi Giáng tôn
vinh như là mẫu thân sinh đẻ ra mình, tuyệt không có chút gì
là quan hệ nhục thể của tình yêu nam nữ, nhớ mong, hờn ghen, đau
khổ, hẹn hò, mộng mơ như trong thơ tình của những nhà thơ khác.
Tặng đời
đóa đóa hoa sầu
Nhớ nhau từ đóa mộng đầu rã
đôi
(Theo Áng Mây bay)
Những
thương nhớ lạnh bao giờ
Đường Thu chia ngã chân trời rộng tênh
(Mai Sau Em về)
Kính thưa
công chúa Kim Cương,
Trẫm từ vô tận ven đường ngồi đây.
Tờ thư rất mực móng dày,
Làm sao định nghĩa đêm ngày yêu nhau?
(Kính
Thưa)
Con về giũ
áo đười ươi
Nực cười Trí Hải ngậm ngùi mẫu thân
Đẻ con một trận vô ngần
Mẹ còn đẻ nữa một lần nữa thôi
Mẫu thân Phùng Khánh tuyệt vời
Chiều xuân thơ mộng dưới trời bước đi
(Thơ Điên)
Nhân vật
Em trong thơ Bùi Giáng thấp thoáng bóng hình một con người của thực tại, của kỷ
niệm của yêu thương, nhưng cũng là huyễn hoặc “sương bóng“
tâm tưởng để Bùi Giáng giãi bày:
Em đi
sương bóng vô ngần
Nhìn anh như ngó một lần người điên
(Mộng)
Xin ngó lại bàn chân em bước
Vì em đi vào lúc gió đương bay
Năm ngón nhỏ như sương đầm lá ướt
Em đưa tay anh vói bắt chừng này
Ngồi kể lại chuyện ngày xưa cũ kỹ
Em không nghe vì anh cũng không nghe...
(Nhiên
Tượng)
Chuyện tình yêu chỉ thoáng qua rất nhẹ vậy “Niềm đau đớn xót xa
như vĩnh quyết“ của Bùi Giáng là gì? Có lẽ xuất phát từ thẳm sâu ý thức về thân phận thiên tài, số kiếp kẻ phong
vận bạc mệnh mà Nguyễn Du nói đến trong Độc Tiểu
Thanh Ký? Xưa nay người phong vận phải mang lấy những hận
sự, những kỳ oan, như một định mệnh, biết “hỏi
đoạn trường từ đâu“, dù có hỏi trời cũng không có lời giải đáp”. Cổ kim hận sự thiên nan vấn/ Phong vận kỳ oan ngã tự cư“.
Bùi Giáng tự kham lấy những nghiệp chướng ấy chăng,
rồi nín thinh như cỏ cây:
Em về trúc
thạch mốt mai
Sẽ nhìn thấy mãi thiên tài chết điên
(Mười
Hai Con Mắt)
Thưa rằng
bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây
(Chào
Nguyên Xuân)
Dấu bèo phong vận nín thinh
Sóng phơi trường mộng bình minh vô thường
Nắng hồng chiếu bóng đài gương
Lời nghi hoặc hỏi đoạn trường từ đâu…
(Vẫn Là Là)
Thực ra, trong bản chất của thân phận làm người, Bùi Giáng đau
nỗi đau kiếp nhân sinh, nỗi đau của sự thất bại trong nỗ lực vượt qua
“bốn núi“ (Chữ của Trần Thái Tông, 1218 - 1277, trong Thiền Tông Chỉ Nam), vượt qua sắc
không, ngũ uẩn, vô thường. Bùi Giáng không
sao đặt được bước chân vào cõi thanh tịnh vô vi (Asamkrita). Ông
tự dày vò mình trong hình hài “đười ươi“, con vật,
giống khỉ, ngửa mặt cười vu vơ (hình ảnh “điên“
của Bùi Giáng)
… Em
về giũ áo mù sa
Tiền
trình vạn lý anh là đười ươi…
… Em
về giũ áo đười ươi
Trút
quần phong nhụy cho người phụ nhau.
Đười
ươi tại hạ ra đời
Thời gian
rạch xé tô bồi cho em.
… Ông
già rất mực đười ươi
Già nua
lắm lắm còn cười vu vơ.
Nhận ra “tinh thể đười ươi“ trong thân phận người là một giác ngộ tư
tưởng của Bùi Giáng.
Hoặc rằng
người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay.
Trong
Thiền Luận, Daisetz Teitaro Suzuki nhắc đến Thiền Thoại sau: Khi Ngưỡng Sơn (804-899) hỏi về Phật tánh. Thiền Sư Hồng Ân thí dụ như vầy: “Như ngôi nhà có
sáu cửa nhốt khỉ đột. Ở ngoài có người hô to “khọt khọt”, khỉ đáp lại “khọt
khọt”, cứ thế sáu cửa cùng hô cùng ứng. Ngưỡng Sơn hỏi lại: “Ví như lúc ấy khỉ
ngủ thì sao?". Hồng Ân bước xuống một tay nắm Ngưỡng Sơn, vừa múa vừa nói:
“Khỉ ơi khỉ ơi, ta với ngươi cùng đối mặt nhau đây”.
Đoạn
thơ trên biểu hiện tâm hồn, tính cách, kiều nói năng rất Thiền của Bùi Giáng.
Bùi
Giáng nhận ra Phật Tánh trong hình hài đười ươi của người,
của tôi. “người cũng là tôi, tôi cũng là người,
ấy rằng tinh thể đười ươi“. Vũ trụ, thời gian là nhất thể,
tự tại, không sinh diệt: “một cũng là ba, là hai, là một; mai,
mốt cũng là hôm nay“. Sự giác ngộ như thế là bước giác ngộ thứ nhất
để dẫn đấn đại ngộ. Đây không phải là sự “xóa nhòa ranh giới
giữa cái tôi và cái ta, giữa cái riêng và cái chung” như nhận xét của Nguyễn Hưng Quốc.
Trong đoạn thơ trên, phải chăng Bùi Giáng mượn lời thiền sư Hồng Ân để
thể hiện tư tưởng cuả mình? Rõ ràng tư tưởng thơ Bùi Giáng là tư
tưởng Phật Giáo. Đời hư huyễn, như hạt sương, bọt nước, như ánh chớp, như áng mây, vô thường, chiêm bao (Bùi Giáng có nhiều bài thơ đề
tài Chiêm Bao). Tự Tánh của vạn vật là KHÔNG, sự từ bỏ Ngã, không để vướng mắc vào bất cứ cái gì đạt tới tinh thần “Ưng vô sở trú“, (Giới thiệu Kinh Kim Cang -
Thích Thái Hòa). Dường như Bùi Giáng đang phát tâm, an trú tâm và hàng phục
tâm, đoạn trừ ngã chấp, ngộ nhập ngã không:
“Anh đã định sẽ cùng em kể lể
Một nỗi
đời hư huyễn giữa chiêm bao
Vườn hiu
hắt nguyệt hờn mây nhỏ
Một mùi
hương hồng tụ ở nơi nao”
Anh đã
định bỏ hoàng hoa say đắm
Bỏ tâm tư
về vắng lặng phương trời
Bỏ tất cả
tâm tình xưa say đắm
Tới muôn
sau tình tuyệt vọng không lời
(Quá
Khứ Của Anh)
Có lúc Bùi Giáng đã đạt đuợc sự hồn nhiên thanh tịnh (1), vượt qua sắc không, đạt đến tinh thần của Hoa
Nghiêm, hòa trong tạo vật. Tôi không thấy hồn thơ Bùi Giáng bị vây khốn
như Thanh Tâm Tuyền đã từng viết về ông.
Rong
rêu ngày tháng rong chơi
Tìm xuân tinh thể chốn nơi nào là
Sưu tầm túy vũ cuồng ca
Hồn nhiên như thể như là hài nhi?
(Bé Con Ơi)
… Một hàng
cây bóng thần tiên
Dập dìu ở giữa khuôn viên thêu thùa
Bé con bốn đứa nô đùa
Một trai ba gái bốn mùa chạy quanh
(Thiên Thanh Là Là)
Xin yêu
mãi mãi và yêu nhau mãi
Trần gian ôi! cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn.
(Phụng
Hiền)
Nâu
sồng ăn mặc sớm hôm
Ðêm nằm ngó nguyệt sáng dòm song the.
(Ăn
Mặc Nâu Sồng)
Dưới mắt
người hành đạo theo tinh thần Hoa Nghiêm, con ong, cái kiến cho đến cọng cỏ,
bụi gai, không cái gì mà không dễ thương, không phải là Phật, kể cả sơn
hà đại địa, phiến đá, dòng suối trong rừng, một miếng gỗ, cục đá
hay đồng chì...
Nhưng
Bùi Giáng không trở thành Thiền Sư, ông vẫn sống với thân phận đười
ươi khỉ đột giữa đời, vẫn tra hỏi tìm kiếm mỏi
mòn trong cõi bể dâu, và ngày càng xa hút... trong
cái nhìn của con người, cái nhìn đười ươi, nghi hoặc, đo,
đếm.
Đười ươi
giũ áo tình phong nhã
Khỉ đột
trút quần tưởng Việt siêu…
(Chiêm Bao 7)
Cố
gắng trăm năm tìm kiếm mãi
Mỏi mòn
nghìn mối thể thân ly…
(Chiêm
Bao 3)
Hỏi tên
rằng biển xanh dâu
Hỏi quê?
Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên?
Rằng một hai ba
Đếm là
diệu tưởng đo là nghi tâm
(Tặng
Mã Giám Sinh)
Ông
chỉ đạt tới tiểu ngộ mà không đạt tới đại ngộ của Thực
tướng vô tướng; thực tánh vô tánh. Trạng thái “điên“ của Bùi Giáng
chính là trạng thái bất lực trước cuộc vượt qua đề “tái sinh“, mặc dù Bùi Giáng đã nhiều lần nói
đến tái sinh:
Anh đã
định sẽ yêu đời suốt kiếp
Suốt
thiên thu từ vạn thuở phiêu bồng
Rồi anh
chợt thấy mình luôn liên tiếp
Nửa điên
cuồng nửa rồ dại bông lông
(Quá Khứ Của Anh - tại Lê Gia Trang 1991)
Tỉnh ra
nửa sợ nửa mừng
Tận cùng gió núi trăng rừng tái sinh
(Chuyện
Chiêm Bao 20)
Tận
cùng gió gác trăng lầu
Tái
sinh rừng biển buồn rầu trăm năm
(Chiêm
Bao 21)
Chưa
giác ngộ, người ta thấy núi là núi sông là sông. Giác ngộ rồi, người ta vẫn
thấy núi là núi, sông là sông, nhưng là một tâm hồn tái sinh. Tái sinh
trong tâm bình thường không phải tâm sai biệt.
Như trở về nhà xưa, hoa xuân như lộng lẫy hơn, dòng nước đầu non như chảy mát
rượi hơn, trong vắt hơn, trong mọi vật bình thường là toàn thể vũ trụ, là tự
do.
Chính vì không vượt qua được sắc tướng huyễn hoặc hồng trần, Bùi Giáng
cứ phiêu du trong cõi đời cô độc mù khơi, hành trình ấy như một bế tắc, lại
vưà như một khám phá hiện sinh làm nên thơ Bùi Giáng, những bài thơ ấy chia xẻ
được với mọi người nỗi niềm gần xa. Bởi vì nếu Bùi Giáng “ngộ“ được chân
như, có lẽ thơ Bùi Giáng chỉ còn là những bài kệ để thuyết pháp mà
thôi.
tôi người
thủy thủ ra đi
chân trời thấy nước đợi kỳ lên mây
sao đêm đố xuống triều đầy
ai đưa kiếm vút ngang mày hư không
(Mái Hiên)
lạnh lụng
dấu bước bờ sau
mấy đời ly biệt về đau trong mình
năm sầu sa mạc nín thinh
đi vào giá buốt mông mênh cuối trời
(Mái Hiên)
3. Giá trị
thơ Bùi Giáng
Thơ Bùi Giáng tài hoa ở câu chữ, những câu chữ chứa đầy bí mật. Nhiều
người đọc thơ Bùi Giáng không hiểu, tấm tắc khen, rằng là tài hoa,
rằng là hay… nhưng bất lực, không giải mã được, đành
“tán“ như vầy: “có khi không hiểu hết nghĩa nhưng tâm
hồn vẫn bàng bạc một nỗi cảm hoài. Có thể thơ Bùi Giáng nói được đôi điều rất
chân thật với tâm hồn ta, và ta được hưởng ít giây phút sung sướng phiêu bồng
mà hầu hết chúng ta đã đánh mất, đã rời quá xa trong cuộc sống đầy phân chia
đến chỗ cằn cỗi này”. (Phạm Xuân Đài). Nguyễn Phú Long trích dẫn thơ
trong một bài luận về “Sở Dĩ Nhiên” cho rằng, đọc thơ Bùi Giáng
không cần hiểu ý nghĩa bài thơ: ”Nhưng tại sao lại đặt vấn đề ý
nghĩa cho một bài thơ nhỉ? Bài thơ là bài thơ, những gì ta thấy ta đọc là
những gì ta đọc ta thấy vậy thôi. Đừng đi tìm ý nghĩa. Bài thơ như thế đấy, nó
không cần có ý nghĩa”. Nguyễn Hưng Quốc còn đi xa hơn: “Bùi
Giáng rất gần các nhà thơ hậu hiện đại. Bùi Giáng còn gần gũi các nhà thơ hậu
hiện đại ở một khía cạnh khác nữa: một số khá nhiều những bài thơ của ông là
loại thơ không thể giảng. Nói cách khác, bài thơ là bài thơ. Không có ý nghĩa
nào ẩn đằng sau bài thơ để chúng ta đào xới, tìm kiếm… Chúng ta không thể phân tích.
Chúng ta chỉ cần nghiệm (experience). Đọc lần thứ nhất: chúng ta không hiểu gì
cả. Đọc lần thứ hai: chúng ta vẫn không hiểu gì cả. Đọc lần thứ ba: chúng ta
lại vẫn không hiểu gì cả.”
Ô hay! Bùi Giáng làm thơ là để mong có
người chia xẻ tâm sự điêu linh, vậy mà người đọc lại không
hiểu, không cần hiểu, không cần đọc những gì ông gửi gắm qua câu chữ, thử
hỏi Bùi Giáng có buồn không?
Xổ bầu tâm
sự điêu linh
Ai người chia xẻ với mình với ta
(Một
giờ)
Không phải thơ Bùi Giáng là “thơ
gần với thơ Hậu Hiện Đại, bài thơ là bài thơ, không có ý nghĩa nào ẩn sau để
chúng ta đào sới“, đấy chỉ là cách nói cuả sự bất lực trước ngôn ngữ
tư tưởng cuả thơ Bùi Giáng. Thơ tư tưởng phải hiểu bằng tư tưởng, không phải
bằng câu chữ; hơn nữa Bùi Giáng đã dùng một loại ngôn ngữ “khép
kín“, yêu cầu rất cao đối với người đọc để có thể hiểu thơ ông:
Ngữ ngôn
khép kín mặc dầu
Hùng tâm tim máu óc đầu mở ra
Dịu dàng cuối lá đầu hoa
Mười về châu lệ chín sa dòng dòng
(Bé Con Ơi)
Bùi Giáng
bảo rằng phải mở óc trong đầu ra, mở máu trong tim ra, phải có hùng tâm, phải trở về chín phương trời mười phương Phật nước mắt dòng dòng tuôn
rơi (như chín chiều ruột đau) mới có thể đọc Bùi
Giáng, lại phải biết trân trọng nâng niu, dịu dàng như nâng
niu hoa lá. Nhất là phải có “hùng
tâm“, đừng nghi tâm. Chữ “hùng tâm“
theo tôi, là chữ Bùi Giáng mượn cái tâm của Nguyễn Du: Tráng sĩ bạch
đầu bi hướng thiên/ hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên“ (Tạp Thi).
Vời yêu cầu như thế, việc đọc thơ Bùi Giáng thật không dễ dàng.
Thực ra
thơ Bùi Giáng là thơ tư tưởng, thể tính của nó là tư tưởng, không phải câu
chữ, hơn nữa ở nhiều bài thơ, Bùi Giáng đã dùng kiểu diễn đạt “vô ngôn“ của Thiền. Với kiểu ngôn ngữ này, càng bám vào ngôn ngữ, người đọc càng bị
mắc bẫy bởi chính tư duy của mình. Thí dụ;
Đệ tử hỏi: - Thế nào là Phật?
Thiền sư Tịnh Không (1091-1170) đáp:
- Nhật
nguyệt sáng soi ức triệu cõi
Ai hay mua móc gội non sông! (Thiền Uyển Tập Anh)
Bùi Giáng cũng trả lời những người hỏi mình:
Hỏi tên
rằng biển xanh dâu
Hỏi quê?
Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên?
Rằng một hai ba
Đếm là
diệu tưởng đo là nghi tâm
(Bùi
Giáng)
Cách trả lời cuả Bùi Giáng trong đoạn thơ trên cũng là cách trả lời của thiền sư Tịnh Không. Nếu người đọc chỉ tra hỏi, đo, đếm với
cái tâm sai biệt (Nghi tâm), chỉ bám vào
câu chữ, thì không thể hiểu ông nói gì. Bởi vì Bùi Giáng tồn tại vô sắc
tướng trong đoạn thơ. Người đọc cảm được cái hay của đoạn thơ nhưng khó giải thích được được bản chất thẩm mỹ của đoạn thơ là gì. Đây chính là đặc điểm ngôn ngữ Thiền. Không hiểu mới là Thiền. Bởi vì
Thiền “... Bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm“, Thiền loại bỏ tất cả sự nhận thức của trí. Khi còn bám vào
sắc tướng (lời) còn nghi tâm, thì không hiểu được ý ở ngoài
lời.
Tất nhiên
bằng trực giác, ta vẫn có thể hiểu được lớp nghĩa tường minh cuả văn bản, bởi
vì trong ta đã có sắn vốn ngôn ngữ để hiểu. Ta hiểu được “Biển
xanh dâu“ vì trong ta đã có câu thơ Kiều “Trải qua một cuộc
bể dâu“. Trong ta, ai cũng đã từng một lần
dệt mộng cho tình đầu của mình, ”mộng ban
đầu“, “mộng dưới hoa“, “mộng
bình thường“. Đoạn thơ còn quen thuộc ở cấu trúc giống với đoạn thơ
Nguyễn Du giới thiệu Mã Giám Sinh, một nhân vật để lại nhiều ấn tượng cho
người đọc Kiều. Sự thú vị càng tăng lên khi người đọc nhận ra phép
đối trong câu chữ của Bùi Giáng với câu chữ của Nguyễn Du: “Hỏi quê:
“rằng huyện Lâm Thanh cũng gần“ (truyện Kiều), đối với “Hỏi
quê? Rằng mộng ban đầu đã xa“ (Bùi Giáng). Bùi Giáng đối lập mình
với Mã Giám Sinh, từ đó đặt mình trong tương quan với Nguyễn Du.
Câu thơ Nguyễn Du là câu thơ tả thực nói cái đời thường, quê quán, tuổi tác,
gia cảnh. Câu thơ Bùi Giáng ngược lại, dẫn người đọc vào trường ngôn ngữ nghệ
thuật đòi sự cảm nhận lãng mạn. Cái hay của đoạn thơ còn ở chỗ Bùi Giáng
làm thay đổi đột ngột cách tư duy của người đọc. Đang từ kiểu tư duy hình tượng
với biển xanh dâu, đột ngột đổi sang kiểu tư duy cụ thể đo
đếm, một, hai, ba, rồi tức khắc chuyển sang tư duy
triết học với những “diệu tưởng, nghi tâm“. Tư duy logic
cuả người đọc bị lật nhào, đoạn thơ mở ra chiều tư tưởng, buộc
người đọc phải thoát ra khỏi câu chữ để nhìn bằng cái tâm không
sai biệt. Tiến trình đọc như vậy tạo ra khoái cảm thẩm mỹ. Người đọc có thể
không hiểu câu chữ Bùi Giáng vẫn cảm nhận được cái hay của thơ ông là vậy.
Nói thơ Bùi Giáng là thơ tư tưởng thì giá trị thơ Bùi Giáng cũng là giá trị của chính tư tưởng ấy. Vậy tư tưởng thơ Bùi Giáng là gì? Ở trên tôi đã nhận
ra tư tưởng của kinh Kim Cang, kinh Hoa Nghiêm, tư tưởng Thiền trong thơ Bùi
Giáng, nhưng còn một thế giới tư tưởng khác trong thơ Bùi Giáng là thế
giới tư tưởng Nguyễn Du: biển xanh dâu, đoạn trường, phong
vận, lầu xanh, cát lầm, bụi hồng, hùm thiêng (thân phận Từ Hải), Đạm Tiên, Từ Hải… Bùi Giáng mượn thế giới tư tưởng nghệ
thuật ấy để thể hiện tâm hồn mình:
Thưa
rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây
(Chào
Nguyên Xuân)
Tồn sinh
quá khứ chôn vùi
Cơn say suốt kiếp - trận cười thâu canh
(Gõ
Cửa Tồn Sinh)
Hùm thiêng chắp
nối của tin
Cho người thổn thức cầu xin đá vàng
(Mười
Hai Con Mắt)
Tuyệt mù
biển cạn sông sâu
Bụi hồng tản mác trước sau bây giờ
(Ông
Điên)
Cô đơn
chứa đựng đầy miền
Cảo thơm tiền kiếp quả nhiên bây giờ.
(Quanh
Co)
Mặc người
mưa Sở mây Tần
Riêng mình gìn giữ
một lần đầu tiên
(Riêng Mình)
Dấu bèo phong vận nín thinh
Sóng phơi trường mộng bình minh vô thường
Nắng hồng chiếu bóng đài gương
Lời nghi hoặc hỏi đoạn trường từ đâu
(Vẫn Là Là)
Sao bằng
riêng một biên thùy
Cõi điên vũ trụ tùy nghi tung hoành
(Sao Bằng)
Lừng bay
thân thế pha mù
Sương mây tuyết dậy thân bù cho thân
(Đạm Tiên)
Nhưng thơ
Bùi Giáng không chỉ có ngần ấy tư tưởng. Những hệ tư tưởng ấy chưa đủ để ông
giải quyết những vấn đề của hiện hữu và cũng không giúp ông nói hết sự
trải nghiệm hiện sinh của mình, bởi cuộc đời ông, thời đại ông và tư tưởng
của ông khác rất xa với quá khứ. Ông tìm đến một cách thể hiện khác, đó
là thái độ “điên“. Thiền thọai kể lại nhiều hành vi cuả các
Thiền sư mà nếu nhìn bằng con mắt bình thường ta có thể sẽ thốt lên rằng “điên
thật! điên thật!“, chẳng hạn: có một thượng tọa tên là Định hỏi sư Lâm Tế về đại nghĩa pháp Phật. Sư bước xuống ghế rơm, nắm lấy Định, xáng cho
một bạt tai, rồi xô ra. Định choáng váng chưa biết phải làm gì. Một ông tăng
đứng bên bảo Định sao không lạy Sư đi. Định toan lạy thì ngay lúc ấy hốt nhiên
ngộ đạo. Sau đó, Định qua cầu gặp ba ông tọa chủ. Một ông hỏi Định: tôi
nghe nói dòng thiền sâu thẳm phải dò đến đáy, thế nghĩa là gì?”. Định
bèn nắm lấy người ấy, toan ném xuống sông (dẫn theo Suzuki). Thiền Uyển Tập
Anh kể lại: Thiền sư Đại Xả (1120-1180) thường xõa tóc, quên ăn, không ở
hẳn một nơi nào. Ngày 5 tháng 2 năm Trinh Phù thứ 5, sau khi dặn dò đệ
tử, sư đọc bài kệ, đến canh năm hôm ấy sư uống thuốc độc mà qua đời. (Thế có
là điên hay không?)
Phải
chăng Điên là một cách hành Thiền cuả Bùi Giáng? và Điên cũng
là cách né tránh đối diện với thực tại, thực tại thời chiến tranh Việt
Nam, trước và sau 1975?. Ta không thấy Bùi Giáng bày tỏ bất cứ chính kiến nào
về thực tại đó như thơ văn đương thời. Bài thơ Về Quảng Nam được
viết bằng ngôn ngữ đời thường thể hiện rõ thái độ né tránh ấy:
Chiêm bao
tôi thấy tôi về Quảng Nam
Rong chơi Đại Lộc, Điện Bàn
Duy Xuyên, Tiên Phước, Hòa Vang, Thăng Bình...
Tìm người bạn cũ không ra
Còn phong cảnh cũ khác xa những ngày...
Xóm làng đồng ruộng lạ thay
Chỉ còn dáng núi chạy dài xa xa
Giữ nguyên hình ảnh đậm đà
Còn trong kỷ niệm bao la tuổi nào...
Ngắm nhìn. Tim máu xôn xao
Tôi rời đất Quảng trở vào Miền nam
Tâm hồn bao xiết hoang mang
Bài thơ viết vội, dở dang lạ lùng
1995
Ta chỉ
thấy thấp thoáng tâm hồn Bùi Giáng xiết bao hoang mang, xôn xao, dở dang trước thực tại đã thay đổi lạ lùng. Bùi Giáng không lộ
ra bất cứ một phản ứng chinh trị xã hội nào.Thái độ này chẳng khác gì
Nguyễn Du lúc sinh thời. Nguyễn Du sống im lặng, dấu kín tư tưởng của mình với thực tại thời Gia Long. Nhiều bài thơ của Nguyễn Du mượn đề tài
Trung Quốc. Thật khó tìm thấy hình ảnh đời sống thật của xã hội Việt Nam và
thái độ cuả Nguyễn Du trong thơ ông. Thái độ của Bùi Giáng với Nguyễn Huệ (bài
Nguyễn Huệ) cũng gần như thái độ Nguyễn Du với Từ Hải, mà có ý kiến cho rằng
Từ Hải là hình bóng Nguyễn Huệ. Và, phải chăng thái độ cuả Bùi Giáng
cũng là thái độ “giả cuồng“ của Nguyễn Gia Thiều trước thời cuộc? Nguyễn Huệ
ra Bắc 1786, Nguyễn Gia Thiều lẩn trốn ở núi rừng. Khi không còn trốn tránh
được, ông trở lại Thăng Long uống rượu, giả cuồng, bất hợp tác với Tây Sơn.
Bùi Giáng
ý thức rõ việc lúc nào điên, lúc nào tỉnh, ông cũng ý thức rõ người đời hoài
nghi về thái độ “giả cuồng“ ấy của ông:
Uống và
say nói lăng nhăng
Miệng mồm lý nhý thằn lằn đứt đuôi
(Người
Điên Uống Rượu)
Tôi cười
tôi khóc bâng quơ
Người nghe người khóc có ngờ chi không.
(Bao Giờ)
Tôi nằm ở
giữa vườn cây
Tấm lòng men rượu từ nay chịu chừa
Điên cuồng nhảy múa sớm trưa
Từ nay chấm dứt - thượng thừa hoàng trang
(Cũng Là Như Thế)
Uống
rượu, điên cuồng nhảy múa, nói năng lí nhí, cười khóc bâng quơ... Nếu
nhìn ở hiện tượng ngôn ngữ thì đó là hành vi của người điên không còn ý thức,
nhưng ở Bùi Giáng đó là một hành vi có ý thức, một thái độ chọn lưạ hiện sinh. Nhất định thái độ ấy phải xuất phát từ tư tưởng. Có thể là ông mắc phải sai lầm nào đó trong đời, hay sai lầm cuả những dấn thân “tội lỗi“:
Đời đã mất
tự bao giờ giữa dạ
Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh
(Hư
Vô Và Vĩnh Viễn)
Máu trong
mình mòn ruỗng
Xương trong mình rã riêng
Anh đi về đô hội
Ngó phố thị mơ màng
Anh vùi thân trong tội lỗi
Chợt đêm nào gió bờ nọ bay sang
(Bờ
Lúa)
Cũng có thể đó là thái độ sống “hồn nhiên“ của người “đắc đạo“. Người đời
nhìn ông điên, nhưng, với ông, đó là tự do. Chữ tự
do hiểu theo tư tưởng Phật, không phải tự do chính trị. Tôi không
nghĩ rằng “Anh càng lang thang, càng lên cơn điên dữ dội, càng điêu linh tàn
tạ, nhưng cùng lúc anh đang đóng vai trò của một sứ đồ tự do, bản thân anh là
một bài ca đầy cảm hứng cho nỗi khát khao tinh thần tự do của xã hội… Anh
tượng trưng cho sự "ngoài vòng cương tỏa" mà người văn nghệ chân
chính nào cũng thèm muốn.” (Phạm Xuân Đài). Thực ra đó là tinh thần
“Ưng vô sở trú" của kinh Kim Cang, tinh thần tự do cuả
Lâm Tế Nghĩa Huyền (? - 867 ) “… gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, gặp La
Hán hoặc họ hàng thân thiết, giết hết, chớ ngần ngại: đó là con đường độc nhất
để giải thoát. Đừng để bất cứ ngoại vật nào trói buộc mình, hãy vượt lên, hãy
bước qua, hãy tự do.” (Dẫn theo Suzuki)
Ngủ yên
bên lá cỏ chiều
Giữa trời thu mỏng gió dìu mây trôi
Ngủ yên bên suối bên đồi
Bên rừng thu tạnh bên người xót xa
Cát lầm ngọc trắng ố hoa
Bên đời thổn thức thiết tha bên người
Ngủ yên cây cỏ ngậm ngùi
Một giờ yên ngủ lấp vùi trăm năm
Tỉnh ra tìm lại chỗ nằm
Chốn xa xôi ấy đêm rằm trăng soi
(Chuyện Chiêm Bao 17)
Bùi Giáng có thể ngủ yên bên cỏ, bên suối, bên đồi, bên rừng để lấp
vùi trăm năm, nhưng Bùi Giáng không thể quên nguôi nỗi đau đời. Ông gắn
bó đá vàng bên đời buồn tủi, bên người
xót xa, ông thiết tha bên người với tất cả
nỗi ngậm ngùi thổn thức của cõi nhân sinh, và ông bỗng
nhận ra mình lạc mất trong chốn xa xối ấy, tỉnh ra đi tìm lại
chính mình.
Trước khi về chín suối
Em xin gửi đá vàng
Của trăm năm buồn tủi
Về trở lại nhân gian
(Trước
Khi)
Có thể nhận thấy sau Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Cao Bá Quát, thì Bùi Giáng
là người làm thơ tư tưởng, và đưa thơ tư tưởng Việt Nam lên những bước
phát triển mới. Điều này trở thành giá trị thơ Bùi Giáng, vì đương thời và cả hiện nay, rất ít nhà thơ Việt Nam trở thành nhà thơ tư tưởng (Có chăng
là Phạm Thiên Thư, và hiện nay là Trần Ngọc Tuấn với tập thơ Gió Reo).
Tuy nhiên tư tưởng thơ Bùi Giáng không sánh được với tư tưởng thơ Nguyễn Du và
Nguyễn Gia Thiều ở sự giác ngộ những trải nghiệm bể dâu, ở
cái “hùng tâm“ và thần lực của một hồn thơ mà ngòi bút có thể
làm rung chuyển khắp cõi nhân gian như Không Lộ Thiền Sư “Trường khiếu
nhất thanh hàn thái hư.” (Không Lộ - ?-1119. Thiền Uyển Tập Anh)
4. Bùi
Giáng có cách tân thơ không?
Bùi Giáng không có cách tân gì về thơ, ông chỉ kế thừa truyền thống và làm mới
thơ bằng phong cách ngôn ngữ của mình.
Về nghệ thuật và tư tưởng, thơ Bùi Giáng nằm trong bầu khí tư tưởng và
thế giới nghệ thuật của thơ cổ điển, của Nguyễn Du, tư tưởng Phật Giáo.
Thử xem
xét yếu tố thiên nhiên trong thơ Bùi Giáng, người đọc nhận ra ngay chất cổ điển trong cách Bùi
Giáng sử dụng những chất liệu này. Thiền trong thơ Bùi Giáng rất ít khi
là thiên nhiên đời thường của ca dao, đó là thiên nhiên khái niệm, mang
tính trí tuệ, tính tư tưởng của thơ Đường, nó cũng mang cái nhìn Hoa Nghiêm
của Bùi Giáng trên hoa cỏ, sông núi, ruộng đồng, gió trăng, mây
nước. Thiên nhiên ấy cũng mang màu sắc Kiều của Nguyễn Du. Ta gặp nhiều hình
ảnh này: chân trời rộng tênh, nguyệt tỏ bên thềm, biển cạn sông sâu, chiều
xuân thơ mộng, bình minh vô thường, sương đầm lá ướt, vườn
hiu hắt nguyệt hờn mây nhỏ lệ, gió núi trăng rừng, biển xanh dâu, cây cỏ
ngậm ngùi, trời thu, rừng thu, mây trôi, bụi hồng, cát lầm, nguyên khê, đầu núi,… và dường như thấp
thoáng Bùi Giáng trong bài thơ này:
Nhị cú tam niên đắc
Nhất ngâm song lệ lưu
Tri âm như
bất thưởng
Quy ngọa cố sơn thu
(Giả Đảo)
[Ba
năm làm được hai câu thơ/ mỗi lần ngâm lên hai hàng lệ chảy/
(nếu) bạn
tri âm mà không thưởng thức/
(ta
sẽ) về nằm trong núi xưa (với) mùa thu]
Nằm giữa
vườn cây nhớ bốn trời
Ba bề bảy ngõ nhớ muôn nơi
Tưởng chừng thiên hạ mênh mông quá
Mà thơ ta chỉ có vài lời
Tặng người người có nhận hay không
(Cũng là như thế - Bùi Giáng)
Thơ Lục
bát của Bùi Giáng cũng gần gũi như Lục bát của Đoạn Trường Tân Thanh, và gần
như ca dao, có cả thơ đuà cợt kiểu ca dao (Tuy Nhiên Em Có Mặc Quần, Lời
Sơn Nữ)
Nhiều bài thơ của Bùi Giáng có giọng thơ của thơ Lãng Mạn 1930-1945 (Ly Tao 1. Ly Tao III. Màu Trời
Đó…) Cảm hứng chính của thơ Bùi Giáng là cảm hứng lãng mạn có
màu sắc Thiền (Chào Xuân Nguyên, Cỏ Hoa Hồn Du Mục, Dư Vang…)
Bùi Giáng có rất ít bài thơ nói về thực tại bằng ngôn ngữ đời
thường.(Không Đề - tặng nhạc sĩ Quốc Bảo; Nguyễn Huệ, Về Quảng Nam, Em Mọi Ơi), ngay cả những bài như thế cũng
lãng đãng không khi lãng mạn (Òa Các Em, Nỗi Lòng Tô Vũ - kỷ
niệm 15 năm chăn dê)
Nhưng Bùi Giáng có phong cách ngôn ngữ riêng, người ta có thể nói đến kiểu
ngôn ngữ Bùi Giáng. Ông sử dụng rất nhiều từ Hán Việt bên cạnh từ thuần Việt,
đó là vốn từ Hán Việt của nhà Phật và của văn chương cổ điển, đồng thời ông
tạo nên những từ lạ so với vốn từ đã quen dung. Nhiều bài, từ Hán Việt dày đặc đến nỗi trở nên rất khó đối với độc giả bình thường:
Em
từ non nước Viễn Khơi
Trùng lai cố quận chịu chơi một lần
(Em
Từ)
Thiệt thòi
đời mộng phiêu linh
Cành sương ngọc thụ tồn sinh cát lầm
Giấc quày quả lạnh anh trâm
Bóng đu sung rớt bến trầm luân sâu
Hoài mong hiu hắt nhịp cầu
Mà hương quan vắng xa màu mây trôi.
(Mùa Phượng Cũ)
Điều này giải thích tại sao thơ Bùi Giáng khó hiểu. Bùi Giáng cố ý dùng nhiều từ Hán Việt trong một cấu trúc ngữ pháp đã bị xáo trộn so với cấu
trúc bình thường để tạo nên “mật ngữ“ của riêng ông. Có điều lạ
là tuy có nhiều từ Hán Việt nhưng thơ ông không hề cổ điển, có lẽ vì ông khai
thác thi tứ, đề tài, chất liệu và tạo ra trường nghĩa mới so với thơ cổ điển
chăng. Cách dùng chữ Hán Việt của Bùi Giáng rất khác Nguyễn Du. Trong
Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du đặt từ Hán Việt bên cạnh những từ
thuần Việt sao cho người đọc dù không biết chữ Hán vẫn có thể cảm hiểu được thơ:
“Song sa
vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng“ (Nguyễn Du)
Thiên
hương quốc sắc lạ thay
Một tòa sẵn đúc dày dày thiên nhiên
Khiến đời tứ đảo tam điên
Cuồng quay đảo phụng cường kiên điên hoàng
(Gà Gáy Sáng - Bùi Giáng)
Với Bùi Giáng, làm thơ như một trò nghịch ngợm chữ nghĩa của một con người tài
hoa. Trong đoạn thơ trên, rõ ràng có bàn tay nghịch ngợm rất mực tài hoa của Bùi Giáng. Câu thơ Kiều:
“Dày
dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên“ đã được Bùi Giáng viết lại “Một
tòa sẵn đúc dày dày thiên nhiên“ và câu thơ “cuồng quay đảo
phụng cường kiên điên hoàng“, xáo trộn nghịch ngợm triệt để những từ
Hán Việt, ngữ nghĩa trở nên xa lạ không sao hiểu được. Có
thể sắp xếp lại theo cấu trúc thông thường: phụng hoàng
kiên cường quay cuồng điên đảo. Tất nhiên như thế không còn là
thơ Bùi Giáng, và ngay cả khi đã sắp lại như thế, vẫn khó tìm ra một cấu trúc thực sự hợp lý để hiểu ý thơ. Mật ngữ của Bùi Giáng là ở đó.
Thực ra Bùi Giáng có thể viết những câu thơ thật thà hiền lành thế này:
Chiều nay
anh làm thơ
Chẳng còn hay như trước
Suốt một tháng
Viết không được một câu
Thì lấy đâu ra thơ
Mà tặng em cho được
Tặng một câu cũng chưa đủ
Thì lấy đâu bốn câu
Cho đủ một bài. (Em Mọi Ơi)
Bùi
Giáng là một phong cách đặc sắc, nếu chỉ viết như thế sẽ chẳng bao
giờ có thơ Bùi Giáng để người đọc ái mộ.
Phong cách
thơ Bùi Giáng trước hết thể hiện ở trò chơi ngôn ngữ thách đố người đọc như trong
trò chơi ú tim. Bùi Giáng có khả năng biến hóa ngôn ngữ một cách tài hoa. Tôi
không nghĩ đó là thi pháp, mà chỉ là sự tài hoa của ngòi bút, của cá tính
sáng tạo. Thi pháp thơ Bùi Giáng nằm trong thi pháp thơ cổ điển và thơ Lãng Mạn. Bùi Giáng chưa vượt ra ngoài cõi thi pháp ấy.
Nguyễn
Hưng Quốc coi những kiểu chơi chữ của Bùi Giáng như là thi pháp, điều ấy có đi
xa quá chăng?. Ông nhận định: “Tôi cho đây là đặc điểm nổi bật
nhất trong phong cách thơ Bùi Giáng: thơ Bùi Giáng chính là sự xóa nhòa của mọi
đường biên quen thuộc vốn được mọi người chấp nhận như là một quy ước, một luật
lệ trong văn học từ xưa đến nay… xóa nhòa những đường biên về giọng điệu..., xóa nhòa ranh giới giữa truyền thống và hiện đại .., xóa nhòa ranh giới giữa cái
gọi là thơ và cái gọi là phi thơ…, xóa nhòa giữa cái lý và cái phi lý...” (Cuộc Hòa Giải Vô tận - Trường Hợp Bùi Giáng).
Đúng là có
những hiện tượng lẻ tẻ như vậy, nhưng không là chủ đạo của ngòi bút Bùi Giáng... Thơ ông là thơ truyền thống, chủ yếu là Lục bát, thất ngôn cổ điển
(Chiêm Bao 7, Chiêm Bao 4...) thơ 7 chữ. 8 chữ kiểu Thơ Mới
(Kể Chuyện, Giòng Sông; Hư Vô và Vĩnh Viễn...), lâu lâu
ông đùa nghịch một chút, tạo ra một kiểu chơi chữ mới, thách đố
ngôn từ, dẫn người đọc vào những miền xa lạ của tư duy, tạo ra sự thích thú,
như kiểu làm thơ phá cách vậy thôi, đùa một chút thôi mà!.
Phong cách
Bùi Giáng toát ra từ thế giới nghệ thuật của cả bài thơ. Thơ Bùi Giáng là một
thế giới riêng, thế giới thơ cổ điển của hôm nay. Thế giới của nghệ
thuật kết hợp với tư tưởng, của tâm thức hiển hiện trong ý thức, của câu chữ thật nói lời vô ngôn, của sự trộn lẫn tài hoa và bi
thương, của thực tướng và hư huyễn, của những “đổ lộn“,
“từ bỏ“ núi sông, thành lũy,
hiện hữu, thời gian, thành “tiếng vàng vang vọng“ xa
lạ... Tiếng Việt trở nên sang trọng và phong phú vô cùng, câu thơ trùng trùng
nghĩa, chữ gọi chữ, chữ thai nghén nghiã mới, nghĩa gọi tâm, tâm lay
động thái hư, vang vọng mãi vào vô biên. Bùi Giáng có nhiều bài thơ hay, không chỉ có câu thơ hay. Điều đặc biệt là có thể nhặt ra những câu thơ
hay, để riêng lẻ, câu thơ vẫn tồn tại độc lập như câu thơ Kiều.
Nghe trời
đổ lộn nguyên khê
Tiếng vàng rụng rớt gieo về động xanh
Gót chân khơi rộng bóng cành
Nhịp vang đầu núi vọng thành lũy siêu
Thời gian chắc bước bên chiều
Khóc sông bến lạ mưa chiều sớm xuân
Cỏ hoa từ bỏ ruộng đồng
Hồn du mục cũ xa gần hử em
(Cỏ Hoa
Hồn Du Mục)
Những bài
thơ như Cỏ Hoa Hồn Du Mục trở nên mới lạ và làm nên
phong cách Bùi Giáng so
với thơ đương thời. Tôi nghĩ rằng người đọc có thể tìm thấy nhiều giá
trị khác trong thơ ông nếu có được trình độ tư tưởng và khả năng vượt qua được
kiểu ngôn ngữ Bùi Giáng: Một rừng dày đặc từ Hán Việt trộn lẫn với
khẩu ngữ, nghịch ngợm, xáo trộn, thành “mật ngữ“,
thách đố năng lực tư duy, tạo ra thú vị.
“Dù
sao chăng nữa, Bùi Giáng tạo được một mẫu ngông thời đại, sáng tạo một kiểu
say sưa, chán
đời của thế kỷ XX, khác với Nguyễn Khuyến trong thế kỷ XIX và Tản Đà đầu thế
kỷ XX“ (T. Khuê - Tự điển Văn Học bộ mới - Nxb Thế Giới 2004). Đó là kết luận của Tự Điển Văn Học.
Nếu Bùi
Giáng đọc được nhận định như thế, có lẽ ông chỉ cười, cái cười “đười
ươi “nắm tay
ngửa mặt nhìn “đười ươi“, như ông đã cười khi gặp bà Khổng Tử ở
Lục Tỉnh (Đêm Lục Tỉnh) 2007
(1) Thiền
Luận - Daisetz Teitaro Suzuki:
Trường Thủy Từ
Huyền hỏi Thiền sư Huệ Giác ở núi Lang Gia,:
- “Cái thanh tịnh bổn nhiên nhân sao bỗng dưng sanh núi sông thế giới?”
(Thanh tịnh bổn nhiên vân hà hốt sanh sơn hà đại địa?)
Câu hỏi mượn ở kinh Lăng Nghiêm, đoạn Phú Lâu Na hỏi Phật tại sao cái Chân Như
Tuyệt Đối hốt nhiên hóa thành thế giới hiện tượng này.
(*) có thể
giải thích cái điên của Bùi Giáng theo quan điểm của Trang Tử:
“… Trong văn hóa Trung Hoa người ta thường thấy hiện tượng lạ lùng này là bậc
đại trí phát sinh lòng hoài nghi đối với mình và cho rằng vũ khí tốt nhất trong
cuộc tranh đấu trên đời là sự tôn sùng ngu độn và sự ẩn dật. Từ cái thuyết
"khí trí" của Trang Tử đến sự tôn sùng kẻ ngu chỉ có một bước
ngắn; và trong văn chương cùng hội họa của Trung Hoa ta thấy hình ảnh của nhiều
người hành khất, nhiều nhà ẩn dật bất hủ, nhiều nhà sư điên, hoặc những đạo sĩ
kỳ dị, như trong tập "Minh Liêu tử du"...
... Kẻ ngu được hoan nghênh, đó là một sự thực không chối cãi được.
… Trong lịch sử Trung Hoa có nhiều người điên, hoặc điên thật hoặc giả điên mà
được nổi danh, được người ta kính yêu. Như họa sĩ Mễ Phí, có lần bận lễ phục tới
lạy một phiến đá, gọi phiến đá đó là "ông Nhạc", vì vậy mà có danh
hiệu là ông Mễ Điên. Ông ta với Nghê Vân Lâm, một họa sĩ danh tiếng đời Nguyên
đều mê sự sạch sẽ. Lại như thi sĩ điên nổi danh, hòa thượng Hà Sơn, đầu bù,
chân không, đi lại các ngôi chùa, làm mọi việc lặt vặt trong cái nhà khói (nhà
bếp của chùa), xin cơm thừa căn cặn mà ăn và làm được những bài thơ bất hủ viết
lên tường các nhà khói. Vị hòa thượng điên được người Trung Hoa ái mộ nhất là
hòa thượng Tế Điên., cũng gọi là Tế Công (ông Tế); đời ông sau được người ta
chép thành một chuyện dài gấp ba bộ Don Quichotte mà vẫn chưa hết. Ông sống một
đời ma thuật, làm thuốc, say rượu, và như có thần lực, có thể cùng một lúc xuất
hiện ở hai nơi cách nhau cả trăm dặm. Miếu thờ ông hiện nay ở Hổ Bào, trên bờ
Tây Tử Hồ ở Hàng Châu. Những thiên tài lãng mạn, vĩ đại, thế kỷ mười sáu và
mười bảy, như Từ Văn Trường, Lý Trác Ngô, Kim Thánh Thán (ông này tự đặt tên
hiệu là Thánh thán (nghĩa là tiếng thở dài của Thánh) là vì, theo ông, đúng lúc
ông sanh ra đời, ở miếu thờ Khổng Tử trong làng bỗng phát ra một tiếng thở dài
bí mật). Tuy các vị đó cũng là những người bình thường như chúng ta nhưng bề
ngoài có những cử chỉ trái hẳn thói thường, cho nên người đời gọi là cuồng“ (Lâm Ngữ Đường - Một Quan Niệm Về Sống Đẹp - The Importance Of Living. Nguyễn
Hiến Lê dịch).
6/12/2013
Bùi Công Thuấn
Nguồn:
CHÚT TÌNH TRI ÂM
Nxb Hội nhà văn 2009
Theo http://buicongthuan.blogtiengviet.net/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét