Cổ học tinh hoa 1
CHƯƠNG 1: LỜI NÓI ĐẦU
“Có mới, nới cũ” thường tình vẫn thế. Tân học mỗi ngày một tiến,
tất Cựu học phải lùi và có khi sợ rồi mai một đi mất. Nhưng, Tân học mà hay, tất
là Tân học có một nền tảng vững chắc. Nền tảng ấy tức là tinh hoa của Cựu học.
Cựu học nước nhà là một thứ học trải qua bao nhiêu đời, đã làm cho ông cha ta
phù thực được cương thường, chấn chỉnh được phong hóa, bảo tồn được quốc thể,
duy trì được thế đạo nhân tâm, thật không phải là một cái Học không có giá trị
đáng khinh rẻ hay quên bỏ được. Vả chăng: "Tri kim, nhi bất tri cổ, vị chi
manh cổ; tri cổ, nhi bất tri kim, vị tri lục trầm" ta đã biết truyện đời
nay, ta lại cần phải học truyện đời xưa, ta ôn lại việc đời xưa mà ta rõ được
việc đời nay, có như thế, thì cái Học của ta mới không đến nỗi khiếm khuyết.
Vì, tuy chia làm cổ, kim, nhưng chẳng qua cũng chỉ là buổi sớm, buổi chiều
trong một ngày của trời đất, kẻ học giả mà câu nệ chấp nhất, chỉ biết cổ không
muốn biết kim, hay chỉ biết kim không muốn biết cổ, thì sao gọi là "bác cổ
thông kim" được!
Cựu học của ta là gì? Cựu học của ta tức là Hán học nghĩa là
một cái Học chung cho cả mấy dân tộc ở Á Đông đã chịu cái văn hóa của giống người
Hán, tức là người Trung Hoa. Cựu học không phải là chỉ có Tứ Thư, Ngũ Kinh, xưa
kia đa số quen dùng làm cái học cử nghiệp mà thôi. Ngoại giả, còn Bách gia chư
tử thật là man mác rộng như bể, học thuyết đủ mọi mặt, lý tưởng rất sâu xa, muốn
học cho tới nơi, phải mất bao nhiêu công phu, thời giờ mới được.
Nay, chúng tôi biên tập quyển sách nầy, không phải là muốn
chuyên tâm nghiên cứu riêng một phái nào hay một nhà nào. Chúng tôi chỉ góp nhặt
một đôi chút lý tưởng trong Cổ học gọi là để cho người đọc thiệp liệp qua được
một ít tinh hoa của lối học cũ mà thôi. Nên chúng tôi mới lạm dụng bốn chữ
"Cổ Học Tinh Hoa" làm nhan sách. Chúng tôi có ý chọn những bài ngắn
mà nghĩa lý hàm súc dồi dào. Những bài ấy tuy là truyện từ đời xưa bên Tàu,
nhưng ứng dụng vào đời nào và ở đâu cũng được. Vì truyện tuy cổ, nhưng cái chân
lý thì bao giờ cũng là một, mà bao giờ cũng như mới. Nào hiếu đệ, nào trung
tín, nào lễ nghĩa, nào liêm sĩ, đến cả những việc kỳ quái, sinh tử; bài nầy
chính giọng huấn giáo, bài kia rõ thể ngụ ngôn, truyện nầy nghiêm trang khắc khổ,
truyện kia khôi hài lý thú; đức Khổng nói "Nhân" hồn nhiên như hóa
công; ông Mạnh bàn "Nghĩa" chơm chởm như núi đá, Tuân Tử nói "Lễ"
thật là đường bệ, Mặc Tử nói "Ái" thật là rộng rãi, hình danh như Hàn
phi tử thật là nghiêm nghị khiến người mất bụng làm xằng, ngôn luận như Án Tử
thật là thâm thiết khiến người dễ đường tỉnh ngộ, đến nói đạo đức như Lão Tử,
bàn khoáng đạt như Trang Tử thật lại biến hóa như rồng, phấp phới như mây...
Các lý thuyết mỗi nhà một khác, có khi phản đối hẳn nhau, nhưng thực khiến cho
người đọc vừa được vui, vừa phải đem tâm suy nghĩ.
Dịch những bài văn như thế, chúng tôi lấy làm rất khó. Chẳng
những chữ Hán dịch ra chữ Nam, lắm câu không hết được nghĩa, nhiều bài, chính
nguyên văn cũng mỗi nơi chép một khác không lấy gì làm xác định. Nên khi dịch,
chúng tôi phải châm chước cân nhắc từng bài, bài thì dịch thẳng nguyên văn, bài thì
chỉ dịch lấy đại ý, hoặc có bài phải rút bớt, hay thêm ra, hay đúc lại, cốt cho
nó xuông tiếng Nam mà không hại đến nghĩa bài thì thôi. Dịch Hán văn ra quốc
văn, tất phải dùng nhiều chữ Hán. Song chữ nào bất đắc dĩ phải dùng, thì ở dưới
chúng tôi đã có "giải nghĩa" rõ ràng. Nghĩa ấy thường chỉ là nghĩa riêng trong bài, chớ không
phải hết mọi nghĩa của từng chữ.
Những tên người, tên đất, muốn cho tinh tường, đáng lẽ phải
có một cái biểu liệt đủ tên những tác giả cùng những người nói trong chuyện và
một bức địa đồ Trung Hoa trải qua các thời đại. Nhưng việc ấy xin để nhường những
nhà chuyên về Bắc sử sau nầy, đây chúng tôi chỉ chua qua để cho độc giả đủ biết
cái đại cương mà thôi. Đọc một bài văn hay, mà tư tưởng đã thấm thía vào tâm
não, thì tất không sao để yên ngòi bút mà không phê bình được. Đó cũng là một
cái thông bệnh của những người hâm mộ văn chương hay có cái thú ngâm nga và đưa
ngòi bút khuyên liền, khuyên kín vậy. Chúng tôi cũng không tránh khỏi cái bệnh ấy.
Nên dưới mỗi bài chúng tôi cũng góp "Lời Bàn", cốt là để giải rõ các
đại ý trong bài hoặc lạm bình một, đôi câu ứng với cái thời buổi bây giờ.
Chúng tôi mạo muội biên dịch quyển sách nầy là quyển đầu, có
ý bảo tồn tinh hoa của cổ học và mong các bạn thiếu niên ta nhớ đến nguồn gốc từ
bao nhiêu nghìn năm về trước, rõ các điển tích thường dẫn trong văn chương nước
nhà, thêm được ít tài liệu có khi làm văn phải dùng đến, rộng được ít tri thức
tuy thuộc về Cổ học mà thật khác nào "như thóc gạo, như vải lụa", thường
cần đến hàng ngày. Nếu quyển sách này, giúp được một phần trong muôn phần ấy,
thì chúng tôi lấy làm hoan hỷ lắm vậy.
Hà Nội, ngày 21 tháng 10 năm Ất Sửu (1925)
NGƯỜI LÀM SÁCH
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc Từ An Trần Lê Nhân
Tiểu sử tác giả Cổ Học Tinh Hoa
Tác giả Cổ Học Tinh Hoa là Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc và Từ An Trần
Lê Nhân. Về phần Từ An Trần Lê Nhân, vì không thấy có tài liệu nào nói đến ông,
(!), nên không có tiểu sử của ông ở đây.
Tiểu sử Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc:
Nguyễn Văn Ngọc (1 tháng 3 năm 1890 - 26 tháng 4 năm 1942):
hiệu là Ôn Như là nhà văn, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hoá Việt Nam.
Tiểu sử
Ông sinh năm 1890, quê ở làng Hoạch Trạch (làng Vạc), xã Thái
Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Thuở nhỏ ông đã học cả Hán học lẫn Tây học.
Năm 17 tuổi ông tốt nghiệp trường Thông ngôn, sau đó ông dạy ở trường tiểu học
Bờ sông, Hà Nội. Ông còn dạy ở trường Bưởi, trường Sỹ hoạn (hậu bổ), trường Sư
phạm... Sau đó, ông làm Thanh tra các trường sơ học và phụ trách Tu thư cục của
Nha học chính. Ông còn làm Hội trưởng Hội ái hữu các nhà giáo, thành viên Khai
Trí Tiến Đức, Cổ Kim Thư xã. Năm 1934, Nguyễn Văn Ngọc được bổ nhiệm đốc học tỉnh
Hà Đông, ông tham gia thành lập Hội Phật giáo Bắc Việt và góp sức xây dựng chùa
Quán Sứ thành Hội quán trung ương. Hơn 30 năm làm giáo học, ông đã sưu tầm,
biên soạn nhiều sách giáo khoa, sách nghiên cứu văn học có giá trị. Ông đặc biệt
say mê nền văn hóa dân gian, đã giành cả cuộc đời để sưu tầm, khai thác và phổ
biến nền văn học dân gian. Ông mở hiệu sách là Vĩnh Hưng Long thư quán tại 51
Hàng Đường, Hà Nội, chủ yếu là để bán sách của ông viết ra.
Ông còn là một trong những người có công trong việc bảo tồn
sân khấu dân gian. Ông cùng người anh cả là nhà trí thức yêu nước Nguyễn Trọng
Oánh và ông Đỗ Thập đã lập nên sân khấu Sán nhiên đài, là rạp hát chèo đầu tiên
trên sân khấu hộp ở Hà Nội.
Nguyễn Văn Ngọc mất ngày 26 tháng 4 năm 1942. Vì những đóng
góp to lớn cho nền văn hóa dân gian, tên của ông được đặt cho hai con đường ở
thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Con gái ông là bà Nguyễn Thị Hy, sinh năm Quý Sửu (1913). Bà
từng làm con dâu học giả Phạm Quỳnh, sau này kết hôn với nhà cách mạng Trần Huy
Liệu.
Tác phẩm
Nguyễn Văn Ngọc có lòng say mê đặc biệt với văn hóa, văn học
phương Đông, nhất là văn hóa, văn học dân tộc. Ông cho ra đời nhiều cuốn sách bằng
tiếng Hán, tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ. Ông tham gia biên soạn các sách giáo
khoa như Phổ thông độc bản, Phổ thông độc bản lớp đồng ấu, Luân lý giáo khoa
thư, Giáo khoa văn học An Nam, Đông Tây ngụ ngôn. Về khảo cứu, Nguyễn Văn Ngọc
có Cổ học tinh hoa, Nam thi hợp tuyển, Đào nương ca, Truyện cổ nước Nam, Ngụ
ngôn, Tục ngữ phong dao...
Bộ sách Cổ học tinh hoa (1925, biên soạn cùng Trần Lê Nhân)
trình bày những kiến thức vừa cụ thể vừa có chiều sâu văn hóa và Hán học. Bộ
sách Đông Tây ngụ ngôn (1927) gồm 2 quyển, chủ yếu là thơ lục bát và thơ song thất lục
bát, do Nguyễn Văn Ngọc phóng tác dựa trên những ý tưởng của ngụ ngôn dân gian
Đông - Tây, ngoài ra cũng có một số bài do ông sáng tác. Về sách thiếu nhi, ông
còn có bộ Nhi đồng lạc viên (1928).
Một công trình lớn của Nguyễn Văn Ngọc là Truyện cổ nước Nam
(1934), sưu tầm và phóng tác theo những truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn dân
gian và truyện cười dân gian. Bộ sách gồm 4 tập, trong đó 2 quyển kể về con người,
và 2 quyển kể về các loài chim muông. Truyện cổ nước Nam được nhà văn kể theo cốt
truyện mà ông sưu tầm được với quan điểm nhân văn trong sáng, được nhiều tầng lớp
độc giả yêu thích.
Bộ sách Tục ngữ phong dao là một công trình lớn tiên phong
trong việc bảo tồn văn học dân gian Việt Nam. Trong cuốn sách này tập hợp tới
6.500 câu tục ngữ và hơn 850 bài ca dao do Nguyễn Văn Ngọc sưu tầm trong dân
gian và trong những pho sách cổ được in trong sách này với sự đánh giá, phân loại
khoa học. Bộ sách đã được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng để viết về tục ngữ ca
dao Việt Nam. Trong công trình biên khảo hợp tuyển thơ cổ Việt Nam mang tên Nam
thi hợp tuyển, ngoài việc giảng nghĩa những chữ và điển tích ở từng bài thơ,
ghi thêm những dị bản, ông còn viết nhiều lời bình giá về tác phẩm và tác giả,
được nhiều nhà khảo cứu phê bình học hỏi. Ngoài ra, ông còn có hai cuốn sách nổi
tiếng nữa là Đào nương ca và Câu đối, nghiên cứu về câu đối và hát nói.
Nguyễn Văn Ngọc còn có nhiều bài báo có giá trị đăng ở báo Hữu
Thanh và tạp chí Nam Phong.
Phổ thông độc bản (1922)
Cổ học tinh hoa (1925, cùng Trần Lê Nhân)
Đông Tây ngụ ngôn (1927)
Nam thi hợp tuyển (1927)
Tục ngữ phong dao (1928)
Nhi đồng lạc viên (văn học nhi đồng, 1928) Để mua vui (1929)
Câu đối (1931)
Đào nương ca (1932)
Truyện cổ nước Nam (4 tập - 1934)
Ngụ ngôn (1935)
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc toàn tập (2003) - NXB Văn Học
CHƯƠNG 2: DẪN NHẬP
Cổ Học Tinh Hoa là một trích tuyển các mẩu chuyện rất lý thú
trong các sách nổi tiếng của Trung Hoa xưa xuyên suốt từ trên 2000 năm nay! Tuy
xuất bản đã 86 năm, nhiều quan niệm và triết lý trong Cổ Học Tinh Hoa vẫn còn hấp
dẩn chúng ta ngày nay!
Tôi thuộc thế hệ thứ 1, nói theo ngôn ngữ bây giờ. Trường tôi
học khi tôi còn trẻ có 1 giờ luân lý mỗi tuần. Trong giờ luân lý đó các thầy dạy
cho chúng tôi cách... học làm người! Chúng tôi được chỉ dạy từ những chuyện nhỏ
nhặt như cách thức cầm chén đủa, cách thức dùng thức ăn trong các bửa tiệc
v.v... cho đến những chuyện lớn lao về đạo lý làm người!
Bao nhiêu chuyện về đạo lý làm người, theo ý tôi, các thầy đều
dựa vào các sách như Cổ Học Tinh Hoa, Luân Lý Giáo Khoa Thư, Quốc Văn Giáo Khoa
Thư v.v... Khi đó sách vở không dồi dào như bây giờ và các thầy khi giảng về đạo
lý làm người cũng thường không nói rõ chuyện hôm nay thầy kể là ở trong sách
nào! Với cách học như thế nên về sau, lúc đang là sinh viên đại học khi thấy bảng
quảng cáo tuồng cải lương "Tây Thi, gái nước Việt" tôi cứ tưởng người
đẹp Tây Thi là người Việt Nam mình! Mãi về sau này tôi mới rõ Tây Thi là 1
trong tứ đại mỹ nhân của Trung Hoa trong quá khứ và cái nước Việt nói trong bảng
quảng cáo là nước Việt ở tận bên Tàu!
Hồi gần đây có dịp đọc trọn bộ 244 tiểu phẩm trong Cổ Học
Tinh Hoa, tôi thấy có nhiều truyện đối vối tôi thực là mới mẻ (vì lúc nhỏ đâu
có cơ hội đọc hay nghe kể hết mọi chuyện trong đó) và tạo rất nhiều thích thú
cho mình! Bèn có ý nghĩ post lên đây để bạn đọc thuộc thế hệ thứ 1 như tôi có dịp
được đọc trọn bộ 244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa. Đọc để tìm lại những xúc
động của thuở học trò khi học đạo lý làm người. Đọc để ôn cố mà tri tân? Và đọc...
cho vui!
Đới với thế hệ thứ 2, nếu các cháu tò mò đọc hết Cổ Học Tinh
Hoa, các cháu sẽ có những khái niệm căn bản về những gì thế hệ cha ông của các
cháu đã được giáo dục về đạo lý làm người như thế nào!
Đới với các bạn đọc chủ trương "thoát Á", “bài Á”
trong diễn đàn này, nếu các bạn đọc kỹ hết Cổ Học Tinh Hoa, có thể lập trường của
các bạn có thể thay đổi chăng? Với các đọc giả thích "chơi" sách, các
bạn có thể copy Cổ Học Tinh Hoa về computer của mình để có được một bản Cổ Học
Tinh Hoa với nhiều thông tin nhất từ trước cho đến nay!
Nội dung sẽ được post
Trọn bộ 243 tiểu phẩm và 3 bài “Tiểu tự”, “Danh ngôn danh lý”
và “Bạt” trong Cổ Học
Tinh Hoa theo tài liệu tham khảo (1) sẽ được post.
Tiểu phẩm “244. Mã Viện” không có trong sách Cổ Học Tinh Hoa
theo tài liệu tham khảo (1); bài này sẽ được post dựa theo tài liệu tham khảo
(3).
Nội dung các truyện, hay bài viết, và nội dung các LỜI BÀN sẽ
theo đúng từng dấu chấm, dấu phẩy trong bản in của Cổ Học Tinh Hoa theo tài liệu
tham khảo (1).
Nội dung trong các GIẢI NGHĨA thì có khác biệt.
Sau đây là một số ví dụ về các chú thích trong phần GIẢI NGHĨA:
1). Tử Hoa Tử: một nhà học thuyết giỏi nước Ngụy đời vua
Chiêu Hi.
2). Nghiêu: vua đời Đường; vua Nghiêu. (Xin xem thêm Nghiêu ở
Phụ Lục C).
3). Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
4). Sử Ký: còn được gọi bằng tên "Sách của ông Thái sử"
là cuốn sử của Tư Mã Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, ghi lại lịch sử
Trung Quốc từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông sống. (Chú thích này được
trích từ Phụ Lục D; xin xem thêm Tư Mã Thiên ở Phụ Lục C).
5). Thiên phương bách kế: mưu này, chước khác xoay đủ trăm
nghìn cấp. (2)
Chú thích trong phần GIẢI NGHĨA được trích từ các nguồn Cổ Học
Tinh Hoa theo tài liệu tham khảo (1), Cổ Học Tinh Hoa theo tài liệu tham khảo
(2), Phụ Lục C và Phụ Lục D.
Ví dụ 1: sau chú thích không có (2) hay các chữ... Phụ Lục C,
Phụ Lục D có nghĩa là chú thích “Tử Hoa Tử: một nhà học thuyết giỏi nước Ngụy đời
vua Chiêu Hy.” được trích từ Cổ Học Tinh Hoa theo tài liệu tham khảo (1).
Ví dụ 2: trong chú thích “Nghiêu: vua đời Đường; vua Nghiêu.
(Xin xem thêm Nghiêu ở Phụ Lục C).”, phần “Nghiêu: vua đời Đường; vua Nghiêu”
được trích từ Cổ Học Tinh Hoa theo tài liệu tham khảo (1). Phần trong ngoặc đơn
là phần lưu ý bạn đọc xem thêm bài đọc Nghiêu trong Phụ Lục C.
Ví dụ 3: chú thích “Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C”
cho thấy Cổ Học Tinh Hoa theo tài liệu tham khảo (1) không có chú thích về “Khổng
Tử”, nên xin bạn đọc xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
Ví dụ 4: chú thích về “Sử Ký” không có trong Cổ Học Tinh Hoa
theo tài liệu tham khảo (1), nên chú thích này được trích từ Phụ Lục D và xin bạn
đọc xem thêm Tư Mã Thiên ở Phụ Lục C.
Ví dụ 5: chú thích “Thiên phương bách kế: mưu này, chước khác
xoay đủ trăm nghìn cấp. (2)” không có trong Cổ Học Tinh Hoa theo tài liệu tham
khảo (1); con số (2) cho biết chú thích này được trích từ Cổ Học Tinh Hoa theo
tài liệu tham khảo (2).
Với chủ trương các chú thích phải đi liền với các bài viết
nên nhiều chú thích được lập đi lập lại nhiều lần; điều này khác với trong sách
in, các chú thích trùng lặp chỉ được in một hay hai lần.
Nội dung các Phụ Lục
Ngoài nội dung các tiểu phẩm, nội dung các LỜI BÀN và nội
dung các GIẢI NGHĨA, các Phụ Lục A, B, C và D cũng sẽ được post. Sau đây là nội
dung các phụ lục:
Phụ Lục A: Vị trí các nước được nói đến trong Cổ Học Tinh Hoa
so với bản đồ Trung Hoa hiện nay.
Phụ Lục B: Niên biểu các triều đại cai trị Trung Hoa từ trước
cho đến nay. Phụ Lục C: Các danh nhân Trung Hoa được nói đến trong Cổ Học Tinh
Hoa.
Phụ Lục D: Các tác phẩm Trung Hoa được trích dẩn trong Cổ Học
Tinh Hoa.
Các Phụ Lục A, B, C và D được biên soạn nhằm mục đích giúp
cho việc tìm hiểu Cổ Học Tinh Hoa được sâu sát hơn.
Trong các sách in trên giấy, thường các Phụ Lục được in sau
cùng. Ở đây vì “in” trên không gian ảo internet nên các Phụ Lục sẽ được post
trước.
Ý tưởng làm các phụ lục nêu trên không có gì là mới mẻ. Tám
mươi sáu năm trước đây, năm 1925, khi cho in Cổ Học Tinh Hoa, trong lời nói đầu
“Tiểu tự” hai cụ Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc và Từ An Trần Lê Nhân đã có nói rõ ý tưởng
này:
“Những tên người, tên đất, muốn cho tinh tường, đáng lẽ phải
có một cái biểu liệt đủ tên những tác giả cùng những người nói trong chuyện và
một bức địa đồ Trung Hoa trải qua các thời đại. Nhưng việc ấy xin để nhường những
nhà chuyên về Bắc sử sau nầy, đây chúng tôi chỉ chua qua để cho độc giả đủ biết
cái đại cương mà thôi.”
Biết mình tài mọn sức kém chỉ là một độc giả tài tử, không phải
là “nhà chuyên về Bắc sử” như hai cụ mong muốn, nhưng nhờ dựa lưng vào 1 câu
thơ của cụ Nguyễn Du trong Truyện Kiều:
“Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tàì”
nên tôi mới bạo dạn góp sức. Dù không đủ Tài nhưng cũng xin
đóng góp chút ít bằng cái Tâm!
Nếu có gì không như ý, xin hai cụ ở bên kia thế giới và bạn đọc
ở... bên này thế giới lượng xá cho.
San Jose, tháng 7/2011
Trực Võ
Tài liệu tham khảo:
(1). Cổ Học Tinh Hoa do Nhà Xuất Bản T.P. Hồ Chí Minh in năm
1988. (Sách in trên giấy).
(2). Cổ Học Tinh Hoa do website THƯ VIỆN EBOOK (TVE) đăng:
http://www.e-thuvien.com/
(3). Bài viết “Mã Viện” trong Cổ Học Tinh Hoa do website Nhạn
Môn Quan đăng: http://www.nhanmonquan.net/
(4). Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt:
http://vi.wikipedia.org/wiki/
CHƯƠNG 3: PHỤ LỤC A: VỊ TRÍ CÁC NƯỚC ĐƯỢC NÓI ĐẾN TRONG CỔ HỌC
TINH HOA SO VỚI BẢN ĐỒ TRUNG HOA HIỆN NAY.
(Các thông tin trong phụ lục này được trích từ "Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt", http://vi.wikipedia.org/wiki/)
BĐ1: bản đồ Trung Hoa hiện nay
(Nguồn: http://vi.wikipedia.org/)
Chu: hay Châu, là một nước chư hầu cổ thời Xuân Thu, kinh đô ở
Cảo Kinh, nay là huyện Trường An tỉnh Thiểm Tây.
Đằng: tên một nước nhỏ thời Chiến Quốc là huyện Đằng tỉnh Sơn
Đông bây giờ. Hàn: một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc. Lãnh thổ của nước
Hàn trải rộng trong khu vực ngày nay là miền nam tỉnh Sơn Tây, miền bắc tỉnh Hà
Nam. Phía tây giáp với Tần, phía bắc giáp Ngụy và Triệu, phía đông giáp Tề,
phía nam giáp Sở. Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
Hồ: tức là Hung nô ở phía bắc nước Trung Hoa hay vào nhiễu loạn
nước Trung Hoa. Kiểm: nước Sở thời Chiến Quốc, tức là huyện Nguyên Lăng, tỉnh Hồ
Nam ngày nay. Xin xem thêm nước Sở.
Kinh: cũng là tên nước Sở, một nước lớn thời Xuân Thu ở vào
vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ. Xin xem thêm nước Sở.
Kỷ: nước nhỏ thời Xuân Thu; thời kỳ đầu, nước Kỷ có kinh đô tại
khu vực đất Kỷ, ngày nay là huyện Kỷ của tỉnh Hà Nam, sau đó di dời tới khu vực
ngày nay là huyện Tân Thái trong tỉnh Sơn Đông, rồi lại dời tới Duyên Lăng,
ngày nay là huyện Xương Lạc, tỉnh Sơn Đông và cuối cùng là tới Thuần Vu, ngày
nay là huyện An Khâu, tỉnh Sơn Đông.
Lỗ: một nước chư hầu nhỏ thời Xuân Thu - Chiến Quốc, lãnh thổ
của nó chủ yếu nằm ở phía nam núi Thái Sơn, ở khu vực trung tâm và miền tây nam
của tỉnh Sơn Đông ngày nay cùng một phần các tỉnh An Huy, Hà Nam và Giang Tô
bây giờ.
Lương: xin xem nước Ngụy.
Ngô: tên nước thời Xuân Thu nằm ở khu vực cửa sông Dương Tử,
phía đông nước Sở. Kinh đô của nước Ngô là Cô Tô Tô Châu ngày nay. Lãnh thổ nước
Ngô tương đương với tỉnh Giang Tô ngày nay.
Ngụy: một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc; lãnh thổ của
nước Ngụy bao gồm các khu vực ngày nay là bắc Hà Nam, nam Sơn Tây và phần lớn
các tỉnh Hà Bắc, Thiểm Tây. Sau khi dời đô từ An Ấp (nay ở phía tây bắc huyện Hạ
tỉnh Sơn Tây) tới Đại Lương (nay là Khai Phong) trong thời kỳ trị vì của Ngụy
Huệ Thành vương (369 TCN-319 TCN), thì nước Ngụy còn được gọi là Lương. Xin xem
thêm bản đồ BĐ2.
Sở: một nước lớn thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở vào vùng Hồ Bắc,
Hồ Nam, ở nơi hiện nay là phía nam Trung Quốc. Ban đầu nước này được gọi là
Kinh và sau đó là Kinh Sở, cũng còn gọi là Kiểm. Ở thời hùng mạnh nhất, Sở chiếm
nhiều vùng đất rộng lớn, gồm các tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Trùng Khánh, Hà Nam, Thượng
Hải, và nhiều vùng thuộc Giang Tô, Quý Châu ngày này. Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
Tấn: một nước mạnh nhất trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc
trong lịch sử Trung Quốc, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ (Hà Bắc) bây
giờ.
Tần: là một nước chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung
Quốc, tức là tỉnh Thiểm Tây bây giờ. Tần là nước chư hầu mạnh nhất ở Trung Quốc
trong nhiều thế kỷ trước khi nó tiêu diệt toàn bộ sáu nước chư hầu còn lại (Tề,
Sở, Hàn, Yên, Triệu, Nguỵ) và thống nhất đất nước dưới quyền cai trị của Hoàng
đế đầu tiên là Tần Thủy Hoàng, có nghĩa là Hoàng đế thứ nhất. Xin xem thêm bản
đồ BĐ2.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc. Suốt thời
Xuân Thu và Chiến Quốc, nước Tề là một nước chư hầu mạnh do khả năng đương đầu
với những kẻ thù lớn bên cạnh như Sở và Tần. Kinh đô nước này đóng tại Doanh
Khâu (nay là trấn Lâm Truy của quận Lâm Truy, địa cấp thị Truy Bác, tỉnh Sơn
Đông). Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
Thục: tức là Thục Quân ở vào vùng Thành Đô về đất Tứ Xuyên
bây giờ.
Tiên Ti: tên một nước cũ, tức một bộ phận phía đông Nội Mông
Cổ bây giờ. Người Tiên Ti sau này tản mát và bị đồng hóa hay hỗn huyết để trở
thành người Hán, người Mông Cổ cùng các dân tộc khác tại phương bắc Trung Quốc
Tiết: tên một nước nhỏ thời Chiến Quốc, sau bị nước Hồ lấy mất,
nay là huyện Đằng, tỉnh Sơn Đông.
Tống: một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất,
ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ. Xin xem thêm bản đồ BĐ4.
Trần: tên một nước nhỏ thời Xuân Thu ở vào một phần đất thuộc
miền đông tỉnh Khai Phong (Hà Nam) và một phần tỉnh Bạc Châu (An Huy) ngày nay.
Triệu: một nước thời Chiến Quốc. Lãnh thổ của nước Triệu bao
gồm các khu vực ngày nay thuộc Nội Mông Cổ, nam Hà Bắc, trung Sơn Tây và đông bắc
Thiểm Tây. Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần
đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
Từ: tức quận Đông Hải thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay.
Vệ: tên một nước thời Xuân Thu ở vào miền nam tỉnh Trực Lệ
(Hà Bắc) và miền bắc tỉnh Hà Nam bây giờ.
Việt: tên nước thời Xuân Thu ở vào tỉnh Chiết Giang, Giang Tô
và một phần Sơn Đông bây giờ. (Không nên nhầm lẫn với nước Việt Nam).
Yên: một nước mạnh trong bảy nước thời Chiến Quốc. Thời kỳ đầu
Chiến Quốc, lãnh thổ của Yên tương ứng với miền trung và miền bắc các tỉnh
thành phố ngày nay là Bắc Kinh và Hà Bắc, do vùng đất phong tại Yên sơn, vì thế
mà nước này được gọi là Yên. Kinh đô của nước Yên đặt tại Kế Thành (nay là khu vực
trấn Lưu Ly Hà thuộc quận Phòng Sơn, Bắc Kinh). Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
Chú thích:
Chư hầu là một từ xuất phát từ chữ Hán, trong nghĩa hẹp của
chữ Hán dùng từ thời Tam Đại (nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu) để chỉ vua chúa
phong kiến cấp dưới bị phụ thuộc, phải phục tùng và được một vua chúa phong kiến
lớn, mạnh hơn làm thiên tử thống trị tối cao và sắc phong cho các vua chúa thuộc
các nước và xứ lân bang yếu hơn.
Xuân Thu: là tên gọi một giai đoạn lịch sử từ 722 đến 481 TCN
trong lịch sử Trung Quốc. Tên của nó bắt nguồn từ cuốn Kinh Xuân Thu (Biên niên
sử Xuân Thu), một cuốn sử mà theo truyền thống thường được coi là của Khổng Tử.
Ở giai đoạn Xuân Thu, quyền lực được tập trung hoá. Giai đoạn này xảy ra rất
nhiều các trận chiến và sự sáp nhập khoảng 170 nước nhỏ. Sự sụp đổ dần dần của
giới thượng lưu dẫn tới sự mở rộng học hành; trí thức gia tăng lại thúc đẩy tự
do tư tưởng và tiến bộ kỹ thuật. Tiếp sau giai đoạn này là thời Chiến Quốc.
Ở thời điểm đó Trung Quốc vẫn chưa được coi là một đế quốc.
Và tới tận khi vị hoàng đế đầu tiên của nhà Tần (Tần Thủy Hoàng), và cũng là vị
hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc lên ngôi thì nước này mới bắt đầu giai đoạn
phong kiến. Dưới thời nhà Chu, trung tâm của quyền lực nằm trong tay (hay được
cho là như vậy) vị vua nhà Chu.
Cần lưu ý rằng vua và hoàng đế không phải hoàn toàn như nhau.
Vị vua nhà Chu nhận được đồ cống nạp từ các quý tộc cai trị tại những vùng đất
mà họ được thừa kế từ tổ tiên. Các vị tổ tiên được phong làm quý tộc hay công
tước tại các nước chư hầu thường là các quan chức có công lao lớn đối với nhà
vua và triều đình cai trị, trong trường hợp này là nhà Chu. Vị vua nhà Chu
không trực tiếp kiểm soát các tiểu quốc chư hầu của mình. Thay vào đó, sự trung
thành chung của các quận công và quý tộc tạo nên quyền lực cho ông ta. Khi lòng
trung thành giảm đi, quyền lực của nhà vua cũng giảm sút. Vị hoàng đế đầu tiên
của Trung Quốc thấy rằng hệ thống phong kiến cuối cùng sẽ dẫn tới một vị vua ít
quyền lực và một tình thế hỗn loạn. Vì vậy, ông đã dựng lên một Trung Quốc với
một thể chế tập trung mạnh mẽ không dựa vào lòng trung thành của các quận công
địa phương.
(Nguồn: http://vi.wikipedia.org/)
Chiến Quốc: Thời đại kéo dài từ khoảng thế kỷ 5 TCN tới khi
Trung Quốc thống nhất dưới thời Tần năm 221 TCN. Thông thường nó được coi là
giai đoạn thứ hai của nhà Đông Chu, tiếp sau giai đoạn Xuân Thu, dù chính nhà
Chu đã kết thúc vào năm 256 TCN, 35 năm trước khi kết thúc giai đoạn Chiến Quốc.
Tương tự như giai đoạn Xuân Thu, vị vua nhà Chu chỉ đơn giản là một vua bù
nhìn. Tên gọi Chiến Quốc xuất phát từ cuốn Chiến Quốc sách được biên soạn đầu
thời nhà Hán. Bộ Chiến Quốc sách này còn được gọi là Trường Đoản Như của Lưu Hướng
đời Hán làm ghi chép những việc về đời Chiến Quốc. Điểm khởi đầu thời Chiến Quốc
hiện vẫn còn tranh cãi. Trong khi thông thường mọi người sử dụng năm 475 TCN
(tiếp sau thời Xuân Thu)
thì năm 403 TCN - năm mà nước Tấn bị chia thành ba - cũng thỉnh
thoảng được coi là năm bắt đầu của thời kỳ này.
Thời Chiến Quốc, trái với thời Xuân Thu, là một giai đoạn mà
các lãnh chúa địa phương sáp nhập các tiểu quốc nhỏ hơn xung quanh để củng cố
quyền lực. Quá trình này đã bắt đầu ở thời Xuân Thu, và tới thế kỷ 3 TCN, bảy
nước lớn nổi lên chiếm vị trí áp đảo. Bảy nước lớn thời Chiến Quốc gồm có Tề, Sở,
Yên, Hàn, Triệu, Nguỵ và Tần.
(Nguồn: http://vi.wikipedia.org/)
Bản đồ một số nước ở Trung Hoa trong một số thời kỳ
BĐ2: bản đồ thời Chiến Quốc năm 260 TCN
(Qin: Tần, Chu: Sở, Han: Hàn, Wei: Ngụy, Qi:Tề, Zhao: Triệu,
Yan: Yên) (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/)
BĐ3: bản đồ Tam Quốc năm 262
(Đỏ: Ngụy, Vàng: Ngô, Xanh: Thục)
(Nguồn: http://vi.wikipedia.org/)
BĐ4: bản đồ nước Tống và các nước xung quanh, thế kỷ 12 (Nguồn:
http://vi.wikipedia.org/)
CHƯƠNG 4: PHỤ LỤC B: NIÊN BIỂU CÁC TRIỀU ĐẠI CAI TRỊ TRUNG
HOA TỪ TRƯỚC CHO ĐẾN NAY
(Các thông tin trong phụ lục này được trích từ "Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt", http://vi.wikipedia.org/wiki/) Lịch sử
Trung Quốc CỔ ĐẠI
Tam Hoàng Ngũ Đế (2852 - 2205 TCN) Nhà Hạ (2205-1767 TCN)
Nhà Thương (1766-1122 TCN)
Nhà Chu (1122-256 TCN)
• Nhà Tây Chu (1122-770 TCN)
• Nhà Đông Chu (770 - 249 TCN)
Thời đại Xuân Thu (771- 401 TCN)
Thời đại Chiến Quốc (5 - 221 TCN) - Xem bản đồ BĐ2.
TRUNG ĐẠI
Nhà Tần (221–206 TCN)
Nhà Hán (206 TCN–220 CN)
• Nhà Tây Hán (206 TCN - 8 CN)
• Nhà Tân (8-23 CN)
• Nhà Đông Hán (23–220 CN)
Tam Quốc (220–280) - Xem bản đồ BĐ3.
Ngụy (220-265), Thục (220-263) và Ngô (229 - 280)
Nhà Tấn (265–420)
• Nhà Tây Tấn (265–420)
• Nhà Đông Tấn (265–420) Ngũ Hồ thập lục quốc (304–439) Nam Bắc
Triều (420–589)
Nhà Tùy (581–619)
CẬN ĐẠI
Nhà Đường (618-907)
(Nhà Vũ Chu 690-705)
Ngũ Đại Thập Quốc (907-960)
Nhà Liêu (907-1125)
Nhà Tống (960-1279) - Xin xem bản đồ BĐ4.
• Nhà Bắc Tống (960-1127) Nhà Tây Hạ (1032-1227) • Nhà Nam Tống
(1127-1279) Nhà Kim (1115-1234) Nhà Nguyên (thuộc Mông Cổ) (1271-1368)
Nhà Minh (1368-1644)
Nhà Thanh (thuộc Mãn Châu) (1644-1911)
HIỆN ĐẠI
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1949-nay) Trung Hoa Dân Quốc (tại
Đài Loan) (1949-nay).
(Tài liệu tham khảo:
http://vi.wikipedia.org/).
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét