Vai trò thể loại trong khoa học văn học
dân gian và vấn đề
phân tích tác phẩm
văn học dân gian từ góc nhìn thể loại
Trong khoa học văn học, văn học dân gian là một loại của nghệ
thuật ngôn từ. Tuy nhiên, nếu vấn đề thể loại trong văn chương viết chủ yếu thuộc
phạm trù thẩm mỹ thì với văn học dân gian, mỗi thể loại lại là một kết cấu nghệ
thuật mang tính lịch sử. Do đó, vấn đề phân tích tác phẩm văn học dân gian từ
góc nhìn thể loại phải xuất phát từ nguyên lý cho rằng: “Trong văn học dân
gian, thể loại là cái đơn vị cơ bản mà mọi công việc nghiên cứu đều phải xuất
phát từ đó” (V.Ia.Prop). Từ góc nhìn thể loại, việc phân tích đánh giá thẩm mĩ
từ cấu trúc đến nội dung và phong cách nghệ thuật các tác phẩm văn học dân gian
đều phải được đặt trong một trường hoạt động thực tiễn lịch sử cụ thể thuộc về
một thể loại; trong đó các hình thức - ý tưởng ở mọi cấp độ đều phải được giải
mã trong một trường liên tưởng ngữ nghĩa thuộc về một truyền thống văn hóa thẩm
mỹ của một dân tộc.
1. Đặt vấn đề
Mỗi thể loại văn học dân gian (VHDG) từ
khởi thủy đều được hình thành và đạt đến đỉnh cao trong những thời đại khác
nhau, theo đuổi những mục đích khác nhau, phản ánh những phương diện xã hội -
lịch sử rộng lớn khác nhau bằng những cung cách nghệ thuật biểu hiện ổn định bền
vững khác nhau và đều là một phạm trù lịch sử. Việc xác định hệ thống tiêu chí
thể loại trong khoa học văn học dân gian vì thế trước nay giữa các nhà nghiên cứu
trong học giới đều đã tương đối thống nhất với các bình diện: Hệ thống đề tài
chủ đề, chức năng sinh hoạt thực hành xã hội, phương thức diễn xướng và thi
pháp đặc thù. Tuy nhiên, khi tìm hiểu thực tiễn nghiên cứu giảng dạy văn học
dân gian trong nhà trường hiện nay vẫn thấy có tình trạng không tránh khỏi những
cách quan niệm cực đoan, nếu không tuyệt đối hóa tính nguyên hợp của văn học
dân gian từ góc nhìn văn hóa đến mức muốn thoát ly văn bản thì lại đồng nhất
văn bản văn học dân gian như là một tác phẩm văn chương viết. Thế nên khi trở
lại vấn đề phân tích tác phẩm văn học dân gian từ góc nhìn thể loại trong một Hội
thảo khoa học toàn quốc tháng 12 năm 2019 tại khoa ngữ văn trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, chúng tôi cho rằng nên có một tiểu luận có tính chất xác định lại
cơ sở phương pháp luận đối với việc chọn văn bản và dạy học văn học dân gian
hiện nay trong xu thế đổi mới một cách cơ bản và toàn diện với phân môn trên
tinh thần từng bước đưa chuyên ngành văn học dân gian (folklore study) vào nhà
trường theo định hướng VHGD ứng dụng, từ hiểu biết đến thực hành văn hóa giữa đời
sống.
2. Nội dung
2.1. Vai trò thể loại trong khoa học
Văn học dân gian
Khác với văn học viết trong đó phân ngành
văn học sử nói chung đều có cơ sở chắc chắc để mô tả các quá trình từ thời kỳ,
giai đoạn, chủ nghĩa, trường phái, trào lưu đến tác giả tác phẩm ở những tọa độ
lịch sử xác định, lịch sử văn học dân gian chỉ được mô tả bằng tiến trình
phát triển của các thể loại - lịch sử trên cơ sở cho rằng “từ thời viễn cổ, văn
học đã có sự gắn bó khăng khít và đặc thù với lịch sử” (M.Gorki). Do đó, sự
hình thành lưu chuyển và biến đổi của các hiện tượng văn học dân gian về mặt lịch
sử của nó nhìn chung không có nhảy vọt, mà vừa có tính chất rộng lớn liên tục,
vừa chậm chạp trầm lắng. Quá trình phát triển các thể loại văn học dân gian Việt
Nam cũng đã cho thấy chỉ có thể quan sát được nó trên một đại lượng đo thời
gian rất lớn. Trên đại thể, xét trên bình diện thời gian văn hóa mỗi thể loại đều
có quá trình nảy sinh và phát triển, nở rộ và suy tàn. Mặt khác, xét trên bình
diện không gian văn hóa lại thấy đó còn là sự đan dệt phức tạp nhiều quá trình
hoặc nối tiếp nhau, hoặc xen kẽ nhau trong trạng thái song hành giữa các thể loại
cùng tồn tại và phát triển ở những mức độ khác nhau. Con người thời cổ đại sống
trong, sống cùng, sống với cái môi trường tự nhiên và xã hội buổi đầu mà ngày
nay chúng ta gọi là hình thái kinh tế xã hội nguyên thủy. Họ phải đối diện với
rất nhiều thách thức của thực tại và không ai khác, chính họ phải đáp ứng. Đối
diện với cái nhỏ bé, mong manh hữu hạn của con người là cái khổng lồ vô hạn
vĩnh viễn của trời đất núi sông khiến người ta sùng bái. Kịp đến khi bước vào
ngưỡng cửa của văn minh thì chính cái tự nhiên câm lặng, dữ dội, bí hiểm, mênh
mông đầy bất trắc thuở ấy đã thúc đẩy trí tuệ của con người phải phỏng đoán và
hình dung, tưởng tượng và tái hiện,… Đó chính là nguồn gốc văn hóa của thần thoại.
Con người bước vào thời đại đồng thau và sắt sớm. Đó cũng là thời điểm quá
trình chế ngự và thắng đoạt tự nhiên của các nhóm xã hội có giới hạn buổi đầu
đã đem lại cho con người những niềm hân hoan tột cùng sau khi họ vượt qua được
vài ba thách thức đầu tiên. Sử thi cổ sơ có cảm hứng cội nguồn từ khát vọng thần
thoại được thăng hoa một cách có ý thức. Kế đến là những cuộc chiến tranh bộ lạc
diễn ra thường xuyên. Sử thi anh hùng và truyền thuyết ra đời, cuốn theo những
mảnh vỡ của “thần thoại một đi không trở lại”. Một hình thái kinh tế - xã hội mới
được thay thế với ba thiết chế: Gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước. Lý tưởng
dân chủ thị tộc cũ xung đột gay gắt với hệ tư tưởng mới. Sự tự nhận thức về số
phận con người “bao giờ đến được ngày xưa” được trình bày lại một cách thần kỳ
trong những giấc mơ cổ tích. Các thành tựu nghiên cứu văn học dân gian trước
nay đã khẳng định: Thần thoại ra đời và chỉ phồn phịnh trong thời đại thần thoại.
Sử thi dân gian chỉ ra đời và tỏa sáng trong thời đại sử thi. Theo đó, thời đại
anh hùng và ý thức dân tộc trưởng thành đẻ ra và nối dài truyền thuyết lịch sử.
Thế nên nếu chúng ta “xét riêng sự phát triển của dòng tự sự dân gian, chúng ta
sẽ thấy thái độ chọn lựa đối với thực tế trải qua con đường tự sự phản ánh khái
quát những quá trình lịch sử cơ bản đến chỗ đi sâu dần vào quá trình lịch sử cụ
thể riêng biệt. Ở những thể loại ra đời sau của tự sự lịch sử dân gian, lịch sử
đã phân hóa ra thành những biến cố, hơn nữa đã khúc xạ thành những số phận cá
nhân. Những biến cố và số phận các cá nhân này đã được lựa chọn theo quan điểm
của sự phản ánh và sự đánh giá những quan hệ xã hội” (1). Nếu chúng ta xem xét
sự phát triển của dòng trữ tình dân gian, sẽ thấy không tránh khỏi ở đấy có sự
đan xen chồng lấn phức tạp giữa các nhóm thể loại, bởi sự quên lãng và đứt mạch
không thể phục nguyên của ngôn ngữ lời nói vần và thơ ca dân gian đã thất truyền.
Thế nhưng nếu căn cứ vào thành tựu của các khoa học liên ngành để tiến hành
phân tích và luận giải trên một khối lượng tài liệu lớn về các câu hát, bài
hát dân gian hiện đã sưu tập được thì có khả năng những đặc điểm có tính quy
luật của các quá trình phát triển nội tại trong thế giới nghệ thuật ca dao
cũng sẽ trở nên rành mạch, sáng tỏ. Như vậy, hiển nhiên trong khoa học về văn
học dân gian vấn đề thể loại trở thành tâm điểm của mọi vấn đề.
Vai trò thể loại trong khoa học văn học
dân gian còn cần phải được xác định ở cấp độ sâu xét trên các đặc điểm về thi
pháp thể loại. Ở đây đặt ra những khía cạnh có quan hệ trực tiếp đến tính đặc
thù trong việc phân tích tác phẩm văn học dân gian trong nhà trường. Tính đặc
thù này đã biểu hiện trực tiếp trong việc xác định các tiêu chí phân loại thể
loại văn học dân gian. Trong đó, nếu xét văn học dân gian từ góc độ là một loại
của nghệ thuật ngôn từ, sẽ nhận ra rằng ở bộ phận này chỉ có sự khác biệt về
thi pháp thể loại, nói rộng ra là phong cách thể loại. Đối với văn học viết, giữa
các tác phẩm có cùng đề tài, chủ đề cùng thuộc về một thể loại và giả định còn
cùng được sáng tạo trong cùng một thời gian không gian xác định nhưng nếu là
sản phẩm của những tác giả khác nhau, chúng vẫn có sự khác biệt độc đáo về cấu
trúc thẩm mỹ, về bút pháp và giọng điệu,… Ngược lại ở văn học dân gian, sự khu
biệt giữa các tác phẩm trong cùng một thể loại xét trên các góc độ tương đồng
như thế hầu như lại thấy rất mờ nhạt. Với truyện cổ tích thần kỳ, tất cả đều
tương đồng về hình thức cấu tạo cốt truyện, về phong cách biểu hiện, về nghệ
thuật sắp đặt các tình huống, về cách thức mô hình hóa cấu trúc loại người
mang tính quan niệm. Với bài ca trữ tình dân gian, mỗi mẫu đề tương ứng với một
hệ thống của công thức truyền thống có giá trị sử dụng như một ngân hàng phương
tiện và chất liệu nghệ thuật dùng chung. Với chèo sân đình, các đài từ dù là ứng
tác cũng phải tuôn theo cả một hệ thống các quy tắc của nghệ thuật trình diễn
có tính chuẩn mực ước lệ đến từng chi tiết, đối với từng kiểu loại nhân vật.
Phương thức sáng tác tập thể - truyền miệng của văn học dân gian đã quyết định
phong cách thể loại của các tác phẩm văn học dân gian. Không mang cá tính sáng
tạo, văn học dân gian không có phong cách cá nhân không có thi pháp tác gia như
văn học hiện đại. Không phải là sản phẩm nghệ thuật của một tác giả mà thân
thế và sự nghiệp của người viết dù muốn hay không vẫn có mối quan hệ trực tiếp
với một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, văn học dân gian không có phong cách thời đại,
không có thi pháp thời kỳ, giai đoạn như văn học trung đại. Thừa nhận tính lịch
sử của thể loại văn học dân gian, sẽ thấy ở mỗi thể loại đều có sự ổn định bền
vững điển hình về phương pháp lịch sử bởi nó được sáng tạo theo nguyên tắc có
tính lặp lại. Và chính đặc điểm này đã tạo nên sự khác biệt giữa hai hệ thống:
Thi pháp văn học viết và thi pháp văn học dân gian. Cả hai hệ thống thẩm mỹ
này đều được hiểu là tổ hợp những đặc điểm về hình thức nghệ thuật thành tạo nội
dung và mang tính quan niệm. Nhờ nó mà văn học viết và văn học dân gian xây dựng
những bức tranh về cuộc sống, sáng tạo những hình tượng về con người và những
hiện tượng khác nhau của thực tại mội cách thẩm mỹ. Điểm khác biệt là ở nguyên
tắc tư tưởng thẩm mỹ. Nếu thi pháp văn học viết là thi pháp văn bản cố định và
là kết quả sáng tạo bằng kỹ thuật của tác giả cá thể, là thi pháp của cá
tính nghệ sĩ được thực hiện theo nguyên tắc lựa chọn điển hình hóa thì thi pháp
văn học dân gian lại là sự tổng hòa của các yếu tố hình thức đặc trưng bằng sự
vận động thường xuyên theo nguyên tắc lựa chọn khái quát hóa mà sự khái quát
này chỉ được thừa nhận trong tính truyền thống thẩm mỹ thuộc về một dân tộc.
Nếu thi pháp văn học viết nhấn mạnh yêu cầu cách tân trong sự sáng tạo của cá
tính nghệ sĩ, chỉ chấp nhận “cái riêng biệt”, “cái mới lạ” độc đáo theo xu hướng
vượt ra khỏi cái gọi là ký ức thể loại, cái mô hình chung thì thi pháp văn học
dân gian lại chấp nhận “cái quen thuộc” “cái lặp lại” đã trở thành sở hữu
chung, đi vào kí ức chung của mỗi thành viên trong cộng đồng, và hơn thế nó đã
trở thành kỷ niệm riêng của cả một dân tộc. Hệ luận của vấn đề khác biệt thứ
hai này là chính nó đã tạo nên các giá trị đặc sắc và bền vững trong phẩm chất
thẩm mỹ của hệ thống thi pháp thể loại văn học dân gian: Tác phẩm văn học dân
gian mỗi lần được diễn xướng trong một ngữ cảnh xã hội nhất định và trong một
phong cách nghệ nhân cụ thể đều được xem là một lần tái sáng tạo. Và sự lặp lại
đó chính là sự gặp lại, sự nhận ra, sự trở về với cái đẹp thuần khiết vốn đã
được tích hợp trong trường liên tưởng ngữ nghĩa của một dân tộc, như Heghen
quan niệm. Đó là cái đẹp mà để cảm nhận được nó, người ta phải trở về trên
những lối mòn, những con đường sâu kín tiềm tàng chứa đầy những chân lý cổ thời,
đã được thử thách cùng với thời gian. Có lẽ chính các nhà văn thời kỳ trung đại
là những nghệ sĩ nhạy cảm trước hết với điều đó. Không phải ngẫu nhiên “tác
giả thời trung cổ rất ít khi muốn nghĩ ra được một cốt truyện gì mới mẻ khác
thường. Anh ta thường cố gắng diễn đạt theo cách mới trên một cốt truyện đã có
sẵn… giỏi đến mức che mờ nguyên tác” (B.L.Riptin). Và “nhà văn trung cổ
không sáng tạo ra những cốt truyện mà dường như chỉ kể lại và kết hợp lại những
mô típ xa xưa khi thì bằng văn xuôi, khi thì bằng thơ” (Guipxop). Và “đó
chính là nguyên nhân tạo nên một số lượng lớn tác phẩm cải biên của cùng một số
cốt truyện trong văn học trung cổ ở phương Đông và phương Tây. Ở đây dễ dàng chấp
nhận thấy rằng những cốt truyện mới thường được hình thành trong truyền thống
văn học dân gian và từ đó được các nhà văn vay mượn” (B.L.Riptin). Càng gần về
thời kỳ hiện đại, sự cảm nhận và sử dụng như một “sự trở về” như thế trong
văn học viết càng trở nên tinh tế, sâu sắc hơn. Trong một số trường hợp, sự
vận động sáng tạo lại các giá trị tinh hoa truyền thống văn học dân gian của
các tài năng sáng tạo lớn trong lịch sử văn học Việt Nam đã khiến cho tác phẩm
của họ chẳng những vào được sâu trong lòng người đọc Việt Nam, mà còn đứng được
trong văn học nhân loại ở một vị trí riêng độc đáo.
Thế nên vấn đề không phải như trước nay
có những người quan niệm công thức truyền thống - tức là những yếu tố ổn định
điển hình có tính lặp lại - chẳng qua cũng chỉ là biểu hiện của một loại văn
chương của tầng lớp văn hóa thấp của cái thời chưa có chữ viết, chỉ là một
cách thức để người ta dễ nhớ, dễ truyền. Trong xã hội hiện đại, một nhà
folklore học hàng đầu của Mỹ hiện nay là A.Dundes trong công trình Ai là
người sáng tác văn học dân gian đã cho rằng: Quan niệm người sáng tác văn
học dân gian là người mù chữ trong một xã hội có chữ viết là một quan niệm cũ
không còn phù hợp. Đó là một quan điểm đã lỗi thời của các nhà folklore học
châu Âu thế kỷ XIX. Sau khi dẫn chứng hàng loạt những mẩu chuyện dân gian đương
đại Mỹ, ông viết đại ý: Người sáng tác văn học dân gian trong những trường hợp
này đều là những người biết chữ,… không một ai là người sáng tác dân gian trong
những ví dụ này là nông dân hoặc người ở tầng lớp thấp. Nhiều người chắc chắc
là những người thành thị và thuộc tầng lớp trung lưu. Cần phải nói rõ như vậy
nếu người nào đó quan tâm có những phân biệt như vậy hoặc áp dụng cách gọi như
vậy. Thực tế có người sáng tác dân gian thành thị và cũng có những người sáng
tác dân gian nông thôn. A.Dundes còn bàn đến các sáng tác folklore trong mối
quan hệ với các phương tiện truyền thông hiện đại. Theo ông, các công nghệ hiện
đại như điện thoại, radio, tivi,… chỉ làm tăng thêm tốc dộ lưu truyền mà không
hề làm biến mất văn hóa, văn học dân gian hiện đại. Trong các ví dụ về văn học
dân gian đương đại Mỹ của A.Dundes vẫn chứa đầy những yếu tố lặp lại. Sự lặp lại
đó rõ ràng là một nghịch lý về nguyên tắc thẩm mỹ folklore khi so sánh với văn
chương viết, song chính nó mới là đặc điểm của nguyên tắc tư tưởng, thẩm mỹ
folklore, tạo nên những giá trị đặc thù của mỹ học folklore, lặp lại mà không
nhàm chán, quen thuộc mà vẫn hấp dẫn. Và chính quá trình sáng tạo và tái sáng tạo
của thi pháp văn học dân gian theo nguyên tắc có tính lặp lại như thế đã tạo
nên những hình thức cấu trúc thẩm mỹ ổn định bền vững trong từng kết cấu thẩm mỹ
đặc trưng thể loại. Thế nên trong khoa học văn học dân gian, các nhà nghiên cứu
chuyên ngành đều nhất trí khẳng định: Thể loại văn học dân gian là một kết cấu
nghệ thuật có tính lịch sử. Do đó, nếu nghiên cứu tiến trình phát triển của
văn học dân gian người ta phải tìm hiểu vấn đề lịch sử, thể loại, thì việc
nghiên cứu một tác phẩm văn học dân gian đòi hỏi phải đặt nó vào trong một thể
loại lịch sử.
2.2. Vấn đề phân tích tác phẩm văn học
dân gian từ góc nhìn thể loại
Hệ phương pháp phân tích tác phẩm văn học
dân gian trong nhà trường trước hết phải lấy phương pháp luận nghiên cứu về
các sáng tác văn học dân gian của khoa học chuyên ngành làm cơ sở. Về vấn đề
này, nhà bác học người Nga về văn học dân gian V.Ia.Prop đã khẳng định: Chừng
nào những đặc trưng của thể loại chưa được nghiên cứu, hoặc ít ra là chưa được
mô tả trên những nét đại cương thì những sáng tác riêng lẻ thuộc kết cấu thể
loại cũng chưa thể được nghiên cứu. Và ông nhấn mạnh dứt khoát rằng: “Trong
khoa học văn học dân gian có thể nói thể loại là cái đơn vị cơ bản mà mọi công
việc nghiên cứu đều phải xuất phát từ đó” (2).
Nhìn lại quá trình xác lập hệ phương
pháp và các phương pháp cụ thể trong vấn đề này, chúng ta đã trải qua hai thời
kỳ. Từ đầu thập kỷ tám mươi của thể kỷ XX trở về trước có thể được xem là
thời kỳ đầu, việc dạy và học tác phẩm văn chương mới chỉ chú trọng phân tích
tác phẩm văn học dân gian theo như một thể loại của văn học viết. Sự lựa chọn
các tác phẩm văn học dân gian trong các sách giáo khoa phổ thông thời kỳ này
còn rất ít ỏi, lại chỉ là văn học dân gian của người Kinh (Việt) và có thể nói
là chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề thể loại. Ví dụ: Bài “Từ nay tôi kệch đến
già”, và bài “Mở mắt chúa gọi đi cày” theo chúng tôi là hai bài văn vần dân
gian kể chuyện đời của người làm thuê, người đi ở cho nhà giàu. Đó là vè thế sự,
vậy có nên xếp vào thể loại ca dao. Có nhà nghiên cứu đã gọi bài thứ hai nói
trên là Vè đi ở. Gần đây, trong một giáo trình văn học dân gian viết cho
sinh viên Việt Nam học, Nguyễn Bích Hà đã trả những tác phẩm có cùng kiểu dạng
như thế về thể loại vè. Những kiểu dạng sáng tác dân gian này trong đời sống thực
tế cũng hoàn toàn không có khả năng chuyển hóa thành ca dao, dân ca. Việc tuyển
chọn các tác phẩm văn xuôi tự sự dân gian vào sách giáo khoa thời ấy cũng có
tình hình tương tự. Các văn bản kể về Lạc Long Quân và Âu Cơ, Sơn tinh Thủy
tinh, Thánh Gióng được chọn giảng là thần thoại hay truyền thuyết, các
truyện kể Trí khôn của ta đây, Trâu đoàn kết giết hổ, Sự tích bộ lông quạ
và công là cổ tích loài vật hay truyện ngụ ngôn,… Thế nên rất khác với vấn
đề phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại của văn học viết, vấn đề phân
tích tác phẩm văn học dân gian chưa thể có được một nền tảng tư tưởng học
thuật chuyên ngành nhất quán trong cùng một hệ thống. Phải đến khi khoa học
về văn học dân gian Việt Nam được xác lập như một chuyên ngành giữa hai góc độ
ngữ văn học và văn hóa dân gian từ những năm chín mươi của thế kỷ trước, việc
xác định thể loại cho các tác phẩm văn học dân gian được chọn giảng trong nhà
trường mới từng bước ngày càng trở nên rành mạch sáng tỏ.
Các tác phẩm hay trong văn học dân gian của
các dân tộc ít người bắt đầu được chú ý. Hệ thống thể loại văn học dân gian Việt
Nam được bổ sung các thể loại sử thi dân gian và truyện thơ dân gian. Những vấn
đề lý thuyết và định hướng phương pháp phân tích văn học dân gian theo thi pháp
thể loại đã bắt đầu được khảo luận ở cấp độ tổng quát. Một chương trình đổi mới
toàn diện về hoạt động dạy và học văn học dân gian trong nhà trường đã được triển
khai với nội dung “những vấn đề hiện nay về nghiên cứu và giảng dạy VHDG trong
nhà trường” từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước. Trong đó nối bật lên là
phương hướng giảng dạy văn học dân gian theo tinh thần tiếp cận một tác phẩm
VHGD. Trọng tâm của nó là phải phân tích tác phẩm văn học dân gian theo đặc
trưng thể loại căn cứ vào các kết quả nghiên cứu mới mẻ, hiện đại về bản chất
xã hội, bản chất nghệ thuật của văn học dân gian trong sự so sánh ngày càng cụ
thể và sâu sắc về các mối quan hệ văn học dân gian - văn học viết. Năm 1993,
chúng tôi biên soạn cuốn “Giảng văn văn học dân gian Việt nam” theo phương hướng
trên. Sách đã được nhà xuất bản giáo dục tái bản năm 1995 và sau đó đã được
biên tập lại vào sách Giảng văn văn học Việt Nam. Thời gian qua đi,
những năm gần đây vấn đề dạy và học văn ở trường phổ thông lại có sự thay đổi từ
hoạt động giảng văn chuyển sang hoạt động đọc hiểu tác phẩm văn học. Theo đó,
các sách giáo khoa văn học, tiếng Việt, làm văn cũng được biên soạn lại theo hướng
tích hợp. Năm 2012, khi biên soạn mới Giáo trình văn học dân gian ở
Trường Đại học sư phạm Hà Nội, với quan niệm văn học dân gian vừa là văn học vừa
là văn hóa và cần phải nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm văn học dân gian theo
tinh thần tiếp cận một tác phẩm folklore, chúng tôi đã dành riêng hẳn một phần
của giáo trình gọi là “Những vấn đề chung về văn học dân gian” để hướng tới mục
tiêu đổi mới căn bản theo hướng trên. Đến thời điểm hiện tại (2019), chương
trình văn học và tiếng Việt ở mọi cấp học lại tiếp tục một lần nữa được biên soạn
lại, và bắt đầu có sự tham gia của nhiều nhóm tác giả theo chủ trương sẽ có
vài ba bộ sách cùng lúc theo hướng đổi mới tích cực toàn diện. Trong chương
trình chọn giảng tác phẩm cụ thể, cũng sẽ tiếp tục từng bước theo các cấp học
có sự điều chính lại, thay thế một bộ phận theo quan điểm mới của các nhà biên
soạn. Tuy vậy, nhìn một cách toàn diện thì vấn đề phân tích tác phẩm văn học
dân gian từ góc nhìn thể loại vẫn là điều kiện tiên quyết đối với các hoạt động
dạy và học tác phẩm văn học dân gian. Việc triển khai các phương pháp cụ thể sẽ
được lập trình và gợi ý trong các sách giáo viên, đã và đang được tiếp tục đổi
mới theo hướng folklore ứng dụng, từ hiểu biết đến thực hành văn hóa. Phạm
vi giải quyết vấn đề này hiện nay cũng chính là một bước phát triển mới theo định
hướng nghiên cứu – giảng dạy văn học dân gian theo tinh thần tiếp cận một
tác phẩm folklore như chúng tôi đã tự đổi mới từ những năm gần đây, vừa có tính
kế thừa tiếp nối, vừa có sự phát triển ở bề sâu để tiếp tục đem lại một chất lượng
mới. Kế thừa phương hướng trên bởi vì chỉ có như thế thì việc phân tích một
tác phẩm văn học dân gian mới tránh được những hạn chế như trước đây đã từng đồng
nhất với việc phân tích tác phẩm văn học viết, xa rời bản chất và đặc trưng
văn học dân gian. Hơn nữa, như chúng ta đã biết việc phân loại văn học dân
gian ở cấp độ thể loại căn cứ vào các thành tựu của khoa học chuyên ngành văn học
dân gian phải thỏa mãn đến bốn tiêu chí: Hệ đề tài chủ đề, chức năng sinh hoạt,
phương thức diễn xướng và thi pháp đặc thù. Thế nên việc phân tích tác phẩm văn
học dân gian không thể không tính đến những yếu tố ngoài văn bản. Mặt khác,
chỉ có sự phát triển ở bề sâu trên cơ sở tiếp nối phương hướng nói trên mới
đáp ứng được mục đích hàng đầu của giới hạn từ góc nhìn thể loại. Cái giới hạn
phân tích tác phẩm từ góc nhìn thể loại đối với các sáng tác nghệ thuật ngữ
văn dân gian luôn đòi hỏi chúng ta phải khảo sát so sánh đối chiếu liên văn
bản, phải tính đến những đặc điểm riêng của văn bản văn học dân gian, phải
dựa vào đặc điểm thi pháp đặc thù thể loại trong việc định hướng tiếp cận và
đánh giá thẩm mỹ.
Để đáp ứng được phương pháp luận giải đã
xác định như trên, việc phân tích tác phẩm văn học dân gian từ góc nhìn thể loại
dứt khoát phải tiến hành từ khâu đầu tiên là tìm hiểu và xây dựng được cái mà
chúng tôi gọi là bộ hồ sơ về một tác phẩm. Điều này đối với phần lớn các
tác phẩm văn học viết trong một góc nhìn nào đó có thể là không quan trọng bởi
vì trước khi tiến hành phân tích một sáng tác của một nhà văn nhà thơ đã có tên
tuổi, thân thế và sự nghiệp của họ chắc hẳn đã gắn liền với một tọa độ lịch sử
xác định, mọi chuyện đều đã có thể trở nên rõ ràng sáng tỏ. Tác phẩm đó thuộc
thể loại nào, với văn học viết hiện đại thì đã được ghi rõ ngay trước hoặc sau
tác phẩm, với văn học trung đại thì hầu hết nó đã được gắn vào tên tác phẩm: Hịch
tướng sĩ văn, Bình Ngô Đại Cáo, Bạch đằng giang phú, Chinh phụ ngâm, Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc,… Trái lại, với số phận lịch sử của một tác phẩm văn học
dân gian thì bao giờ cũng chứa đầy những ẩn số phải kiếm tìm. Văn bản tác phẩm
văn học viết luôn luôn là một chỉnh thể ngôn ngữ nghệ thuật hoàn chỉnh khép
kín ổn định. Mỗi văn bản văn học dân gian trong tính đặc thù của bộ
phận văn chương truyền miệng lại chỉ là một lát cắt đồng đại. Đối với lĩnh vực
nghiên cứu văn học dân gian, để khảo sát một tác phẩm chỉ có một cách duy nhất
tối ưu là phải tiến hành ghi đi ghi lại nó bằng những lần khác nhau, ở những địa
phương khác nhau, từ các nghệ nhân khác nhau và trong những thời điểm khác nhau
của các thế hệ tiếp nối nghiên cứu khác nhau. Phải xem văn bản của tác phẩm ấy
không chỉ là đối tượng, mà còn là mục đích của sự khảo cứu. Đến lượt
mình, chúng ta phải trên cơ sở phân tích một liên văn bản để đối chiếu với cái
văn bản được chọn lựa, nhận ra những nét tương đồng và dị biệt, những yếu tố bất
biến và biển đổi trong một hệ thống mở. Từ đó xác định những đặc điểm trội của
văn bản phân tích theo các tiêu chí phân loại để đặt nó vào một thể loại xác định. Chỉ
có làm được như thế, chúng ta mới có thể tiến hành phân tích được các văn bản
tác phẩm văn học dân gian đã được tuyển chọn vào sách giáo khoa như : Lạc
Long Quân và Âu Cơ, Sơn tinh Thủy tinh, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử,… mà việc xác
định thể loại cho nó trong giới hạn nghiên cứu vẫn còn là vấn đề cần trao đổi.
Trở lại vấn đề chung, để có được kết quả
đáng tin cậy ở khâu đầu tiên như đã nói ở trên, chúng ta phải đặt tác phẩm văn
học dân gian vào một trường hoạt động thực tiễn bao gồm môi trường diễn xướng,
phương thức tồn tại và lưu chuyển, lý do xã hội và lý do nghệ thuật, chức năng
sinh hoạt thực hành, cảm hứng tập thể đồng sáng tạo. Nguyên tắc số một này
chính là xuất phát từ đặc trưng nguyên hợp, là đã tính đến tất cả các yếu tố
văn chương và các yếu tố phi văn chương trong sự thành tạo một đơn vị tác phẩm.
Bởi vì những yếu tố phi văn chương ngoài văn bản này lại góp phần không nhỏ tạo
nên cái sắc thái văn chương, làm nên vẻ đẹp riêng biệt của ngôn ngữ nghệ thuật
văn học dân gian. Vả chăng, những yếu tố này đã hòa trộn, kết dính, đan lồng,
gắn chặt với yếu tố ngôn từ trong văn bản đến mức tự nhiên không thể tách rời,
như nó vốn có trong đời sống của thực tiễn sinh hoạt văn nghệ tổng hợp của nhân
dân qua nhiều đời sáng tạo và sáng tạo lại. Khi tiến hành phân tích nhóm các
bài ca trữ tình dân gian trong thế giới nghệ thuật ca dao chẳng hạn, chúng ta
sẽ thấy đúng như Đinh Gia Khánh đã khẳng định “Nghệ thuật ngữ văn, một thành tố
của văn hóa dân gian chỉ có thể phát huy đầy đủ chức năng thẩm mỹ khi gắn bó với
các thành tố khác” (3) và Chu Xuân Diên đã nhận xét “Là thành phần chủ yếu
trong tổng thể sinh hoạt văn hóa nghệ thuật dân gian, văn bản văn học dân gian
in đậm dấu vết của những thành phần không phải văn học của tổng thể đó” (4). Những
kết quả của công việc lập hồ sơ cho một tác phẩm văn học dân gian như trên nằm
trong khâu chuẩn bị trước khi thiết kế văn bản phân tích. Nó phải được xem là
một nhiệm vụ then chốt, là tinh thần cơ bản của quan điểm phân tích tác phẩm
văn học dân gian theo tinh thần tiếp cận một tác phẩm VHGD. Trong khung
phân tích tác phẩm văn học dân gian, nó phải được trình bày cực kỳ tinh giản
như là các giả thiết về hoàn cảnh ra đời tác phẩm và tình hình văn bản, và cả
quá trình chuyển hóa thể loại nếu có. Đây là một nội dung bắt buộc ở cấp độ
tổng quát, bởi vì đó là những minh chứng xác thực về mặt lịch sử, là cơ sở khoa
học cho việc phân tích ở cấp độ tác phẩm: Phải đặt các yếu tố nghệ thuật
trong tác phẩm vào một trường hành động thực tiễn bao gồm môi trường diễn
xướng, phương thức tồn tại, chức năng sinh hoạt thực hành,… và ở cấp độ cụ
thể phải giải mã nó trong một trường liên tưởng ngữ nghĩa của một cộng đồng.
Trong các phân tích cụ thể, chúng ta cũng không thể không thường xuyên xem nó
trong các mối quan hệ trở lại với những yếu tố ngoài văn bản.
Quan điểm này khẳng định việc phân tích
tác phẩm văn học dân gian từ góc nhìn thể loại đã xác định văn học dân gian là
một loại của nghệ thuật ngôn từ và văn bản vẫn là thành tố nghệ thuật quan
trọng nhất hợp thành chỉnh thể một tác phẩm VHDG. Các yếu tố nghệ thuật trong
tác phẩm nói ở trên chính là các yếu tố văn học thể hiện trong một văn bản đã
được cố định. Đó là những “hình thức mang tính nội dung” đã trôi nổi ngàn năm
trên cửa miệng người đời, vừa được thầm thấu vừa tỏa lan cái hồn cái tình, nỗi
nhớ và kỷ niệm riêng, đã từng được cả cộng đồng ghi vào ký ức và nuôi dưỡng
trao truyền qua nhiều cuộc thăng trầm biến đổi. Ví dụ một lời ru bên vành
nôi: Cái cò đi đón cơn mưa. Ví dụ một câu ví: Cây đa cũ bến đò
xưa. Không phải ngẫu nhiên mà từ thuở ông bà chúng ta chưa ra đời, những
hình ảnh con cò, con bống, cái giếng giữa đàng, cái cầu dải yếm,… đã trở
thành những ẩn dụ trữ tình lớn trong ca dao miền xuôi; trong khi đó những hình
ảnh con sâu vừng, con rồng leo, cây trám đen, con chim queng quý,… lại chỉ gặp
ở những câu hát dân ca miền núi. Người giảng dạy muốn gây ấn tượng phải biết
tạo tâm thế, phải biết tạo các xung động thẩm mỹ trong những “trường hoạt động
thực tiễn” nhất định, trong những hệ quy chiếu của “các công thức truyền thống”
nhất định. Có như thế hệ số cảm xúc nghệ thuật mới được đẩy lên đến trạng
thái kịch phát, đỉnh điểm. Người phân tích muốn khai thác hết được tình thực,
ý sâu, lời đẹp trong những hình ảnh, biểu tượng như thế rõ ràng không thể cảm
thụ được bằng suy diễn chủ quan. Và nhìn chung, chúng ta không thể phát hiện
chính xác ngữ nghĩa của nó nếu không am hiểu truyền thống văn hóa trong từng nếp
cảm, nếp nghĩ, nếp sống ở một vùng đã trở thành bản sắc riêng. Chúng ta phải
có vốn sống và sự nhạy cảm đời thường thu nhận dược từ thực tiễn muôn vẻ, từ
các kiến thức xã hội, lịch sử, địa lý, tâm lý, dân tộc học,… nói rộng ra là văn
hóa học. Có như thế, chúng ta mới có thể giải mã được các yếu tố nghệ thuật
trong cấu trúc thẩm mỹ của một tác phẩm văn học dân gian. Việc phân tích đối với
các tác phẩm văn học dân gian ở miền xuôi đã không đơn giản, thì đối với các
tác phẩm văn học dân gian miền núi điều đó còn phức tạp hơn nhiều như với các sử
thi Đẻ đất đẻ nước, Đam San; Các truyện thơ Tiễn dặn người yêu,
Vượt biển,… Để cùng chiếm lĩnh thế giới hình tượng trong đó, chúng ta
phải tự nỗ lực thu hẹp khoảng cách văn hóa - thẩm mỹ giữa các vùng, miền, dân
tộc. Thế nên để phân tích tác phẩm văn học dân gian, nguyên tắc phải đặt tác
phẩm vào trong một trường liên tưởng ngữ nghĩa của một cộng đồng cũng là một
yêu cầu phải được đảm bảo trong suốt quá trình triển khai các nội dung cụ thể.
Quan điểm thể loại văn học dân gian cũng
đòi hỏi việc phân tích tác phẩm văn học dân gian phải dựa hẳn vào những đặc điểm
thi pháp đặc thù thể loại của tác phẩm trong việc khai triển hệ thống các luận
điểm, luận cứ, luận chứng và bám sát vào cấu trúc thẩm mỹ thể loại của văn
bản để đánh giá thẩm mỹ các yếu tố hình thức – ý tưởng và các nguyên tắc kết hợp
giữa các yếu tố đó như nó vốn tồn tại và lưu chuyển trong đời sống dân gian. Bởi
vì trong khoa học về văn học dân gian như đã nói ở trên, không có thi pháp tác
phẩm. Và sự khu biệt vẫn nổi bật trong sự so sánh và đánh giá thẩm mỹ giữa các
tác phẩm chỉ có thể được phân tích trong sự khu biệt về thi pháp thể loại.
Trả lời cho câu hỏi “thi pháp là gì?” đối với cả văn học viết và văn học dân
gian trong quan niệm đều là loại hình nghệ thuật ngôn từ, nhà folklore học
Xô Viết nổi tiếng, giáo sư Kratxop (1906-1980) đã quan niệm như sau: Thi pháp với
tư cách là tổ hợp những đặc điểm hình thức nghệ thuật của các tác phẩm nghệ thuật
ngôn từ bao gồm:
a. Những đặc điểm của cấu trúc tác phẩm.
b. Hệ thống những phương tiện phản ánh,
nhờ những phương tiện này mà văn học viết và văn học dân gian xây dựng những bức
tranh về cuộc sống, những hình tượng về con người và tái tạo những hiện tượng
khác nhau của thực tại (các sự kiện lịch sử, sinh hoạt và đạo đức của con người,
thiên nhiên).
c. Những chức năng tư tưởng - thẩm mỹ của
cấu trúc tác phẩm và những chức năng tư tưởng thẩm mỹ của các phương tiện thể
hiện một cách xúc cảm trước hiện thưc, sự đánh giá những sự kiện và hành vi của
nhân vật, sự khám phá ý đồ sáng tạo cùng giá trị tư tưởng nghệ thuật và tay nghề
sáng tạo ra tác phẩm.
Theo Kratxop, văn học viết và văn học dân
gian có nhiều cái chung, nhưng đồng thời văn học dân gian cũng có những đặc điểm
riêng. Về phương diện thi pháp, đó là những đặc điểm hình thức của cách thức thể
hiện và biểu hiện riêng của từng nghệ nhân. Thi pháp văn học dân gian còn bao gồm
cả những đặc điểm của truyền thống dân tộc. Cho đến thời điểm hiện tại, trong
các công trình lý thuyết về thi pháp học có rất nhiều quan niệm và định nghĩa về
thi pháp và nhìn chung đều là các kết quả nghiên cứu trên các thành tựu của
văn học viết. Do đó sự lựa chọn định nghĩa trên đây vể thi pháp chung cho cả
hai loại hình nghệ thuật ngôn từ văn học dân gian và văn học viết để vận dụng
vào việc phân tích tác phẩm văn học dân gian từ góc nhìn thể loại có ý nghĩa học
thuật đặc biệt quan trọng.
3. Kết luận
Để có một kết luận tổng quan cho toàn bộ
những vấn đề chung trên đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh: Thi pháp văn học dân gian
và thi pháp văn học viết là hai hệ thống thẩm mỹ độc lập nhưng không đối lập.
Phân tích tác phẩm văn học dân gian trong nhà trường, đương nhiên đối tượng tiếp
cận trực tiếp và chủ yếu vẫn là văn bản văn học, là dạng cố định. Do đó, các
thao tác phân tích cụ thể vẫn có nhiều điểm chung như phân tích tác phẩm văn học
viết. Tuy vậy, khác với văn bản văn học viết, dạng cố định của văn học dân
gian còn có cơ sở từ hai dạng, dạng “hiện ra trong diễn xướng” và dạng “ẩn
trong kí ức nghệ nhân”, luôn tồn tại ở dạng liên văn bản và vẫn còn đấy bằng
cách này hay cách khác các mối liên hệ với các yếu tố ngoài văn bản. Thế nên nếu
như việc phân tích tác phẩm văn học viết có rất nhiều cơ sở xác đáng để tạo nên
những khoảng trống sáng tạo cho chúng ta thì việc phân tích tác phẩm văn học
dân gian, đặc biệt với những tác phẩm đã lùi sâu vào quá khứ, chúng ta chỉ có
một cách khám phá những giá trị đích thực của nó bằng cách phải dựa vào những
khuôn hình, từ mã văn hóa đến mã thẩm mĩ. Đó là những khuôn mẫu điển hình ổn định
bền vững ở những cấp độ khác nhau đã được sắp đặt trong một cấu trúc thẩm mỹ đặc
trưng thể loại. Trong đó, mỗi cấu trúc thẩm mỹ của một thể loại nhìn chung đều
đã được khái quát hóa trên những tác phẩm tiêu biểu ở thời kỳ đỉnh cao của nó
trong tiến trình phát triển. Để giải mã những yếu tố nghệ thuật như thế, người
phân tích không thể đồng sáng tạo, mà phải vận dụng những thành tựu của khoa
học liên ngành.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Đỗ Bình Trị (1978), Nghiên cứu tiến
trình lịch sử của văn học dân gian Việt Nam, Nxb. ĐHSP Hà Nội I, tr. 35, Hà Nội.
2. V.Ia. Propp (2004), Tuyển tập, Tập II,
Folklore với thực tại, Nxb. Văn hóa dân tộc và Tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật,
tr. 473-474.
3. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm
hiểu Văn hóa dân gian, Nxb. KHXH, tr. 124.
4. Nguyễn Xuân Kính (1989), Việc nghiên cứu
thi pháp văn học dân gian ở Liên Xô và Việt Nam, trong Văn hóa dân gian, những
lĩnh vực nghiên cứu, Nxb. KHXH, tr. 144-159.
Tháng 9/2019Vũ Anh TuấnNguồn: Tạp chí Khoa học Trường Đại học Thủ đô Hà Nội -
số 40/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét