Nhân dịp rảnh rỗi bất đắc dĩ vì không ra được khỏi nhà,
tôi ngồi ôn lại từ đầu sự việc đã xui khiến tôi đón Gertrude về nuôi.
Tôi đã dự định viết ra đây từng bước nhỏ sự phát triển
của tâm hồn ngoan đạo này mà tôi đã mang từ bóng đêm u tối ra như với mục đích
duy nhất để tôn quý và yêu thương. Cám ơn Thượng Đế đã giao phó cho tôi nhiệm vụ.
Câu chuyện khởi đầu đã đúng hai năm sáu tháng. Hôm đó
tôi đi Chaux-de-Fonds về, có con bé lạ mặt vội vã tới tìm tôi để dẫn đi thăm một
bà cụ sắp chết cách đấy bẩy cây số. Xe còn thắng ngựa, tôi bảo con bé lên ngồi
sau khi với cây đèn bão mang theo, e rằng chắc phải đến đêm mới xong việc.
Tôi vẫn tự cho là mình thông thạo vùng này, vậy mà vừa
quá khúc rẽ sau sơn trại Saudraie, con bé chỉ cho tôi một con đường ngang tôi
chưa từng phiêu lưu rẽ vào. Tuy nhiên quá đó hai cây số, phía tay trái, tôi nhận
ra một cái hồ có phong cảnh huyền bí mà hồi nhỏ tôi đã đôi lần tới trượt băng.
Khoảng mười lăm năm nay đã không trở lại vì không có mục vụ nào ở đây. Có ai hỏi
có lẽ tôi cũng không còn biết hồ ở đâu, lại cũng không nghĩ đến nữa nên chi khi
bất thần thấy hồ sáng chói trong ráng chiều huy hoàng tôi tưởng như thấy lại cảnh
cũ từ một giấc mơ.
Con đường chạy dọc theo con sông nhỏ một quãng, để cắt
ngang cuối rừng và men theo một bãi đầm lầy. Chỗ này thì chắc chắn là tôi chưa
bao giờ đặt chân tới.
Mặt trời từ từ lặn và tôi chạy xe trong bóng hoàng hôn
đã một lúc khá lâu, sau cùng con bé chỉ cho tôi bên đồi một căn nhà tranh tưởng
như bỏ hoang nếu không có làn khói mảnh bốc lên, màu xanh trong bóng râm chuyển
thành màu vàng óng của nắng chiều. Tôi buộc ngựa vào cây táo gần nhà rồi theo
chân con bé bước vào một căn phòng tối, nơi bà cụ vừa mãn phần.
Tôi sững người vì quang cảnh trang trọng, cũng như sự
tĩnh lặng, và vẻ trang nghiêm của giây phút. Có người đàn bà dáng còn trẻ đang
quỳ bên giường. Con bé người làm mà tôi đã tưởng là cháu bà cụ bước tới cuối
phòng châm ngọn đèn khói um, rồi lặng lẽ tới đứng bên giường.
Trên đường tới đây, tôi đã gợi con bé mà chỉ được trả lời
vài câu vắn tắt.
Người đàn bà quỳ bây giờ đứng dậy. Bà không phải người
nhà như tôi đoán, mà chỉ là chỗ hàng xóm tốt bụng, bạn vớì bà cụ, khi được báo
tin là bà cụ sắp đi đã sốt sắng sang giúp đỡ và tình nguyện ở lại canh thi hài.
Bà bảo bà cụ đi nhẹ nhàng không đau đớn gì. Chúng tôi bàn tính về tang lễ cho
người mãn phần. Trong miền đất hẻo lánh này, nhiều lần tôi đã phải tự tay cắt đặt
mọi chuyện cho tang gia. Tôi thoáng thấy không yên tâm vì phải giao phó căn nhà
dù nghèo hèn này cho người hàng xóm và con bé người làm. Đây chỉ là mái tranh
xơ xác, nhưng biết đâu lại chẳng có bảo vật cất giấu trong xó xỉnh nào. Lo vậy,
nhưng thật ra tôi cũng không làm gì hơn được. Tôi hỏi xem ai là người thừa kế.
Bà hàng xóm bấy giờ cầm cây nến bước tới góc nhà, và
tôi nhận ra lờ mờ có người ngồi xổm bên bếp lửa, mớ tóc dày che hết khuôn mặt.
Bà giải thích:
“Tôi nghe đứa ở kể thì con bé mù này là cháu bà cụ;
hình như gia đình chỉ có vậy, vỏn vẹn hai bà cháu. Chắc rồi phải đưa nó đi cô
nhi viện thôi. Nếu không, biết ai trông nó bây giờ.”
Tôi lúng túng thấy bà lớn tiếng bàn bạc về số phận con
bé ngay trước mặt nó, sợ những lời sống sượng làm nó buồn lòng. Tôi nhỏ nhẹ nhắc
khéo bà nên có chút tế nhị:
“Chúng mình khẽ chứ. Để cho cô bé ngủ.”
“Tôi không nghĩ nó ngủ đâu; chẳng qua là một con bé đần
độn; nó không biết nói, mà cũng không hiểu gì. Ở đây từ sáng đến giờ, tôi chưa
hề thấy nó cựa quậy. Mới đầu tôi tưởng nó điếc; nhưng theo người làm thì không
phải vậy, mà chỉ tại bà cụ cũng điếc, từ lâu có mở miệng chỉ để ăn uống nên
không bao giờ nói với nó cũng như với bất cứ ai.”
“Không biết nó mấy tuổi rồi nhỉ?”
“Chắc độ mười lăm. Thật ra tôi cũng không biết gì hơn Mục
sư.”
Thoạt tiên tôi không hề có ý nghĩ lãnh con bé mồ côi về
nuôi; nhưng sau khi cầu kinh xong- đúng hơn, ngay khi quỳ giữa con bé người làm
và bà hàng xóm cầu nguyện- tôi bỗng thấy Chúa đã đặt trước tôi trách nhiệm này,
trốn tránh thì quả là hèn nhát. Đọc xong bài kinh thì ý tôi đã quyết. Tôi sẽ
mang con bé đi ngay đêm nay, tuy tôi chưa có giải pháp dài hạn nào cũng như
chưa nghĩ ra ai để gửi nuôi giùm. Tôi dừng lại ngắm người chết vài giây. Khuôn
mặt bà cụ như say ngủ, cái miệng nhăn nhúm khép kín như khư khư không tiết lộ bất
cứ chuyện gì. Rồi quay lại con bé mù, tôi cho bà hàng xóm biết ý định của tôi.
Bà ta nói:
“Tốt nhất là dẫn con bé ra khỏi đây trước khi phu đòn
ngày mai tới chở xác bà cụ đi.”
Và tất cả chỉ có thế. Thật là dễ dàng. Biết bao chuyện
sẽ giản dị biết mấy, nếu ta không tưởng tượng ra những chướng ngại nọ kia. Từ
thủa ấu thơ, bao nhiêu việc ta đã không làm được, chỉ vì người xung quanh cứ nhắc
đi nhắc lại là ta không đủ sức làm.
Con bé mù để tôi dẫn đi như một cục thịt không chủ động.
Khuôn mặt nó đều đặn dễ coi, có thể gọi là xinh xắn, nhưng hoàn toàn ngu độn.
Tôi tới ổ rơm chỗ nó thường nằm dưới gầm cầu thang lối lên vựa lúa nhặt tấm mền
của nó.
Bà láng giềng tỏ ra nhanh nhẩu và giúp tôi quấn mền lên
người con bé để phòng đường xá ban đêm lạnh lẽo. Sau khi thắp chiếc đèn bão tôi
đánh xe lên đường, cảm thấy cái bọc thịt vô hồn tựa vào chân tôi, sự sống chỉ
mơ hồ hiện hữu nhờ cái thân nhiệt tối tăm của nó. Dọc đường có lúc tôi thắc mắc
là nó thức hay ngủ. Mà ngủ trong giấc ngủ tối tăm nào. Tội nghiệp, đời sống của
nó thức hay ngủ nào có khác gì. Lạy Chúa, trong tấm hình hài tục lụy này biết
đâu chả có một linh hồn bị giam giữ, đang khao khát mong Chúa ban cho chút ơn lành.
Xin Chúa cho phép con được lấy tình thương mà mang cái linh hồn tội nghiệp này
ra khỏi đêm tối hãi hùng…
Tôi muốn ghi lại sự việc hết sức trung thực, nên không
dám bỏ qua sự tiếp đón đáng trách của vợ con khi tôi về đến nhà. Vợ tôi rất tốt
bụng; ngay lúc đen tối nhất của đời sống vợ chồng, chưa bao giờ tôi phải hồ
nghi lòng tốt của nàng. Nhưng lòng từ bi của nàng không thích bị bất ngờ. Nàng
ngăn nắp thứ tự, và với bổn phận thường nhật, nàng không thái quá mà cũng chẳng
bất cập. Lòng từ thiện của nàng đắn đo cân nhắc, hầu như tình thương cũng có giới
hạn. Thật ra vợ chồng tôi chỉ có điểm này là không tương đồng…
Đêm đó mới thấy tôi mang con bé mồ côi về, nàng phản đối
tức thời và buột ra miệng:
“Anh lại hứng lấy chuyện gì đây?”
Như thường lệ khi hai vợ chồng có điều gì phải cắt
nghĩa với nhau, tôi trước hết đuổi con cái ra khỏi phòng trong khi chúng đang đứng
nhìn, miệng há hốc vì tò mò và ngạc nhiên. Chao ôi, sự tiếp đón quá khác biệt với
điều tôi mong đợi. Chỉ có con Charlotte, con gái út cưng của tôi lúc đầu đã vỗ
tay reo mừng vì có chuyện gì mới đang cục cựa trong xe bố. Nhưng nó mừng không
lâu. Anh chị nó bị mẹ uốn nắn từ tấm bé, đã làm nó làm nó cụt hứng tức thì.
Có lúc quang cảnh nhà tôi vô cùng hỗn loạn. Vợ tôi và
trẻ con không biết con bé bị mù nên ngạc nhiên thấy tôi đặc biệt gượng nhẹ khi
dẫn nó vào. Rồi đến lượt chính tôi ngỡ ngàng khi con bé cất tiếng rên lúc tôi
buông tay nó ra. Âm thanh nó phát ra không giống tiếng người, mà ăng ẳng như
chó con. Lần đầu bị kéo ra khỏi cái thế giới cảm nhận chật hẹp quen thuộc, nó
khuỵu gối xuống; nhưng khi tôi đẩy ghế tới cho nó, thì nó lại trườn xuống đất
như chưa từng được ngồi bao giờ; tôi bèn dẫn nó tới gần lò sưởi, và khi được ngồi
xổm và tựa vào tường như ở nhà bà già, thì nó thư giãn đôi chút. Lúc trên xe,
nó đã tuột xuống sàn xe, và suốt cuốc xe đã co ro tựa vào chân tôi. Vợ tôi vội
bước lại giúp tôi, phản ứng của nàng bao giờ cũng tốt lành phúc hậu; chỉ có điều
sự suy tính luôn luôn đối kháng và thường đánh bại trái tim nàng. Đặt con bé mù
ngồi ngay ngắn xong, nàng quay lại hỏi tôi:
“Anh tính làm gì với cái của này?”
Hai tiếng “của này” làm tôi rùng mình, và tôi phải khó
khăn mới không nổi giận. Tuy nhiên nhờ suốt dọc đường suy ngẫm ân Chúa, tôi đã
giữ được bình tĩnh. Tôi đứng thẳng, nhìn vợ con quây quần trước mặt. Một tay đặt
trên trán con bé mồ côi, tôi nói với tất cả trang trọng:
“Hôm nay, anh mang con chiên lạc về chuồng.”
Nhưng Amélie không bao giờ chấp nhận là trong lời Chúa
dạy lại có những chuyện không thực tiễn như vậy. Biết nàng sắp kỳ kèo này nọ,
tôi ra hiệu cho thằng Jacques và con Sarah, hai đứa con lớn đã quen cảnh bố mẹ
cãi nhau, dẫn hai đứa em nhỏ ra khỏi phòng. Thấy vợ tôi vẫn còn ngần ngại và vô
cùng bực tức vì con bé mù vẫn còn đó, tôi bình tĩnh nói:
“Em khỏi phải giữ miệng. Con bé tội nghiệp này không hiểu
gì đâu.”
Amélie khai hỏa rằng tất nhiên nàng đâu có điều gì để kỳ
kèo -câu nhập đề thường lệ cho những cằn nhằn dai dẳng tiếp theo- và nàng chỉ
việc phục tùng như mọi khi về những chuyện tôi bày vẽ ra, dù có không thực tiễn
và trái khoáy đến đâu. Tôi đã nói ở trên là tôi chưa hề nghĩ ra giải pháp dài hạn
cho đứa bé. Thật ra tôi chưa có ý định lãnh nuôi nó. Có thể nói, ý kiến này
chính Amélie đã gieo vào đầu tôi, khi nàng hỏi tôi không nghĩ là nhà đã chưa đủ
đông hay sao. Nàng trách tôi là chuyện gì cũng tự ý tiến tới mà không hề nghĩ đằng
sau vợ con có chống đối hay không, rằng cứ phần nàng thì năm mặt con còn hiếm
hoi nỗi gì, rằng sanh đến út Claude (thằng bé nằm trong nôi nghe nhắc đến tên bỗng
khóc ré lên), nàng đã kiệt sức.
Lúc nàng bắt đầu cằn nhằn, tôi toan nhắc lại đôi lời
Chúa dạy từ tâm can đang dâng lên tới miệng, nhưng lại đổi ý vì thấy khó coi
chuyện núp uy kinh thánh trong vụ cãi vã này. Đến khi nàng nhắc đến nỗi mỏi mòn
vì con, tôi khựng lại. Thú thực đã nhiều lần trong đà yêu thương thiếu tiết độ,
tôi đã để cho vợ phải gánh vác hậu quả nặng nhọc của luyến ái vợ chồng không
suy tính. Tuy nhiên lời vợ cằn nhằn lại soi sáng cho tôi về bổn phận của mình.
Tôi bèn nhẹ nhàng năn nỉ nàng, xin nàng hãy xét xem, vào địa vị tôi, nàng có thể
nào nhẫn tâm bỏ rơi một sinh linh không nơi nương tựa; tôi nói thêm rằng tôi
không coi nhẹ gánh nặng cho gia đình khi còn phải săn sóc con bé tật nguyền
này, và tôi chỉ tiếc rằng chính tôi không thể tiếp sức với nàng nhiều hơn. Sau
cùng tôi gắng hết sức hoà giải với nàng, van xin nàng đừng đổ lên đầu con bé vô
tội nỗi bực mình mà nó không trách nhiệm. Tôi cũng nhắc nàng con Sarah đã khôn
lớn có thể giúp việc lặt vặt, còn thằng Jacques không còn bé bỏng nữa, đã có thể
tự lo liệu lấy. Tóm lại, Chúa đã giúp tôi tìm ra những lời lẽ thống thiết để
thuyết phục vợ chấp nhận cái trách nhiệm mà tôi tin rằng tự nàng cũng đã tự
nguyện chấp nhận nếu cho đủ thì giờ suy nghĩ, và thiện chí của nàng không bị đối
xử một cách đột ngột.
Chuyện tưởng đã xong, và vợ tôi như dịu xuống bước lại
gần con bé; nhưng sau khi cầm đèn ngắm nghía, nàng bỗng giãy nảy, cơn giận mới
nguôi lại bùng cháy lại khi khám phá ra con bé bẩn thỉu một cách ghê tởm không
lời nào tả xiết. Nàng tru tréo:
“Sao mà nó có thể dơ dáy đến thế này. Khiếp quá. Anh có
lấy bàn chải mà chải quần áo đi không? Không, đừng chải ở đây. Anh ra ngoài sân
mà chải. Lạy Chúa. Rồi lại lây hết sang con mình. Trên đời tôi không gớm gì bằng
gớm chấy rận.”
Quả thật con bé mồ côi chấy rận đầy mình. Nghĩ đến lúc
nó ngồi co ro ôm chân tôi trên xe, tôi bỗng thấy gớm. Mấy phút sau, tắm rửa kỳ
cọ xong, tôi trở lại phòng thấy vợ tôi rũ rượi trên ghế bành, hai tay ôm đầu mà
khóc nức nở.
Tôi nhẹ lời an ủi:
“Thực tình, anh không ngờ lại đem đến cho em một thử
thách nặng nề như vậy. Thôi cũng đã khuya rồi, mà cũng không thấy rõ nữa. Em bỏ
đó đi. Đêm nay anh sẽ thức canh lửa, và để nó ngủ tạm ngoài này. Mai anh sẽ cạo
đầu nó rồi tắm rửa cho nó sạch sẽ. Để nó tươm tất hơn chút đỉnh rồi em hãy đụng
tới nó.” Tôi năn nỉ nàng đừng nói chuyện chấy rận với tụi trẻ.
Đã đến giờ ăn tối. Con bé mà vú già Rosalie lườm nguýt
trong khi dọn ăn cho mọi người, vồ lấy chén cháo tôi mang cho nó và ăn lấy ăn để
như chết đói đã lâu. Suốt bữa ăn không ai nói một câu. Tôi muốn kể đầu đuôi câu
chuyện cho tụi trẻ, để chúng xót thương mà có chút cảm tình với con bé tật nguyền
Chúa đã trao cho chúng tôi. Nhưng tôi ngồi yên, sợ khơi chuyện lên lại làm vợ bực
mình. Mọi người như phải vờ quên đi sự việc, tuy đó lại là mối bận tâm chính.
Tôi vô cùng cảm động khi khoảng độ một giờ sau, ai nấy
đã lui về phòng và Amélie đã để tôi lại một mình, bé Charlotte mặc áo ngủ chân
đất rón rén mở cửa bước trở ra nhà ngoài. Bé tới ôm chặt cổ bố, và thì thầm vào
tai bố:
“Con quên không hôn bố trước khi vào giường.”
Rồi chỉ con bé mù đang ngồi bên lò sưởi, Charlotte hỏi:
“Con hôn chị ấy nhé.”
Dẫn Charlotte về phòng, tôi nói với con:
“Mai bố sẽ cho con hôn chị ấy. Bây giờ để cho chị ấy ngủ.”
Tôi trở lại ghế ngồi đọc sách, và soạn bài giảng cho tuần
tới.
Tôi nhớ lúc đó tôi nghĩ là con Charlotte có tình hơn mấy
đứa lớn. Nhưng nghĩ lại, con tôi ở tuổi này, đứa nào cũng thế, kể cả thằng
Jacques bây giờ lạnh lùng dè dặt là vậy.
Ngày 27 tháng Hai.
Đêm qua tuyết vẫn rơi nặng. Trẻ con nao nức, hy vọng
tuyết sẽ lấp cửa chính và chúng có dịp leo cửa sổ để ra vào. Quả thật, sáng nay
tuyết đã phủ kín cửa chính, và chúng tôi phải dùng lối nhà giặt để ra ngoài.
Hôm qua tôi đã lo cho dân làng dự trữ lương thực và các nhu yếu phẩm khác, chắc
chắn sẽ bị tuyết cô lập một thời gian. Đây không phải là lần đầu tiên làng bị
cô lập vì thời tiết, nhưng tôi nhớ chưa bao giờ tuyết lại dầy đến thế. Âu cũng
là dịp tốt để tôi tiếp tục công việc viết lách phải bỏ dở hôm qua.
Tôi đã viết ở đoạn trên là khi mang đứa bé tật nguyền về,
tôi không nghĩ nhiều đến chuyện cho nó ở vào đâu. Tôi biết vợ sẽ rầy rà, và tôi
cũng dư biết mình nhà cửa không rộng rãi, mà phương tiện cũng không dồi dào.
Như thường lệ, tôi đã hành động vì nguyên tắc cũng như vì bản tính trời sinh,
mà không nghĩ đến tốn kém (nghĩ như vậy là đúng tinh thần Phúc Âm). Nhưng mặt
khác lại là mình đã ỷ lại vào Phúc Âm mà đổ gánh nặng lên vai người khác. Rồi
tôi nhận ra là đã đẩy cho vợ một gánh nặng, nặng đến nỗi tôi cảm thấy hổ thẹn.
Buổi sáng sau hôm đó, tôi hết sức giúp nàng cạo đầu cho
con bé mù, việc mà vợ tôi vừa làm vừa ghê tởm. Nhưng còn tắm rửa kỳ cọ cho nó,
thì vợ tôi lại phải làm một mình. Thế là việc cực nhọc đã không đến phần mình.
Tuy nhiên Amélie không còn cằn nhằn nữa. Tôi nghĩ nàng đã suy nghĩ suốt đêm, và
đã chấp nhận nhiệm vụ mới này. Có lúc nàng còn tỏ vẻ thích thú, và mỉm cười khi
sửa soạn xong cho con bé. Nàng lấy chiếc mũ trắng đội cho nó để che cái đầu trọc
vừa bôi đầy thuốc mỡ. Nàng lấy quần áo cũ của Sarah để thay cho nó, còn mớ rẻ
rách nó mặc lúc tới thì quẳng vào lửa đốt đi. Charlotte chọn tên Gertrude cho
con bé mù, và cả nhà đồng ý vì thật ra không ai biết tên thật của nó, mà chính
con bé chắc cũng không biết. Nó chắc chỉ nhỏ hơn con Sarah chút đỉnh, quần áo
năm ngoái của Sarah nó mặc vừa in.
Tôi phải ghi nhận là đã thất vọng ê chề trong những
ngày đầu. Sự lạc quan khi khi khởi sự dạy dỗ Gertrude đã phải điều chỉnh lại nặng
nề trước sự thật. Nét mặt ngu độn thờ ơ, không một chút xúc động hay giao cảm,
làm thiện chí của tôi phải nguội đi cho đến gốc. Con bé suốt ngày ngồi bên lò
sưởi, lúc nào cũng sẵn sàng chống đối, và đanh mặt lại khi nghe thấy tiếng nói
hay có ai lại gần; nét mặt nó nếu không vô hồn thì thù nghịch; có ai gọi đến
thì nó rên rỉ, gầm gừ như con thú. Nó chỉ hết hờn giận khi tới bữa. Tôi tự tay
cho nó ăn, và khi ăn nó chồm tới như một con vật bỏ đói lâu ngày, trông thật vô
cùng thảm thương.
Vẫn biết tình thương sẽ đem lại tình thương, nhưng sự
khước từ lì lợm của tâm hồn đối nghịch này có lúc làm chính tôi cũng thấy chán
nản. Thú thật, sau mười ngày, tôi bắt đầu ngã lòng. Thậm chí có lúc không còn
tha thiết đến nỗi tôi hối tiếc nhiệt tâm ban đầu, và ân hận đã đem nó về nuôi.
Lại còn chuyện trêu ngươi này, là vợ tôi có phần khoái
chí với những cảm nghĩ tiêu cực tôi không giấu nổi; nàng hình như tận tâm săn
sóc con bé hơn khi thấy nó đã trở thành gánh nặng cho chính tôi và làm tôi ân hận
đã mang nó về gia đình này.
Đó là tình trạng của tôi khi anh bạn bác sĩ Martins từ
làng Val Travers, nhân đi thăm bệnh trong vùng bỗng ghé lại chơi. Chăm chú nghe
tôi kể, mới đầu anh rất ngạc nhiên vì chỉ có mù mà con bé chậm phát triển đến
thế. Tôi cho anh hay là không những Gertrude mù mà chỉ có bà săn sóc, bà cụ lại
điếc nặng nên không bao giờ trò chuyện gì với nó. Con bé sống trong một môi trường
trống rỗng bất thường. Anh thuyết phục tôi là trường hợp như vậy, thất vọng là
sai; lý do là tôi đã không biết cách xử lý. Anh bảo:
“Anh như người muốn xây nhà mà không chịu đắp nền. Anh
hãy hình dung cái tâm hồn này như một khoảng hỗn mang, những mấu chốt sơ đẳng
nhất cũng chưa xác định. Bắt đầu, anh hãy cột những cảm xúc thật cơ bản sẵn có
như sờ mó như ăn uống thành một bó, và móc vào đó một từ, một âm, như một cái
nhãn nhỏ. Phải lập đi lập lại nhiều lần, và bắt nó nói theo.
“Cốt nhất là đừng nóng ruột. Giữ giờ giấc thật đều đặn
khi dạy nó. Mà mỗi buổi học cũng đừng quá lâu… “
Sau khi giảng giải tận tình phương pháp giáo dục mới,
anh nói thêm:
“Thật ra không có gì là ảo thuật. Phương pháp này không
phải tôi mới phát minh ra, mà người ta đã áp dụng nhiều rồi. Anh nhớ không, hồi
học chung ban Triết với nhau, nhân vụ Condillac, tụi mình đã được các thầy kể
cho nghe một câu chuyện tương tự…”
Anh như nghĩ lại, rồi nói tiếp:
“Cũng có thể về sau tôi mới đọc được chuyện ấy trong một
tạp chí tâm lý học… nhưng không sao, quan trọng là câu chuyện đã làm tôi rất
chú ý, thậm chí còn nhớ tên cô gái tội nghiệp, tật nguyền còn nặng hơn Gertrude
nhiều, đã câm lại còn điếc. Câu chuyện xảy ra vào thế kỷ trước. Một bác sĩ tại
một quận bên Anh Cát Lợi, tôi quên mất địa danh, đã đón cô ấy về trị liệu. Cô
bé tên là Laura Bridgeman. Ông bác sĩ lập một cuốn sổ tay, anh cũng nên làm như
vậy, để ghi chép những tiến bộ của bệnh nhân, hay trong lúc đầu chưa có tiến bộ
thì ít nhất những sự việc chính mình đã thực hiện. Ngày này qua ngày khác, ông
bắt cô bé sờ mó hai món đồ, một cây kim và một quản bút, rồi lại bắt sờ một
trang giấy có viết nổi hai chữ là ‘Kim’ và ‘Bút’. Và mấy tuần lễ trôi qua như vậy,
không chút kết quả. Thể xác cô bé trống vắng như không linh hồn, không trí tuệ.
Vậy mà ông ta không nản lòng. Ông ta kể lại là ông tự tạo cho mình cảm nghĩ là
đang đứng trên miệng giếng sâu, tay cầm sợi thừng dài gióng xuống đáy giếng mà
quơ qua quơ lại, hy vọng sẽ có bàn tay bắt lấy. Vì ông chắc chắn tin rằng có kẻ
đang kẹt dưới đáy giếng, và sau cùng thế nào cũng có bàn tay nắm lấy đầu thừng.
Rồi một hôm, gương mặt của Laura, thường ngày vô hồn đần độn, bỗng sáng lên với
những nét thay đổi thô sơ có thể kể như một nụ cười; tôi tưởng tượng nét mặt của
người thầy thuốc lúc đó. Chắc chắn là ông ta quỳ xuống, giàn giụa nước mắt của
phước lành và của tình thương, để tạ ơn Chúa. Đột nhiên cô bé hiểu được bác sĩ
muốn nàng làm gì; thế là Laura được cứu rỗi. Từ hôm đó nàng bắt đầu chú ý. Nàng
tiến bộ mau chóng. Về sau nàng tự học, và sau cùng trở thành hiệu trưởng một
trường cho trẻ em mù. Cũng có thể tôi lầm chuyện Laura Bridgeman với trường hợp
một bệnh nhân khác… vì những trường hợp như vậy gần đây nhiều lắm, báo chí
tranh nhau đăng tải, và tỏ ra ngạc nhiên (theo ý tôi, thật là ngớ ngẩn), là khiếm
khuyết giác quan đến như vậy mà cũng thấy được hạnh phúc. Sự thật là những con
người như vậy đã hạnh phúc, và một khi biết cách phát biểu, đều kể lại hạnh
phúc của mình. Tất nhiên là các nhà báo lấy làm hân hoan, suy diễn ra bài học
cho những người được hưởng đầy đủ năm giác quan đã không biết sướng mà còn than
thở nọ kia…”
Tới đây bác sĩ Martins và tôi có ít nhiều sai biệt quan
điểm, với tôi phản đối cái nhìn bi quan của anh rằng vai trò của giác quan chỉ
là làm cho chúng ta bất an và bơ vơ.
Anh cãi lại:
“Tôi không bi quan như vậy. Tôi chỉ muốn nói là tâm hồn
con người tự nó có khả năng hình dung ra được những gì chân thiện mỹ một cách tự
nhiên và dễ dàng, hơn là những điều lộn xộn hay tội lỗi nhan nhản khắp nơi đang
làm ô nhiễm thế giới này mà tiếc thay ngũ quan lại ghi nhận cho chúng ta. Nên
chi khi tôi sẵn lòng chắp theo câu “Fortuntos nimium” của Virgile mệnh đề “si
sua mala nescient”, thay vì mệnh đề “si sua bona norint” như chúng mình đã học.
Loài người sẽ hạnh phúc biết bao nếu không biết đến những gì xấu xa.”
Rồi anh nhắc đến cuốn truyện của văn hào Dickens, có lẽ
đã được cảm hứng từ trường hợp Laura Bridgeman, và anh hứa sẽ gửi cho tôi đọc.
Bốn ngày sau tôi nhận được truyện Con dế mèn bên lò sưởi. Tôi đọc ngấu nghiến.
Truyện khá dài, nhưng có đoạn khá bi ai, về một cô bé mù và người cha nghèo khó
làm nghề chế tạo đồ chơi trẻ em, nuôi dưỡng cô trong ảo tưởng của một cuộc sống
tiện nghi, giàu có và hạnh phúc. Dickens dùng văn tài của mình để đem lại nét
thánh thiện cho sự dối trá của người cha đáng thương. Lạy Chúa, tôi sẽ không phải
dối trá như vậy với Gertrude.
Ngay ngày hôm sau tôi hăng say đem tất cả sức mình để
áp dụng phương pháp mới của bác sĩ Martins. Bây giờ tôi mới tiếc là đã không giữ
sổ tay như anh dặn, để ghi lại những bước chập chững của Gertrude trên con đường
tranh tối tranh sáng, và sự mò mẫm của chính tôi khi dìu dắt con bé. Những tuần
lễ đầu tôi phải cực kỳ kiên nhẫn, không những tại phương pháp dạy đặc biệt tốn
nhiều thời gian, mà còn vì những cằn nhằn trách móc. Tôi rất buồn lòng khi phải
nói rằng trách móc ấy lại từ chính Amélie tới; tôi nói điều này ra đây là tại
tôi không còn oán hận hay cay đắng - tôi cam đoan như vậy, phòng khi nàng đọc
được những trang này. (Chúa đã chẳng dậy ta tha thứ sao, ngay trong ẩn dụ của
Người về chuyện con chiên lạc). Tôi phải nói thêm: nàng không làm khổ tôi vì kỳ
kèo đã mất thời giờ với Gertrude. Thật ra tôi trách nàng nhất là đã không tin
tưởng tôi sẽ thành công khi săn sóc con bé. Đúng, chính sự thiếu lòng tin này
đã làm tôi buồn. Tôi nghe nàng nhắc đi nhắc lại: “Nào có kết quả gì cho cam…”
Và nàng đinh ninh rằng sự lao tâm lao lực của tôi vô hiệu quả; vì không hy vọng
thành công, nàng khó chấp nhận chuyện tôi dành quá nhiều thì giờ để dạy dỗ
Gertrude, lượng thì giờ nàng thấy đáng hơn là dùng cho rất nhiều việc khác. Và
mỗi khi tôi bận rộn với Gertrude, nàng kiếm cách cho tôi hay là việc này việc nọ
đang đợi tôi, và tôi đã chuyển cho con bé thời gian lẽ ra phải dành cho người
khác. Tôi nghĩ lòng ghen tị của người mẹ đã khích động nàng, vì hơn một lần
nàng bảo tôi: “Anh chưa bao giờ chăm con mình như vậy.” Điều này đúng. Tôi
thương yêu các con tôi rất nhiều, nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ tôi phải bận rộn
vì con.
Tôi nhiều lần cảm thấy rằng cái ẩn dụ con chiên lạc là
một sự ẩn dụ bí hiểm không thể hiểu nổi cho một số tâm hồn dù vẫn tự tin là
mình ngoan đạo. Những tâm hồn ấy không thể vươn lên để lãnh hội rằng dưới mắt
người chăn chiên, mỗi con cừu lấy riêng ra quý hơn tất cả bày cừu họp lại. Đối
với lời Chúa rằng: “Nếu kẻ có trăm con cừu và một con bị lạc, lẽ nào không bỏ lại
chín mươi chín con trên núi để đi tìm nó hay sao?” - nếu họ dám nói thẳng, tất
sẽ cho rằng lời nói sáng ngời từ bi ấy là vô cùng bất công đáng phản đối kịch
liệt.
Những nụ cười đầu tiên của Gertrude là niềm an ủi cho
tôi khỏi mọi ưu phiền, và trăm lần tưởng thưởng lại công lao của tôi. Vì như lời
Chúa rằng “Con cừu lạc này nếu kẻ mục đồng tìm lại được, ta nói thật với các
con, sẽ đem lại nhiều hoan lạc hơn chín mươi chín con cừu chưa bao giờ đi lạc
kia.” Đúng, quả là chưa đứa con nào của tôi khi cười lại làm tim tôi chứa chan
tình yêu thánh thiện như nụ cười một buổi sáng tôi thấy trên gương mặt vô hồn
như phỗng này, khi bất thần con bé bắt đầu hiểu và chú ý đến những điều tôi cố
gắng dậy nó bấy lâu.
Ngày 5, tháng Ba.
Tôi ghi nhận hôm ấy có ý nghĩa là một ngày khai sanh. Gọi
đấy là nụ cười thì thật không đủ. Đúng hơn, đây là sự thoát hình lột xác. Đột
nhiên, tất cả những nét trên gương mặt Gertrude trở nên linh động… như một sự
soi sáng bất ngờ, như ánh hào quang tím nhạt đột hiện trên núi Alpes một buổi
tinh sương trước cả bình minh, làm rung rinh đỉnh núi tuyết phủ vừa được mang ra
khỏi bóng đêm, như một sự tô màu huyền diệu; tôi cũng nghĩ đến hồ Bethesda của
Phúc Âm mà làn nước tù bấy lâu ủ ê vừa được thiên thần tới đánh thức. Tôi lâng
lâng hồ hởi ngắm nhìn nét đẹp thánh thiện vừa mới xuất hiện trên gương mặt
Gertrude, vì cái gì vừa tới ngự trị nơi hình hài cô bé, tôi nghĩ không hẳn là
Trí Tuệ, mà là Tình Thương. Linh hồn tôi như bay bổng với ơn phước dào dạt, và
nụ hôn đầu tiên tôi đặt lên vừng trán xinh đẹp là nụ hôn kính cẩn tôi dâng lên
Chúa.
Bước đầu càng khó khăn bao nhiêu thì những bước tiếp
theo lại dễ dàng bấy nhiêu. Hôm nay tôi ngồi cố gắng nhớ lại những chặng đường
hai chúng tôi đã qua; hình như có khi Gertrude đã tiến bằng những bước nhảy vọt,
làm phương pháp giảng huấn của tôi trở thành trò đùa. Tôi nhớ lúc đầu tôi chú
trọng đến tĩnh từ hơn là danh từ. Thí dụ như nóng, lạnh, ấm, êm, đắng, cứng, mềm,
nhẹ, v.v... Rồi tôi bước sang động từ, như tách rời, ráp lại, nâng lên, chéo
qua, ngã xuống, nối lại, phân ra, hợp vào, v.v... Ít lâu sau không cần đến
phương pháp nữa, tôi nói chuyện bình thường với Gertrude mà vẫn không sợ mình
đi quá nhanh; tôi khuyến khích Gertrude tha hồ đặt câu hỏi cho tôi giảng giải.
Tất nhiên khi tôi đi rồi, Gertrude còn lại một mình vẫn tiếp tục vận dụng trí
óc; thành thử nhiều khi trở lại để dạy bài mới cho Gertrude, tôi phải ngạc
nhiên vì tấm màn đêm lần trước ngăn cách thầy trò chúng tôi tự nó đã mỏng đi
trông thấy. Tôi thầm nghĩ, nàng Xuân đầm ấm tất phải thắng nổi chúa Đông lạnh
lùng. Đã bao lần tôi thích thú ngắm cảnh tuyết tan: có lẽ vì tấm thảm tuyết hao
mòn phía dưới, trông ngoài tưởng như không thay đổi, mùa đông nào vợ tôi cũng mắc
lừa về chuyện này và thường than với tôi rằng tuyết mãi không chịu tan; rồi thảm
tuyết tưởng còn dầy thì bất thần từng mảng tuyết mất chân rạn vỡ trôi đi, phơi
bày sự sống tưng bừng đã âm thầm hồi sinh tự những bao giờ.
Sợ Gertrude suy nhược vì cứ ngồi bên lò sưởi như bà
lão, tôi bắt đầu dẫn cô bé ra ngoài dạo chơi. Nhưng chỉ khi nào có tôi cầm tay
Gertrude mới chịu đi. Con bé sợ hãi và ngạc nhiên lúc vừa ra khỏi nhà.. Tuy
Gertrude chưa biết trình bày rành mạch, tôi cũng quá rõ là nó nhút nhát như vậy
là vì cho đến bây giờ chưa từng được ra khỏi ngưỡng cửa. Nơi ngôi nhà tranh cũ
của bà, nó chưa bao giờ được ai săn sóc ngoài việc cho ăn cho khỏi chết đói,
nói gì đến chuyện dưỡng dục. Vũ trụ tối tăm của Gertrude là bốn bức tường của
căn phòng chật hẹp mà nó chưa dám rời khỏi. Những ngày hè nó chỉ dám mon men đến
thềm, khi cửa nhà mở ra bên ngoài sáng rộng. Về sau Gertrude cho tôi biết là hồi
trước nghe chim hót, nó tưởng tiếng chim là do nắng tạo thành cũng như hơi ấm
mơn trớn trên má hay trên da bàn tay nó, và tuy bấy giờ không biết suy nghĩ thấu
đáo, nó cho là không khí được nắng sưởi nóng đã hót lên, tương tự nước đun sôi
thì reo trong ấm treo trên lò lửa. Thực ra Gertrude bấy giờ không quan tâm đến
chuyện gì. Con bé sống cô lập trong hôn mê tê dại, cho đến hôm được tôi mang về
săn sóc. Tôi nhớ mãi nó vui mừng ngoài sức tưởng tượng khi được cắt nghĩa là những
tiếng hót xinh xắn bé bỏng đó là ngôn ngữ của những sinh vật mà hình như nhiệm
vụ độc nhất trong trời đất là cảm thấy hạnh phúc và ca lên niềm vui chan hòa của
tạo vật. Từ hôm đó Gertrude có thành ngữ mới là ‘Con vui như chim’.
Nhưng con bé buồn vì không thấy được cái tạo vật huy
hoàng mà chim ca ngợi. Gertrude hỏi tôi:
“Mục sư ơi, cuộc đời có đẹp như lời chim kể không. Tại
sao loài người không nói về cuộc đời nhiều hơn. Tại sao Mục sư không kể cho con
nghe nhiều hơn. Hay Mục sư sợ con tủi thân vì những chuyện con không được thấy.”
“Con không buồn đâu. Chim vẫn kể cho con biết bao nhiêu
chuyện. Con tin là con hiểu được những gì chim muốn nói với con.”
Tôi kiếm lời an ủi:
“Những người có thị giác không biết nghe tiếng chim hót
như con đâu.”
Cô bé lại hỏi:
“Nhưng Mục sư ơi, sao những sinh vật khác không hót?”
Nhiều lúc Gertrude làm tôi phải suy nghĩ. Gertrude bắt
tôi phải phân tích những sự việc tôi đã quen chấp nhận mà không thắc mắc. Nhờ vậy
mà hôm đó tôi nghiệm ra là những sinh vật càng nặng nề, càng sát gần mặt đất
bao nhiêu thì càng buồn bã bấy nhiêu. Tôi tìm cách giảng cho cô bé ý niệm vừa mới
suy ra; và tôi nhắc tới con sóc nhẹ nhàng chơi đùa tinh nghịch trên cành cao.
Gertrude lại hỏi có phải chỉ có chim mới biết bay
không. Tôi trả lời là bướm cũng biết bay.
“Thế bướm có biết hót không?”
Tôi cắt nghĩa:
“Bướm có cách của bướm để bày tỏ vui mừng. Cách ấy vẽ
trên cánh bướm…”
Và tôi tả cho con bé những màu sắc huy hoàng của loài
côn trùng mỹ miều này.
Ngày 28 tháng Hai,
Tôi phải trở lại đoạn trước. Hôm qua ham viết, tôi đã bỏ
sót rất nhiều.
Để dạy Gertrude, tôi đã học mẫu tự của người mù. Nhưng
chẳng mấy chốc, cô bé đã thông thạo loại chữ này hơn tôi. Tôi vẫn chưa quen, và
vẫn còn dùng mắt nhiều hơn dùng tay để nhận mặt chữ. Ngoài ra, tôi không phải
là thầy giáo độc nhất của cô bé. Có thời gian Jacques giúp tôi dạy học
Gertrude. Mới đầu tôi cũng mừng, vì mục vụ trong giáo khu khá bận rộn, dân
chúng lại ở rải rác, có khi tôi phải đi khá xa để thăm viếng những con chiên
nghèo bệnh tật. Thằng Jacques học thần học ở Lausanne, nhân vụ lễ Giáng Sinh về
nhà chơi, thế mà cũng đi trượt băng cho ngã gẫy tay. Vết gẫy không có gì trầm
trọng, và bác sĩ Martins tuy không chuyên khoa chỉnh hình cũng bó lại được ngay
ngắn. Tuy nhiên cẩn thận vẫn hơn, Jacques nghỉ học ở nhà ít lâu để dưỡng bệnh.
Bỗng nhiên thằng bé để ý đến Gertrude mà cho đến bây giờ hắn vẫn thờ ơ. Jacques
bắt đầu dạy Gertrude tập đọc. Jacques chỉ đóng vai phụ giáo được trong thời
gian dưỡng bệnh, nhưng trong ba tuần lễ ngắn ngủi đó, Gertrude tiến bộ vượt bực.
Cô bé siêng học hơn. Cái trí tuệ hôm qua còn ngái ngủ bỗng dưng nảy nở nhanh
chóng, tựa hồ như chưa tập đi đã biết chạy. Tôi ngợi khen cô bé có thể tổ chức
sắp xếp ý nghĩ một cách dễ dàng. Ngôn ngữ phát triển trông thấy. Đã không còn
ăn nói ngây ngô như trẻ nít, Gertrude phát biểu khá chuẩn khi tạo những ý niệm
bằng một cách bất ngờ và thích thú, là dùng những đồ vật biết được một cách trực
tiếp nhờ xúc giác, hay gián tiếp do được tả lại; chúng tôi dùng phương pháp của
người đạc điền dùng những gì trong tầm tay sờ được với được, để xử lý những gì ở
xa.
Tôi nghĩ không cần thiết nhắc lại tất cả những bước đầu
việc dạy dỗ Gertrude mà các sách giáo khoa cho người mù nói chung chắc cũng đã
ghi chép đầy đủ với chi tiết. Chắc mọi giáo viên dạy người mù đã lúng túng khi
giảng cho học trò về màu sắc. (Về vụ này, tôi nhớ lại là Kinh Thánh không có đoạn
nào nói đến màu sắc). Tôi không nhớ người khác dùng cách nào. Riêng tôi, lúc đầu
tôi tả cho Gertrude những màu của quang phổ, theo thứ tự chúng xuất hiện trên cầu
vồng. Cách giảng đó làm Gertrude lẫn lộn ngay màu sắc với độ sáng. Thật là khó
khăn cho Gertrude khi lãnh hội rằng mỗi màu có thể đậm nhạt riêng, và các màu
có thể pha trộn với nhau cho đến vô cùng. Gertrude bị ám ảnh về chuyện này, và
luôn luôn trở lại đề tài khúc mắc đó.
Tuy nhiên một hôm tôi có dịp đưa Gertrude đi Neuchatel
nghe hòa tấu. Công dụng của các nhạc cụ khác nhau cho phép tôi trở lại vấn đề
phân tích màu sắc mà cô bé vẫn còn bận tâm. Tôi lưu ý Gertrude sự khác nhau về
âm thanh của của kèn đồng, đàn, và những nhạc khí bằng gỗ. Rồi mỗi nhạc cụ lại
có thể tạo ra âm thanh to nhỏ khác nhau, với cung bậc cao thấp, từ tiếng trong
nhất đến tiếng đục nhất. Tôi khuyên Gertrude tưởng tượng màu đỏ hay màu cam trong
tạo vật như tiếng tù và hay tiếng kèn trom-bon, màu vàng hay màu lục như tiếng
vĩ cầm, hồ cầm và công-bát, màu tím và màu xanh dương như tiếng sáo, tiếng
cla-ri-nét, hay tiếng ô-boa. Cô bé sung sướng và không còn ngờ vực gì nữa, màu
sắc chắc phải có thật.
Gertrude nhắc đi nhắc lại:
“Như vậy chắc phải đẹp lắm, phải không Mục sư?”
Rồi bất chợt cô bé hỏi:
“Thế còn màu trắng thì sao? Con không hiểu màu trắng
thì nghe giống cái gì nhỉ?”
Và tôi thấy ngay cách đối chiếu màu sắc qua âm thanh của
tôi không toàn hảo. Tuy nhiên tôi gắng giải thích:
“Màu trắng là cái giới hạn cao nhất của sự hòa tấu giữa
các màu tươi. Còn màu đen là giới hạn thấp nhất của những màu tối.”
Cả Gertrude và tôi đều không thỏa mãn với giải thích
này. Cô bé nhắc cho tôi là nhạc khí bằng gỗ, bằng đồng, hay đàn vĩ cầm, vẫn
khác nhau, dù ở chung những âm bậc cao nhất hay thấp nhất. Cũng như bao nhiêu lần
khác, tôi đã phải sững sờ moi óc tìm những thí dụ cụ thể để giảng cho cô bé.
Sau cùng tôi nói:
“Thế này nhé. Con hãy tưởng tượng màu trắng như một màu
thật trong sạch, không vẩn đục bởi một màu nào khác. Tựa như ánh sáng thuần
túy. Màu đen đại để là một tình trạng quá nhiều màu, đến nỗi màu nọ lẫn lộn với
màu kia làm toàn thể đen ngòm…”
Hôm nay nhớ lại những mẫu chuyện vụn vặt này, tôi bèn kể
lại đây như tiêu biểu cho những khó khăn rất thường gặp khi tôi dạy dỗ cô bé.
Gertrude có tính tốt là nếu không hiểu thì không bao giờ làm bộ nhận là mình hiểu.
Những người như vậy đầu óc đầy những dữ kiện sai lầm hay thiếu sót, nên về sau
suy luận không còn chính xác nữa. Gertrude lại khác, có chuyện gì chưa biết đến
nơi đến chốn, thì cứ thắc mắc mãi cho đến khi tường tận mới cam.
Lại còn chuyện khó khăn này nữa. Như đã nói ở trên,
trong đầu óc Gertrude, không biết từ bao giờ, ánh sáng và nhiệt lượng đã luôn
luôn dính liền với nhau, chặt chẽ đến nỗi khi dạy cô bé, tôi không thể tách rời
hai ý niệm đó ra được.
Chính nhờ dạy dỗ Gertrude mà tôi mới nghiệm thấy sự
khác nhau giữa thế giới thị giác và thế giới thính giác. Đối chiếu hay suy diễn
liên hệ qua lại giữa âm thanh và màu sắc quả thật không sao mà tránh khỏi khập
khiễng hồ đồ.
Ngày 29 tháng Hai.
Mải viết về âm thanh và màu sắc, tôi quên chưa kịp kể
niềm hân hoan của Gertrude khi được nghe hòa tấu ở Neuchatel. Tình cờ hôm đó
chính vở ‘Bản Đàn Thôn Dã’ được trình diễn. Tôi dùng chữ ‘chính’ vì không có một
bản nhạc nào mà tôi lại muốn cho Gertrude nghe hơn là bản nhạc này. Ra khỏi rạp
một lúc khá lâu mà Gertrude vẫn còn như đang đắm chìm trong sảng khoái.
Sau cùng cô bé hỏi:
“Những điều mắt thấy có đẹp đến như vậy không?”
“Đẹp như chuyện gì, con?”
“Đẹp như cái cảnh ‘ven bờ suối’ trong bản hòa tấu.”
Tôi không trả lời ngay, vì tôi nghĩ những lời nhạc ấy
không vẽ lại thế giới có thực, mà một thế giới lẽ ra có thể có, nếu không có tội
lỗi xấu xa chết chóc.
Sau cùng tôi nói:
“Những người có thị giác sướng mà không biết mình sướng.”
Cô bé vội vã lên tiếng:
“Nhưng con đâu có cần có thị giác mà vẫn biết được hạnh
phúc của âm thanh.”
Gertrude vừa bước vừa ép sát vào người tôi, tựa nặng
trên cánh tay tôi như trẻ con thường làm:
“Mục sư ơi, Mục sư có thấy con hạnh phúc không? Không,
con không nói như vậy để làm vui lòng Mục sư đâu. Nhìn con này: có phải khi người
ta nói dối thì chỉ cần nhìn mặt là biết liền phải không? Còn con, ai nói dối
con nghe giọng nói là con biết liền. Mục sư có nhớ hôm Mục sư nói là Mục sư
không khóc khi Dì con (Gertrude thường gọi vợ tôi là Dì) trách Mục sư không bao
giờ biết chiều Dì, con đã biết ngay. Chính hôm đó con đã nói là Mục sư nói dối
con. Nghe giọng nói của Mục sư là con biết mà. Con đâu có cần sờ má Mục sư để
xem có nước mắt hay không.”
Rồi Gertrude bỗng cao giọng, chậm rãi lập lại một mình:
“Không, hôm đó con đâu có cần sờ má Mục sư.”
Tôi lúng túng vì lúc đó chúng tôi chưa ra khỏi khu thị
tứ, và câu nói ngây thơ của Gertrude làm mấy người bộ hành quay đầu lại nhìn.
Nhưng Gertrude vẫn nói tiếp:
“Mục sư biết không, đừng hòng giấu con chuyện gì. Thứ
nhất, dối kẻ mù lòa là điều phải tội…”
Tươi cười, nàng nói thêm:
“Mà thứ hai là con không mắc lừa đâu.”
Gertrude lại hỏi:
“Mục sư ơi, nói cho con nghe đi. Bây giờ Mục sư không
buồn phải không.”
Như để cho Gertrude hay là một phần `hạnh phúc hiện tại
của tôi là nhờ nàng mà có, tôi cầm tay cô bé đưa lên môi:
“Không Gertrude con, ta không buồn. Làm sao mà ta lại
buồn được.”
“Vậy mà con biết thỉnh thoảng Mục sư đã khóc.”
“Ta cũng có khóc một đôi lần.”
“Nhưng từ hôm đó Mục sư có còn khóc nữa không?”
“Không, Gertrude cưng.”
“Nói cho con nghe nữa đi. Từ hôm ấy, có bao giờ Mục sư
còn muốn nói dối con nữa không?”
“Không cưng.”
“Mục sư có thể hứa là từ giờ sẽ không bao giờ dối con nữa
không?”
“Hứa.”
“Vậy thì, trả lời con ngay đi: Con có đẹp không, Mục
sư?”
Câu hỏi bất ngờ làm tôi sững sờ. Nhất là cho đến bấy giờ
tôi không muốn ghi nhận vẻ đẹp như đập vào mắt của cô bé. Vả lại tôi cho rằng
nàng biết mình đẹp đâu có ích gì. Tôi hỏi lại Gertrude:
“Con muốn biết lắm sao?”
“Con bận tâm chuyện này lắm. Con muốn biết…, con nói
làm sao bây giờ…, con muốn biết bản thân con có làm buổi hòa tấu của cuộc sống
xấu xí đi không. Điều này nếu con không hỏi Mục sư thì con hỏi ai bây giờ?”
Gượng chống đỡ, tôi trả lời:
“Người mục sư thường không chú ý đến vẻ đẹp của dung
nhan.”
“Tại sao, Mục sư?”
“Tại vì với người mục sư, vẻ đẹp của tâm hồn đã đầy đủ
quá rồi.”
“Con biết rồi. Mục sư muốn cho con hiểu rằng con xấu xí
lắm phải không?”
Nàng vừa nói vừa bậm môi làm duyên. Không còn chịu nổi,
tôi buột miệng nói lớn:
“Gertrude cưng, con cũng biết là con đẹp lắm mà!”
Nàng yên lặng không hỏi thêm gì nữa, và từ đấy cho đến
khi tới nhà, nét mặt thật đăm chiêu.
Vừa thấy tôi về nhà là Amélie đã cho tôi hiểu là nàng
không tán thành cách tôi sử dụng thì giờ. Lẽ ra nàng nên phản đối ngay từ trước.
Tuy nhiên như thường lệ, nàng đã để yên cho tôi dẫn Gertrude đi nghe nhạc, để
dành lấy quyền cằn nhằn trách móc về sau. Nàng không trách móc thành lời, nhưng
sự yên lặng của nàng cũng đã quá rõ ràng. Biết tôi dẫn Gertrude đi nghe nhạc về
mà nàng không buồn hỏi thăm về chương trình hòa tấu, đã chẳng là chuyện bất thường
rồi sao. Tội nghiệp con bé, sự vui mừng của nó sẽ tăng gia bội phần, nếu nàng
chỉ tỏ ra mảy may lưu tâm đến nó. Nói cho đúng thì vợ tôi không hẳn hoàn toàn lầm
lì yên lặng, nhưng nàng chỉ nói những chuyện vặt vãnh không đâu. Đến tối, khi
trẻ con đã đi ngủ hết, tôi mới nghiêm nghị hỏi vợ:
“Tôi mang Gertrude đi nghe nhạc mà em cũng bực mình
sao?”
Nàng đối đáp:
“Chưa bao giờ em thấy anh lo cho người thân trong gia
đình này như vậy.”
Lại vẫn hờn dỗi cũ. Nàng vẫn không chịu hiểu rằng đứa
con lạc đàn trở về bao giờ cũng làm cha mẹ vui mừng hơn là đứa con vẫn ở lại
nhà. Nàng không thương hại tật nguyền của con bé. Chút vui thú nhỏ nhoi này là
món quà vô cùng hiếm hoi trong cuộc đời bất hạnh của nó. Mà đâu có gì cho cam,
tôi thường xuyên bận rộn, chỉ hôm đó mới tình cờ được rảnh rang. Nàng thật là
hàm hồ, trẻ con hôm ấy không bận chuyện này thì mắc chuyện kia, còn nàng thì có
bao giờ thích nghe hòa nhạc đâu. Những hôm rảnh rỗi, dù có hòa tấu ngay trước
nhà nàng cũng không buồn đi dự. Bực mình hơn nữa là nhà tôi cằn nhằn trách móc
ngay trước mặt Gertrude. Tôi có ý dìu vợ ra khỏi tầm tai, nhưng nàng lại chủ ý
lên giọng cho Gertrude nghe thấy. Tôi giận hơn là buồn. Lát sau khi Amélie đã
vào nhà trong, tôi tới cầm lấy bàn tay bé bỏng của Gertrude đưa lên má tôi:
“Con coi này, lần này ta đâu có khóc.”
Gắng lấy giọng vui, nàng nói:
“Không, lần này là phiên con.”
Nàng gượng cười và ngước lên tìm tôi. Tôi thấy một
khuôn mặt chan hòa nước mắt.
Ngày 8 tháng Ba.
Niềm vui độc nhất tôi có thể đem lại cho nhà tôi là đừng
làm điều này điều nọ, để nàng khỏi bực mình. Lối yêu thương hoàn toàn tiêu cực,
nhưng là lối yêu thương độc nhất mà nàng để tôi làm. Nàng đã thu hẹp cuộc sống
của tôi đến như vậy là điều nàng không hề để tâm ghi nhận. Lạy Chúa, hãy để
nàng muốn tôi làm chuyện gì khó khăn hơn. Tôi sẽ sung sướng biết mấy nếu nàng
đòi hỏi ở tôi những việc hiểm nghèo. Nhưng có thể nói là Amélie ghét bỏ tất cả
những gì không thuộc về đời sống đều đặn thường nhật. Đến nỗi cuộc đời với nàng
chỉ là gom nhặt những chuỗi ngày nhạt nhẽo sắp tới để chồng lên một quá khứ
cũng đã nhạt nhẽo như vậy. Nàng không chờ đợi mà cũng không muốn chấp nhận những
đức tính mới, hay gia tăng những đức tính cũ nơi tôi. Nàng sợ hãi nếu không muốn
nói là phản đối mọi cố gắng để thấy trong Đạo Chúa một điều gì ngoài việc chế
ngự bản năng con người. Nàng lo sợ thấy ai muốn tìm kiếm trong lời Chúa bất cứ
chuyện gì ngoài chuyện khuyên răn khổ hạnh.
Tôi thú nhận là khi tới Neuchatel tôi đã quên khuấy lời
nàng dặn tới tiệm tạp hóa thanh toán sổ sách cũng như kiếm cho nàng một cuộn chỉ
khâu. Nhưng tôi giận tôi còn hơn nàng giận tôi nữa; nhất là lúc rời nhà, tôi đã
dặn lòng là không được quên, vì biết câu ‘ai trung tín chuyện nhỏ sẽ thủy chung
chuyện lớn’, tôi sợ nàng sẽ kết luận như vậy nếu tôi không nhớ. Thậm chí tôi
còn cầu mong nàng lên tiếng trách móc, vì thật ra tôi thấy mình cũng đáng tội.
Khổ nỗi thường thường những buồn phiền ở đời tưởng tượng nhiều hơn là có thực.
Cuộc sống sẽ đẹp tốt biết bao và các sự bất hạnh sẽ nhẹ hơn biết bao, nếu ta chỉ
ghi nhận những sầu muộn có thực, thay vì nghe theo con quỷ hờn dỗi trong trí tưởng
tượng của ta… Tôi đã lạc đề, điều này thực ra là đề tài cho một bài giảng (Kinh
Matt., XII, 29: Đừng nên để tâm hồn bất an). Chủ tâm tôi lúc này là ghi lại sự
tiến bộ về trí tuệ cũng như tâm hồn Gertrude. Vậy thì tôi nên trở lại đề tài.
Tôi muốn kể tiếp nơi đây sự tiến triển bộ ấy từng bước
một, và tôi đã bắt đầu một vài chi tiết. Nhưng không những tôi không có thì giờ
để ghi chú cặn kẽ mọi giai đoạn, hôm nay nhớ lại sự tương quan của chúng với
nhau lại vô cùng khó khăn. Theo đà câu chuyện, tôi đã kể trước những suy nghĩ,
những đối thoại với cô bé rất gần đây, nên ai tình cờ đọc những trang ấy chắc sẽ
ngạc nhiên thấy Gertrude bỗng nhiên có thể phát biểu bằng những tư tưởng chín
chắn gẫy gọn như vậy. Thật ra cô bé cũng tiến nhanh một cách bất ngờ: tôi thường
phải thán phục đầu óc sắc bén của Gertrude khi hấp thụ món ăn trí tuệ tôi mang
lại, để tiêu hóa và phát triển không ngừng. Gertrude làm tôi ngạc nhiên, vì nhiều
chuyện tôi chưa nghĩ đến thì cô bé đã suy ra, và nhiều khi từ buổi trò chuyện
hôm trước tới buổi trò chuyện hôm sau, có khi tôi không nhận ra người học trò
cũ của mình nữa.
Ít tháng sau, không ai có thể nghĩ trí khôn cô bé đã có
thời tê liệt lâu đến thế. Gertrude còn chững chạc hơn nhiều thiếu nữ mà ngoại
giới đã làm cho xao nhãng, và những chuyện tầm vơ đã chiếm hết đầu óc. Tôi nghĩ
có lẽ Gertrude lớn hơn là tôi đã ước đoán buổi đầu. Xem ra cô bé cũng như đã lợi
dụng được khuyết tật của mình, trên nhiều phương diện mù lòa đã trở thành ưu điểm.
Nhiều khi bất giác tôi so sánh Gertrude với con Charlotte. Những khi tôi kèm
bài vở cho con gái, thấy nó bị lơ đãng vì con ruồi vừa bay qua, tôi thầm nghĩ:
“Nói dại, nếu mắt nó không thấy đường, chắc nó đã ngồi
học với bố chuyên cần hơn.”
Gertrude mê đọc sách. Nhưng để dễ theo sát tâm trí cô
bé, tôi không muốn Gertrude đọc quá rộng -ít nhất những khi không có mặt tôi -
và nhất là đọc quá rộng Thánh Kinh. Điều này nghe có vẻ bất thường với một tín
đồ Cơ Đốc như tôi. Tôi sẽ có dịp cắt nghĩa lý do của quyết định này. Trước khi
đề cập đến một câu chuyện quan trọng như vậy, tôi muốn kể một sự việc nhỏ có
liên hệ đến âm nhạc, cũng vào thời gian buổi hòa tấu ở Neuchatel.
Phải rồi, chuyện này xảy ra độ ba tuần trước vụ nghỉ hè
(thời gian Jacques về sống với gia đình). Bữa đó tôi dẫn Gertrude đến ngồi trước
cây đàn phong cầm của nhà thờ thường thường do cô De la M. phụ trách. Gertrude
chưa học nhạc với cô và cũng chưa dọn tới nhà cô ở. Tôi tuy yêu nhạc nhưng
không giỏi môn này, và ngồi trước đàn tôi cảm thấy không đủ khả năng đóng vai thày
giáo. Hôm đó vừa đặt tay trên phím, cô bé đã xin với tôi:
“Mục sư cho con thử tập một mình.”
Tôi sẵn lòng chiều ý. Ngồi chung một mình với Gertrude
trong nhà thờ vắng vẻ, với miệng tiếng thị phi, không phải là không bất tiện. Về
sau, hôm nào có dịp đi ngang giáo đường, tôi thả Gertrude ở đấy có khi suốt buổi,
xong công việc mới trở lại đón. Cô gái kiên nhẫn tập đàn một mình, lần mò ra những
hài âm trên phím, và chiều về, có khi tôi thấy Gertrude bận rộn với một vài cộng
âm và tỏ ra hoàn toàn thích thú.
Một ngày vào khoảng đầu tháng tám, chưa đến sáu tháng
sau, tôi trở về nhà thờ đón Gertrude trước giờ vì người góa phụ khốn khổ tôi
tính viếng thăm lại vắng nhà. Gertrude không dè tôi về sớm, và tôi vô cùng ngạc
nhiên thấy thằng Jacques đang ngồi bên Gertrude trước đàn. Vì tiếng đàn che tiếng
bước chân tôi, cả hai đều không biết tôi đang đi vào. Bản tính tôi không ưa
rình mò, nhưng chuyện liên can đến Gertrude, tất nhiên tôi phải để tâm: rón
rén, tôi nhẹ chân leo mấy bực tam cấp lên bệ thờ; vị trí rất tiện cho việc quan
sát. Tôi thú thật suốt thời gian ngồi đó, tôi không nghe được một lời gì mà hai
người không thể nói với nhau đàng hoàng trước mặt tôi. Nhưng Jacques ngồi sát
bên Gertrude, và tôi thấy nhiều lần nó cầm tay Gertrude để hướng dẫn trên phím
đàn. Quả là kỳ lạ vì cô gái chấp nhận sự chỉ dẫn mà cô đã từ chối với tôi. Tuy
lúc đó tôi không chịu nhìn nhận như vậy, nhưng tôi rất ngạc nhiên và buồn bực,
và đang định bước ra can thiệp thì may thay, Jacques đã rút đồng hồ ra coi giờ
và nói:
“Có lẽ anh về thì vừa. Chắc Ba anh cũng sắp tới.”
Tôi thấy Jacques cầm tay Gertrude lên môi hôn rồi cáo từ.
Lát sau tôi rón rén xuống bực thang, ra ngoài để lại ồn ào trở vào mở cửa, làm
như mới tới:
“Gertrude, tập đàn có thích không con?”
Gertude trả lời, giọng hoàn toàn tự nhiên:
“Dạ thích lắm. Hôm nay con tập được nhiều lắm.”
Nỗi buồn to lớn chiếm lấy tim tôi, nhưng cả tôi và
Gertrude không ai nhắc đến chuyện vừa mới xảy ra.
Sau cùng tôi có dịp nói chuyện riêng với Jacques. Lúc
đó nhà tôi, Gertrude và trẻ con đã đi ngủ sớm như thường lệ, chỉ còn hai cha
con ngồi đọc sách ở nhà ngoài. Tôi chờ phút này đã lâu. Vậy mà trước khi nói với
con, lòng tôi trì trệ bởi những tình cảm lộn xộn, đến nỗi tôi đâm ra ngại ngùng
không biết cách hay không dám đề cập đến vấn đề đang giày vò tâm can. Chính thằng
Jacques lại khai mào câu chuyện, cho hay là nó tính ở nhà với gia đình trọn vụ
hè này. Vậy mà chỉ ít bữa trước nó đã thưa với cha mẹ là muốn du lịch miền núi
Alpes, điều cả hai vợ chồng tôi vui vẻ chấp thuận. Tôi biết T. bạn đồng hành nó
chọn đang đợi nó cùng đi; tôi thấy ngay sự thay đổi chương trình đột ngột không
phải là không liên hệ đến cảnh tôi đã chứng kiến sáng nay tại giáo đường. Mới đầu
tôi nổi nóng, nhưng lại sợ làm vậy nó sẽ không tâm sự với bố, cũng không muốn
vì giận dữ mà quá lời mắng con, tôi hết sức tự kiềm chế và lấy giọng thản
nhiên:
“Ba tưởng T. mong con cùng đi leo núi với nó.”
Nó trả lời:
“Ồ,T. không tuyệt đối trông cậy vào con trong vụ leo
núi này. Kiếm người thay thế con cũng không khó khăn gì. Con ở nhà nghỉ ngơi
cũng tốt chán, đâu có cần lên núi Oberland. Con nghĩ ở nhà có nhiều chuyện làm
có ý nghĩa cho con hơn là trèo núi.”
“Té ra con kiếm được chuyện làm cho vụ hè này rồi sao?”
Nó nhìn tôi, chắc thoáng thấy ý mỉa mai, nhưng chưa hiểu
tại sao. Nó trả lời:
“Như Ba biết, con bao giờ cũng thích sách vở hơn là gậy
leo núi.”
Nhưng nhìn thẳng vào mắt nó, tôi nói:
“Ba biết. Nhưng con ơi, con không nghĩ là dạy đàn phong
cầm còn hấp dẫn với con hơn là đọc sách sao?”
Có lẽ nó cảm thấy mặt nó đỏ. Nó đưa tay lên che trán,
như tránh né ánh đèn. Nhưng nó bình tĩnh trở lại, giọng nó tự nhiên hơn là tôi
mong muốn:
“Thưa Ba, xin Ba đừng vội kết tội con. Lòng con không
bao giờ dám giấu Ba chuyện gì. Con sắp thưa, thì Ba đã hỏi tới.”
Thằng bé ăn nói gẫy gọn, giọng như người đọc sách, mà
khi hết lời cũng bình tĩnh chững chạc, như đang bàn chuyện ai. Sự tự chủ tuyệt
vời của nó làm tôi bực tức. Cảm thấy sắp bị tôi ngắt lời, nó đưa tay lên như muốn
nói, không, xin Ba cho con thưa hết câu chuyện… Nhưng chụp lấy tay nó lắc mạnh,
tôi to tiếng:
“A, chẳng thà Ba không thấy mặt con nữa còn hơn để cho
con làm vẩn đục tâm hồn trong trắng của con Gertrude. Con không cần phải thú tội
với Ba. Ba đã biết rồi. Lợi dụng tật nguyền của nó, lợi dụng nó ngây thơ khờ khạo,
lợi dụng lòng thành thật của nó, Ba không ngờ con có thể làm những chuyện tồi bại
như vậy. Ba trách nhiệm cuộc đời con Gertrude, và Ba không muốn thấy con trò
chuyện với nó, cầm tay nó, gặp gỡ nó thêm một ngày nữa…”
Vẫn với giọng bình tĩnh tự tin đã làm tôi nổi điên,
Jacques trả lời:
“Nhưng thưa Ba, Ba tin con là con rất kính trọng
Gertrude. Ba lầm nhiều lắm nếu Ba cho rằng có gì đáng khinh bỉ không những
trong hành vi mà còn trong dự tính hay cả trong đáy lòng con. Con yêu Gertrude,
con xin thưa với Ba rằng con kính trọng nàng cũng nhiều như con yêu nàng. Cũng
như với Ba, ý nghĩ làm vẩn đục nàng, lợi dụng nàng ngây thơ và tật nguyền là
chuyện hèn hạ ngoài sức tưởng tượng của con.” Rồi nó thưa với tôi hảo ý của nó
dành cho Gertrude, nguyện là người nâng đỡ nàng, bạn nàng, chồng nàng. Trước
kia nó chưa thưa chuyện với tôi là vì bấy giờ nó chưa làm xong quyết định lấy
nàng làm vợ; và quyết định bây giờ của nó, nó chưa chia sẻ với Gertrude, vì nó định
trình tôi trước rồi sau mới thổ lộ với nàng. Sau cùng nó nói:
“Thưa Ba, đó là tất cả chuyện con phải thú thật với ba.
Ngoài ra xin Ba tin con là con không còn gì giấu Ba nữa.”
Lời con làm tôi sững sờ. Tôi nghe mạch máu thái dương
đang đập liên hồi. Tôi chỉ sửa soạn để la mắng nó, và khi nó cho tôi tất cả những
lý do để hết nóng giận, thì tôi càng cảm thấy bất an, nên khi nó nói xong tôi
không biết nói gì. Sau một phút yên lặng, tôi đứng dậy đặt tay lên vai nó:
“Thôi chúng ta đi ngủ. Sáng mai Ba sẽ cho con biết quyết
định của Ba.”
“Nhưng ít ra Ba không còn giận con nữa, phải không Ba?”
“Ba cần suy nghĩ đêm nay.”
Sáng sau thấy con, tôi tưởng như mới thấy nó lần đầu.
Tôi bỗng nhận thấy con mình không còn trẻ dại nữa mà đã hoàn toàn trưởng thành;
nếu nghĩ nó là con nít, thì mối tình tôi bắt gặp hôm qua thật là quá quắt. Suốt
đêm qua tôi tự thuyết phục là mọi chuyện trái lại tự nhiên và bình thường. Vì
đâu mà sự bất mãn của tôi lại gia tăng? Chuyện này về sau tôi mới sáng tỏ
nguyên do. Trong khi chờ đợi, tôi phải cho Jacques hay quyết định của tôi. Vậy
mà một bản năng ráo riết như lương tâm bắt tôi phải ngăn cản cuộc hôn nhân này
bằng mọi giá.
Tôi đã dẫn Jacques ra cuối vườn. Tại đây tôi hỏi nó trước:
“Con đã cho Gertrude hay chưa?”
“Dạ thưa Ba chưa. Con nghĩ em biết con yêu em. Nhưng thổ
lộ với em thì con chưa thổ lộ.”
“Nếu vậy thì con phải hứa với Ba là con chưa được cho
nó hay chuyện đó bây giờ.”
“Thưa Ba, con xin hứa với Ba. Nhưng có thể nào Ba cho
con biết lý do.”
Tôi ngần ngại suy nghĩ. Không biết những lý do vừa đến
trong đầu tôi có phải là những lý do đáng nêu ra không. Thật tình, tâm hồn thay
vì lý trí đã dẫn dắt hành động của tôi trong lúc này. Sau cùng tôi nói:
“Gertrude nó còn trẻ dại lắm. Con nghĩ coi, nó bây giờ
cũng chưa rước lễ thông công. Con dư biết nó không như những trẻ khác. Tiếc
thay, sự phát triển của nó đã bị trì trệ khá nhiều. Nó dễ tin, chắc dễ rung động
với những lời yêu đương mới được nghe lần đầu; chính vì vậy mà điều quan trọng
là chưa nên nói với nó những lời yêu đương đó. Chiếm đoạt những gì chưa biết tự
vệ là điều hèn nhát; Ba biết con không hèn. Con nói tình con dành cho nó không
có gì đáng khinh bỉ. Nhưng Ba cho là tình đó vẫn có tội, vì đã tới trước hạn kỳ.
Gertrude chưa khôn ngoan già dặn, vậy ta phải khôn ngoan giùm cho nó. Đây là một
vấn đề lương tâm.”
Thằng Jacques có điểm tốt là muốn khuyên can nó điều gì
chỉ cần câu nói giản dị “Ba kêu gọi đến lương tâm của con” mà tôi nhiều lần đã
dùng khi nó còn nhỏ. Nhưng nhìn con, tôi chợt nghĩ nếu Gertrude có thị giác, chắc
nàng sẽ ngắm mà không chán mắt cái tấm thân cao ráo vừa rắn rỏi vừa mềm mại,
cái vừng trán phẳng đẹp không nếp nhăn, cái nhìn ngay thẳng, cái khuôn mặt còn
trẻ thơ nhưng đã thoáng bóng nghiêm nghị của tuổi trưởng thành. Jacques đầu trần,
tóc màu tro để dài, mấy lọn tóc lùng bùng ngang thái dương che nửa vành tai.
Tôi đứng dạy, nói tiếp:
“Ba còn có điều muốn yêu cầu con. Con đã định ngày mai
lên đường. Vậy thì con đừng trì hoãn nữa. Con cần vắng mặt một tháng; Ba mong
con đừng về sớm một ngày. Con hiểu ý Ba?”
“Dạ. Con xin vâng lời Ba.”
Jacques tái xanh thần sắc, đến nỗi môi nó cũng nhợt nhạt.
Nhưng tự trấn tâm, tôi nghĩ rằng nếu nó phục tòng lệnh cha một cách dễ dàng như
vậy, thì tình yêu của nó chắc cũng không mãnh liệt gì; và tôi cảm thấy vô cùng
nhẹ nhõm. Vả lại thấy con dễ bảo tôi cũng mát lòng.
“Con vẫn là đứa con mà Ba yêu quý,” tôi nói nhỏ với nó.
Tôi kéo nó lại hôn lên trên trán, có cảm tưởng nó hơi ngả đầu lại phía sau như
muốn né tránh; nhưng lúc đó tôi không muốn bận tâm vì những chi tiết như vậy.
Ngày 10 tháng Ba.
Ngôi nhà chúng tôi nhỏ hẹp, chuyện riêng tư thật khó
khăn, có khi cũng thật bất tiện để làm việc dù tôi đã dành riêng một phòng nhỏ
trên gác làm bàn giấy mà cũng để tiếp khách. Bất tiện nhất là khi tôi muốn nói
riêng với ai trong nhà; câu chuyện trở thành nghiêm trọng quá trong phòng làm
việc này mà tụi trẻ con gọi đùa là Thánh Địa, vì chúng tuyệt đối không được
vào. Nhưng sáng hôm nay Jacques lên Neuchatel mua giày đi núi. Thấy trời đẹp,
ăn sáng xong lũ trẻ lại ra ngoài dạo chơi với Gertrude (Charlotte â n cần với
Gertrude làm tôi mát ruột). Thành thử tới lúc uống trà như thường lệ trong căn
phòng lớn, thì chỉ còn hai vợ chồng ở nhà. Đây cũng là điều tôi muốn, vì tôi
cũng cần nói chuyện với vợ. Ít khi tôi có dịp nói chuyện riêng với nàng nên cảm
thấy như rụt rè, và tầm quan trọng những điều sắp nói với nàng làm tôi lúng
túng, tựa hồ như sắp phải bàn về chuyện riêng của chính tôi thay vì tâm sự mới
thổ lộ của con. Tôi ghi nhận là vợ chồng chung sống suốt đời, yêu nhau mà vẫn
có thể là xa lạ cách biệt (hay sự cách biệt này về sau mới tới); câu chuyện vợ
chồng trao đổi nghe lạc lõng như những tiếng cồng dọ dẫm, bị dội lại vì một bức
tường ngăn cách, nếu không coi chừng mỗi ngày một bịt bùng thêm.
Tôi nói lúc vợ tôi rót trà:
“Thằng Jacques vừa nói chuyện với anh chiều qua. Nó bảo
nó yêu con Gertrude.”
Hôm qua giọng thằng Jacques chững chạc bao nhiêu thì
hôm nay giọng tôi lại ngập ngừng bấy nhiêu. Vợ tôi tiếp tục rót trà, trả lời mà
mắt không nhìn tôi:
“Nó thưa với anh là phải.”
Giọng nàng bình thản, làm như câu chuyện vừa nói hoàn
toàn bình thường, hay đúng ra không có gì mới.
“Nó bảo nó muốn cưới con bé làm vợ. Nó quyết định…”
Nàng nhún vai, khẽ nói:
“Chuyện này thì ai cũng đã tiên đoán.”
“Em cũng đã ngờ vậy sao?”
“Ai cũng thấy trước từ lâu là chuyện sẽ đến. Chỉ có điều
là loại việc này đàn ông không biết để ý.”
Tôi thấy không được việc gì cãi với nàng về đàn ông thế
này thế khác, vả lại ý nàng cũng có phần đúng, tôi chỉ trách nhẹ:
“Nếu thấy vậy, lẽ ra em nên cho anh hay.”
Nàng cười mím góc môi, nụ cười quen thuộc mỗi khi nàng
không muốn bàn thêm về một chuyện gì. Rồi khẽ lắc đầu, nàng nói:
“Đi theo mà nhắc anh những chuyện anh không để ý thì
bao giờ cho hết.”
Nàng định ám chỉ gì đây. Tôi không biết mà cũng không
muốn biết. Tôi làm làm lơ như không để ý:
“Anh muốn biết ý kiến em về việc này.”
Nàng thở dài:
“Như anh vẫn biết, em không bao giờ ưng thuận chuyện
mang con bé về nhà.”
Thấy nàng lại nhắc đến chuyện cũ, tôi gắng dằn nóng giận.
Tôi nhắc nàng:
“Anh đâu có hỏi ý kiến em về con Gertrude.”
Nhưng Amélie vẫn nối tiếp ý cũ:
“Ngay từ ngày đầu, em đã nghĩ là con bé chỉ đem lại những
điều đáng tiếc cho nhà này.”
Nắm lấy cơ hội, tôi nói theo đà:
“Thì ra em cũng không tán thành hôn nhân này. Thực ra,
anh cũng mong em nghĩ vậy. Anh sung sướng thấy vợ chồng mình đồng ý điểm này.”
Tôi cũng cho nàng hay là Jacques đã ngoan ngoãn vâng lời
cha, và nàng không còn phải bận tâm về việc này nữa. Mọi chuyện đã thỏa thuận
là ngày mai nó sẽ lên đường để đi du lịch một tháng.
Sau cùng tôi nói thêm:
“Anh cũng như em, anh không muốn chúng nó còn gặp nhau
nữa khi Jacques du lịch trở về. Anh nghĩ tốt nhất là gửi Gertrude cho cô Louise
de la M. nuôi. Anh vẫn có thể tiếp tục đến thăm con bé. Anh có trách nhiệm với
Gertrude. Cô Louise sẵn sàng chiều ý vợ chồng mình. Như vậy, em cũng khỏi bực
mình, không còn phải hàng ngày thấy mặt Gertrude. Cô Louise sẽ săn sóc cho con
bé. Cô ta rất hài lòng vì vụ sắp xếp này. Cô ta đang náo nức vì sẽ được dạy nhạc
cho nó.”
Thấy Amélie nhất định không chịu hé răng, tôi nói tiếp:
“Anh muốn ngăn ngừa chuyện Jacques sẽ thì thụt chạy
sang nhà cô Louise tìm gặp Gertrude. Anh tính cho cô Louise biết hết câu chuyện.
Em nghĩ có nên không?”
Tôi trực tiếp hỏi ý kiến nàng, dụng ý buộc nàng nói
chuyện. Nhưng nàng mím môi nhất định không góp ý. Tôi lại nói, không phải có điều
gì quan trọng, mà vì thái độ yên lặng của vợ làm tôi khó chịu:
“Có thể khi Jacques du lịch về, nó không còn si mê nữa.
Ở tuổi nó, người ta nhiều khi không biết mình muốn gì.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét