Thứ Hai, 23 tháng 8, 2021

Cổ học tinh hoa 2

Cổ học tinh hoa 2

CHƯƠNG 5: PHỤ LỤC C: CÁC DANH NHÂN TRUNG HOA ĐƯỢC NÓI ĐẾN TRONG CỔ HỌC TINH HOA
Tiểu sử vắn tắc của 134 danh nhân Trung Hoa được nói đến trong Cổ Học Tinh Hoa được ghi trong các phần GIẢI NGHĨA ở mỗi bài viết trong Cổ Học Tinh Hoa. Số danh nhân được nói đến trong Cổ Học Tinh Hoa nhiều hơn con số 134, nhưng vì có một số danh nhân các tác giả không có chú thích nên ở đây sẽ không nêu tên số danh nhân không có chú thích này. 55 trong số 134 danh nhân, được đánh dấu (PLC), với tiểu sử có nhiều thông tin hơn sẽ được ghi trong phụ lục C. Các thông tin trong phụ lục C này hoàn toàn được trích từ "Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt", http://vi.wikipedia.org/wiki/.
Phần trích từ Wikipedia đưa vào Phụ Lục C có thể là toàn bộ hay chỉ là các phần chủ yếu; tỷ lệ trích dẩn hoàn toàn do cảm tính.
Các tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa được đánh số từ 1 đến 244. Các số theo sau các tên danh nhân sau đây là số thứ tự của các truyện, hay bài viết, trong Cổ Học Tinh Hoa nói đến danh nhân có tên ở trước dãy số.
Bản các danh nhân Trung Hoa đưọc nói đến trong Cổ Học Tinh Hoa:

STT/ Tên danh nhân - Các số thứ tự của các tiểu phẩm nói đến danh nhân: 
1/ Án Tử - 17, 18, 27, 62, 103, 158, 173, 207
2/ Âu Dương Tu - 24, 100, (PLC)
3/ Bá Di - Thúc Tề - 129, (PLC)
4/ Bàng Công (Bàng Đức Công) - 146
5/ Bão Phác Tử - 178
6/ Bảo Thúc - 44
7/ Biển Thước - 214, (PLC)
8/ Biện Trang - 79
9/ Cao Dao - 97, 105
10/ Cao Tổ (Hán Cao Tổ) - 192
11/ Chu Công - 117, (PLC)
12/ Chương Nghi - 234
13/ Cổ Tẩu - 39, 117
14/ Công Minh Tuyên - 75
15/ Công Nghi Hưu - 41
16/ Công Sách - 164
17/ Công Tôn Diễn - 234
18/ Di Tử Hà - 19, 20
19/ Dương Chu - 2, 161, 169, (PLC)
20/ Dương Hổ - 165
21/ Dương Phủ - 193
22/ Dương Tử - 111, 194
23/ Dự Nhượng - 236, (PLC)
24/ Đan Chu - 117
25/ Đái Danh Thế - 187
26/ Ðặng Tích - 11
27/ Điền Mãnh Lược - 163
28/ Điền Tử Phương - 168
29/ Đông Phương Sóc - 109, (PLC)
30/ Đông Quách tiên sinh - 32, 216, 224 
31/ Đường Bá Hổ - 130, (PLC)
32/ Gia Cát Lượng - 217, (PLC)
33/ Hải Tiều Tử - 176
34/ Hàn Bá Du - 133
35/ Hàn Phi (Hàn Phi Tử) - 8, 10, 13, 20, 28, 32, 33, 37, 53, 85, 94, 180, (PLC
36/ Hạng Vũ - 192
37/ Hoa Hâm - 43
38/ Hoàn Ôn - 144, (PLC)
39/ Hồ Quyển Tử - 117
40/ Hứa Do - 127, 128, (PLC)
41/ Hứa Doãn - 143
42/ Hứa Kính Tôn - 167
43/ Huệ Tử (Huệ Thi) - 48, 57, 182, 208
44/ Khấu Chuẩn - 73
45/ Khổng Tử - 1, 6, 16, 19, 25, 28, 38, 39, 60, 61, 66, 70, 81, 99, 104, 105, 107, 115, 119, 121, 123, 131, 164, 170, 171, 199, 209, 230, (PLC)
46/ Khuất Nguyên - 71, (PLC)
47/ Kiềm Lâu - 238
48/ Kiệt - 17, 115, 117, (PLC)
49/ Lã Bất Vi - 9, 11, 29, 69, 96, 106, 107, 150, 202, (PLC)
50/ Lã Đông Lai - 122
51/ Lã Sử Không - 158
52/ Lão Tử (Lão Đam ) - 41, 140, 148, 227, 230, 232, (PLC)
53/ Lệnh Hồ Đức Phân - 65, 154, 168
54/ Liễu Hạ Huệ - 107, (PLC)
55/ Liễu Tôn Nguyên - 30, 184, 197
56/ Loan Doanh - 231
57/ Lỗ Trọng Liên - 154, 235
58/ Lương Khưu Cứ - 158
59/ Lưu Biểu - 146, (PLC)
60/ Lưu Cơ (Lưu Bá Ôn) - 34, (PLC)
61/ Lưu Linh - 186, 187 (PLC)
62/ Lưu Ngưng Chi - 118
63/ Mao Linh Hòa - 163
64/ Mã Viện - 244, (PLC)
65/ Mặc Tử (Mặc Địch) - 5, 56, 57, 64, 212, 222, 223, (PLC)
66/ Mạnh Thường Quân - 52, 102, 145
67/ Mạnh Tử - 93, 98, 113, 124, 132, 155, 201, 205, 211, 229, 234, (PLC)
68/ Nghiêu - 18, 22, 90, 105, 117, 127, 128, (PLC)
69/ Ngô Khởi (Ngô Tử) - 97, 152, 198, (PLC)
70/ Ngũ Tử Tư (Ngũ Viên) - 82, 189,  (PLC)
71/ Ngưu Hoằng - 137
72/ Ngụy Văn Hầu - 86, 117
73/ Nguyễn Tịch - 187
74/ Nhan Chi Thôi - 183,  (PLC)
75/ Nhan Uyên (Nhan Hồi) - 6, 81,  (PLC)
76/ Phạm Trọng Yêm - 195,  (PLC)
77/ Phòng Huyền Linh - 142,  (PLC)
78/ Phùng Huyên - 102
79/ Quản Thúc - 117
80/ Quản Trọng - 44, 101, 105, (PLC)
81/ Quý Trát - 59
82/ Roãn Thuần - 136
83/ Sào Phủ - 128, (PLC)
84/ Tả Khưu Minh - 199
85/ Tăng Tử (Tăng Sâm) - 39, 75, 92, 99, 131, 238, 239, (PLC)
86/ Tân Viên Diễn - 154
87/ Tây Môn Báo - 21
88/ Tây Thi (Tây Tử) - 15, (PLC)
89/ Tề Cảnh Công - 17, 18, 123, 158, 173, (PLC)
90/ Tề Hoàn công - 44, 101, 105, 158, 160, 226,  (PLC)
91/ Tề Linh Công - 158,  (PLC)
92/ Tề Thái Công (Lã Vọng Khương Tử Nha) - 129, 158,  (PLC)
93/ Tề Trang công - 27, 83, 150, 158,  (PLC)
94/ Thang (Thành Thang) - 115, 117,  (PLC)
95/ Thanh Lê Tử - 54, 214
96/ Thạch Chử - 106
97/ Thẩm Lân Sĩ - 118
98/ Thân Bao Tư - 82
99/ Thi Tử - 231
100/ Thôi Trữ - 27,  (PLC)
101/ Thuấn - 18, 22, 39, 117,  (PLC)
102/ Thúc Tề - 129
103/ Tô Tần - 50, 52, 153,  (PLC)
104/ Tô Thức (Tô Đông Pha) - 181, 118,  (PLC)
105/ Tôn Mãi Đức - 163
106/ Tôn Tẫn - 97,  (PLC)
107/ Tôn Thúc Ngao - 185
108/ Tống Liêm - 74,  (PLC)
109/ Trang Tử - 15, 88, 91, 95, 114, 125, 127, 160, 166, 169, 182, 213, 228, 240,  (PLC)
110/ Trành Hoằng - 230
111/ Trần Hằng - 203
112/ Trần Kế Nho - 218
113/ Trần Nghiêu Tư - 100
114/ Triệu Giản Tử - 165
115/ Trình Di - 136
116/ Trụ - 17, 117, 129,  (PLC)
117/ Trương Hoành Cừ - 241
118/ Trương Nghi - 149,  (PLC)
119/ Trương Ngô Quý - 163
120/ Tuân Tử - 7, 80, 99,  (PLC)
121/ Tượng - 117
122/ Tử Cống - 28, 81, 104, 121, 166
123/ Tử Hoa Tử - 3, 23, 89
124/ Tử Kích - 168
125/ Tử Lộ - 38, 81, 171
126/ Tư Mã Thiên (Long Môn Tử) - 4,  (PLC)
127/ Tử Sản - 199, 200, 233,  (PLC)
128/ Tử Xa - 23
129/ Từ Tuân Minh - 163
130/ Uy Hậu - 210
131/ Văn Công (Tấn Văn công) - 55, 151,  (PLC)
132/ Vũ (Chu Vũ Vương) - 117, 129,  (PLC)
133/ Vương Thông - 163
134/ Y Doãn - 97.

Sau đây là các danh nhân với nhiều thông tin hơn các thông tin ghi trong các chú thích của Cổ Học Tinh Hoa:
1. Âu Dương Tu (1007 - 1072): có tên tự là Vĩnh Thúc hiệu "Túy Ông" là nhà thơ thời Tống ở Trung Quốc. Quê Âu Dương Tu ở Lư Lăng (nay thuộc tỉnh Giang Tây, Trung Quốc). Năm 1030 đỗ đầu khoa thi tiến sĩ; từng giữ các chức quan Hàn lâm học sĩ, Xu mật viện phó sứ, Tham tri chính sự... Dưới thời vua Tống Thần Tông làm Binh bộ Thượng Thư, khi mất được đặt tên thụy là Văn Trung.
Âu Dương Tu là một nhà văn nổi tiếng, một nhà thơ lớn, một nhà sử học, chính trị gia và đồng thời là một nhà làm Từ xuất sắc. Ông là người khai sáng ra thể loại "thi thoại" (bình luận và ghi chép lại các cuộc bàn luận của các thi nhân,...), cuốn "Lục Nhất thi thoại" là cuốn thi thoại đầu tiên của Trung Quốc. Ông còn viết những bài rất nổi tiếng như Túy Ông đình kí, Mai Thánh Du thi tập tự, Thu thanh phú, Bằng đảng luận. Vì thế, Âu Dương Tu tự xưng mình là "Lục nhất cư sĩ" (cư sĩ với 6 cái "một": một vạn quyển sách, một ngàn thạch văn, một cây đàn, một bàn cờ, một bầu rượu và một thân già).
2. Bá Di, Thúc Tề: Bá Di là con vua nước Cô Trúc - quốc gia chư hầu nhà thương trong lịch sử Trung Quốc. Ông cùng người em là Thúc Tề nổi tiếng vì sự trung thành với nhà Thương bị nhà Chu tiêu diệt.
Theo Sử ký sách ẩn, Bá Di là con trai lớn nhất của Á Vi - vua nước Cô Trúc thời vua Trụ nhà Thương. Vua cha muốn lập người em thứ 3 là Thúc Tề. Sau khi cha mất, Thúc Tề nhường lại ngôi vua cho Bá Di nhưng ông không nhận, nói rằng phải theo mệnh lệnh của cha và bỏ trốn.
Thúc Tề thấy ông bỏ khỏi nước Cô Trúc cũng đi theo ông. Người trong nước bèn lập Á Bằng - người em của Bá Di và anh của Thúc Tề lên ngôi.
Nghe tin Tây Bá Cơ Xương (vua Chu Vũ vương sau này) là người trọng đãi hiền sĩ, anh em Bá Di tìm đến. Nhưng khi hai người đến nơi thì Cơ Xương đã qua đời, con là Cơ Phát lên thay, mang quân đánh vua Trụ tàn bạo. Bá Di cùng em đến trước ngựa của Cơ Phát can rằng:
Cha chết không chôn lại gây việc can qua có thể gọi là hiếu không? Là bầy tôi giết vua có thể gọi là nhân không?
Cơ Phát không nghe. Những người hộ vệ của Cơ Phát định giết anh em Bá Di nhưng Khương Tử Nha ngăn lại và đỡ anh em ông dậy và cho đi nơi khác.
Cơ Phát mang đại quân cùng các chư hầu đánh và diệt được vua Trụ. Cơ Phát lên ngôi thiên tử, lập ra nhà Chu, tức là Chu Vũ Vương. Bá Di và Thúc Tề xấu hổ về việc đã can ngăn vua Chu diệt bạo chúa, bèn cùng nhau thề không ăn thóc nhà Chu.
Bá Di và Thúc Tề lên núi Thú Dương, hái rau vi ăn qua bữa. Rau vi không thể nuôi sống được, cuối cùng ông và Thúc Tề đều chết đói tại núi Thú Dương.
3. Biển Thước (~ 401 TCN - 310 TCN): tên thật là Tần Hoãn tự Việt Nhân, vốn người châu Mạc, Bột Hải (nay là huyện Nhiệm Khâu, tỉnh Hà Bắc - thời Chiến quốc thuộc nước Triệu).
Cơ duyên với nghề thầy thuốc
Thời còn trai trẻ, Tần Việt Nhân vốn là chủ một quán trọ, và sống bằng nghề này. Lúc đó có một lương y biệt danh là Trường Tang Quân thường trọ tại quán của Việt Nhân. Việt Nhân rất kính trọng vị lương y này, nên đã phục vụ rất chu đáo và không lấy tiền. Để đáp lại, Trường Tang Quân nhận Việt Nhân làm học trò và truyền hết sở học cho ông. Khi tay nghề đã thành thạo, Việt Nhân chuyển hẳn sang nghề thầy thuốc này, dần dần trở nên nổi tiếng, được dân chúng nước Triệu tặng cho biệt hiệu "Biển Thước tiên sinh" (tương truyền Biển Thước là một "lang băm" sống vào thời thượng cổ ở Trung Quốc).
Hành nghề cứu người
Lúc bấy giờ ở Trung Quốc, thuật đồng bóng đang lan tràn, nghề y bị lạnh nhạt; nhiều người mắc bệnh không chịu uống thuốc mà cứ rước đồng bóng về để "đuổi quỉ, trừ tà". Thậm chí nhiều nước chư hầu còn đặt ra các chức quan "đại chức", "tư vu" để chuyên lo việc này. Biển Thước rất ghét thói mê tín ấy, thường xuyên đấu tranh chống lại nó một cách kiên trì, và thông qua hoạt động chữa bệnh có hiệu quả của mình để vạch trần trò hề mê tín của đồng bóng. Căn cứ vào kinh nghiệm dân gian và kinh nghiệm nhiều năm làm nghề của mình, Biển Thước đúc kết thành "tứ chẩn" trong phép khám và điều trị là nhìn, nghe, hỏi và bắt mạch. Ngoài việc vận dụng thành thạo "tứ chẩn" để đoán bệnh, Biển Thước sử dụng nhiều biện pháp trị liệu như châm kim đá, châm cứu, xoa nóng, xoa bóp, mổ xẻ, cho uống thuốc v.v... Theo "Hán thư ngoại truyện", có lần Biển Thước dẫn năm người học trò đến nước Quắc (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây) để làm thuốc, nghe nói thế tử nước Quắc bị bệnh qua đời đột ngột, ông cảm thấy đáng ngờ, bèn xin được vào xem. Quan sát một hồi, thấy cánh mũi "người chết" còn động đậy, hai chân còn ấm, Biển Thước chẩn đoán kỹ rồi kết luận: thế tử mắc chứng "thi quyết" (chết giả), có thể cứu sống được. Ông bèn châm kim các huyệt chủ yếu, tiếp theo sai học trò Tử Minh làm ngải cứu, Cốc Tử đổ thuốc, Tử Dung xoa bóp không ngừng tay. Hồi lâu, quả nhiên "người chết "dần dần tỉnh lại. Biển Thước lại dùng thuốc dán dưới hai nách, bệnh nhân ngồi dậy được ngay. Vua nước Quắc hết sức vui mừng, không tiếc lời khen ngợi. Người xem Biển Thước như thần tiên, cho rằng ông có thuật "cải tử hoàn sinh". Biển Thước khiêm tốn giải thích: "Không phải tôi cứu sống người chết, mà người bệnh vốn chưa chết, tôi chỉ cứu người bệnh khỏi cơn hấp hối mà thôi".
Về tài dùng mắt đoán được bệnh, có một giai thoại về Biển Thước sau đây đã được sử gia Tư Mã Thiên ghi lại trong bộ "Sử Ký "và người đời sau nhắc lại một lần nữa trong bộ truyện Đông Chu Liệt Quốc (ở hồi thứ 32). Chuyện như sau: Một hôm Biển Thước sang nước Tề gặp Tề Hoàn Công, thấy khí sắc vua Tề không tốt, bèn tâu: "Quân hầu, trong da và chân lông ngài đã có gốc bệnh, nếu không kịp thời chữa trị, bệnh sẽ nặng thêm". Tề Hoàn Công thờ ơ đáp: "Ta cảm thấy trong người rất khỏe, chẳng có bệnh tật gì cả". Biển Thước lui ra, sau đó năm ngày lại vào yết kiến, nhìn sắc diện rồi khẳng định một lần nữa với vua Tề: "Bệnh của ngài đã vào đến nội tạng rồi, phải chữa ngay đi". Hoàn Công tỏ vẻ khó chịu, không trả lời. Sau khi Biển Thước đi khỏi, ông mới bảo với mọi người: "Thầy thuốc chỉ khéo vẽ vời, hù dọa người ta. Ta chẳng có bệnh gì mà ông ta dám bảo là bệnh nặng. Thật vớ vẩn!". Năm ngày sau nữa, Biển Thước lại vào yết kiến, chỉ mới nhìn mặt vua Tề, đã quay bước, bỏ đi thẳng. Hoàn Công sai người chạy theo hỏi, Biển Thước nói: "Bệnh ở da, thịt thì còn xoa thuốc được, bệnh ở huyết mạch thì còn tiêm thuốc được, nay bệnh đã vào đến xương tủy rồi thì trời cũng không cứu được nữa, bởi vậy tôi mới bỏ đi ". Mấy ngày sau quả nhiên Hoàn Công phát bệnh. Ông vội cho người đi tìm Biển Thước, nhưng vị "thần y" đã đi sang nước Tần rồi. Bệnh Hoàn Công ngày càng trở nặng, chẳng bao lâu vị bá chủ chư hầu này tạ thế.
Lại có một giai thoại khác nữa về vị "thần y": Một hôm có một phụ nữ khá đẹp đến gặp Biển Thước, xin một toa thuốc độc, có thể giết người mà không để lại dấu vết. Đối tượng mà người phụ nữ định đầu độc chính là chồng của chị ta, vì chị này vốn đã có tình ý với một người đàn ông khác. Biển Thước sợ nếu mình từ chối, sẽ có người khác giúp chị đàn bà hoàn thành tâm nguyện, nên giả vờ nhận lời. Ông dặn: về mua khoai mài (hoài sơn) gọt vỏ nấu với lươn cho chồng ăn, mỗi ngày một lần, ít lâu sẽ chết. Người đàn bà hớn hở về làm đúng như lời hướng dẫn.
Khoảng tháng sau, chị này mang lễ vật đến tạ ơn Biển Thước, báo tin chồng đã chết. Ông rất đỗi ngạc nhiên, chẳng hiểu sao khoai mài nấu cháo lươn là một món rất bổ dưỡng mà ăn vào lại chết. Biển Thước cảm thấy lương tâm cắn rứt, lại hoài nghi về kiến thức y học của chính mình, nên thề giải nghệ, không chữa cho bất kỳ ai. Ông còn lấy chìa khóa tủ sách thuốc nhà mình vứt xuống sông cạnh nhà.
Sau đó ít lâu, một hôm vừa thức dậy, Biển Thước thấy một chàng trai trẻ làm nghề đánh cá đến van xin ông làm phước cứu vợ anh ta đang bị sanh khó. Biển Thước nhớ lại lời thề dạo trước nên không thèm trả lời chàng trai, chỉ lớn tiếng bảo người nhà: "lấy nước rửa mặt" (cho ông)! Chàng ngư phủ lại ngỡ đó là lời vị danh y mách bảo cho mình, bèn ba chân bốn cẳng chạy về nhà làm đúng như thế. Quả nhiên vừa rửa mặt xong thì vợ anh ta đẻ được ngay.
Vài hôm sau, chàng trai đánh bắt được một con cá lớn, nhớ ơn thầy thuốc cứu vợ con mình, bèn kính cẩn đem con cá đến biếu. Một lần nữa, Biển Thước rất ngạc nhiên, mới hỏi: "Tôi có ơn huệ gì với anh đâu, mà anh đem cá tạ ơn?". Chàng trai đáp: "Nhờ ơn thầy dạy, tôi lấy nước rửa mặt cho vợ tôi thì vợ tôi sinh được ngay một thằng con trai rất cứng cáp, dễ thương, nên có chút quà này, mong thầy nhận cho". Biển Thước không sao lý giải được hai trường hợp hy hữu trên, cho là tại thời vận hên xui.
Sau khi chàng đánh cá về, người nhà đem cá ra mổ làm món nhắm cho nhà danh y uống rượu. Lại một sự không ngờ thứ ba xảy đến: khi mổ bụng cá, thấy chùm chìa khóa, lại chính là chìa khóa tủ sách thuốc mà Biển Thước đã ném xuống sông lúc trước. Ông tự nghiệm rằng: "Thiên mệnh" đã đặt cho mình nghề làm thuốc để cứu người, không thể chối bỏ (Từ đó ông ra sức nghiên cứu sâu thêm về y thuật, cứu được rất nhiều bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên ông vẫn chưa hiểu do đâu có tác dụng ngược lại của củ mài và nước lạnh.
Một hôm có người đem lươn lại bán. Một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu. Biển Thước bảo người bán lươn đổ cả giỏ lươn xuống đất, thấy trong đám lươn chỉ có một con ngóc đầu lên cao, còn lại đầu rạp sát đất. Biển Thước mua con lươn ngóc đầu ấy đem làm thịt nấu cho chó ăn thì chó chết. Bấy giờ Biển Thước mới hiểu cái chết oan uổng của chàng trai có vợ lăng loàn là do ăn phải thứ lươn ngóc đầu lên chứ không phải tại khoai mài. Còn nước lã giúp vợ chàng đánh cá đẻ mau, vì chị ấy quá mệt, không còn sức rặn. Khi đem nước lạnh rửa mặt, sản phụ cảm thấy sảng khoái, sức mạnh tăng thêm nên sinh được dễ dàng chứ không có gì bí hiểm cả.
Đến cuối đời, danh tiếng Biển Thước ngày càng lớn, càng khiến cho nhiều người ganh ghét, trong đó có một viên quan thái y nước Tần tên Ủy Hề. Hắn vốn là kẻ bất tài, thấy y thuật Biển Thước hơn người, sợ một ngày nào đó có thể thay vị trí của hắn. Vì vậy năm 310 trước Công Nguyên, khi Biển Thước đến hành nghề ở nước Tần, hắn sai người lén đâm chết ông. Nhân dân ở nhiều địa phương rất thương tiếc, đã cho dựng mộ, bia và thờ Biển Thước ở Thiểm Tây, Sơn Đông, Hà Bắc, Hà Nam v.v...
4. Chu Công: tên thật là Cơ Đán, là công thần khai quốc nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công giúp Chu Vũ Vương (Cơ Phát) lập ra nhà Chu (1122 - 256 trước Công nguyên), giành quyền thống trị Trung Hoa từ tay nhà Thương. Sau khi Chu Vũ Vương chết, Cơ Đán đã giúp vua mới là Chu Thành Vương xây dựng và phát triển nhà Chu thành một nước mạnh mẽ và có công xây dựng nên nền văn hóa Trung Hoa rực rỡ trong quá khứ. Công lao to lớn của Cơ Đán với sự phát triển của văn hóa Trung Hoa khiến người ta gọi ông bằng chức vụ là Chu Công (quên đi cái tên Cơ Đán), khiến cho nhiều người lầm tưởng Chu Công là tên thật của ông.
5. Dương Chu: sống vào thời Chiến Quốc, tự Tử Cư, được người đời sau kính trọng gọi là Dương tử, là một triết gia Trung Quốc. Ông đề ra thuyết "vì mình". Nổi tiếng với quan niệm: "Không vì cái lợi lớn của thiên hạ mà chịu mất đi một sợi lông chân của mình". Thuyết của ông cùng với Mặc tử là hai thuyết thường bị Mạnh tử đả kích. Không ai biết đích xác ông sinh, mất năm nào, sống vào khoảng nào.
6. Dự Nhượng: là một người nước Tấn sống vào cuối thời Xuân Thu tại Trung Quốc. Dự Nhượng được người đời sau biết tới trong vai trò thích khách nổi tiếng bậc nhất của thời Xuân Thu Chiến Quốc. Truyện Dự Nhượng kiên trì ám sát Triệu Tương tử để trả thù cho Trí Bá Dao đã được Tư Mã Thiên ghi lại trong tác phẩm Sử ký của ông.
Sách Sử ký ghi lại, Dự Nhượng vốn là người nước Tần đến nước Tấn. Trước ông theo hầu họ Phạm, sau lại thờ họ Trung Hàng nhưng đều chỉ là bậc khách thường, không ai biết tới. Họ Phạm và họ Trung Hàng bị diệt, Dự Nhượng tới thờ Trí Bá Dao, người đứng đầu họ Trí có quyền lực lớn nhất ở nước Tấn, và được Trí Bá Dao hết mực khoản đãi như bậc thượng khách.
Năm 455 TCN, Trí Bá đem quân đánh họ Triệu, một gia tộc lớn khác ở nước Tấn, nhưng bị Triệu Tương tử lập kế liên kết cùng họ Hàn và họ Ngụy đánh cho đại bại. Họ Trí bị diệt, phần đất của họ Trí bị ba họ còn lại chia nhau lập nên Tam Tấn, riêng Trí Bá Dao bị Triệu Tương tử giết rồi lấy đầu lâu sơn lại để làm đồ đựng rượu vì oán hận Trí Bá Dao.
Dự Nhượng biết tin chủ bị giết đành phải trốn vào núi và thề trả thù cho họ Trí, Sử ký đã ghi lại lời của ông như sau:
“Than ôi! Kẻ sĩ chết vì người tri kỷ! Người con gái làm dáng vì kẻ yêu mình. Nay Trí Bá biết ta, ta phải liều chết báo thù để đền ơn, có thế hồn phách ta mới khỏi xấu hổ!” Quyết tâm trả thù, Dự Nhượng thay tên đổi họ rồi xin vào làm người hầu trong cung, trong người luôn mang theo chủy thủ để tìm cơ hội hành thích Triệu Tương tử. Tuy nhiên Triệu Tương tử cảm thấy bất an bèn bắt Dự Nhượng tra hỏi và phát hiện ra âm mưu báo thù của ông, coi Dự Nhượng hành động như vậy là kẻ hiền, Triệu Tương tử tha chết cho ông và thả cho Dự Nhượng đi.
Không chịu bỏ cuộc, Dự Nhượng tự hủy hoại dung nhan và giọng nói khiến cho đến vợ ông cũng không thể nhận ra chồng khi Dự Nhượng giả làm ăn xin ngoài chợ. Biết tin Triệu Tương tử ra khỏi cung, Dự Nhượng giả dạng ăn mày nấp dưới cầu định thừa cơ hành thích, tuy nhiên khi xa giá của Tương tử tới nơi thì con ngựa của Tương tử bất chợt sợ hãi, Triệu Tương tử đoán ngay rằng đây là Dự Nhượng đang định hành thích mình. Dự Nhượng bị bắt, khi Triệu Tương tử hỏi ông rằng tại sao đã thờ ba đời chủ mà vẫn hết lòng trả thù cho Trí Bá Dao như vậy, Dự Nhượng đáp: “Tôi thờ họ Phạm và họ Trung Hàng, họ xem tôi là hạng người thường nên tôi báo đáp họ theo lối người thường. Còn như Trí Bá đối đãi với tôi như người quốc sĩ, nên tôi phải báo thù theo lối quốc sĩ.”
Triệu Tương tử nghe vậy biết rằng mình không thể lung lay quyết tâm báo thù của Dự Nhượng nên đành phải cho quân sĩ giết ông. Trước lúc chết, Dự Nhượng xin Tương tử đưa áo đang mặc để ông đâm vào đó cho thỏa lòng báo thù, chết khỏi ân hận. Tương tử đưa áo, Dự Nhượng bèn đâm vào đó mấy lần rồi đâm cổ tự vẫn. Kẻ sĩ nước Triệu nghe chuyện Dự Nhượng chết ai nấy đều không khỏi bùi ngùi.
Trong thời gian đi sứ ở Trung Quốc, Nguyễn Du đã sáng tác tới hai tác phẩm trong tập Bắc hành tạp lục lấy đề tài về truyện Dự Nhượng, đó là một bài hành có tên Dự Nhượng kiều chuỷ thủ hành (Bài hành về chiếc chủy thủ cầu Dự Nhượng) và một bài thơ lấy tên Dự Nhượng kiều.
7. Đông Phương Sóc (khoảng 154 TCN - 93 TCN): là một học giả nổi tiếng ở tỉnh Sơn Đông, cùng thời với Tư Mã Thiên và dưới thời Hán Vũ Đế Lưu Triệt. Ông là một người kì trí đa mưu, tinh thông văn sử, đã giúp cho Hán Vũ Đế diệt trừ các thế lực đen tối ở hậu cung; đồng thời đánh bại các chư hầu âm mưu chia rẽ đất nước. Bên cạnh đó, Đông Phương Sóc còn đưa ra nhiều kế sách được người đời xem như là Y Quốc Mật Phương.Với tài năng thiên phú, Đông Phương Sóc luôn được Hán Vũ Đế trọng dụng nhưng tuyệt nhiên không được phong chức đề bạt. Bản tính hiên ngang, không sợ chết, ông thường dùng những câu chuyện hài hước để châm biếm, đã kích bọn quan tham ô lại. Cũng chính vì thế mà Đông Phương Sóc luôn trở thành cái gai trong mắt bọn quan tham, và chúng đã âm mưu hãm hại ông bằng cách xàm tấu với vua để liệt ông vào dạng lộng thần.
8. Đường Bá Hổ (1470 - 1523): tức Đường Dần là một danh hoạ, một nhà thơ nổi tiếng đời nhà Minh. Đường Dần tự là Tử Uý, Bá Hổ (nên còn được gọi là Đường Bá Hổ), hiệu là Lục Như cư sĩ, Đào Hoa am chủ, tự xưng là Minh triều Giang Nam đệ nhất phong lưu tài tử. Ông quê ở Ngô huyện (nay là thành phố Tô Châu tỉnh Giang Tô). Đường Dần xuất thân trong một gia đình thương gia giàu có, cha là Đường Quảng Đức, mẹ là Khâu Thị. Đường Bá Hổ tuổi nhỏ rất chăm chỉ học hành và sớm đỗ Giải Nguyên phủ Ứng Thiên, sau đó lên kinh thi hội nhưng do bị liên can đến án thi cử gian lận nên bị ngồi tù, ra tù Đường Dần tìm đến phủ Ninh Vương Châu Thần định nương náu ở đây nhưng phát hiện Châu Thần có ý mưu phản nên lại bỏ về Tô Châu. Sau đó không còn ham hố con đường làm quan nữa mà tập trung vào viết thư pháp, vẽ tranh và làm thơ.
9. Gia Cát Lượng (181–234): là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả. Trong quân sự, ông đã tạo ra các chiến thuật như: Bát trận đồ (Hình vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu, tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu gỗ ngựa máy). Tương truyền ông còn là người chế ra đèn trời (Khổng Minh đăng) và món bánh bao. Gia Cát Lượng được biết tới nhiều qua tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa.
Gia Cát Lượng là người đất Dương Đô (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) quận Lang Nha đời Thục Hán, sinh vào mùa Thu năm Tân Dậu (Tam Quốc), tự Khổng Minh, Gia Cát là một họ kép ít gặp. Ông mồ côi từ bé, thuở trẻ thường tự ví tài mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị. Sau tị nạn sang Kinh Châu rồi đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, tự mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc "Lương Phủ Ngâm".
Ông có 3 anh em, anh cả Gia Cát Cẩn làm quan bên Đông Ngô, em thứ là Gia Cát Quân không làm quan.
Tương truyền ông học giỏi một phần nhờ vợ là Hoàng Nguyệt Anh, một người rất xấu nhưng có tài năng, con gái của danh sĩ Hoàng Thừa Ngạn ở Nhữ Nam.
Khi Lưu Bị ở Tân Dã, có đến Tư Mã Đức Tháo bàn việc thiên hạ. Tư Mã Đức Tháo có nói: "Bọn nho sinh đời nay chỉ là một phường tục sĩ, hạng tuấn kiệt chỉ có hai người, đó là Ngoạ Long và Phượng Sồ. Ngoạ Long tức Gia Cát Khổng Minh, Phượng Sồ tức Bàng Thống tự Sỹ Nguyên." Lưu Bị 3 lần thân đến Long Trung mời Khổng Minh ra giúp, tôn ông làm quân sư. Lúc bấy giờ là năm 208, Lưu Bị 47 tuổi, Gia Cát Lượng chỉ mới 27 tuổi.
Khổng Minh đã giúp Lưu Bị cùng với Tôn Quyền đánh bại Tào Tháo ở Xích Bích, lấy Kinh Châu, định hai Xuyên, dựng nước ở đất Thục, cùng với Ngụy ở phía bắc, Ngô ở phía đông làm thành thế chân vạc. Lưu Bị lên ngôi hoàng đế, Khổng Minh giữ chức Thừa tướng, một lòng khôi phục lại cơ nghiệp nhà Hán, phía đông hòa Tôn Quyền, phía nam bình Mạnh Hoạch.
Mùa hạ năm 221, vừa lên ngôi, Lưu Bị đã muốn lấy lại Kinh Châu và tháng 7 năm đó, để trả thù cho Quan Vũ nên Lưu Bị đã tuyến bố tuyệt giao với Đông Ngô, đem đại quân tiến đánh Tôn Quyền. Lưu Bị đánh Đông Ngô là vi phạm sách lược "liên Ngô chống Tào" của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng biết đánh Ngô hại nhiều hơn lợi nhưng không can ngăn nổi Lưu Bị nên dẫn đến bi thảm Hào Đình, thất bại ở Tỷ Quy. Lưu Bị trước khi chết đã uỷ thác việc nước cho Gia Cát Lượng, nói rằng: "Tài năng của ông cao hơn Tào Phi (con trai Tào Tháo, lúc này là vua nước Ngụy) gấp 10 lần, nhất định có thể làm cho nước nhà ổn định, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Nếu như Lưu Thiện con tôi không làm được gì, mong ông giúp đỡ còn như nó bất tài thực sự, ông có thể thay nó". Lưu Bị còn để lại di chúc bắt Lưu Thiện phải kính nể Gia Cát Lượng như cha đẻ.
Nhà vua Lưu Thiện mới 17 tuổi không có tài, Gia Cát Lượng phải lo lắng toàn cục, chỉnh đốn nội bộ và chấn chỉnh lực lượng. Dưới sự cai trị của ông, nước Thục dần dần mạnh lên. Sau khi trừ bỏ được những lo lắng trong nước, Gia Cát Lượng đã đem quân xuống phía nam để bình định bọn nổi loạn. Gia Cát Lượng ra quân không lâu đã bắt sống được Mạnh Hoạch. Ví dụ nổi tiếng về việc Gia Cát Lượng "chiếm lòng người" chính là việc 7 lần bắt, 7 lần tha Mạnh Hoạch, cho đến khi Mạnh Hoạch thực sự chịu phục.
Gia Cát Lượng Bắc phạt cả thảy là 7 năm, phát động 4 lần đánh nhau. Tháng 8 năm 234, do khó nhọc mà Gia Cát Lượng sinh bệnh rồi mất, lúc bấy giờ ông mới 54 tuổi, được phong tặng là Trung Vũ Hầu người đời thường gọi là Gia Cát Vũ Hầu. Ông được chôn tại ngọn núi Định Quân ở vùng Hán Trung. Ông mất mà vẫn không trung hưng được nhà Hán, nước vẫn ở thế chân vạc chia ba. Ba mươi năm sau khi ông mất, Lưu Thiện đầu hàng nước Ngụy, nước Thục bị diệt vong.
Suốt hai đời vua là Lưu Bị và Lưu Thiện, mọi việc chính trị, quân sự và kinh tế ở Thục đều do một tay Khổng Minh chủ trương và thi hành. Ông giỏi về binh thư binh pháp, có tài về nội trị, ngoại giao, được xem là văn võ kiêm toàn, tài đức lưỡng bị... nên được hậu thế gọi là "vạn đại quân sư", coi là một tấm gương sáng cho muôn thuở.
10. Hàn Phi: (khoảng 280 - 233 TCN) là học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc theo trường phái pháp gia, tác giả sách Hàn Phi Tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. Hàn Phi sống cuối đời Chiến Quốc, trong giai đoạn Tần Thủy Hoàng đang thống nhất Trung Hoa. Ông thuộc dòng dõi quý tộc nước Hàn (được gọi là "công tử"), thích cái học "hình danh." Gốc của học thuyết này là ở Hoàng Đế, Lão Tử. Hàn Phi có tật nói ngọng, không biện luận khá nhưng giỏi về mặt viết sách.
Hàn Phi và Lý Tư đều học với Tuân Tử. Lý Tư tự cho mình kém Hàn Phi, nhưng Hàn Phi và Lý Tư đều đóng vai trò trong việc giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc. Cả hai đều theo pháp gia (hoặc pháp trị), chịu ảnh hưởng của Mặc Tử. Mặc Tử trước kia đã chủ trương "thượng đồng", nghĩa là bắt dân phải tán đồng lẽ phải với người trên, phải cùng một quan niệm tốt xấu với người trên. Không ai được có chủ trương riêng khác với chính sách của triều đình.
Hàn Phi không được nước Hàn tin dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử.
11. Hoàn Ôn (312–373): là đại tướng nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc, người Long Cang, Tiêu Quốc.
Cha Hoàn Ôn là Hoàn Lân, thái thú Tuyên thành (An huy). Ngày Hoàn Ôn chưa đầy 1 tuổi, có người bạn thân của Hoàn Lân là Ôn Kiều (về sau là đại thần phụ chính thời Tấn Minh đế, tước Thạch an công) tới chơi, tỏ ra rất quý Hoàn Ôn. Vì vậy Hoàn Lân liền đặt tên con theo họ của bạn là Hoàn Ôn.
Tương truyền trên mặt Hoàn Ôn có 7 nốt ruồi đen, được coi là quý tướng.
Năm 317, Hoàn Ôn mới lên 5 tuổi. Hoàn Lân bị bộ tướng của quyền thần Tô Tuấn là Hàn Hoảng đồng mưu với Giang Bác giết chết. Hoàn Ôn căm phẫn, nuôi chí báo thù.
Năm 320, Hoàn Ôn lên 8 tuổi. Giang Bác bệnh chết. Ba người con trai Giang Bác trong lúc chịu tang cha phải mang vũ khí bên mình vì sợ Hoàn Ôn trả thù. Tuy nhiên, Hoàn Ôn vẫn cải trang, giấu kín dao trong tay áo, lọt vào đám tang và lần lượt tiếp cận giết được cả 3 anh em con của Giang Bác.
Khi chuyện đó truyền đi, ai cũng thán phục lòng quả cảm của ông. Từ đó Hoàn Ôn đã bắt đầu nổi tiếng. Ông càng nỗ lực học tập, rèn luyện võ nghệ để lập nghiệp. Hoàn Ôn lớn lên khi miền bắc Trung Quốc bị các tộc người Hồ ở phương bắc tràn xuống xâm chiếm, gọi là hoạ Ngũ Hồ, nhà Tấn phải chạy xuống miền Giang Nam. Miền bắc lúc đó có các nước Thành Hán, Hậu Triệu và Tiền Yên.
Hoàn Ôn nổi danh, được Tấn Minh Đế gả công chúa Nam Khang và trở thành phò mã nhà Tấn rồi được phong làm phò mã Đô úy. Sau đó, ông lần lượt giữ chức thái thú Lang Nha, thứ sử Từ châu.
Nắm binh quyền trong tay, Hoàn Ôn quyết chí tiêu diệt Ngũ Hồ ở phương bắc.
Năm 347, Hoàn Ôn tiêu diệt nước Thành Hán. Sau khi diệt Thành Hán, uy tín của Hoàn Ôn rất cao. Ông tiếp tục nuôi chí bắc phạt để giành lại trung nguyên.
Tháng 6 năm 349, tướng Hậu Triệu là Vương Giáp dâng thành Thọ Xuân cho Đông Tấn. Tấn Mục đế sai Ân Hạo dẫn quân bắc phạt chứ không cử Hoàn Ôn. Ông biết triều đình muốn dùng Hạo để khống chế mình nên rất không bằng lòng.
Ân Hạo bất tài, đánh trận thua liên tục. Hoàn Ôn không kìm chế được, đầu năm 354, ông viết sớ tâu lên vua Tấn kể tội Ân Hạo, xin cách chức Hạo. Vua Tấn không có cách nào khác đành cách chức Hạo và giao binh quyền cho ông.
Tháng 2 năm 354, Hoàn Ôn dẫn quân từ Giang Lăng đi đánh nước Tiền Tần (thành lập năm 350 từ sự tan vỡ của Hậu Triệu). Hoàn Ôn đi đánh địch hành quân xa, lương thảo vận không kịp. Ông định gặt lúa ngoài đồng thì Tần vương Phù Kiện đã sai quân đi đốt hết lúa ngoài đồng trước khi rút lui, khiến quân Tấn bị đói. Tháng 6 năm 354, Phù Kiện chỉnh lại đội ngũ được 8 vạn quân, bắt đầu phản công. Quân Tấn thiếu lương không ở lâu được, Hoàn Ôn đành phải rút quân, trên đường về tới Đồng Quan bị quân Tần tập kích, bị thiệt hại nặng.
Năm 356, Hoàn Ôn được phong làm chinh thảo đô đốc, dẫn quân đi đánh nước Yên. Tuy việc bắc phạt khi thắng khi thua nhưng Hoàn Ôn đã nắm quyền hành rất lớn trong triều đình với uy thế khiến vua Tấn lo ngại.
Tháng 3 năm 369, ông tự điều thứ sử các châu Từ, Lương, Duyện và Thọ Xuân theo đường thuỷ đi đánh Yên. Ông liên tiếp thắng quân Yên ở Hoàng Hư (Hà Nam) và Lâm Chử (Tân Trịnh - Hà Nam).
Vua Yên vội sai Lạc An vương Mộ Dung Tàng ra đánh cũng bị thua liền mấy trận, phải chạy sang cầu cứu Tiền Tần.
Vua Tần điều 2 vạn quân cứu Yên. Quân Tần chưa đến mà quân Yên đã bất ngờ phản công, đánh bại quân Tấn ở Phương Đầu. Hoàn Ôn bị mất 2 tướng, lại bị thiếu lương thảo, nên phải rút về nam. Nghe tin quân Tần sắp tới đánh sáp lại, ông vội rút lui, bị quân Yên đánh gấp, thiệt hại nặng.
Tuy Hoàn Ôn thua trận nhưng vì ông có quyền lớn triều đình, không ai dám truy trách nhiệm. Hoàn Ôn vốn có chí lấy ngôi nhà Tấn nên hay muốn bắc phạt để lập công, nhưng còn e ngại một bộ phận quan lại trung thành với nhà Tấn. Việc bắc phạt gặp bất lợi, sợ bị mất uy tín, để ra uy với nhà Tấn, ông tìm cách phế vua Tấn là Tư Mã Dịch. Hoàn Ôn truyền ra câu đồng dao rằng vua Tấn có tật bị liệt dương nên phải nhường ngôi.
Hoàn Ôn bèn phế Tư Mã Dịch, chọn lập một người cao tuổi và nhu nhược là Tư Mã Dục lên ngôi, tức là Tấn Giản Văn đế. Theo sử sách, khi được đưa lên ngôi, Giản Văn đế lo sợ bị hại như Tư Mã Dịch nên nước mắt giàn giụa, còn bản thân Hoàn Ôn cũng lo lắng sợ mọi người chống lại, không nói được lời nào.
Kết quả không ai dám phản đối Hoàn Ôn. Ông càng ra tay thanh trừng nhiều quan lại không cùng cánh.
Tháng 3 năm 373, Hoàn Ôn lâm bệnh, tới tháng 7 ông mất ở Cổ Quách, thọ 62 tuổi. Khi ông mất, con trai là Hoàn Huyền còn nhỏ. Ba mươi năm sau, Hoàn Huyền nối chí cha lại trở thành quyền thần nhà Đông Tấn, thực hiện việc cướp ngôi nhà Tấn, lập ra nhà Sở trong một thời gian.
Theo các sử gia Trung Quốc, Hoàn Ôn sống thường nhật giản dị, tiết kiệm, có tài; nhưng tính tình kiêu ngạo, dã tâm giành ngôi quá lộ liễu (với việc bắc phạt lập công để uy hiếp triều đình) nên hay bị các phe phái khác tìm cách ngăn trở, không hợp tác khi ông tác chiến và hành động trong triều. Do đó, không những việc bắc phạt không thành công, tâm nguyện của ông cũng không thực hiện được.
Câu nói nổi tiếng của Hoàn Ôn: “Đại trượng phu nếu không thể lưu tiếng thơm thì cũng có thể để lại tiếng xấu cho đời sau.”
12. Hứa Do, Sào Phủ: là tên một tích truyện cổ Trung Quốc, lấy tên hai nhân vật trong đó là Sào Phủ và Hứa Do. Theo truyền thuyết, hai nhân vật này sống đời vua Nghiêu.
Phụ Lục C
13. Khổng Tử (27 tháng 8 âm, 551 TCN-479 TCN): còn gọi là Khổng Phu Tử là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Hoa, các bài giảng và triết lý của ông có ảnh hưởng rộng lớn đối với đời sống và tư tưởng của các nền văn hóa Đông Á.
Triết học của ông nhấn mạnh trên sự tu dưỡng đức hạnh cá nhân và cai trị bằng đạo đức: "tu thân, tề gia, bình thiên hạ", sự chính xác của các mối quan hệ xã hội, đạo đức và quy phạm làm người, "Đạo Trung Dung" và các đức tính "Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín". Các giá trị đó đã có được tầm ảnh hưởng lớn trên mọi học thuyết khác ở Trung Quốc như Pháp gia hay Đạo gia trong suốt triều đại nhà Hán. Các tư tưởng của Khổng Tử đã được phát triển thành một hệ thống triết học được gọi là Khổng giáo.
Các bài giảng của Khổng Tử được nghiên cứu chủ yếu qua cuốn Luận Ngữ, một tập hợp những "mẩu chuyện cách ngôn ngắn", được biên soạn nhiều năm sau khi ông qua đời do các học trò của ông ghi chép lại. Trong gần 2.000 năm ông được cho là người biên soạn hoặc tác giả của Ngũ Kinh: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu (Kinh Nhạc đã bị Tần Thủy Hoàng đốt mất nên còn lại Ngũ Kinh).
Tiểu sử
Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 trước Công nguyên, vào thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, tại ấp Trâu, làng Xương Bình,nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Nhiều sử sách ghi rằng ông sinh trong một gia cảnh nghèo, nhưng thực tế gia đình ông có ông tổ ba đời vốn thuộc dòng quý tộc sa sút từ nước Tống dời đến nước Lỗ. Cha của Khổng Khâu, Thúc Lương Ngột (cháu 13 đời của Vi Tử Diễn, anh của vua Trụ nhà Thương) là quan võ thuộc ấp Trâu, đến 70 tuổi mới lấy Nhan thị mà sinh ra ông. Năm lên ba, Khâu mồ côi cha, lớn lên, phải làm lụng vất vả để nuôi mẹ, nhưng rất ham học. Năm 19 tuổi, ông lấy vợ và làm một chức quan nhỏ coi kho chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác. Ông cũng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường chăn nuôi, súc vật sinh trưởng rất tốt. Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm quan Tư không, chuyên quản lý việc xây dựng công trình. Năm 22 tuổi, ông mở lớp dạy học. Học trò gọi ông là Khổng Phu Tử, hay gọi gọn hơn là Khổng Tử. 'Tử' ngoài ý nghĩa là 'con' ra còn có nghĩa là "Thầy". Do vậy Khổng Tử là Thầy Khổng.
Trong suốt gần 20 năm, từ năm 34 tuổi, Khổng Tử dẫn học trò đi khắp các nước trong vùng để truyền bá các tư tưởng và tìm người dùng các tư tưởng đó. Có nơi ông được trọng dụng nhưng cũng có nơi ông bị coi thường. Năm 51 tuổi, ông quay lại nước Lỗ và được giao coi thành Trung Đô, năm sau được thăng chức Đại tư khấu (coi việc hình pháp), kiêm quyền tể tướng. Sau ba tháng, nước Lỗ trở nên thịnh trị. Nhưng rồi bị ly gián, gièm pha, ông bèn từ chức và lại ra đi một lần nữa.
Năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay vào soạn sách. Có thể nói Khổng Tử là người thầy tư nhân chuyên thu nhận học trò đầu tiên trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Trước thời ông, trường học hoàn toàn là của nhà nước. Khổng Tử sáng lập ra trường học tư, thu nhận nhiều đồ đệ, đưa giáo dục mở rộng cho bình dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian, có cống hiến thật to lớn đối với giáo dục thời cổ đại. Ông mất tháng 4 năm 479 TCN, thọ 73 tuổi.
Dạy học
Trong cuốn Luận Ngữ, Khổng Tử tự coi mình là một "người truyền đạt lại cái đã có mà không phát minh ra thứ gì khác". Ông rất nhấn mạnh trên tầm quan trọng của sự học, và chương mở đầu Luận Ngữ cũng đề cập tới việc học. Vì thế, ông được người Trung Quốc coi là vị Đại Sư. Thay vì tìm cách xây dựng một lý thuyết mang tính hệ thống về cuộc sống và xã hội, ông muốn các môn đồ của mình phải suy nghĩ sâu sắc cho chính mình và lặng lẽ nghiên cứu thế giới bên ngoài, chủ yếu thông qua các cuốn kinh cũ và qua các sự kiện quá khứ có liên quan (như Kinh Xuân Thu) hay những tình cảm của nhân dân trong quá khứ (như Kinh Thi).
Ở thời đại của sự phân chia, hỗn loạn và những cuộc chiến tranh không dứt giữa các nước chư hầu, ông muốn tái lập Thiên Mệnh để có thể thống nhất "thiên hạ" và mang lại hòa bình, thịnh vượng cho nhân dân. Vì thế Khổng Tử thường được coi là người đã đề xướng chủ nghĩa bảo thủ, nhưng khi xem xét kỹ những đề xuất của ông ta thấy ông đã sử dụng (và có thể cố ý bóp méo) những định chế và lễ nghi trong quá khứ nhằm đặt ra một hệ thống chính trị mới của riêng mình: sự khôi phục một vương quốc thống nhất mà những vị vua phải được lựa chọn theo đạo đức, không phải theo dòng họ, những người cai trị phải hành động vì nhân dân, và họ phải đạt tới mức hoàn thiện. Một vị vua như vậy có thể dùng đạo đức của mình giáo hóa nhân dân thay vì áp đặt mọi người bằng pháp luật và quy định.
Một trong những giáo lý sâu sắc nhất của Khổng Tử, một trong những điều khó hiểu nhất từ quan điểm phương Tây, có thể là việc ông sử dụng những câu chuyện cách ngôn chứ không giảng giải trực tiếp cách cư xử cho các môn đồ. Đạo đức của ông có thể được coi là một trong những kiểu đạo đức cao nhất. Cách dạy "gián tiếp" này được sử dụng rất nhiều trong các bài giảng của ông thông qua những lời ám chỉ, nói bóng gió, và thậm chí là sự lặp thừa. Điều này giải thích tại sao khi nghiên cứu cần đặt các bài giảng của ông vào đúng ngữ cảnh.
Có lẽ bài giảng nổi tiếng nhất của ông là Quy tắc vàng:
Tử Cống hỏi: "Có một chữ nào có thể dẫn dắt hành xử trọn đời không?"
Thầy đáp: "Có lẽ là chữ Thứ chăng? Cái gì mà mình không muốn thì đừng làm cho người khác (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân)?" (sách Luận ngữ)
(Điều mình không muốn đừng bắt người phải chịu thì gọi là Thứ)
Khổng Tử cũng nhấn mạnh trên cái mà ông gọi là "lễ và nhạc", coi hai thứ đó là những trụ cột của sự cân bằng cho trật tự và sự hài hoà. Lễ là các yêu cầu và quy phạm trong việc đối nhân xử thế; còn âm nhạc là để thống nhất mọi con tim cùng chung vui, cũng là để giữ gìn đức hạnh. Ông nói thêm rằng lễ không chỉ là cúng tế, và âm nhạc không chỉ là âm thanh của dùi đánh vào chuông. Cả hai còn là cách truyền đạt giữa lòng nhân của một người và hoàn cảnh xã hội của anh ta; cả hai yếu tố đó đều tăng cường các mối quan hệ xã hội, như ngũ luân (năm mối quan hệ chủ yếu): quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu thê (vợ chồng), huynh đệ (anh em) và bằng hữu (bạn bè). Các trách nhiệm luôn được cân bằng, và nếu một thần dân phải tuân lệnh vua, thì thần dân cũng phải nói ra khi nhà vua sai lầm.
Khổng Tử chú trọng vào sự tu dưỡng đạo đức cá nhân: "Tu thân, Tề gia, Bình Thiên hạ" và cai trị thiên hạ bằng lòng nhân từ. Ông nhấn mạnh vào Ngũ thường: "Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín"; Nhân là lòng từ thiện, Nghĩa là việc nên làm, Lễ là yêu cầu và quy phạm trong việc đối nhân xử thế với người trên và dưới, Trí là trí tuệ, Tín là lòng thành thật. Người ta phải giữ năm đạo đó làm thường, chẳng nên để rối loạn. Những bài giảng của Khổng Tử sau này được các môn đồ của ông biến thành một bộ văn bản tỉ mỉ về những quy định và cách thức thực hiện nghi lễ. Nhiều thế kỷ sau khi ông đã qua đời, cả Mạnh Tử và Tuân Tử đều viết những cuốn sách quan trọng, và lúc ấy, một triết lý đã được tạo dựng đầy đủ, gọi là Khổng giáo.
Triết học
Dù Khổng giáo thường được người Trung Quốc tin theo như một tôn giáo, vẫn tồn tại những cuộc tranh luận về việc liệu đó có phải là một tôn giáo không, bởi Khổng giáo ít đề cập tới các vấn đề thần học hay duy linh (quỷ thần, kiếp sau, vân vân). Khổng Tử đề cao mối quan hệ gia đình, thờ cúng tổ tiên, trẻ kính trọng già, vợ tôn trọng chồng, và gia đình là căn bản cho một chính phủ lý tưởng. Ông đã tuyên bố rõ nguyên tắc nổi tiếng, "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân" (cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác).
Đạo đức
Lý thuyết đạo đức của Khổng tử dựa trên ba quan niệm chính:
Khi Khổng tử trưởng thành, lễ được xem là ba khía cạnh sau trong cuộc đời: hiến tế cho thần thánh, thiết chế chính trị và xã hội, và hành vi hàng ngày. Lễ được xem là quy phạm đạo đức và hành vi mà Thiên thượng (Trời) chế định cho con người, lấy đó mà biết việc nào nên làm, việc nào không nên làm.
Đối với Khổng tử, nghĩa là nguồn gốc của lễ. Nghĩa chính là cách hành xử đúng đắn.
Trong khi làm việc vì lễ, vị kỷ cá nhân chưa hẳn đã là xấu và người cư xử theo lễ một cách đúng đắn là người mà cả cuộc đời dựa trên trí. Tức là thay vì theo đuổi quyền lợi của cá nhân mình, người đó cần phải làm những gì là hợp lẽ và đạo đức. Trí là làm đúng việc vì một lý do đúng đắn. Nghĩa dựa trên quan hệ qua lại. Một ví dụ sống theo nghĩa là tại sao phải để tang cha mẹ ba năm sau khi chết. Lý do là vì cha mẹ đã phải nuôi dưỡng chăm sóc đưa trẻ toàn bộ trong suốt ba năm đầu đời, và là người có trí phải đền đáp lại bằng cách để tang ba năm.
Cũng như lễ xuất phát từ nghĩa, thì nghĩa cũng xuất phát từ nhân (). Nhân là cách cư xử tốt với mọi người. Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).
Đức hạnh theo Khổng tử là dựa trên việc sống hài hòa với mọi người.
Ông áp dụng nguyên tắc trên như sau: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Cái gì mà ta không muốn thì đừng làm cho người khác".
Chính trị
Tư tưởng chính trị Khổng Tử dựa trên tư tưởng đạo đức của ông. Ông cho rằng chính phủ tốt nhất là chính phủ cai trị bằng "lễ nghĩa" và đạo đức tự nhiên của con người, chứ không phải bằng vũ lực và mua chuộc. Ông đã giải thích điều đó tại một trong những đoạn quan trọng nhất ở cuốn Luận Ngữ: 1. "Dùng mệnh lệnh, pháp luật để dẫn dắt chỉ đạo dân, dùng hình phạt để quản lý dân, làm như vây tuy có giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục. Dùng đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, làm như vậy chẳng những dân hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, mà còn cam tâm tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ mặt tư tưởng." Sự "biết sỉ nhục" là sự mở rộng của trách nhiệm, nơi mà hành động trừng phạt đi trước hành động xấu xa, chứ không phải đi sau nó như trong hình thức luật pháp của Pháp gia.
Trong khi ủng hộ ý tưởng về một vị Hoàng đế đầy quyền lực, có lẽ vì tình trạng hỗn loạn ở Trung Quốc thời kỳ đó, các triết lý của Khổng Tử chứa đựng một số yếu tố hạn chế quyền lực của những nhà cai trị. Ông cho rằng lời lẽ phải luôn ngay thật; vì thế tính trung thực có tầm quan trọng hàng đầu. Thậm chí trên nét mặt, phải luôn thể hiện sự trung thực. Khi bàn luận về mối quan hệ giữa thần dân và nhà vua (hay giữa con và cha), ông nhấn mạnh sự cần thiết phải có sự tôn trọng của người dưới với người trên. Điều này đòi hỏi người dưới phài đưa ra lời khuyên cho người trên nếu người trên có hành động sai lầm. Tư tưởng này được học trò của ông là Mạnh Tử phát triển thêm khi nói rằng nếu vua không ra vua, ông ta sẽ mất Thiên mệnh và sẽ phải bị lật đổ. Vì thế hành động giết bạo chúa là đúng đắn bởi vì kẻ bạo chúa giống một tên trộm hơn là một vị vua.
Tác phẩm
Theo truyền thuyết, ông được cho là người biên soạn hay hiệu đính Ngũ Kinh. Ngũ Kinh là năm quyển kinh điển trong văn học Trung Hoa dùng làm nền tảng trong Nho giáo. Ngũ Kinh gồm có:
1. Kinh Thi: sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả lời "chưa". Khổng Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao" (sách Luận ngữ).
2. Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
3. Kinh Lễ: ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ).
4. Kinh Dịch: nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
5. Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói: "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất, xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra. Tên gọi một giai đoạn lịch sử từ 722 đến 481 TCN trong lịch sử Trung Quốc, thời Xuân Thu, bắt nguồn từ cuốn Kinh Xuân Thu này.
Các tác phẩm nổi tiếng của Khổng Tử ngoài bộ Ngũ Kinh còn có Luận Ngữ. Về Luận Ngữ: xin xem Luận Ngữ ở Phụ Lục D.
14. Khuất Nguyên (340 TCN - 278 TCN): tên Bình, biệt hiệu Linh Quân là một chính trị gia, một nhà thơ yêu nước nổi tiếng của Trung Quốc. Ông là người trong hoàng tộc nước Sở, làm chức Tả Đồ cho Sở Hoài Vương. Ông học rộng, nhớ dai, giỏi về chính trị, lại có tài văn chương. Lúc đầu ông được vua yêu quý, sau có quan lại ganh tài ông, tìm cách hãm hại. Vua Sở nghe lời gièm pha nên ghét ông. Ông âu sầu, ưu tư viết thiên Ly Tao để tả nỗi buồn bị vua bỏ.
Đến cuối đời ông bị vua Tương Vương (người nối ngôi Sở Hoài Vương) đày ra Giang Nam (phía nam sông Dương Tử). Ông thất chí, tự cho mình là người trong sống trong thời đục, suốt ngày ca hát như người điên, làm bài phú "Hoài Sa" rồi ôm một phiến đá, gieo mình xuống sông Mịch La tự tử ngày mùng 5 tháng 5. Dân làng ở đó đã mang những thuyền đến giữa dòng sông để cố gắng cứu vớt nhưng không thành. Để cho cá và các linh hồn của ma quỷ không lại gần được thi thể của ông họ đã đánh trống và vẩy nước bằng các mái chèo của họ. Sau đó để tưởng nhớ, tỏ rõ sự tiếc thương một người trung nghĩa, mỗi năm cứ đến ngày đó, dân Trung Quốc xưa lại làm bánh (bánh ú), quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài (ý làm cho cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền ra giữa sông, ném bánh xuống cúng Khuất Nguyên. Đó là sự tích tết Đoan Ngọ (Đoan Dương).
15. Kiệt (trị vì: 1818 TCN - 1767 TCN): hay Hạ Kiệt là vua cuối cùng nhà Hạ trong lịch sử Trung Quốc. Hạ Kiệt là con của Hạ Phát, vốn có tên là Lý Quý. Vì Lý Quý là người tàn ác nên bị gọi là Kiệt, nghĩa là kẻ độc ác ưa giết chóc.
Lý Quý được sử sách ghi lại là ông vua hoang dâm và tàn bạo, thích gây việc chiến tranh.
Lý Quý mang quân đi đánh nước Hữu Thi, nước Hữu Thi không chống nổi bèn dâng mỹ nữ là nàng Muội Hỷ và xin Lý Quý lui quân. Lý Quý được nàng Muội Hỷ bèn tha cho nước Hữu Thi.
Lý Quý sủng ái nàng Muội Hỷ, tăng cường bóc lột nhân dân để hưởng lạc.
Thấy nước Thương của Thành Thang giàu mạnh, Lý Quý sợ Thương chống lại nên lệnh triệu Thương Thang, tức Thành Thang đến kinh đô rồi bắt và giam cầm ở Hạ Đài. Sau một thời gian, Kiệt tha cho Thương Thang, thả về bộ tộc. Thương Thang quyết tâm phát triển lực lượng để lật đổ sự cai trị của Hạ Kiệt.
Lý Quý vẫn tiếp tục việc chinh phạt, mang quân đi đánh đất Manh Sơn. Manh Sơn bèn theo nước Hữu Thi, dâng hai người con gái đẹp là Uyển và Viêm để xin Hạ lui quân. Lý Quý cũng bằng lòng lui quân về và rất sủng ái hai người con gái đất Manh Sơn, lạnh nhạt với nàng Muội Hỷ.
Trong khi đó Thành Thang nước Thương ngày càng lớn mạnh. Thương Thang sai Y Doãn đến kinh đô nhà Hạ trá hàng. Muội Hỷ bị Lý Quý lạnh nhạt đâm ra oán vọng. Y Doãn đã lợi dụng sự oán vọng của Muội Hỷ đã liên hệ với nàng để nắm được nhiều tin tức về nội tình triều đình nhà Hạ. Sau khi nắm được nội tình nhà Hạ, Y Doãn trở về với Thành Thang.
Trong khi Lý Quý say đắm tửu sắc thì Thương Thang tìm cách liên minh với các bộ tộc để tạo vây cánh và mang quân đánh diệt các nước chư hầu thân với Hạ như Cát, Bình Chướng Vi, Côn Ngô.
Theo kế sách của Y Doãn, Thương Thang khiêu chiến với nhà Hạ, bỏ không nộp cống cho Hạ Kiệt. Lý Quý nổi giận điều động binh mã 9 bộ tộc phía đông trước sau đánh vào bộ lạc Thương. Thang sai người đến nộp cống. Thấy Thang thuần phục, ông lại bằng lòng cho lui quân.
Thang tranh thủ thời gian tìm cách liên minh và chia rẽ 9 bộ tộc giúp quân cho Hạ Kiệt. Sang năm sau, Thang lại bỏ cống nạp. Lý Quý lại tổ chức hội các bộ lạc phụ thuộc ở Hữu Nhung đánh Thương, nhưng lần này các bộ lạc không nghe theo. Bộ lạc Mân phản đối việc đánh Thương của Lý Quý. Ông nổi giận bèn mang quân đánh Mân trước. Nhân dân phải phục dịch cho cuộc chiến nặng nề càng oán hận ông hơn.
Thấy ông bị sa lầy vào cuộc chiến với tộc Mân, Thang quyết định ra quân diệt Hạ. Năm 1767 TCN, Thương Thang đánh thắng Lý Quý trong trận quyết định ở Minh Điều. Hạ Kiệt thua trận, bị mất ngôi và bị đày ra Nam Sào. Ông nói với thủ hạ: “Ta hối hận không giết Thang ở Hạ Đài nên mới ra nông nỗi này”.
Nhà Hạ mất. Hạ Kiệt ở ngôi 52 năm, bị đày ra Nam Sào 3 năm thì qua đời tại núi Đình Sơn năm 1764 TCN, không rõ bao nhiêu tuổi. Thành Thang lập ra nhà Thương.
Phụ Lục C
16. Lã Bất Vi (292-235 TCN): là một thương gia thời Chiến Quốc. Sau ông được chọn giữ chức thừa tướng cho nước Tần. Lã Bất Vi là cha của Doanh Chính tức vua Tần Thủy Hoàng nước Tần, vị hoàng đế đầu tiên của Trung Hoa. Ông được cho là người nổi tiếng trong lịch sử về buôn quan bán tước.
Bất Vi có một người thiếp là Triệu Cơ, đàn hay múa giỏi, lại đang có mang. Bất Vi mời Tử Sở đến nhà, sai Triệu Cơ ra rót rượu. Tử Sở đem lòng say mê, Lã Bất Vi liền dâng Triệu Cơ cho Tử Sở. Tử Sở lập Triệu Cơ làm phu nhân, đến đủ tháng sinh con là Chính.
Tử Sở lúc đó là con giữa của An Quốc Quân, tức là vua Tần Hiếu Văn vương.
Sau khi Tử Sở làm vua (vua Trang Tương Vương, nối ngôi Tần Hiếu Văn vương) được ba năm thì mất. Năm 246 TCN thái tử Chính lên ngôi, năm đó mới 13 tuổi, gọi là Tần Vương Chính, tức Tần Thủy Hoàng sau này, tôn Lã Bất Vi làm tướng quốc, gọi là trọng phụ.
Vua Tần Vương Chính tuổi nhỏ, thái hậu Triệu Cơ (thiếp cũ của Lã Bất Vi) thường lén lút tư thông với Lã Bất Vi. Trong nhà Lã Bất Vi có đến vạn người. Bất Vi bèn sai các khách soạn ra những điều mình biết, họp lại làm tám Lãm, sáu Luận, mười Kỷ gồm hơn hai mươi vạn chữ, cho là đủ hết những việc trời đất, muôn vật, xưa nay. Đặt tên sách là Lã Thị Xuân Thu bày ở cửa chợ Hàm Dương, đặt nghìn lạng vàng lên trên, mời các du sĩ của chư hầu ai có thể thêm bớt một chữ thì xin biếu một nghìn lạng vàng.
Khi Tần vương Chính Tần Thủy Hoàng đã lớn mà thái hậu Triệu Cơ cứ dâm loạn mãi. Bất Vi sợ lộ, mang vạ, bèn ngầm tìm kẻ dương vật lớn là Lao Ái, dùng làm người nhà. Thường làm trò vui, sai Lao Ái lấy dương vật của mình tra vào bánh xe gỗ đồng mà đi, khiến thái hậu nghe biết chuyện để nhử thái hậu Triệu Cơ. Quả nhiên thái hậu nghe chuyện rồi, muốn được riêng Lao Ái. Bất Vi vờ sai người tố cáo Lao Ái phạm tội đáng thiến. Bất Vi lại báo với thái hậu: Nên có kẻ giả bị thiến này làm chức Cấp Sự Trung. Thái hậu bèn ngầm cho kẻ coi việc thiến nhiều tiền. Viên quan coi án lại luận tội vờ, nhổ râu mày làm cho hoạn quan Lao Ái nhờ vậy được vào hầu thái hậu.
Năm 238 TCN, Tần vương Chính đã lớn. Ông phát giác ra vụ việc Lao Ái, bèn giết 3 họ Lao Ái và hai người con riêng của Lao Ái và thái hậu Triệu Cơ. Vụ việc liên quan tới Lã Bất Vi, Tần Thủy Hoàng cách chức, lưu đày rồi sang năm 235 TCN hạ lệnh ép Lã Bất Vi tự sát. Lã Bất Vi tự liệu sẽ bị giết bèn uống thuốc độc tự tử.
17. Lão Tử: là một nhân vật chính yếu trong Triết học Trung Quốc, sự tồn tại của ông trong lịch sử hiện vẫn đang còn được tranh cãi. Theo truyền thuyết Trung Quốc, ông sống ở thế kỷ 6 TCN. Nhiều học giả hiện đại cho rằng ông sống ở thế kỷ 4 TCN, thời Bách gia chư tử và thời Chiến Quốc. Lão Tử được coi là người viết Đạo Đức Kinh - cuốn sách của Đạo giáo có ảnh hưởng lớn, và ông được công nhận là Khai tổ của Đạo giáo (Đạo tổ).
Tên riêng của Lão Tử có thể là Lý Nhĩ, tên tự của ông có thể là Bá Dương, và tên thụy của ông là Đam, () có nghĩa là "Bí ẩn".
Lão Tử cũng được gọi là: Lão Đam, Lão Quân, Lý Lão Quân, Thái Thượng Lão Quân, Thái Thượng Đạo Tổ, Lão Tử Đạo Quân, Huyền Đô đại lão gia.
Người ta biết được rất ít về cuộc đời Lão Tử. Sự hiện diện của ông trong lịch sử cũng như việc ông viết cuốn "Đạo Đức Kinh" đang bị tranh cãi rất nhiều. Lão Tử đã trở thành một anh hùng văn hóa quan trọng đối với các thế hệ người Trung Quốc tiếp sau. Truyền thuyết cho rằng ông sinh ra ở huyện Khổ nước Sở, hiện nay là Lộc Ấp thuộc tỉnh Hà Nam, trong những năm cuối thời Xuân Thu. Một số truyền thuyết nói rằng khi sinh ra tóc ông đã bạc trắng, vì ông đã nằm trong bụng mẹ 8 hay 80 năm, điều này giải thích cho cái tên của ông, có thể được dịch thành "bậc thầy già cả" và "đứa trẻ già".
Theo truyền thống, và một tiểu sử gồm cả trong cuốn sử của Tư Mã Thiên, Lão Tử là người cùng thời nhưng lớn tuổi hơn Khổng Tử và làm quan giữ sách trong thư viện triều đình nhà Chu. Khổng Tử đã có ý định hay đã tình cờ gặp ông ở nước Chu, gần nơi hiện nay là Lạc Dương, nơi Khổng Tử định đọc các cuốn sách trong thư viện. Theo những câu chuyện đó, trong nhiều tháng sau đó, Khổng Tử và Lão Tử đã tranh luận về lễ nghi và phép tắc, vốn là những nền tảng của Khổng giáo. Lão Tử cho rằng việc khôi phục lễ giáo thời nhà Chu của Khổng Tử để giúp thiên hạ thái bình là không thực dụng. Truyền thuyết Đạo giáo kể rằng những cuộc tranh luận đó có ích cho Khổng Tử nhiều hơn so với những gì có trong thư viện.
Sau này, Lão Tử nhận thấy rằng chính sự của đất nước đang tan rã và quyết định ra đi. Ông đi về phía Tây trên lưng một con trâu qua nước Tần và từ đó biến mất vào sa mạc rộng lớn. Truyền thuyết kể rằng có một người gác cửa tên Doãn Hỉ ở cửa phía tây của ải Hàm Cốc thuyết phục Lão Tử viết lại những hiểu biết của mình trước khi đi vào sa mạc. Cho tới lúc ấy, Lão Tử mới chỉ nói ra các triết thuyết của ông mà thôi, và giống như trường hợp của Chúa Giêsu, Phật, và Khổng Tử (những cuốn văn tuyển của họ hầu như được hoàn thành bởi các đệ tử). Theo yêu cầu của người lính đó, Lão Tử đã viết để lại cuốn "Đạo Đức Kinh". Nhiều cuốn ghi chép và bức tranh về Lão Tử còn lại đến ngày nay, thường thể hiện ông là một người già hói đầu với một chòm râu trắng hay đen và rất dài; ông thường cưỡi trên lưng một con trâu.
Đạo Đức Kinh là một trong những cuốn chuyên luận đáng chú ý nhất trong lịch sử triết học Trung Quốc. Nó là kiệt tác được cho là của ông, đụng chạm tới nhiều vấn đề của triết học trong quan hệ giữa con người và thiên nhiên, "người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên", rằng con người cần sống hòa hợp với thiên nhiên và tạo hóa, tuân theo quy luật của thiên nhiên, tu luyện để sống lâu và gần với Đạo.
Đạo Đức Kinh là một tác phẩm triết học kinh điển. Trang Tử, người kế tục nổi tiếng nhất của Lão Tử, đã viết một cuốn sách có ảnh hưởng lớn tới giới trí thức Trung Quốc với các tư tưởng về chủ nghĩa cá nhân, tự do, sự thảnh thơi, và nghệ thuật, cuốn sách này có thể chính là nền tảng của Mỹ học Trung Quốc tuy tác giả không nói gì về điều đó.
Lão Tử để lại một số câu nói nổi tiếng:
Người tri túc, không bao giờ nhục (tri túc bất nhục).
Lưới trời lồng lộng, cao mà khó lọt “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất”.
Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghị tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh vạn vật...
Tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh. Thắng được mình là kiên cường.
Người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên".
18. Liễu Hạ Huệ (720 TCN-621 TCN): tên thật là Triển Cầm, tự là Quý, người đất Liễu Hạ, nước Lỗ, thời Xuân Thu, nổi tiếng là một chính nhân quân tử.
Liễu Hạ Huệ làm Sĩ Sư, ba lần bị truất mà không bỏ nước. Có người hỏi, ông trả lời: "Lấy đạo ngay mà thờ người thì đi đâu mà không bị ba lần truất. Nếu lấy đạo cong thì hà tất phải bỏ nước của cha mẹ". Sau khi chết, được đặt tên thụy là Huệ. Mạnh Tử khen ông là bậc thánh về Hòa. Nguyễn Du trong Bắc hành tạp lục đã làm bài thơ viếng mộ ông.
Liễu Hạ Huệ là một chính nhân quân tử:
Liễu Hạ Huệ một hôm dừng chân nghỉ qua đêm trước cổng thành, có một phụ nữ cũng đến trú chân. Trời lạnh người phụ nữ này bị cảm lạnh rét cóng, Liễu Hạ Huệ liền cởi áo mình ra khoác lên người cô ta rồi ôm vào lòng để cô ta hết lạnh, mà trong lòng không hề có một chút tà tâm.
Lại có lần Liễu Hạ Huệ ngồi xe ngựa với đàn bà, đi cả quãng đường dài mà mắt ông chỉ nhìn thẳng chứ không hề liếc ngang lần nào.
19. Lưu Biểu (143-208): tự là Cảnh Thăng, quê ở Cao Bình, đất Sơn Dương là một lãnh chúa phong kiến thuộc hoàng tộc nhà Hán sống vào cuối đời Hán trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Biểu là người trấn giữ Kinh Châu, một vùng đất có vị trí quân sự rất quan trọng nên luôn bị các thế lực phong kiến đời tiền Tam quốc dòm ngó. Trong tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Lưu Biểu được miêu tả là một người nhu nhược, có hư danh chứ không có thực tài. Ông nắm giữ trong tay một vị trí chiến lược quan trọng nhưng không biết cách phát huy thế mạnh.
Năm 191, Tôn Kiên ở Giang Đông về phe với Viên Thuật đi đánh Lưu Biểu, bị quân Lưu Biểu bắn chết. Sau đó, Lưu Biểu liên kết với Trương Tú đánh nhau với Tào Tháo nhưng thất bại.
Năm 200, Lưu Bị đến Kinh Châu nương nhờ Lưu Biểu. Ông sai Lưu Bị đến trấn giữa Tân Dã. Vợ thứ Lưu Biểu là Sái thị cùng anh là Sái Mạo luôn tìm cách hãm hại Lưu Bị vì lo Bị sẽ đoạt cơ nghiệp của con mình sau này.
Lúc này Tào Tháo, sau chiến thắng ở trận Quan Độ trước Viên Thiệu, trở thành thế lực phong kiến mạnh nhất Trung Quốc nên có ý muốn chiếm Kinh Châu của Lưu Biểu cùng lúc đó Hạ Khẩu là vùng đất quan trọng của Kinh Châu do Hoàng Tổ trấn giữ lại bị Đông Ngô chiếm được khiến Lưu Biểu lo lắng sinh bệnh. Năm 208, Tào Tháo nghe tin Lưu Biểu bệnh sắp chết sợ Lưu Bị tọa hưởng Kinh Châu nên đem quân đến Tân Dã. Lưu Biểu nghe tin Tào Tháo kéo quân đến sợ quá nên bệnh chết, thọ 66 tuổi.
20. Lưu Cơ (1311-1375): còn gọi là Lưu Bá Ôn; là nhà văn, nhà thơ và là công thần khai quốc nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong những nhân vật có nhiều huyền thoại; là người đã đề cao tư tưởng "quan bức, dân phản", đồng thời là tác giả Mại cam giả ngôn, một tản văn nổi tiếng nhằm đả kích giới "thống trị thối nát".
Lưu Bá Ôn, người huyện Thanh Điền, tỉnh Chiết Giang. Nhờ siêng học, đam mê đọc sách, ông sớm làu thông kinh sử, văn chương, binh pháp và thiên văn. Vào cuối đời nhà Nguyên, ông thi đỗ tiến sĩ, được bổ làm quan; nhưng vì bị chèn ép, chỉ trích nên ông tức giận bỏ về ở ẩn năm 1360.
Khi Chu Nguyên Chương khởi nghiệp, lấy lễ mời ông ra giúp. Lưu Bá Ôn giúp vua Minh Thái Tổ (Chu Nguyên Chương) chế định mọi công việc, từ khoa cử, hình pháp cho đến lễ nhạc... Sau thấy Minh Thái Tổ rắp tâm hãm hại công thần, tháng 8 năm Hồng Vũ thứ nhất (khoảng tháng 10 năm 1368), ông đệ đơn xin từ chức, nhưng mãi đến năm 1371, ông mới được về nghỉ sau khi từ chối ngôi vị tể tướng.
Về cuối đời, do bất hòa với Tể tướng Hồ Duy Dung, ông buồn rầu mà sinh bệnh. Sau khi uống thuốc, bệnh càng trở nên nguy kịch, và ông mất hơn một tháng sau đó (năm 1375), hưởng thọ 64 tuổi, có ý kiến cho rằng ông bị Hồ Duy Dung đầu độc mà chết.
21. Lưu Linh: tên tự là Bá Luân, người đời Tấn, là người phóng đạt làm quan đến chức Kiến uy tướng quân, thích uống rượu và uống không biết say, có làm bài "Tửu đức tụng" ca ngợi việc uống rượu. Lưu Linh là một trong nhóm Trúc lâm thất hiền (7 người hiền trong rừng Trúc: Nguyễn Tịch (210-263), Kê Khang (223-263), Lưu Linh (220-300), Sơn Đào (205-283), Hướng Tú (221-300), Vương Nhung (234-305) và Nguyễn Hàm).
22. Mã Viện (14 TCN-49): tự Văn Uyên, người Phù Phong, Mậu Lăng (nay là huyện Phù Phong, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc) là một viên tướng người Hán trong thời kỳ nhà Đông Hán. Hậu duệ nổi tiếng của ông là Mã Đằng và Mã Siêu một danh tướng trong thời kỳ Tam Quốc, Mã Đại, trọng thần nhà Thục Hán. Lăng mộ của ông còn ở đông bắc Hưng Bình, Thiểm Tây ngày nay. Ông còn được gọi là Phục Ba tướng quân hay Mã Phục Ba.
Ông là một trong những vị tướng nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, phục vụ vua Hán Quang Vũ Đế thống nhất đế quốc sau thời kỳ loạn Vương Mãng. Con gái của ông sau này đã trở thành hoàng hậu của vua Hán Minh Đế - tức là Minh Đức hoàng hậu.
Một trong những chiến tích lớn nhất của ông là việc chinh phạt Giao Chỉ (Việt Nam). Ông dập tắt cuộc khởi nghĩa của bà Trưng Trắc và em bà là Trưng Nhị vào năm 43 ở miền bắc Việt Nam ngày nay. Vì vậy, trong chính sử Việt Nam, ông là kẻ xâm lược.
Năm 49, trong khi đem quân đi chống lại các bộ lạc Ô Hoàn, Mã Viện qua đời vì một bệnh truyền nhiễm, cũng là bệnh đã giết chết một lượng lớn quân của ông.
23. Mặc Tử (khoảng 478 - 392 TCN): tên thật là Mặc Địch, người nước Lỗ, thời Chiến Quốc. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình tiểu thủ công. Ông là người vốn gần gũi thực tế xã hội với người nhân dân lao động.
Học thuyết "Mặc Tử" đã nêu lên gồm 10 chủ trương lớn (có thể nói là mười cương lĩnh chính trị của ông), nội dung được chia thành mười loại: Thượng Hiền, Thượng Đồng, Tiết dụng, Tiết táng, Phi lạc, Phi mệnh, Thiên chí, Minh quỹ, Kiêm ái, Phi công. Học thuyết "Mặc Tử" vốn có 71 thiên. Ngày nay còn giữ lại được 53 thiên trong đó có hai thiên "Kinh thượng" và "Kinh hạ" là do ông viết còn lại phần lớn là do các đệ tử, học trò dựa theo lời nói, bài giảng và những việc làm của ông và các học giả Mặc Gia, ghi chép chỉnh lý thành sách.
24. Mạnh Tử (372-289 TCN; một số tài liệu khác ghi là: 385-303/302 TCN) là nhà triết học Trung Quốc và là người tiếp nối Khổng Tử.
Mạnh Tử, tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt Vương, nhà Chu, quê gốc ở đất Trâu, thuộc nước Lỗ, nay là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông mồ côi cha, chịu sự nuôi dạy nghiêm túc của mẹ là Chương thị. Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của Tử Tư, tức là Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử. Vì vậy, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng Khổng giáo. Mạnh Tử là đại biểu xuất sắc của Nho giáo thời Chiến Quốc, thời kỳ nở rộ các nhà tư tưởng lớn với các trường phái như Pháp gia, Du thuyết, Nho gia, Mặc gia... (thời kỳ bách gia tranh minh) và cũng là thời kỳ mà các tập đoàn phong kiến tranh giành, xâu xé lẫn nhau gây ra các cuộc chiến tranh liên miên, dân tình vô cùng khổ sở.
Tư tưởng của Mạnh Tử phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử nhưng ông không tuyệt đối hóa vai trò của ông vua như Khổng Tử, ông chủ trương dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh, ông cũng là người đưa ra thuyết tính thiện của con người, rằng con người sinh ra đã là thiện rồi nhân chi sơ bản tính thiện, tư tưởng này đối lập với thuyết tính ác của Tuân Tử rằng nhân chi sơ bản tính ác. Ông cho rằng "kẻ lao tâm trị người còn người lao lực thì bị người trị". Học thuyết của ông gói gọi trong các chữ "Nghĩa", "Trí", "Lễ", "Tín". Ông đem học thuyết của mình đi truyền bá đến vua chúa các nước chư hầu như Tề Tuyên Vương (nước Tề), Đằng Văn Công (nước Đằng), Lương Huệ Vương (nước Nguỵ)...nhưng không được áp dụng. Về cuối đời ông dạy học và viết sách, sách Mạnh Tử của ông là một trong những cuốn sách quan trọng của Nho giáo. Ông được xem là ông tổ thứ hai của nho giáo và được hậu thế tôn làm "Á thánh Mạnh Tử" (chỉ đứng sau Khổng Tử).
Mạnh Tử đề xuất tư tưởng người quân tử phải có "Hạo nhiên chính khí", cần "Lấy Đức thu phục người khác", "Người nhân từ khắp thiên hạ không có kẻ thù nào". Mạnh Tử cho rằng bản tính của con người lúc ban đầu là Thiện, Đức của một người là quà tặng của thiên thượng (Trời), và được liên thông với thiên thượng. Mọi người đều có bản chất tốt và đạo đức, và nếu một người thủ đức và nỗ lực tu thân, anh ta có thể trở thành người giống như các vị vua Nghiêu, vua Thuấn. Mạnh Tử chỉ ra rằng để trở thành một con người có lý niệm, người đó cần phải giữ được 4 tiêu chuẩn, “lòng trắc ẩn, thuộc về lòng nhân từ; sự hổ thẹn, thuộc về nghĩa khí; tâm khiêm nhường, thuộc về lễ nghi; tâm thị phi, thuộc về trí tuệ” (trích từ “Cuốn đầu tay của Công Tôn Sửu" trong ‘các tác phẩm của Mạnh Tử’). Bốn đặc tính của con người này cùng các hành vi tương ứng của họ trở thành nền tảng tạo thành bốn đức tính của lòng nhân từ, nghĩa khí, lễ nghi, và trí tuệ. [5]
Mạnh tử cả đời vững tin vào chân lý, có trí tuệ dồi dào, giỏi trình bày và phân tích lý luận triết học. Ông kiên định khích lệ người ta làm điều thiện, lời nói nào cũng có tinh thần cổ vũ và dẫn dắt người ta.
Sách “Mạnh Tử”
Sách “Mạnh Tử” là tác phẩm triết học, đạo đức học và chính trị học làm ra bởi Mạnh Tử và các môn đệ của ông như Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương v.v... ghi chép lại những điều đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và các học trò cùng với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác như: học thuyết của Mặc Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử là một kinh điển rất quan trọng trong Tứ Thư của Nho học. Tứ Thư là bốn tác phẩm kinh điển của Nho học Trung Hoa, gồm Đại Học (xem Tăng Tử trong Phụ Lục C), Trung Dung (xem Tăng Tử trong Phụ Lục C), Luận Ngữ (xem Luận Ngữ trong Phụ Lục D) và Mạnh Tử. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia làm 2 phần: Mạnh Tử thượng và Mạnh Tử hạ. Mạnh Tử thượng gồm 3 thiên:
Lương Huệ Vương (thượng - hạ) Công Tôn Sửu (thượng - hạ) Đằng Văn Công (thượng - hạ) Mạnh Tử hạ gồm 4 thiên:
Ly Lâu (thượng -hạ)
Vạn Chương (thượng - hạ) Cáo tử (thượng - hạ)
Tận tâm (thượng - hạ)
Nội dung sách gồm 2 phần: Tâm học và Chính trị học.
Tâm học: Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú cho. Sự giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối, trau dồi nó để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của Trời ban cho người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể. Học là để giữ cái Tâm, nuôi cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh.
Nhân và nghĩa vốn có sẵn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất với Trời.
Phần Tâm học của Mạnh Tử rất sâu xa, khiến học giả dù ở địa vị hay cảnh ngộ nào cũng giữ được phẩm giá tôn quý.
Chính trị học: Mạnh Tử chủ trương: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạo trong thời quân chủ chuyên chế đang thịnh hành. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không có quyền lấy dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ trương về chính trị của Mạnh Tử thật vô cùng mới mẻ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm cho những người chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được. Có thể đây là lý thuyết khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này.
Tóm lại, bộ sách Mạnh Tử rất có giá trị với Nho giáo. Phần Tâm học trong sách là đỉnh cao nhất trong học thuyết Nho giáo.
Trình Y Xuyên nói: "Kẻ đi học nên lấy hai quyển sách: Luận Ngữ và Mạnh Tử làm cốt. Đã học được hai bộ sách này rồi thì không cần học Ngũ Kinh cũng rõ thông được cái đạo của Thánh hiền."
Ngũ Kinh là năm quyển kinh điển trong văn học Trung Hoa dùng làm nền tảng trong Nho giáo. Ngũ Kinh gồm có: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu.
Về Ngũ Kinh, xin xem Khổng Tử trong Phụ Lục C. Phụ Lục C
25. Nghiêu, Đế Nghiêu (2337 TCN-2258 TCN): là một vị vua huyền thoại của Trung Quốc cổ đại, một trong Ngũ Đế. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Ngũ Đế bao gồm: Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Khốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn. Ông, cùng với các vua Thuấn và Vũ sau này, được Khổng giáo xem là các vị vua kiểu mẫu và các tấm gương đạo đức. Nghiêu thường được ca tụng là một vị vua tài giỏi và đạo đức, lòng nhân từ và sự cần cù của ông được coi là kiểu mẫu cho mọi vị vua và hoàng đế khác của Trung Quốc.
Theo truyền thuyết, Nghiêu lên ngôi khi 20 tuổi, qua đời ở tuổi 119 và ông truyền ngôi cho vua Thuấn, người được ông gả cho hai cô con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh từ trước.
Việc Nghiêu chọn Thuấn nhường ngôi chứ không nhường ngôi cho con mình là Đan Chu thường được sử sách đời sau coi là tấm gương mẫu mực của việc chọn người tài đức chứ không vì lợi ích riêng tư của dòng họ.
Trong nhiều cống hiến của mình, vua Nghiêu được cho là người đã phát minh ra cờ vây.
26. Ngô Khởi (440 TCN - 381 TCN): là người nước Vệ, sống trong thời Chiến Quốc, sau Ngũ Viên và Tôn Tử, từng làm đại tướng ở hai nước là Lỗ và Nguỵ, làm tướng quốc ở Sở. Ông là một nhà quân sự nổi tiếng, nhà chính trị, nhà cải cách lớn thời Chiến quốc. Khi ông nắm quyền ở nước nào đều làm cho nước đó trở nên cường thịnh, mở mang bờ cõi, các nước khác không dám đến xâm lược.
Tác phẩm “Ngô Khởi binh pháp”, còn được gọi là “Ngô Tử binh pháp”, tập hợp những khảo luận về quân sự của ông trong thời gian làm tướng ở nước Lỗ và nước Ngụy. Đây được coi là một trong những bộ binh pháp tiêu biểu nhất ở Trung Quốc thời cổ đại và là một trong Vũ kinh thất thư hay bảy bộ binh pháp kinh điển của Trung Quốc và thường được giới thiệu kèm với Tôn Tử binh pháp để tạo thành bộ sách quân sự nổi tiếng Tôn Ngô binh pháp.
Từ thời trẻ, Ngô Khởi lấy vợ người nước Tề và ham thích việc quân sự. Ông học cùng với Tăng Tử.
Nước Tề đánh nước Lỗ. Vua Lỗ Mục Công muốn dùng Ngô Khởi làm tướng nhưng vì ngại Ngô Khởi lấy con gái Tề làm vợ nên ngờ vực. Ngô Khởi muốn bỏ sự nghi ngờ của vua Lỗ, bèn giết vợ để tỏ rằng mình không liên hệ gì với Tề. Lỗ Mục Công phong ông làm tướng, cầm quân đánh tan quân Tề.
Trong lúc ông đang cầm quân ngoài chiến trường thì có người nước Lỗ ghét ông, gièm pha với vua Lỗ. Vua Lỗ lại nghi ngờ ông, không tin dùng nữa.
Ngô Khởi bỏ đi, nghe tin Ngụy Văn Hầu là vua hiền, muốn đến theo. Do sự tiến cử của Lý Khôi, Ngụy Văn Hầu bèn thu dụng ông, phong làm tướng. Ông được lệnh cầm quân đi đánh nước Tần, chiếm được năm thành.
Khi Ngô Khởi làm tướng, ông thường cùng ăn mặc như người lính bậc thấp nhất, lúc ngủ không trải chiếu, đi không ngồi xe, thân hành mang lương thực, cùng chia khó nhọc với quân sĩ. Có người lính mắc bệnh ung thư, ông tự đến hút mủ cho anh ta. Vì sự gần với quân sĩ nên ông rất được lòng mọi người.
Ngụy Văn Hầu thấy Ngô Khởi giỏi dùng binh, thanh liêm công bằng, được lòng quân sĩ, nên cho ông làm quan thú Tây Hà để chống lại nước Tần và nước Hàn.
Năm 396 TCN, Ngụy Văn Hầu mất, thế tử Kích lên thay, tức là Ngụy Vũ Hầu.
Ngụy Vũ Hầu phong Điền Văn làm tể tướng. Ngô Khởi không bằng lòng, nhưng cuối cùng được Điền Văn giải thích nên ông chịu lý rằng tài năng của mình không bằng Điền Văn.
Sau khi Điền Văn chết, Công Thúc làm tể tướng, lấy Ngụy công chúa, ganh ghét ông và muốn làm hại ông. Công Thúc bày mưu gièm pha ông với Ngụy Vũ Hầu khiến Ngụy Vũ Hầu nghi và không tin ông. Ngô Khởi sợ bị tội nên phải bỏ đi nơi khác.
Sở Điệu Vương vốn nghe tiếng Ngô Khởi là người hiền, nên triệu ông đến phong làm tể tướng. Ngô Khởi giúp nước Sở giàu mạnh, phía nam bình định Bách Việt, phía bắc tiêu diệt nước Trần, nước Sái, cự tuyệt Tam Tấn (Hàn, Triệu, Ngụy), phía tây đánh Tần.
Chư hầu lo lắng vì nước Sở mạnh; trong khi đó các người quý tộc Sở bị đụng chạm quyền lợi cũng muốn hại Ngô Khởi.
Năm 381 TCN, Sở Điệu Vương mất, các đại thần, tôn thất làm loạn đánh Ngô Khởi. Ông chạy đến nấp bên thây vua. Những người nổi loạn bắn và đâm chết Ngô Khởi, nhưng cũng bắn phải thi thể Điệu vương.
Sau đó thái tử Hùng Tang lên nối ngôi tức là Sở Túc vương. Túc vương chôn cất Điệu vương sai Lệnh Doãn giết tất cả những người bắn Ngô Khởi và bắn trúng cả thi thể nhà vua, hơn 70 người bị giết cả họ.
Ngô Khởi là người tham tài, hiếu sắc và biện pháp thi hành có phần tàn ác như: giết vợ để cầu quan, tham quyền, thi hành chính sách khắc nghiệt làm các quan lại triều thần cũng như những người trong hoàng tộc không đồng tình, ghen ghét hãm hại nhiều lần và cuối đời bị quân nổi loạn giết chết.
27. Ngũ Tử Tư: tên là Viên, con của Ngũ Xa và là em của Ngũ Thượng, cùng với Tôn Vũ là những vị tướng giỏi của nước Ngô thời Xuân Thu - Chiến Quốc.
Ông vốn là người nước Sở, nay là địa bàn tỉnh Hồ Bắc.
Chuyện về Ngũ Tử Tư có nhiều truyền thuyết: Một đêm bạc đầu, Đào mả quất roi, Móc mắt treo nơi cửa thành...
Theo truyện Đông Chu Liệt Quốc (hồi 71 - 73), Ngũ Viên có tên tự là Tử Tư người nước Sở là người văn võ song toàn, cha ông là Ngũ Xa là người chính trực làm quan nước Sở, nhưng bị kẻ xấu hãm hại, bị vua khép vào tội phản nghịch bắt giam lại để xử tội. Sở Bình vương là vua nước Sở sợ hai con của Ngũ Xa sẽ làm phản nên ép Ngũ Xa viết thư dụ hai con về triều để vua phong chức. Nhận được thư của cha, Ngũ Thượng là anh của Ngũ Viên tin cha theo về triều nhưng Ngũ Viên biết trước sự lừa dối của vua Sở không theo mà lập tức trốn đi, trước khi đi còn bảo với một viên quan đại phu nước Sở rằng:
"Nước Sở muốn còn giữ được cúng tế thì chớ giết cha và anh ta, bằng không thì tất ta phải diệt nước Sở mới hả lòng căm tức của ta!"
Vua Sở không bắt được Ngũ Viên tức giận giết cha và anh của Ngũ Viên đồng thời đưa quân đi khắp nơi để bắt Ngũ Viên. Do bị truy lùng khắp nơi nên ông đi đến cửa quan định sang nước Ngô mà không qua được. Một đêm nằm suy nghĩ không ngủ được đứng dậy đi đi lại lại trong nhà, nghĩ ngợi đến tận sáng hôm sau thì toàn bộ râu, tóc biến thành trắng xóa. Sau đó ông được người giúp đỡ đưa qua cửa quan sang nước Ngô.
Sang Ngô, ông đã giúp công tử Quang giành ngôi báu, tức là vua Hạp Lư. Hạp Lư trọng dụng ông, cho làm quan đại phu. Ngũ Viên tiến cử Tôn Vũ cho vua Ngô. Vua Ngô rất tin dùng ông và Tôn Tử giao trọng trách gánh vác đất nước cho hai người. Nhờ có sự trị vì về chính trị và quân sự của Ngũ Viên và Tôn Tử nên nước Ngô trở lên thịnh trị mở mang bờ cõi, thuần phục nhiều nước. Sau khi đánh bại nướcViệt, Hạp Lư, Ngũ Viên và Tôn Tử đã đánh chiếm sang nước Sở và tiến vào thành Sính Đô của nước Sở. Khi đó Sở Bình vương, kẻ đã giết cả cha và anh của Ngũ Viên đã chết, con của Sở Bình vương là Sở Chiêu vương nối ngôi cũng trốn đi nên Ngũ Viên không bắt được, ông tức giận đào mộ của Sở Bình vương lên rồi dùng roi đồng đánh luôn ba trăm roi vào thi thể của Sở Bình vương khiến cho thịt nát, xương rơi để báo thù cái tội giết cả nhà Ngũ Viên khi trước.
Hạp Lư chết, Phù Sai lên thay lại tin dùng gian thần Bá Hi mà không trọng dụng Ngũ Viên. Bá Hi ăn đút lót của vua nước Việt là Câu Tiễn, xui Phù Sai tha cho Câu Tiễn và nước Việt đã bị đánh bại. Phù Sai nghe theo, bất chấp sự phản đối của Ngũ Viên. Sau này, Câu Tiễn từng bước khôi phục thế lực mà Phù Sai vẫn không hay, chỉ chú ý đánh lên phía bắc với tham vọng tranh ngôi bá chủ với nước Tấn và ham mê vui thú với Tây Thi. Ngũ Viên can gián quá thẳng khiến Phù Sai phật ý và muốn giết hại ông. Một ngày nọ, Phù Sai ra lệnh Uyển Di Tử ban cho Ngũ Từ Tư thanh kiếm để tự kết liễu. Vì muốn cứu Ngũ Từ Tư, Uyển Di Tử đã tự sát. Nhưng Ngũ Tử Tư vẫn một mặc trung kiên, quyết không cải thánh chỉ, nên đã tự vẫn. Ngũ Tử Tư trước khi chết dặn lại rằng:
Thế nào cũng phải trồng trên mộ ta một cây tử đề có thể làm quan tài. Hãy móc mắt ta treo trên cửa phía đông của nước Ngô để cho nó thấy giặc Việt vào tiêu diệt nước Ngô.
Về sau quả nhiên Câu Tiễn đánh úp nước Ngô, khiến Phù Sai cùng đường phải tự vẫn. Trước khi chết, Phù Sai ân hận đã không nghe lời Ngũ Tử Tư.
28. Nhan Chi Thôi (531-591): hay Nhan Chi Suy, là một nhà văn, nhà thư pháp, họa sĩ, nhà soạn nhạc người Trung Quốc thời Nam Bắc triều.
Ông sinh tại Lang Gia, Lâm Nghi, Sơn Đông. Ông làm quan cho bốn triều đại là: nhà Lương ở miền nam Trung Quốc, nhà Bắc Tề, nhà Bắc Chu ở miền bắc Trung Quốc và sau này làm quan cho triều đại đã thống nhất Trung Quốc là nhà Tùy. Ông là người ủng hộ Phật giáo tại Trung Quốc, mặc dù gặp nhiều phê phán từ những người đương thời theo Khổng giáo. Ông cũng là người đầu tiên đề cập tới giấy vệ sinh. Ông cống hiến cho kho tàng văn hóa Trung Hoa cuốn sách Nhan thị gia huấn gồm 26 chương nói về cung cách giáo dục trong gia đình.
29. Nhan Uyên: tên là Hồi, người nước Lỗ, thời Xuân Thu, học trò giỏi nhất trong số 72 học trò giỏi của Đức Khổng Tử. Thuở nhỏ rất nghèo, Nhan Uyên chỉ có một bầu nước.
30. Phạm Trọng Yêm (989 - 1052): tự Hy Văn, thụy Văn Chánh, là một nhà chính trị, nhà văn, nhà quân sự, nhà giáo dục thời Bắc Tống. Ông là người huyện Ngô, Tô Châu (nay thuộc Tô Châu, Giang Tô.
Ông sinh ra tại Từ Châu, năm sau (990), bố ông mất. Do mẹ ông (người họ Tạ) đã cải giá đến huyện Trường Sơn, Truy Châu, Sơn Đông lấy người họ Chu, nên ông được cải tên thành Chu Thuyết. Sau đó ông tới chùa Lễ Toàn trên dãy núi Trường Bạch đọc sách, mỗi ngày chỉ thổi nấu một nồi cháo. Ông là người tự hiểu thân thế của mình, cũng nhân tiện để từ biệt mẹ đẻ, đã một thân một mình tới Nam Kinh đèn sách. Năm 1015 đời Tống Chân Tông ông đỗ tiến sĩ, tới Quảng Đức quân làm tư lý tham quân (coi công việc hình ngục), liền đón mẹ mình về nuôi dưỡng.
Năm 1052 ông chết vì bệnh tại Từ Châu.
Về văn chương, tác phẩm đáng chú ý nhất của ông có lẽ là Nhạc Dương lâu ký (ghi chép ở lầu Nhạc Dương), nó nổi tiếng vì lý tưởng chính trị mà ông thể hiện ở phần cuối trong câu "tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ).
Ông cũng là người nổi tiếng với thể loại từ, các tác phẩm đáng chú ý có Ngư gia ngạo, Tô mạc già. Âu Dương Tu tán xưng Ngư gia ngạo là "cùng tắc ngoại chi từ" (Ngụy Thái, Đông hiên bút lục, quyển 11).
31. Phòng Huyền Linh (579–648): tên là Kiều, tự là Huyền Linh; làm chức quan Tư mã, Tể tướng và Tể phụ vua Đường Thái Tông. Ông còn được gọi là Lương Văn Chiêu công. Ông là chủ biên của Tấn thư - một trong 24 bộ chính sử Trung Hoa.
Phòng Huyền Linh là người tỉnh Sơn Đông. Khi còn nhỏ ông là người chịu khó, thông minh, cần cù, thông thạo kinh sách. Năm 594, ông đỗ Tiến sĩ, nhận chức Vũ Kỵ Úy và sau đó được thăng chức Thị lang bộ Lại.
Tháng 6 năm 648, Phòng Huyền Linh qua đời, thọ 71 tuổi. Ông được an táng tại Thái Thạch Sơn, Tế Nam, tỉnh Sơn Đông. Mộ Phòng Huyền Linh được đặt cạnh lăng tẩm Đường Thái Tông, ông được phong làm Tể phụ.
32. Quản Trọng (725 TCN - 645 TCN): là một chính trị gia, nhà quân sự và nhà tư tưởng nước Tề thời Xuân Thu. Tên ban đầu của ông là Di Ngô. Trọng là tên hiệu. Được Bảo Thúc Nha tiến cử, Tề Hoàn Công phong ông làm Tể tướng năm 685 TCN. Ông nổi tiếng với "chiến lược không đánh mà thắng" mà người Trung Hoa gọi là diễn biến hòa bình - đó là tấn công bằng mưu trí, trừng phạt và dùng kinh tế để giáo huấn.
Dưới thời Quản Trọng, nước Tề chuyển từ chế độ quan liêu quý tộc sang chế độ quan liêu chuyên nghiệp. Khi ông làm Tể tướng, nước Tề trở thành nước hùng mạnh nhất và Tề Hoàn Công được phong làm bá chủ chư hầu.
Quản Trọng và Bảo Thúc Nha đều làm chính trị. Lúc đó nước Tề rất loạn, các hoàng tử đều lánh nạn sang các nước khác để chờ thời cơ. Quản Trọng hộ tống hoàng tử Củ tới nước Lỗ, còn Bảo Thúc Nha hộ tống hoàng tử Tiểu Bạch tới nước Lã. Không lâu nước Tề bạo loạn, nhà vua bị giết, nhà nước không có vua. Các hoàng tử Củ và Tiểu Bạch được tin liền lên đường về nước để cướp ngôi. Khi hai đoàn gặp nhau trên đường, Quản Trọng muốn để hoàng tử Củ làm vua nên đã bắn một phát tên vào Tiểu Bạch, Tiểu Bạch giả chết rồi vào kinh đô làm vua còn được gọi là Tề Hoàn Công. Khi lên làm vua, Tề Hoàn Công liền bảo nước Lỗ giết hoàng tử Củ và bắt giam Quản Trọng. Tề Hoàn Công muốn Bảo Thúc Nha làm thừa tướng, giúp ông quản lý đất nước. Bảo Thúc Nha cho rằng mình không có năng lực làm thừa tướng. Ông dốc sức tiến cử Quản Trọng đang bị giam ở nước Lỗ. Tề Hoàn Công nói rằng: "Người này bắn ta một tên, mối thù này ta chưa quên, mũi tên ta vẫn còn giữ, làm sao có thể dùng hắn được? Đợi hắn về đây, ta sẽ xé hắn ra trăm nghìn mảnh." Bảo Thúc Nha đáp "Dĩ nhiên vì công tử Củ, ông ta đã bắn bệ hạ, bây giờ nếu bệ hạ trọng dụng ông, ông sẽ vì bệ hạ mà đem mũi tên đó bắn cả thiên hạ!"
Tề Hoàn Công rất khâm phục Quản Trọng, hơn nữa ông còn rất thẳng thắn, ông nói với Quản Trọng rằng: "Trẫm có tật hơi thích nữ sắc, điều này có tai hại gì đối với quốc gia không?" Quản Trọng trả lời: "Không, ham mê nữ sắc không gây tai hại gì cho quốc gia, không nghe lời khuyên của những bậc thánh hiền mới có hại cho quốc gia và thiên hạ"
Câu nói nổi tiếng của Quản Trọng: "Sinh ra ta ấy là cha mẹ, mà hiểu biết ta thì trong đời chỉ có một Bảo Thúc Nha mà thôi".
33. Sào Phủ, Hứa Do: là tên một tích truyện cổ Trung Quốc, lấy tên hai nhân vật trong đó là Sào Phủ và Hứa Do. Theo truyền thuyết, hai nhân vật này sống đời vua Nghiêu.
34. Tăng Tử: tên thật là Tăng Sâm (505 TCN - 435 TCN), tự Tử Dư, người Nam Vũ thành, nước Lỗ (nay là huyện Bình Ấp, tỉnh Sơn Đông), là học trò xuất sắc của Khổng Tử; Tăng Sâm nhỏ hơn Khổng Tử 46 tuổi. Ông là một người chí hiếu với cha mẹ, người đời sau liệt ông vào một trong "Nhị thập tứ hiếu" (hai mươi tư tấm gương hiếu thảo) vì truyền thuyết mẹ ông khi cắn ngón tay mà ông động lòng. Tăng Tử kế thừa và phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử, tư tưởng của Tăng Tử đề cao chữ Hiếu, Tín. Ông thường nói: "mỗi ngày ta xét thân ta ba việc: - Nhận làm thay người ta việc gì, ta có thực tâm làm không? - Cùng với bè bạn giao ước điều gì, ta có thất tín không? - Thầy dạy ta những gì, ta có nghiên cứu học tập không?" Ông làm ra sách Đại học gồm 10 thiên và là một trong Tứ thư của Nho gia. Học trò của Tăng Sâm là Khổng Cấp, cùng Nhan Hồi, Mạnh Tử và chính ông là Tứ phối của Nho gia, cũng là đại biểu xuất sắc của phái Nho gia. Khổng Cấp (hay Tử Tư) làm ra sách Trung Dung trong Tứ thư. Tứ Thư là bốn tác phẩm kinh điển của Nho học Trung Hoa, gồm Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử.
Đại Học:
Đại học nguyên là một chương trong Lễ Kí (Kinh Lễ sau này) được viết thành sách trong khoảng thời gian từ thời chiến quốc đến thời Tần Hán, được xem là một trong những sách chủ yếu của Nho Gia. Tác giả của đại học là ai hiện nay vẫn chưa xác định rõ, có người cho là của Tử Tư viết, nhưng Chu Hy đời Tống lại cho là của Tăng Tử viết. Bởi Chu Hy cho rằng Tăng Tử là học trò của Khổng Tử nên Tăng Tử ghi chép lại lời của Khổng Tử là hợp đạo lí. Và đa số người ta tin vào giả thiết này hơn. Đại học là một trong những kinh điển trọng yếu của nho gia do. Xưa, người đến tuổi 15 thì vào học bậc đại học và được học sách này.
Đại học đưa ra ba cương lĩnh (gọi là tam cương lĩnh), bao gồm: Minh minh đức (làm sáng cái đức sáng), Tân dân (làm mới cho dân. Có khi viết là thân dân, nghĩa là gần gũi với dân) và Chỉ ư chí thiện (dừng ở nơi chí thiện). Ba cương lĩnh này được cụ thể hóa bằng 8 điều mục nhỏ (gọi là bát điều mục), bao gồm: cách vật (tiếp cận và nhận thức sự vật), trí tri (đạt tri thức về sự vật), thành ý (làm cho ý của mình thành thực), chính tâm (làm cho tâm của mình được trung chính), tu thân (tu sửa thân mình), tề gia (xếp đặt mọi việc cho gia đình hài hòa), trị quốc (khiến cho nước được an trị), bình thiên hạ (khiến cho thiên hạ được yên bình).
Minh minh đức ứng với cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm và tu thân trong bát điều mục. Tân dân ứng với tề gia và trị quốc.
Chỉ ư chí thiện tương ứng với bình thiên hạ.
Sách Đại học dạy người ta cách tu thân và cai trị thiên hạ theo chủ trương "vi đức dĩ chính" của nho gia.

Trung Dung:
Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra cũng trên cơ sở một thiên trong Kinh Lễ. Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử.
Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.
Luận Ngữ: xin xem Luận Ngữ ở Phụ Lục D.
Mạnh Tử: xin xem Mạnh Tử ở Phụ Lục C.
35. Tây Thi (506 TCN-?): còn gọi là Tây Tử là một người con gái rất đẹp thời Xuân Thu và cũng là một trong Tứ đại mỹ nhân Trung Quốc [Tây Thi (nước Việt, 5 TCN), Chiêu Quân (nhà Tây Hán, khoảng 1 TCN), Dương Quý Phi (nhà Đường, 719-756) và Ðiêu Thuyền (thời Tam Quốc, khoảng thế kỷ thứ 3)]. Tây Thi có nhan sắc làm cá phải ngừng bơi mà lặn xuống đáy nước (trầm ngư), người con gái đó đã có công lớn trong việc giúp Phạm Lãi, Văn Chủng và Việt Vương Câu Tiễn diệt vua Ngô Phù Sai. Tây Thi, tên là Thi Di Quang là con một người kiếm củi họ Thi, nàng dệt vải ở núi Trữ La, Gia Lãm (nay là Chư Kỵ), thuộc nước Việt cổ (không phải nước Việt Nam). Trữ La có hai thôn: thôn Đông và thôn Tây, Tây Thi là người ở thôn Tây, vậy nên gọi là Tây Thi. Tương truyền Tây Thi đẹp đến nỗi, ngay cả khi nàng nhăn mặt cũng khiến người ta mê hồn.
Trong trận đánh quyết tử với Ngô, do không nghe lời can gián của Văn Chủng và Phạm Lãi nên vua nước Việt là Câu Tiễn bại trận, bị bên Ngô buộc vợ chồng Câu Tiễn phải sang Ngô làm con tin. Câu Tiễn quyết chí trả thù, Văn Chủng trước khi Câu Tiễn sang Ngô đã hiến cho vua 7 kế, trong đó có một kế là "Mỹ nhân kế" - dâng người đẹp mê hoặc vua Ngô. Trong vòng nửa năm, Câu Tiễn tuyển được 2000 mỹ nữ, trong đó có hai người đẹp nhất là Tây Thi và Trịnh Đán.
Tây Thi - Phạm Lãi
Công lao của Tây Thi ở nước Ngô rất lớn, mặc dù nàng và Phạm Lãi lúc ấy đã phải lòng nhau, nhưng không hề bộc lộ ra mặt mà âm thầm giúp sức cho Câu Tiễn vốn đang nhịn nhục tìm cách trả thù. Ngô Phù Sai bắt vợ chồng Câu Tiễn phải làm cỏ mộ, mặc áo vải xấu, mỗi ngày chỉ ăn một chén cơm hẩm. Tây Thi và Phạm Lãi cũng âm thầm cấu kết với Bá Hi trợ cấp thêm một số lương thực cho vợ chồng Câu Tiễn khỏi chết đói.
Tây Thi - Ngô vương Phù Sai
Ngô Phù Sai là một vị vua anh hùng, nhưng từ khi Tây Thi xuất hiện thì lại lơi lỏng việc nước, bỏ bê chính sự. Tây Thi theo kế của Văn Chủng ra sức mê hoặc khiến vua Ngô ngày đêm cùng nàng chìm đắm trong xa hoa, hưởng lạc, dần dần mất hết ý chí. Bởi chỉ khi nước Ngô suy yếu thì Việt mới có cơ hội phục thù.
Tuy vậy nhưng sau khi sống với Phù Sai lâu năm, từ từ Tây Thi đã dần dần yêu Phù Sai thật sự.
Có nhiều quan điểm về những ngày cuối đời của Tây Thi. Theo như Đông Chu liệt quốc truyện thì nàng bị Việt hậu, vợ Câu Tiễn, sai quân lính buộc đá vào người rồi dìm xuống sông, vì sợ sau này nàng sẽ làm mê hoặc Câu Tiễn. Cũng có thuyết khác đưa ra rằng người lính bị ép thực hiện nhiệm vụ đó không cam tâm tuân lệnh mà xóa khỏi nhân gian một trang tuyệt sắc giai nhân nên đã để nàng trốn đi một cách bí mật, hoặc một thuyết khác thì cho rằng Phạm Lãi đã dẫn Tây Thi trốn đi ngay sau khi chiến thắng nước Ngô.
Phụ Lục C
36. Tề Cảnh Công (trị vì: 547 TCN - 490 TCN): tên thật là Khương Chử Cữu, là vị vua thứ 26 nước Tề - một chư hầu của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Vua tiền nhiệm của Tề Cảnh Công là Tề Trang Công; vua kế nhiệm của Tề Cảnh Công là Tề An Nhụ Công.
Thôi Trữ có người vợ lẽ là Đường Cơ vốn là em gái Đông Quách Yển, vợ cũ của Đường công. Sau khi Đường công mất, dù có người can ngăn nhưng Thôi Trữ thấy Đường Cơ đẹp nên lấy Đường Cơ.
Tề Trang công thấy Đường đẹp nên thường lén lút đến tư thông. Thôi Trữ biết chuyện rất tức giận, nảy ý định giết Trang công. Năm 548 TCN, nhân dịp Trang công mở tiệc đãi vua nước Cử, Thôi Trữ giả ốm không dự. Trang công nghe tin, bèn nhân danh đến thăm Thôi Trữ để gặp Đường Cơ. Khi Trang công vào nhà gặp Đường Cơ, Thôi Trữ sai thủ hạ vây bắt. Tề Trang công vội bỏ chạy, trèo qua tường trốn nhưng không thoát và bị giết.
Thôi Trữ lập người em khác mẹ của Trang công là Khương Chử Cữu lên làm vua, tức là Tề Cảnh Công.
37. Tề Hoàn công (trị vì: 685 TCN - 643 TCN): tên thật là Khương Tiểu Bạch, là vị vua thứ 16 nước Tề - một chư hầu của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Tề Hoàn công là vị vua chư hầu xưng bá chủ đầu tiên thời Xuân Thu.
Khương Tiểu Bạch là con thứ của Tề Ly công - vua thứ 13 nước Tề và là em của Tề Tương công - vua thứ 14 nước Tề. Mẹ ông là người nước Vệ.
Cuối năm 686 TCN, Tề Tương công bị Công Tôn Vô Tri sát hại. Những người em của Tương công bỏ chạy ra nước ngoài. Khương Tiểu Bạch được Bảo Thúc Nha phò tá, bỏ chạy sang nước Cử; người em thứ hai của Tương công là Khương Củ được Quản Trọng và Thiệu Hốt phò tá chạy sang nước Lỗ.
Đầu năm 685 TCN, Công Tôn Vô Tri bị giết. Vì Tiểu Bạch chơi thân với đại phu Cao Hề nên Cao Hề bàn với đại phu họ Quốc đi đón ông ở nước Cử về nối ngôi. Công tử Củ ở nước Lỗ nghe tin đó bèn sai Quản Trọng đi đón đường ngăn cản ông về nước. Quản Trọng bắn trúng đai áo Tiểu Bạch, ông bèn ngã ra giả vờ chết. Quản Trọng sai người đi báo với công tử Củ. Vì vậy công tử Củ chủ quan đi chậm, không vội về nước Tề.
Khi Quản Trọng đi khỏi, Khương Tiểu Bạch ngồi trên chiếc xe bịt kín đi gấp về nước Tề. Ông được họ Cao và họ Quốc làm nội ứng, cùng lập làm vua mới, tức là Tề Hoàn công.
Tề Hoàn công lên ngôi bèn dàn quân tấn công nước Lỗ. Hai bên giao chiến ở Kiền Thời. Quân Tề đánh bại quân Lỗ. Quân Lỗ thua chạy, bị quân Tề chặn đường về. Ban đầu Tề Hoàn công định giết cả 3 người chống đối ở nước Lỗ, nhưng Bảo Thúc Nha vốn là bạn thân của Quản Trọng, hai người từng hứa hẹn sống chết có nhau; do đó Bảo Thúc Nha đề nghị Hoàn công nên tha cho Quản Trọng sống.
Tề Hoàn công nghe theo, bèn ra điều kiện nước Lỗ tự giết công tử Củ và giao nộp Thiệu Hốt cùng Quản Trọng để cho nước Tề xử tội. Nước Lỗ làm theo, bèn giết Khương Củ để quân Tề giải vây. Thiệu Hốt nghe lệnh bèn tự sát. Nước Lỗ giải Quản Trọng về nước Tề. Bảo Thúc Nha ra đón Quản Trọng ở đất Đường Phụ và tiến cử với Tề Hoàn công.
Nghe lời Bảo Thúc Nha, Tề Hoàn công trao chính sự cho Quản Trọng, dùng làm đại phu. Ông còn trọng dụng Cao Hề, Bảo Thúc Nha và Thấp Bằng sửa sang chính sự nước Tề. Từ đó nước Tề trở nên giàu mạnh.
Năm 679 TCN, Tề Hoàn công họp chư hầu lần đầu ở đất Nhân. Từ đó ông trở thành bá chủ chư hầu.
Ngày Ất Hợi tháng 10 năm 643 TCN, Tề Hoàn công qua đời. Ông ở ngôi tất cả 43 năm, không rõ bao nhiêu tuổi.
Do các con ông mải tranh chấp quyền lực, 2 tháng sau khi mất, ông mới được làm lễ nhập quan và tới tháng 8 năm sau (642 TCN) mới được mai táng.
Với sự nghiệp bá chủ thời Xuân Thu, Tề Hoàn công được nhìn nhận là nhà chính trị kiệt xuất thời cổ đại, biết cách sử dụng nhân tài để gây dựng sự nghiệp. Trong Ngũ Bá thời Xuân Thu, Tề Hoàn công là vị vua ở ngôi lâu nhất và ở cương vị bá chủ chư hầu dài nhất (hơn 35 năm). Trong thời kỳ nhà Chu suy yếu, ông vẫn chủ trương tôn thiên tử, trấn áp di địch, cứu trợ các chư hầu. Điều đó khiến ông được các chư hầu quy phục. Cùng với Tấn Văn công, sự nghiệp bá chủ của ông được người đời sau ca ngợi, gọi chung là “Hoàn Văn”.
38. Tề Linh Công (cai trị: 581 TCN - 554 TCN): tên thật là Khương Hoàn, là vị vua thứ 24 nước Tề - một chư hầu của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con trai của Tề Khoảnh công - vua thứ 23 nước Tề. Năm 581 TCN, Tề Khoảnh công qua đời, Khương Hoàn lên nối ngôi, tức là Tề Linh công.
Tề Linh công có vợ cả là Nhan Ý Cơ người nước Lỗ, nhưng Nhan Ý Cơ không có con. Cháu gái Ý Cơ được làm vợ lẽ Tề Linh công sinh ra Khương Quang. Tề Linh công đã lập Khương Quang làm thế tử. Về sau Khương Quang lên làm vua là vua Tề Trang Công.
Tề Linh công lại lấy con gái Thúc Tôn Tuyên Bá nước Lỗ, sinh ra công tử Khương Chử Cữu. Về sau Khương Chử Cữu lên làm vua là vua Tề Cảnh Công.
39. Tề Thái Công: tên thật là Khương Thượng, tự là Tử Nha, nên thường được gọi là Khương Tử Nha, là khai quốc công thần nhà Chu thế kỷ 12 trước Công nguyên và là vua khai lập nước Tề tồn tại từ thời Tây Chu đến thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Khương Tử Nha được biết đến như một vị tướng tài vĩ đại và là người góp phần lập lên sự nghiệp nhà Chu kéo dài hơn 800 năm, là triều đại kéo dài nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Khương Thượng là người ở Đông Hải. Tổ tiên ông từng làm chức Tứ nhạc giúp vua Hạ Vũ trị thủy có công. Sử ký xác định tổ tiên ông được phong ở đất Lã vào khoảng thời vua Thuấn đến thời nhà Hạ, do đó lấy Lã làm họ. Ông còn được dân gian và các nhà nghiên cứu lịch sử gọi bằng nhiều tên khác như: Khương Thái Công; Thái Công Vọng, Lã Vọng.
Sang thời nhà Thương, vì Khương Thượng là con cháu chi thứ nên dần dần trở thành dân thường. Vì nhà nghèo, Khương Thượng tuổi già thường đi câu cá ở sông Vị. Thủ lĩnh bộ tộc Chu là Tây Bá Cơ Xương đi săn, gặp Khương Thượng đang câu cá phía bắc sông Vị với một lưỡi câu thẳng, theo truyền thuyết. Thấy lạ, Cơ Xương mới hỏi: "ông lão, sao câu cá bằng lưỡi câu thẳng thế thì câu sao được?". Khương Tử Nha mới trả lời: "Lưỡi câu bình thường chỉ câu được cá, lưỡi câu này mới câu được minh chủ." (Một truyền thuyết khác nói rằng có người tiều phu hỏi ông sao câu được cá với lưỡi câu thẳng, ông trả lời rằng ông không câu cá mà câu Công, câu Hầu). Thấy vậy Cơ Xương mới đem những chuyện thế cuộc ra hỏi, quả nhiên Khương Tử Nha trả lời thông suốt cho thấy những kiến giải siêu phàm. Cơ Xương nói chuyện với ông rất hài lòng, ngưỡng mộ tài năng của ông. Cơ Xương nhớ lời tổ tiên là Thái Công dặn rằng sẽ có vị thánh đến nước Chu, giúp Chu hưng thịnh, ứng với quẻ bói trước khi đi săn. Do đó Cơ Xương quả quyết Khương Thượng chính là người Thái Công mong đợi trước đây và tôn ông làm Thái Công Vọng (nghĩa là người mà [Chu] Thái Công mong đợi), đón lên xe về cung và tôn ông làm thầy.
Thế là từ đó Khương Tử Nha theo phò Cơ Xương. Lúc bấy giờ ông đã 60 tuổi.
Cơ Xương chết, con là Cơ Phát lên thay. Khoảng năm 1126 TCN, Cơ Phát hội chư hầu chuẩn bị đánh vua Trụ, Khương Thượng cầm đầu quân đội. Tám trăm nước chư hầu tới hưởng ứng, nhưng Cơ Phát cho rằng thời cơ chưa chín nên tạm rút về.
Năm 1124 TCN, thấy chính sự nhà Thương đã rất suy đồi, Cơ Phát lại cùng Khương Thượng ra quân. Dù khi ra trận bói phải quẻ xấu nhưng Khương Thượng vẫn khuyên Cơ Phát là quẻ lành và cứ ra quân. Cơ Phát nghe theo.
Khương Thượng cầm đầu quân đội hội chư hầu ở bến Mạnh Tân. Chư hầu theo Chu đánh vua Trụ. Đến tháng 2 âm lịch năm 1123 TCN, quân Chu đánh bại quân Thương ở Mục Dã, dù lực lượng quân Thương đông hơn nhưng do vua Trụ tàn bạo nên quân lính oán ghét, ngả theo bên Chu. Trụ vương thấy toàn quân tan rã, bèn chạy đến Lộc Đài, tự thiêu mà chết.
Cơ Phát lên ngôi thiên tử, tức là Chu Vũ Vương. Khương Thượng là công thần, được phong làm vua chư hầu nước Tề ở đất Doanh Khâu.
Trên đường sang phía đông về đất được phong, ông nghỉ đêm trong quán trọ. Người trong quán khuyên ông nên đi gấp về kẻo có sự tranh giành. Khương Thượng nghe theo, đang đêm trở dậy mặc áo lên đường, tới tảng sáng thì về tới đất Doanh Khâu. Đúng lúc đó Lai Hầu là vua đất Lai ở bên cạnh vốn là chư hầu cũ của nhà Thương chưa thần phục nhà Chu, có ý định tranh đất Doanh Khâu với ông, bèn mang quân tới đánh. Khương Thượng sửa sang chính sự, lấy lòng người bản địa. Nhiều người theo về ủng hộ, giúp ông đánh bại được Lai Hầu. Ông chính thức trở thành vua nước Tề.
Chu Vũ Vương qua đời, con là Chu Thành Vương nối ngôi. Ba người em Vũ Vương lại nghe theo con vua Trụ là Vũ Canh khởi binh phản nhà Chu, đồng thời lôi kéo người Di ở đất Hoài hưởng ứng. Chu Công Đán nhân danh Chu Thành Vương sai Thiệu Khang Công đi sứ tới nước Tề, giao toàn quyền cho ông chinh phạt các nơi không thần phục: phía đông đến biển, phía tây đến sông Hoàng Hà, phía nam đến Mục Lăng, phía bắc đến Vô Lệ.
Tề Thái công theo lệnh, mang quân chinh phạt các nơi. Trong khi đó Chu Công Đán cũng ra quân dẹp lực lượng của Vũ Canh. Sau 3 năm, nhà Chu dẹp được loạn. Tề Thái công cũng mở rộng cương thổ, nước Tề trở thành nước lớn.
Sau này không rõ Tề Thái công mất năm nào. Sử ký chỉ ghi ông thọ hơn 100 tuổi. Tính từ khi gặp Cơ Xương năm 80 tuổi tới khi qua đời, Khương Tử Nha hoạt động trong khoảng hơn 20 năm cuối thời nhà Thương, đầu thời nhà Chu. Tính riêng từ khi ông phục vụ dưới quyền Chu Vũ Vương (1134 TCN) đến khi nhà Chu dẹp xong loạn Vũ Canh (1113 TCN) là 21 năm, khi tham gia dẹp loạn thì Khương Tử Nha đã ngoài 100 tuổi.
Khương Tử Nha được xem là tác giả của Lục Thao, hay Binh Pháp Thái Công là bộ binh pháp lâu đời nhất của Trung Quốc và nhân loại, và Càn khôn vạn niên ca - những bài thơ dự đoán tương lai lịch sử Trung Quốc.
Càn khôn vạn niên ca dự đoán các đời trị, loạn, nêu tên chiết tự và thời gian cầm quyền của các vua chúa, người cai trị Trung Quốc trong một hội (10.800 năm).
40. Tề Trang công (cai trị: 553 TCN - 548 TCN), tên thật là Khương Quang, là vị vua thứ 25 nước Tề - một chư hầu của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con trai trưởng của Tề Linh công - vua thứ 24 nước Tề. Tề Linh công có vợ cả là Nhan Ý Cơ người nước Lỗ, nhưng Nhan Ý Cơ không có con. Cháu gái Ý Cơ được làm vợ lẽ Tề Linh công sinh ra Khương Quang.
Vua cha Linh công lấy hai người vợ thứ là Trọng Cơ và Nhung Cơ. Trọng Cơ cũng sinh được con trai là Khương Nha, thấy Nhung Cơ được Linh công sủng ái bèn nhờ Nhung Cơ giúp. Linh công yêu con nhỏ Khương Nha bèn điều Khương Quang đi trấn thủ phía đông và sai Cao Hậu giúp cho Khương Nha.

Năm 554 TCN, Tề Linh công ốm nặng. Khương Quang được đại phu Thôi Trữ ủng hộ, đón về Lâm Tri lập làm thế tử. Khương Quang giết chết mẹ kế Nhung Cơ. Sau đó vua cha Tề Linh công qua đời, Khương Quang lên nối ngôi, tức là Tề Trang công. Ngay sau khi lên ngôi, Tề Trang công sai mang Khương Nha ra gò Câu Độc giết chết. Ba tháng sau, người giúp Nha là Cao Hậu cũng bị Thôi Trữ giết chết.
Thôi Trữ có công giúp Tề Trang công lên ngôi. Trang công thấy vợ Thôi Trữ là Đường Cơ (vốn là em gái Đông Quách Yển, vợ cũ của Đường công đã mất) đẹp nên thường đến tư thông. Dù người hầu can ngăn nhưng Tề Trang công không nghe theo, vẫn lén lút quan hệ với Đường Cơ.
Thôi Trữ biết chuyện rất tức giận, nảy ý định giết Trang công. Năm 548 TCN, nhân dịp Trang công mở tiệc đãi vua nước Cử, Thôi Trữ giả ốm không dự. Trang công nghe tin bèn nhân danh đến thăm Thôi Trữ để gặp Đường Cơ. Khi Trang công vào nhà, Thôi Trữ sai Đường Cơ dụ vào phòng rồi khóa kín và điều thủ hạ vây bắt. Tề Trang công vội bỏ chạy lên đài muốn gặp Thôi Trữ xin tha mạng nhưng thủ hạ của Thôi Trữ tuyên bố chỉ làm theo lệnh của Thôi Trữ để giết kẻ dâm đãng. Cuối cùng Tề Trang công vượt tường định trốn ra, bị bắn trúng chân ngã xuống và bị quân Thôi Trữ xông tới đâm chết. Nhiều vệ sĩ đi theo ông cũng bị giết, một số người khác bỏ trốn.
Thôi Trữ lập người em khác mẹ của Trang công là Khương Chử Cữu lên làm vua, tức là Tề Cảnh công.
41. Thành Thang (?-1761 TCN): hay Thương Thang, là vị vua sáng lập nhà Thương, triều đại sau nhà Hạ và trước nhà Chu, trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đã lật đổ vua Kiệt tàn bạo của nhà Hạ. Thành Thang còn được gọi là Vũ Thang, Thiên Ất, Vũ Vương, Đại Ất và Cao Tổ Ất.
Bộ tộc người Thương sinh sống ở lưu vực hạ lưu sông Hoàng Hà. Dòng họ Thương Thang đã nhiều đời làm thủ lĩnh bộ tộc. Thấy bộ tộc Thương của Thành Thang giàu mạnh, vua Kiệt của nhà Hạ sợ Thương chống lại nên lệnh triệu Thương Thang đến kinh đô rồi bắt và giam cầm ông ở Hạ Đài.
Sau một thời gian, Hạ Kiệt tha cho Thương Thang, thả để ông về bộ tộc. Thương Thang quyết tâm phát triển lực lượng để lật đổ sự cai trị của Hạ Kiệt.
Theo kế sách của Y Doãn, Thương Thang bắt đầu khiêu chiến với nhà Hạ. Ông bỏ không nộp cống cho Hạ Kiệt. Hạ Kiệt nổi giận điều động binh mã 9 bộ tộc phía đông trước sau đánh vào bộ lạc Thương. Thương Thang bèn sai người đến nộp cống. Thấy Thang thuần phục, Kiệt lại bằng lòng cho lui quân.
Thang tranh thủ thời gian tìm cách liên minh và chia rẽ 9 bộ tộc giúp quân cho Hạ Kiệt. Sang năm sau, ông lại bỏ cống nạp. Hạ Kiệt lại tổ chức hội các bộ lạc phụ thuộc ở Hữu Nhung đánh Thương, nhưng lần này các bộ lạc không nghe theo. Bộ lạc Mân lên tiếng phản đối trước tiên. Hạ Kiệt nổi giận bèn mang quân đánh Mân trước. Nhân dân phải phục dịch cho cuộc chiến nặng nề càng oán hận Kiệt hơn trước.
Thấy Kiệt bị sa lầy vào cuộc chiến với tộc Mân, Thang quyết định ra quân diệt Hạ. Năm 1767 TCN, Thương Thang đánh thắng Hạ Kiệt trong trận quyết định ở Minh Điều. Hạ Kiệt thua trận, bị mất ngôi và bị đày ra Nam Sào. Thương Thang chính thức lên ngôi vua, lập ra nhà Thương.
Thành Thang làm vua không lâu. Năm 1761 TCN, ông qua đời, không rõ bao nhiêu tuổi.
42. Thôi Trữ (?-546 TCN): là tướng quốc nước Tề thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã thao túng chính sự nước Tề một thời gian và cuối cùng bị diệt cả gia tộc.
Thôi Trữ giúp Khương Quang (công tử lớn của Tề Linh công) lên nối ngôi Tề Linh công, tức là Tề Trang công.
Thôi Trữ có người vợ lẽ là Đường Cơ. Tề Trang công thấy Đường đẹp nên thường lén lút đến tư thông. Thôi Trữ biết chuyện rất tức giận, nảy ý định giết Trang công. Năm 548 TCN, nhân dịp Trang công mở tiệc đãi vua nước Cử, Thôi Trữ giả ốm không dự. Trang công nghe tin, bèn nhân danh đến thăm Thôi Trữ để gặp Đường Cơ. Khi Trang công vào nhà gặp Đường Cơ, Thôi Trữ sai thủ hạ vây bắt. Tề Trang công vội bỏ chạy, trèo qua tường trốn nhưng không thoát và bị giết.
Vụ án Tề Trang công bị giết được quan Thái sử nước Tề chép: “Thôi Trữ giết vua là Quang”. Thôi Trữ bắt quan thái sử chép khác đi, thái sử không chịu nên bị Thôi Trữ giết chết. Người em quan thái sử chép lại như anh mình vào quốc sử nước Tề. Thôi Trữ nổi giận lại giết người đó. Đến người em thứ 3 chép nguyên cũng bị giết. Tới khi người em thứ tư vẫn chép như vậy, không chịu thay đổi theo lệnh của Thôi Trữ. Ông đành thôi không giết người chép sử nữa.
Thôi Trữ cùng với Khánh Phong là hai người chuyên quyền, muốn chèn ép các quan nước Tề, bắt họ thề theo mình.
Lư Bồ Miết theo lệnh Khánh Phong, đi giết hai con của Thôi Trữ là Thôi Thành và Thôi Cương, nhân thể diệt toàn bộ gia quyến họ Thôi. Hai vợ chồng Thôi Trữ trở về nhà thấy nhà cửa tan hoang, cả họ bị giết không còn ai, mới nhận ra mưu đồ của Khánh Phong. Ông cùng vợ tự sát. Đến đêm, con nhỏ Thôi Minh đào một hố giữa khu lăng tẩm tổ tiên, vùi xác ông xuống đó rồi bỏ trốn sang nước Lỗ.
Thôi Trữ làm quan nước Tề hơn 50 năm qua 5 đời vua Tề. Sau khi ông qua đời, quyền hành nước Tề lọt vào tay Khánh Phong.
43. Thuấn, Đế Thuấn (2184 - 2184 TCN): là một vị vua huyền thoại thời Trung Quốc cổ đại, nằm trong Ngũ Đế. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Ngũ Đế bao gồm: Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Khốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn. Tên khi sinh của ông là Diêu Trọng Hóa. Ông cũng được gọi là Hữu Ngu Thị.
Vua Thuấn, cùng với các vua Nghiêu và Vũ (tức vua Hạ Vũ (2205 TCN - 2198 TCN), là vị vua đầu tiên của nhà Hạ trong lịch sử Trung Quốc), được Khổng giáo coi là những vị vua kiểu mẫu, và là những tấm gương đạo đức.
Thuấn nổi tiếng là người hiền đức trong thiên hạ. Theo truyền thuyết, mẹ ông, Ốc Đăng là người rất hiền đức mất sớm, cha là Cổ Tẩu lấy vợ khác và sinh ra Tượng. Dù bị mẹ con Tượng và cả Cổ Tẩu đối xử không tốt, Thuấn vẫn một mực hiếu thuận, giữ đúng đạo làm con.
Ông được vua Nghiêu mời giúp cai quản việc nước và gả cho hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh. Sau một thời gian, Nghiêu già yếu, Thuấn được Nghiêu nhường ngôi khi 53 tuổi và chết khi 100 tuổi. Ông đặt thủ đô của vương quốc tại Bồ Phản, Sơn Tây hiện nay). Ông cũng được gọi là Đại Thuấn hay Ngu Thuấn.
Thời cổ đại, trị thủy để ổn định cuộc sống, phát triển việc cày cấy là việc cấp bách hàng đầu. Theo sử sách, Thuấn sai Cổn làm việc trị thủy. Cổn trị thủy không thành công nên bị Thuấn xử tội chết. Thuấn lại dùng con Cổn là Hạ Vũ trị thủy. Sau nhiều năm, Hạ Vũ trị thủy thành công, vì thế được Thuấn chọn làm người kế vị. Thuấn không truyền ngôi cho con mình là Thương Quân mà trao ngôi báu cho Hạ Vũ thường được sử sách đời sau coi là tấm gương mẫu mực của việc chọn người tài đức chứ không vì lợi ích riêng tư của dòng họ.
44. Tô Tần (? - 316? TCN), tự Quý Tử, người ở Lạc Dương nước Đông Chu, là một biện sĩ đi du thuyết thời Chiến Quốc, nổi tiếng về khả năng du thuyết. Tương truyền ông là học trò của thầy Quỷ Cốc Tử, bạn đồng môn với Trương Nghi. Ông là một trong những đại diện tiêu biểu của phái Tung Hoành Gia. Tô Tần đi nhiều nước đề xuất việc hợp tung liên kết các nước Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Tề, Sở để chống lại nước Tần.
Tô Tần đầu tiên định gặp vua Tần lấy khả năng du thuyết của mình để thuyết phục Tần Huệ Vương. Nhưng Tần Huệ Vương vừa mới giết Thương Ưởng nên ghét những người biện sĩ không dùng Tô Tần.
Sau đó Tô Tần lần lượt qua nước Triệu, nước Yên, nước Hàn, nước Ngụy, nước Tề, nước Sở. Trong quá trình thực hiện hợp tung, để ngăn chặn việc nước Tần đánh Triệu sẽ hỏng kế sách của mình, Tô Tần đã dùng mưu mẹo kích động người bạn giỏi du thuyết Trương Nghi đi sang nước Tần làm quan để khuyên vua Tần không đánh nước Triệu, khiến kế sách của ông được thực hiện thành công.
Sau khi việc hợp tung 6 nước hoàn thành, nước Tần không mang quân đi đánh các nước khác trong vòng 15 năm. Nhưng về sau các nước vì lợi của nước mình mà phá minh ước đem quân đi đánh lẫn nhau. Tô Tần liên tục qua các nước để du thuyết khuyên các nước bãi binh trả lại thành trì cho nhau.
Dần dần việc hợp tung cũng bị phá vỡ. Cuối cùng Tô Tần ở nước Tề làm quan.
Ở nước Tề, Tô Tần bị các đại phu nước Tề ghét, tranh giành sự tin yêu của Tề Mẫn Vương nên sai người đâm Tô Tần. Tô Tần bị thương nặng. Vua Tề tìm hung thủ nhưng không bắt được. Đến lúc gần chết Tô Tần nói với Tề Vương:
"Thần chết xin dùng xe xé xác thần mà rao ở chợ: Tô Tần vì Yên mà làm loạn ở Tề. Như thế thì thế nào cũng bắt được hung thủ giết thần".
Tô Tần nói vậy nhằm mục đích khiến mọi người tưởng Tô Tần là kẻ có tội bị vua Tề ghét, kẻ giết Tô Tần sẽ lộ diện.
Vua Tề làm theo. Quả nhiên người giết Tô Tần tự ra nhận. Tề Mẫn Vương bèn bắt hung thủ mang chém.
Sau khi Tô Tần chết, các em ông là Tô Đại và Tô Lệ định đi duy trì việc hợp tung. Tuy việc hợp tung không được như trước nhưng Tô Đại và Tô Lệ đều làm quan và được coi trọng ở các chư hầu phía đông. Như vậy có thể nói việc hợp tung là thành quả của cả ba anh em nhà họ Tô.
Tô Tần được người đời sau coi trọng về tài du thuyết, người có tài ăn nói thường được ví như "lưỡi Tô Tần". Trong Sử ký, Tư Mã Thiên có nhận xét về ông:
"Tô Tần nổi dậy từ chốn làng xóm, hợp tung sáu nước. Điều đó chứng tỏ tri thức của ông ta có chỗ hơn người"
Nhưng mặt khác vì việc hợp tung liên hoành của Tô Tần và Trương Nghi chỉ có mục đích chủ yếu làm lợi cho bản thân nên Tư Mã Thiên còn nhận xét:
"Cả hai người ấy đều là những kẻ gian trá, nguy hiểm làm sao!"
Phụ Lục C
45. Tô Thức (8/1/1037 - 24/8/1101): tự Tử Chiêm, một tự khác là Hòa Trọng, hiệu Đông Pha cư sĩ nên còn gọi là Tô Đông Pha, là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc thời Tống.
Ông sinh ra tại Mi Sơn, Mi Châu, nay là địa cấp thị Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên.
Đông Pha cưới vợ đầu là Vương Phất (1040-1065) nhỏ hơn ông ba tuổi, năm ông 18 tuổi (1055). Sau 3 năm tang cha, ông cưới vợ thứ hai là Vương Nhuận Chi (em họ của vợ đầu) vào tháng 6 năm 1068.
Đông Pha cùng cha Tô Tuân và em Tô Triệt là ba trong số tám đại văn hào lớn nhất Trung Quốc (Đường - Tống bát đại gia gồm Liễu Tông Nguyên (tức Liễu Tôn Nguyên trong Cổ học tinh hoa), Hàn Dũ, Âu Dương Tu, Vương An Thạch, Tăng Củng, Tô Tuân, Tô Triệt và Tô Thức) suốt bảy thế kỷ từ thế kỷ 7 đến 13. Ông giỏi cả cổ văn lẫn thơ, phú. Tất cả các tác phẩm của ông cộng lại khoảng 1 triệu chữ. Riêng về thi từ, ông có khoảng 1700 bài. Còn cổ văn của ông là "thiên hạ vô địch", cứ hạ bút là thành văn, không cần lập dàn ý, cứ như là "hành vân, lưu thủy". Âu Dương Tu mà hôm nào nhận được một bài văn của ông thì vui sướng cả ngày, còn vua Tống Thần Tông hay đọc bài của ông trong bữa ngự thiện, quên gắp cả thức ăn.
Năm 1056-1057, Đông Pha cùng cha và em vượt suốt hai tháng qua miền núi non hiểm trở lên kinh (Khai Phong) đi thi. Họ đến Khai Phong tháng 5 năm 1056 và chờ kỳ thi cho đến mùa xuân năm sau. Kỳ thi do Âu Dương Tu làm chánh chủ khảo chú trọng đến việc tìm kẻ sĩ có tài trị dân, thể lệ thi gắt gao và đích thân vua Tống Nhân Tông chọn đầu bài. Bài thứ nhất hỏi về sử hoặc chính trị, bài thứ hai là bài về Tứ Thư, Ngũ Kinh, bài thứ ba là một bài phú luận về chính trị. Năm đó, Tô Tuân không ứng thí vì không muốn ganh đua với hai con, còn cả hai anh em Đông Pha đều đỗ cao, đề bài luận về chính trị là "Hình thưởng trung hậu chi chí luận" (luận về sự trung hậu rất mực trong phép thưởng phạt).
Cuối năm 1059 đầu năm 1060, hết tang mẹ, Đông Pha cùng cha và em mất 4 tháng vượt 2.000 cây số quay trở lại kinh để dự thi. Trên đường đi Đông Pha và Tử Do làm được khoảng 200 bài thơ. Cũng như lần trước, Tô Tuân không ứng thí.
Năm 1061, làm quan ở Thiểm Tây, cùng nhân dân ở đó cầu được mưa, ăn mừng, ông làm bài "Kỉ vũ đình kí" rất nổi danh.
Năm 1071, trên đường Đông Pha rời kinh đi Hàng Châu, ông làm được rất nhiều bài thơ, bài từ. Ông ghé thăm em Tô Triệt (đang làm chức giáo thụ) ở Trần Châu, rồi hai anh em đi thăm Âu Dương Tu ở gần đó. Ông cùng vợ con đến Hàng Châu ngày 28 tháng 11 năm 1071. Trong suốt thời gian làm quan ở Hàng Châu, ông làm đủ thể loại thơ tả cảnh, tả tình, tả sự đau xót khi thi hành án, thơ trào phúng. Ông làm bạn với các nhà sư, đọc sách Phật. Ông rất thích ca nhi, buổi tiệc nào ông cũng có họ. Các ca nhi này quay quanh ông để ca hát và xin ông đề thơ lên quạt giấy. Do phong cảnh Hàng Châu đẹp và không khí ca nhạc tưng bừng, ông để ý tới thể từ, cải cách nó và nổi danh thành một Từ gia bậc nhất đời Tống.
Đông Pha là một nhà thư pháp có bút pháp liệt vào hàng nổi tiếng và có giá trị nhất. Đông Pha là một họa sĩ nổi tiếng về vẽ trúc và núi. Năm 1065, vào làm việc ở Sử quán có cơ hội đọc những sách quí và các danh họa tàng trữ ở bí thư các.
Những tác phẩm của ông gồm có: Tiền Xích Bích phú, Hậu Xích Bích phú (hai bài phú này là hai viên ngọc của cổ văn Trung Hoa), Kỉ Vũ Đình ký...
46. Tôn Tẫn (khoảng thế kỷ 4 TCN): người nước Tề, là một quân sư, một nhà chỉ huy quân sự nổi tiếng thời Chiến Quốc. Tôn Tẫn là tác giả Tôn Tẫn binh pháp là sách binh pháp dạy cho binh lính, tướng sĩ tề quốc. Tương truyền, Tôn Tẫn là cháu của Tôn Tử, cùng với Bàng Quyên là học trò môn binh pháp của Quỷ Cốc Tử (ngoài Tẫn và Quyên, học trò Quỷ Cốc Tử Vương Hủ còn có Tô Tần và Trương Nghi học môn du thuyết).
Bàng Quyên là bạn học với Tôn Tẫn, vì ham công danh phú quý nên xin Quỷ Cốc tiên sinh xuống núi trước để tìm công danh. Bàng Quyên làm tướng nước Ngụy, vì ghen ghét tài học của Tôn Tẫn đã mượn pháp luật mà trị tội chặt 2 chân, chạm vào mặt để Tôn Tẫn phải giấu mình không lộ diện. Sứ giả nước Tề đến đất Lương (Ngụy), Tôn Tẫn lén gặp thuyết phục sứ giả. Sứ giả nước Tề cho là kỳ lạ bèn mang trộm Tôn Tẫn lên xe về Tề. Tướng Tề là Điền Kỵ phục tài, tâu với Tề Uy Vương phong Tẫn làm thầy, cùng với Kỵ đem quân đánh Nguỵ. Tẫn ngồi trong xe kín, bày mưu kế cho Kỵ đánh Nguỵ phải kiệt quệ.
Mười ba năm sau, Nguỵ và Triệu đánh Hàn. Hàn cáo cấp với Tề, Tề lại sai Điền Kỵ làm tướng, Tôn Tẫn làm quân sư đi cứu Hàn. Tôn Tẫn dùng kế "vây Ngụy cứu Triệu" khiến cho tướng Ngụy là Bàng Quyên nghe vậy phải rời bỏ Hàn quay về. Tẫn lại dùng kế giảm số bếp (kế “rút bếp”) trong quân lừa Bàng Quyên đuổi theo, rồi sau đó sai quân cung nỏ mai phục hai bên đường Mã Lăng, lấy một khúc gỗ to cạo sạch vỏ, lấy than khắc lên dòng chữ: "Bàng Quyên sẽ chết dưới cây này". Sau đó dặn quân lính hễ thấy ánh lửa nổi lên là bắn thẳng vào chỗ đó. Bàng Quyên đuổi đến nơi, thấy có chữ bèn sai quân thắp đuốc lên để đọc. Quyên đọc xong, thất kinh vội sai quân rút nhưng đã muộn. Quân Tề mai phục thấy ánh lửa đốt lên vội bắn như mưa về phía đó. Bàng Quyên bị tên bắn ngã ngựa, sợ bị quân Tề làm nhục vội rút gươm tự tử".
Tôn Tẫn binh pháp đáng ra có 89 thiên thì chỉ còn 30 thiên đọc được, tổng cộng bộ binh thư này có hơn 2000 chữ. Tôn Tẫn viết dạy cho binh lính, tướng sĩ tề quốc. Bộ binh pháp này kế thừa, phát triển Tôn Tử binh pháp nhưng nó tiến bộ hơn. Bộ Tôn Tẫn binh pháp và Tôn Tử binh pháp tập họp lại thành Tôn gia chỉ đạo.
Chiến thuật mai phục của Tôn Tẫn ở Mã Lăng có thể coi là ví dụ nổi tiếng nhất của câu nói "Dĩ lợi động chi, dĩ tốt đãi chi" (dùng lợi mà dụ địch tiến, trọng binh mai phục quân thù) trong sách Binh pháp Tôn Tử. Hai kế “Vây Ngụy cứu Triệu” và “rút bếp” của Tôn Tẫn sau này cũng trở nên nổi tiếng, Gia Cát Lượng từng sử dụng một biến thể của kế “rút bếp” là kế “thêm bếp” để ngăn quân Tư Mã Ý đuổi theo. Kế “rút bếp” của Tôn Tẫn lừa Bàng Quyên và quân Ngụy tiến sâu vào đường hẻm Mã Lăng. Khi toàn bộ quân Ngụy đã rơi vào bẫy phục kích, Tôn Tẫn sai bịt đường hẻm và bắn tên, quân Ngụy đại bại, Bàng Quyên cũng bỏ mạng trong đám loạn tên.
47. Tống Liêm (1310 - 1381): là nhà chính trị, nhà sử học, nhà văn, nho sĩ, đại thần cuối thời Nguyên đầu thời Minh, tự Cảnh Liêm, hiệu Tiềm Khê,Vô Tương Cư, Long Môn Tử, Huyền Chân Tử, người Phố Giang huyện Nghĩa Ô tỉnh Chiết Giang (nay thuộc thôn Tiềm Khê, Kim Hoa), từng giữ chức Hàn lâm, chủ biên bộ “Nguyên sử” viết về giai đoạn từ Thành Cát Tư Hãn Thiết Mộc Chân tới Nguyên Thuận Đế Thỏa Hoàn Thiết Mộc Nhi của nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc và lịch sử Mông Cổ. Năm 1380, cháu là Tống Thận vì có dính líu đến vụ án Ngục Hồ Duy Dung, Chu Nguyên Chương (tức Minh Thái Tổ, còn gọi là Hồng Vũ Đế, Hồng Vũ Quân, hay Chu Hồng Vũ) ra lệnh thảm sát cả nhà ông, sau được Hoàng hậu và Thái tử cứu giúp, ông may mắn thoát chết, nhưng đổi lại toàn bộ thành viên trong gia tộc bị xử tội lưu, đày đến Mậu Châu (nay thuộc huyện Mậu tỉnh Tứ Xuyên). Trên đường tới vùng giữa Quỳ Châu (nay thuộc huyện Phụng Tiết thành phố Trùng Khánh) và Mậu Châu thì mắc bệnh qua đời.
Có thuyết nói rằng do bài thơ mà ông dâng lên Hoàng đế vào năm Hồng Vũ thứ 4 có câu “tự cổ giới cầm hoang” lời lẽ câu thơ khiến Chu Nguyên Chương nổi giận, nên mới gặp phải tai họa như trên.
48. Trang Tử (~365-290 trước CN) là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật của ông là Trang Chu và tác phẩm của ông sau đều được gọi là Trang Tử. Ông còn có tên là Mông Lại, Mông Trang hay Mông Tẩu. Ông sống vào thời Chiến Quốc, thời kỳ đỉnh cao của các tư tưởng triết học Trung Hoa với Bách Gia Chư Tử (Gọi chung các học gia Trung-Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc).
Cũng như Lão Tử, tư liệu sớm nhất chép về Trang Tử là ở bộ Sử ký của Tư Mã Thiên. Sử gia Tư Mã Thiên viết về Trang Tử khá vắn tắt: "Trang tử, người đất Mông, tên Chu, làm quan lại ở Vườn Sơn (Tất Viên)" sau đó sống ẩn dật cho đến cuối đời. Nhưng điều chắc chắn là Trang Tử sống cùng thời với Mạnh Tử và Huệ Thi thời Lương Huệ Vương và Tề Tuyên Vương. Đất Mông được xác định nằm trong đất Tống, thuộc tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) ngày nay. Trang Tử là một trong những nhà tư tưởng đặc biệt vào loại hạng nhất thời ấy, rất giỏi kể chuyện, có sức tưởng tượng vô cùng phong phú.
Cũng theo Tư Mã Thiên, Trang Tử là tác giả bộ Nam Hoa kinh gồm hơn mười vạn câu (thập dư vạn ngôn) để châm biếm cái học của Khổng Tử và xiển minh học thuật của Lão Tử.
Tương truyền rằng, khi Trang Tử đến ở ẩn nơi chân núi Nam Hoa, ông đem hết tinh hoa của Đạo giáo của Lão Tử viết thành bộ sách, lấy tên núi Nam Hoa mà đặt, gọi là Nam Hoa kinh, đời sau người ta gọi là "sách Trang Tử".
Nam Hoa kinh (hay còn gọi là Nam Hoa chân kinh) gồm ba phần:
Nội thiên: Đây là chương tối quan trọng trong toàn bộ tác phẩm, diễn đạt tư tưởng thái thậm vô vi của Trang Châu qua lời văn rất hàm súc, uyển chuyển ý tứ thoáng đạt và trí tưởng tượng hùng hậu. Nội thiên được nhiều người tin là của Trang tử viết nhất, gồm có 7 thiên có tựa đề là: Tiêu dao du, Tề vật luận, Dưỡng sinh chủ, Nhân gian thế, Đức sung phù, Đại tôn sư, Ứng đế vương. Sau đây là ý chính của hai chương quan trọng nhất trong nội thiên:
Tiêu dao du: nghĩa là đi chơi, phần này văn chương rất bay bổng. Mượn hình ảnh con chim Bằng, con cá Côn để ví cái sự tự tại mà người ta nên hướng tới.
Tề vật luận: nghĩa là luận về sự bình đẳng của vạn vật. Thiên gồm nhiều bài luận triết có giá trị, được nhiều người cho là quan trọng và là thiên huyền diệu nhất trong nội thiên. Theo Trang tử, muốn đạt tới sự Tiêu dao du thì phải xem vạn vật bình đẳng, xem rộng ra sẽ thấy sống chết như nhau, giàu nghèo không khác, xấu đẹp
cũng vậy... Từ đó sẽ thấy tham sống, tham giàu, tham đẹp... là sai, vì mỗi hoàn cảnh, mỗi vật có một giá trị riêng của nó, tất cả đều nằm trong Đạo.
Trong phần Tề vật luận có bài cuối cùng thường được người sau gọi là Mộng hồ điệp, hay Trang Chu mộng hồ điệp là một đoạn văn nổi tiếng kim cổ, Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch: “Xưa Trang Châu chiêm bao thấy mình là bướm vui phận làm bướm, tự thấy thích chí, không còn biết có Châu nữa. Chợt tỉnh giấc, thì lại thấy mình là Châu. Không biết Châu chiêm bao là bướm, hay bướm chiêm bao là Châu? Châu và bướm ắt phải có tánh phận khác nhau. Đó gọi là Vật hóa.”
Ngoại thiên: Ngoại thiên phần lớn là chuyện ngụ ngôn nhằm diễn lại các ý của phần nội thiên. Theo nhiều người thì phần này không do Trang tử viết mà là của bọn đệ tử theo tư tưởng Lão - Trang thêm vào. Ngoại thiên gồm 15 thiên có tựa đề: Biền mẫu, Mã đề, Khứ cự, Tại hựu, Thiên địa, Thiên đạo, Thiên vận, Khắc ý, Thiện tính, Thu thủy, Chí lạc, Đạt sinh, Sơn mộc, Điền tử phương, Tri bắc du.
Tạp thiên: Đây là một chương không quan trọng, lời văn nhiều phần thô kệch được cho là của nhiều hạng thêm vào. Gồm 11 thiên: Canh tang sở, Từ vô quỷ, Tắc dương, Ngoại vật, Ngụ ngôn, Nhượng vương, Đạo chích, Thuyết kiếm, Ngư phủ, Liệt ngự khấu, Thiên hạ.
Tư tưởng triết học của Trang Tử:
Kế thừa truyền thống của triết học cổ Trung Quốc, nguyên tắc trình bày quan điểm triết học của Trang Tử là "có lời vì ý, được ý quên lời".
Có thể hiểu một cách khái lược tư tưởng triết học của Trang Tử như sau:
Vô danh. Tử viết: "Đạo chẳng thể nghe được, nghe được không phải là nó. Đạo chẳng thể thấy được, thấy được không phải là nó. Làm sao lấy trí mà hiểu được cái hình dung của cái không hình dung được? Vậy không nên đặt tên cho đạo" (Tri bắc du).
Vô thường. Trạng thái vận động, không ngừng biến đổi của vũ trụ và vạn vật chính là "sự sống" của đạo.
Đông Quách Tử hỏi Trang Tử:
- "Đạo ở đâu?"
- Không chỗ nào không có.
"Xin chỉ ra mới được?"
- Trong con kiến. Trong cọng cỏ. Trong miếng sành vỡ.... Lời của ông chẳng đi đến đâu cả. Đừng chỉ hẳn vào vật nào có nó (đạo), vì không có vật nào là không có nó. Đạo lớn là thế. (Tri bắc du)
Đức: Giống như đức của Mặt Trời là sáng và nóng, đức của nước là lạnh và tuôn chảy, của gió là mát và dịch chuyển, đức của con người cũng là một trạng thái tự nhiên không ràng buộc với bất kỳ mối quan hệ xã hội nào.
Vô vi: đứng ở chỗ khôn lường mà chơi ở miền không có. Vô vi hành động theo lẽ tự nhiên nhi nhiên, vô tư, hồn nhiên như trẻ thơ "giữ tâm điềm đạm, khí điềm tĩnh, thuận theo tự nhiên mà không theo ý riêng của mình" (Ứng đế vương).
Về Trang Tử, nhìn từ góc độ triết học, tư tưởng học hay văn học đều thấy được sự phong phú nổi trội trong cách thức biểu hiện: một Đạo gia "phóng nhiệm", "tài tử", "ngông" và đầy sáng tạo.
49. Trụ: Đế Tân, Trụ Tân hay Trụ Vương - cũng có thể thêm "Thương" ở trước các tên gọi này - là vị vua cuối cùng đời nhà Thương (hay Ân) của lịch sử Trung Quốc, ở ngôi từ 1154 TCN - 1123 TCN.
Trụ Vương là con của Đế Ất, tên gọi là Ân Thọ, nổi tiếng là một ông vua dâm đãng. Ông mê Đắc Kỷ đến quên việc triều chính. Ông và Đắc Kỷ là một cặp được nhắc đến trong lịch sử Trung Quốc với sự phẫn nộ của nhiều người. Tuy vậy, Trụ Vương có sức khỏe hơn người và là một vị vua văn võ song toàn, vì sự tàn bạo đã dẫn đến mất nước về tay nhà Chu.
Theo Phong thần diễn nghĩa thì Đắc Kỷ nguyên danh là Tô Đắc Kỷ, là con gái của Ký Châu hầu Tô Hộ. Do vua Trụ Vương vốn háo sắc, nghe lời của Bí Trọng và Vưu Hồn, nên đòi Tô Hộ phải dâng con gái để nạp làm phi tử. Tuy Tô Hộ phản ứng mạnh trước yêu cầu này, nhưng sau khi có thư khuyên giải cân nhắc của Tây Bá hầu Cơ Xương, ông quyết định dâng con gái.
Hưởng lạc
Xây Lộc Đài: Để thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ xa hoa, ông nghe lời Đắc Kỷ xây Lộc Đài, là một ngôi nhà to và cao vút để từ trên đỉnh có thể thưởng ngoạn cảnh vật của đất nước.
Nhục Lâm - Tửu Trì: Nơi giải trí của vị vua này cũng khá đặc biệt, ông cho đào những cái hồ nhỏ rồi đổ đầy rượu trong đó gọi là Tửu Trì (suối rượu), lại sai người nướng thịt các loại thú rừng rồi treo đầy trên cây trong vườn dầy đặc đến nỗi ánh mặt trời không xuyên qua các cây thịt xuống mặt đất được gọi là Nhục Lâm (rừng thịt). Vua và Đắc Kỷ ngày đêm vui chơi ở đây đến mức không còn biết thời gian và thế giới bên ngoài.
Tàn bạo
Ông đã nghe lời xúi giục của Đắc Kỷ mà bày ra vô số cực hình tàn khốc để hành hình các cung nữ, quan quân trong triều. Trụ vương còn tàn bạo cả với các quan lại và triều thần, thậm chí người trong tông tộc nhà Thương:
Bức tử Khương Vương Hậu, chém đầu hai người con trai ruột: kể từ đó Đắc Kỷ được phong làm chính cung hoàng hậu.
Hành hình thế tử Bá Ấp Khảo con trai của Tây Bá Cơ Xương, sau đó đem thịt của Ấp Khảo làm thành bánh ép Cơ Xương phải ăn hết mới thả về nước.
Moi tim của người chú là Tỷ Can - một đại thần trong triều - cho Đắc Kỷ ăn.
Những hành vi tàn ác của Trụ vương khiến cho chư hầu và các tướng dần dần xa lánh dẫn đến sự suy yếu của nhà Thương sau này.
Kết cục
Năm 1124 TCN quân Cơ Phát, con của Tây Bá Cơ Xương, nước Chu (chư hầu của nhà Thương) dù ít hơn vẫn đại thắng quân Thương Trụ Vương. Kinh đô Triều Ca thất thủ, Trụ Vương chạy đến Lộc Đài, phóng hỏa đốt Lộc Đài rồi nhảy vào tự thiêu chết. Trụ vương làm vua được 32 năm (1154 - 1123 TCN).
50. Trương Nghi (? - 309 TCN) là nhà du thuyết nổi tiếng thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông sử dụng tài chính trị và tài thuyết phục của mình mà gây dựng sự nghiệp. Ông là đại diện tiêu biểu của phái Tung hoành gia, đề xướng chính sách Liên hoành, chống lại việc Hợp tung của Tô Tần.
Trương Nghi là người nước Ngụy, bạn đồng môn với Tô Tần, theo học thầy Quỷ Cốc Tử.
Quan điểm lập nghiệp
Sau khi học xong phép du thuyết, Trương Nghi đi du thuyết các nước chư hầu. Có lần ông bị tướng quốc nước Sở nghi ngờ ăn cắp ngọc bích của ông ta. Trương Nghi không nhận tội bị đánh vài trăm roi rồi được tha. Vợ ông trách ông vì đi học du thuyết mà bị vạ. Trương Nghi hỏi vợ: “Nhìn xem lưỡi ta còn không”?
Vợ cười: “Lưỡi còn”.
Ông nói: “Được rồi”.
Trương Nghi đã có chí hướng lập nghiệp từ con đường đi du thuyết từ rất lâu và rất tự tin vào tài năng của mình.
Nhờ Tô Tần mà làm nên công trạng
Tô Tần đề xướng thuyết hợp tung nhưng còn lo Tần đánh Triệu thì thuyết hợp tung của ông ta không thành công. Vì thế ông cho người gợi ý mời Trương Nghi sang Triệu. Trương Nghi đến phủ của Tô Tần bị Tô Tần đối xử đạm bạc, cho ăn uống như người dưới đồng thời mắng nhiếc làm nhục Trương Nghi. Trương Nghi tức giận bỏ đi, nghĩ chư hầu không đâu có thể nhờ được, chỉ có nước Tần mới làm khổ được Triệu, ông bèn đi vào Tần. Tô Tần sau khi trêu tức Trương Nghi thì mặt khác cho người theo Trương Nghi ngầm giúp đỡ. Đến lúc Trương Nghi được vua Tần tin dùng thì người giúp đỡ liền nói thật đây là mưu kế của Tô Tần. Trương Nghi liền than rằng:
"Than ôi? Thế là ta mắc mưu Tô Quân mà không biết, rõ ràng ta không bằng Tô Quân".
Sau đó làm ông được phong làm thừa tướng, cố tình ngăn không cho Tần đánh Triệu thay vào đó là cố ý khiến Tần đánh nước Hàn, nước Sở.
Thực hiện liên hoành, phá hợp tung
Từ khi được vua Tần tin dùng, Trương Nghi được phong làm thừa tướng bắt đầu dùng thuyết Liên Hoành. Thuyết Liên Hoành của Trương Nghi chủ yếu dùng thủ đoạn bày cái lợi trước mắt ra cho các nước chư hầu. Các nước Chư hầu đều vì tham cái lợi trước mắt mà không tính đến hậu quả lâu dài, bội ước với nhau. Điển hình trong thủ đoạn của ông là việc lừa Sở Vương.
Trương Nghi sang Sở hứa với vua Sở nếu Sở bỏ liên minh với Tề thì Tần sẽ cắt đất 600 dặm đất Thượng Ư cho Sở. Sở tuyệt giao với Tề nhân cơ hội đó, Tần với Tề liên minh với nhau. Khi Sở Vương đòi đất thì Trương Nghi lại bảo dâng cho Sở vương 6 dặm đất của mình. Sở Vương tức giận mang quân đánh Tần. Tần và Tề cùng đánh Sở, Sở thua to, tổn thất nặng nề.
Ông dùng thủ đoạn này thuyết phục được các nước Tề, Triệu, Yến, Ngụy liên hoành với nước Tần, như vậy liên minh hợp tung 6 nước do Tô Tần kiến tạo nên đã bị Trương Nghi phá tan, đặt cơ sở vững chắc cho nước Tần tiến tới thống nhất Trung Quốc.
Cuối cùng Trương Nghi làm quan ở Ngụy được một năm thì mất.
51. Tuân Tử (313 TCN - 238 TCN): là một nhà Nho, nhà tư tưởng của Trung Hoa vào cuối thời Chiến Quốc. Cũng gọi bằng Huống, còn có tên là Khanh. Ông sinh ở nước Triệu, làm việc cho Tề Tương Vương. Tuân Tử chính là thầy học của thừa tướng nhà Tần là Lý Tư. Tuân Tử là một trong Bách gia chư tử là thời kỳ chứng kiến sự mở rộng to lớn về văn hóa và trí thức ở Trung Quốc kéo dài từ 770 đến 222 TCN. Trùng khớp với giai đoạn Xuân Thu và Chiến Quốc, và nó cũng được gọi là thời đại hoàng kim của tư tưởng Trung Quốc và thời kỳ trăm nhà đua tranh ("bách gia tranh minh") này chứng kiến sự nảy nở của nhiều trường phái tư tưởng khác nhau..
Hoàn toàn đối lập với Mạnh Tử (371-289 TCN) là người chủ trương con người vốn đã có tính thiện, Tuân Tử chủ trương rằng con người bẩm sinh là ích kỷ và xấu xa (tính ác); ông cho rằng tính thiện chỉ có được thông qua giáo dục và hành động phù hợp với hoàn cảnh của mỗi người. Ông cũng cho rằng hình thức chính phủ tuyệt vời nhất là dựa trên sự kiểm soát độc đoán, và rằng đạo đức là không liên quan tới việc cai trị một cách hiệu quả.
Phụ Lục C
52. Tư Mã Thiên (145 TCN - 86 TCN): tên tự là Tử Trường, là tác giả bộ Sử ký; với bộ sử đó, ông được tôn là Sử thánh, một trong Mười vị thánh trong lịch sử Trung Quốc. Tư Mã Thiên sinh năm 145 TCN ở Long Môn (nay là huyện Hàn Thành, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc) nên Tư Mã Thiên cũng còn được gọi là Long Môn Tử.
Ông làm chức Thái sử lệnh rồi Trung thư lệnh, đời nhà Hán.
Sự nghiệp
Từ nhỏ, Tư Mã Thiên đã được học nhiều sách văn học và sử học thời đó. Lên mười tuổi, ông đã học Tả truyện, Quốc ngữ, Thế bản và thuộc lòng hầu hết những bài văn nổi tiếng của thời trước. Ông từng là học trò của một số nhà Nho học như Khổng An Quốc và Đổng Trọng Thư.
Năm 20 tuổi, nhờ sự hỗ trợ của cha là Tư Mã Đàm, Tư Mã Thiên đã bắt đầu chuyến du hành vòng quanh đất nước, thu thập các tài liệu và bằng chứng lịch sử. Mục đích của chuyến đi là để kiểm chứng các lời đồn đại và truyền thuyết và để thăm viếng các di tích lịch sử, như mộ Đại Vũ. Ông đã đi qua Sơn Đông, Vân Nam, Hà Bắc, Chiết Giang, Giang Tô, Giang Tây, Hồ Nam...
Sau chuyến đi trở về, ông được chọn làm Lang trung trong chính quyền, với nhiệm vụ đi kiểm tra từng địa phương cùng Hán Vũ Đế (vào khoảng từ 122 TCN đến 116 TCN). Sau ông được phụng sứ đi thanh tra các miền Ba Thục, Cung, Tạc, Côn Minh tức những miền mà nhà Hán mới chinh phục được ở phía tây nam. Phía bắc ông lên tới Vạn Lý Trường Thành và Sóc Phương. Năm 110 TCN, sau cuộc tuần du, cha ông lâm bệnh và gọi Tư Mã Thiên về để nối nghiệp. Tư Mã Đàm có ước nguyện viết tiếp Xuân Thu Tả Thị Truyện. Kế nghiệp cha, ông nhận chức Thái sử lệnh. Chức đó vừa giữ việc chép sử vừa coi về thiên văn, làm lịch, nhưng là một chức nhỏ, bị coi thường. Năm 104 TCN, ông cùng một vài người nữa, sửa lại lịch. Ông thu thập hết tài liệu trong các sách của thư viện triều đình.
Năm 99 TCN, ông bị vướng vào vụ Lý Lăng. Lý Quảng Lợi và Lý Lăng, hai quan võ, đã không hoàn thành nhiệm vụ trong một cuộc chiến với Hung Nô ở miền Bắc. Hán Vũ Đế và đa số các quan trong triều cho rằng tội trạng thuộc về Lý Lăng. Chỉ mình Tư Mã Thiên bênh vực vị tướng này. Hán Vũ Đế cho rằng Tư Mã Thiên, qua việc bảo vệ Lý Lăng, đã ngầm chê Lý Quảng Lợi, anh vợ của Vũ Đế, là nhút nhát. Tư Mã Thiên bị tội tử hình, nếu không chuộc bằng tiền bạc hoặc bị cung hình (thiến). Do không đủ tiền chuộc, ông đành chọn bị thiến và bị cầm tù.
Sau khi ra tù, Tư Mã Thiên được làm Trung thư lệnh, đây là chức quan to, ở gần vua, được ra vào cung cấm, xem các tài liệu mật, chức này chỉ dành cho hoạn quan. Thỉnh thoảng ông được đi theo vua trong các cuộc tuần du. Không được giữ chức Thái sử nữa, lại luôn cảm thấy nhục nhã vì hình phạt, ông dồn tất cả tâm sức cho bộ Sử ký và hoàn thành nó năm 97 TCN (có sách nói là năm 91 TCN, lúc ông trên 55 tuổi).
Không ai để ý tới ông cả và ông mất năm nào cũng không biết rõ. Theo Vương Quốc Duy trong Thái sử công niên khảo có lẽ ông mất vào năm 60 tuổi, năm 86 TCN cùng một năm với Vũ đế.
Sử ký
Sử ký là công trình sử học lớn nhất của Trung Quốc và là một trong những quyển sử có tiếng nhất của thế giới. Đặc biệt bộ sử này còn là một trong những tác phẩm văn học ưu tú của nhân loại. Bộ sử vĩ đại này miêu tả tổng quát về lịch sử Trung Quốc bao trùm 2.000 năm từ Hoàng Đế đến đời Hán Vũ Đế. Công trình này là nền tảng cho các phát triển sau này trong sử học Trung Hoa.
Sử ký đã xây dựng một phong cách viết sử mà sau này trở thành "khuôn mẫu chính thức" cho tài liệu lịch sử Trung Hoa. Trong Sử ký, Tư Mã Thiên trình bày các sự kiện theo chuỗi kèm theo chú giải, nguồn tham khảo. Công trình này gồm 526.500 chữ, 130 thiên; không theo trình tự thời gian, mà theo 5 chủ đề, bao gồm bản kỷ, biểu, thư, thế gia, liệt truyện; viết về nhiều lĩnh vực của xã hội gồm âm nhạc, lễ hội, lịch, tín ngưỡng, kinh tế; kèm theo một nguồn tham khảo lớn. Trước ông, lịch sử được viết dành cho triều đình. Phong cách viết sử mở rộng cho nhiều mặt của xã hội trong Sử ký sau này ảnh hưởng đến Trịnh Tiều khi viết Thông sử hay Tư Mã Quang khi viết Tư trì thông giám. Phong cách này còn ảnh hưởng đến cách viết sử của các nước láng giềng, như Triều Tiên.
Sử ký là bộ sử cổ và nổi tiếng nhất trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa; bộ Nhị thập tứ sử là tuyển tập các cuốn sách sử Trung Quốc bao quát giai đoạn lịch sử từ năm 3000 TCN tới thời nhà Minh vào thế kỷ 17. Toàn bộ có 3213 tập và khoảng 40 triệu chữ. Nó thường được coi là một nguồn dữ liệu chính xác về truyền thống lịch sử và văn hóa Trung Quốc, và đã được sử dụng trong nghiên cứu về văn học, nghệ thuật, âm nhạc, khoa học, quân sự, địa lý, dân tộc và nhiều chủ đề khác.
Nhị thập tứ sử của Trung Hoa:
STT/ Tên sách -Tác giả - Năm biên soạn - Số quyển
1/ Sử ký - Tư Mã Thiên - 91 TCN - 130
2/ Hán thư - Ban Cố - 82 -100
3/ Hậu Hán thư - Phạm Diệp – 445 - 120
4/ Tam quốc chí - Trần Thọ - 280 - 65
5/ Tấn thư - Phòng Huyền Linh (chủ biên) - 648 - 130
6/ Tống thư - Thẩm Ước - 488 - 100
7/ Nam Tề thư - Tiêu Tử Hiển - 537 - 59
8/ Lương thư - Diêu Tư Liêm - 636 - 56
9/ Trần thư - Diêu Tư Liêm - 636 - 36
10/ Ngụy thư - Ngụy Thâu - 554 - 114
11/ Bắc Tề thư - Lý Bách Dược - 636 - 50
12/ Chu thư - Lệnh Hồ Đức Phân (chủ biên) - 636 - 50
13/ Tùy thư - Ngụy Trưng (chủ biên) - 636 - 85
14/ Nam sử - Lý Diên Thọ - 659 - 80
15/ Bắc sử - Lý Diên Thọ - 659 - 100
16/ Cựu Đường thư - Lưu Hu (chủ biên) - 945 - 200
17/ Tân Đường thư - Âu Dương Tu, Tống Kỳ - 1060 - 225 

18/ Cựu Ngũ Đại sử - Tiết Cư Chính (chủ biên) - 974 - 150 

19/ Tân Ngũ Đại sử - Âu Dương Tu (chủ biên) - 1053 - 74 

20/ Tống sử - Thoát Thoát (chủ biên) - 1345 - 496
21/ Liêu sử - Thoát Thoát (chủ biên) - 1345 - 116
22/ Kim sử - Thoát Thoát (chủ biên) - 1345 - 135
23/ Nguyên sử - Tống Liêm (chủ biên) - 1370 - 210
24/ Minh sử - Trương Đình Ngọc (chủ biên) - 1739 - 332
- Tân Nguyên sử - Kha Thiệu Văn (chủ biên) - 1919 - 257
- Thanh sử cảo - Triệu Nhĩ Tốn (chủ biên) - 1929 - 529
(Tài liệu tham khảo về Nhị thập tứ sử: http://vi.wikipedia.org/)
Ngoài Sử ký, Tư Mã Thiên còn viết 8 bài thơ trào phúng, trong số đó có bài nói về sự chịu đựng của ông trong vụ Lý Lăng và bài nói về niềm đam mê viết Sử ký. Xem thêm Sử ký trong Phụ Lục D.

Trong thiên văn học
Tư Mã Đàm và Tư Mã Thiên, đều là các nhà chiêm tinh của triều đình nhà Hán. Đây là chức vụ quan trọng, có nhiệm vụ giải nghĩa và tiên đoán các việc triều chính trong sự hài hòa với chuyển động của Mặt Trời, Mặt Trăng và các ngôi sao, cùng các hiện tượng tự nhiên khác như nhật thực, động đất,...
Năm 104 TCN, trước khi viết Sử ký, Tư Mã Thiên cùng Công Tôn Khanh Hồ Toại và đồng nghiệp khác sửa lại lịch cũ, chế định Hán lịch. Lịch này có độ chính xác cao nhất vào thời đó, xác định một năm có 365,25 ngày và một tháng có 29,53 ngày. Đây được coi là một cuộc cách mạng trong lịch sử làm lịch của Trung Hoa. Âm lịch ngày nay cũng dựa trên công trình này.
53. Tử Sản (?-522 TCN) là nhà cải cách kinh tế, xã hội, chính trị quan trọng của nước Trịnh thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc.
Tử Sản họ Công Tôn, người tộc Quốc, tên là Kiều, tên chữ là Tử Sản, còn có tên chữ khác là Tử Mỹ, là cháu của Trịnh Mục công, chấp chính nước Trịnh hơn 20 năm, tên thuỵ là Thành tử.
Cha Tử Sản là Tử Quốc làm chức Tư mã thời Trịnh Thành công và Hy công, đến Trịnh Giản công năm thứ 3 (563 trước CN), Tử Quốc và người chấp chính là Tử Tứ cùng bị địch thủ chính trị sát hại. Tử Sản lúc đó còn trẻ không sợ hãi, dẫn quân đi dẹp loạn, thể hiện được tài năng hơn người của mình. Chín năm sau, Tử Sản được phong làm khanh, nhậm chức Thiếu chính, trong nhiều lần hoạt động ngoại giao, đối diện với nước mạnh láng giềng, ông có những biện pháp khéo léo, bảo vệ lợi ích của các nước nhỏ, tiếng tăm vang khắp các chư hầu. Năm 543 trước CN, Tử Sản làm đến Chính khanh, từ đó nắm giữ việc nước trong 21 năm. Để làm cho nước mạnh, Tử Sản đã tiến hành nhiều cuộc cải cách lớn lao về chế độ ruộng đất, chính trị, thuế ruộng, chế độ quân đội và chế độ pháp luật.
Chấp chính năm thứ tám, Tử Sản cho đúc Hình thư, một loại sách về luật hình. Với cách này, Tử Sản đã đem những điều luật cho khắc trên đỉnh, công bố cho mọi người đều biết, làm cho mọi người dân đều tôn trọng, hạn chế được những việc làm sai trái, thay đổi hẳn tình trạng không có chỗ dựa pháp luật trước đó. Vì thế có người tôn Tử Sản là cha đẻ của học phái Pháp gia.
54. Văn Công (697 TCN - 628 TCN): hay vua Tấn Văn công, tên thật là Cơ Trùng Nhĩ, là vị vua thứ 24 nước Tấn - một chư hầu của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Tấn Văn công là con của Tấn Hiến công - vua thứ 19 nước Tấn. Mẹ ông là Hồ cơ người nước Địch, sinh ra ông năm 697 TCN.
Tấn Văn công là một trong Ngũ Bá thời Xuân Thu với sự nghiệp rất nổi tiếng, được sử sách nhắc tới nhiều. Vào thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, một số nước chư hầu lớn mạnh nổi lên xưng bá - đứng đầu các nước chư hầu khác; tên gọi Ngũ Bá chỉ một số nhà nước này. Chủ yếu có hai danh sách Ngũ bá phổ biến:
Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Sở Trang Vương, Tần Mục Công và Tống Tương Công.
Hoặc: Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Sở Trang Vương, Ngô Vương Hạp Lư và Việt Vương Câu Tiễn.
Năm 628 TCN, Tấn Văn công mất. Ông ở ngôi được 9 năm, thọ 69 tuổi. Tấn Văn công là bá chủ thứ 2 sau Tề Hoàn công, đã giao tranh với 4 nước Tào, Vệ, Sở, Trịnh; 2 lần họp chư hầu.
Thế tử Cơ Hoan lên nối ngôi, tức là Tấn Tương công. Tương công kế tục được ngôi bá chủ của Văn công để lại.
Tấn Văn công là một nhân vật trong tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc của Phùng Mộng Long, xuất hiện từ hồi 27 đến hồi 44. Thời gian lưu lạc qua nhiều nước và sự nghiệp bá chủ của ông được mô tả sát với sử sách.
55. Vũ: Chu Vũ Vương (khoảng năm 1217 TCN - 1116 TCN), tên thật là Cơ Phát, là vị vua sáng lập nhà Tây Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã lật đổ vua Trụ tàn bạo của nhà Thương (còn gọi là nhà Ân).
Cơ Phát là con thứ hai của Cơ Xương. Khi Cơ Xương còn sống đã xúc tiến nhiều việc để đánh nhà Ân lúc đó do Trụ vương tàn bạo cai trị. Thực hiện chính sách mở mang của Cơ Xương, nước Chu (chư hầu của nhà Thương) trở thành một nước lớn mạnh ở phía tây, khiến vua Trụ lo ngại. Trụ vương phong Cơ Xương làm Tây Bá, thống soái một phương.
Năm 1135 TCN, Cơ Xương mất, Cơ Phát lên thay ngôi Tây Bá.
Năm 1124 TCN, Cơ Phát thấy thời cơ đã đến bèn tuyên cáo với các nước chư hầu: “Vua Ân, tội ác nghiêm trọng, không thể không mang quân đánh dẹp”. Sau đó ông ra lệnh tấn công Trụ vương.
Trụ vương vội mang vài chục vạn quân ra nghênh địch. Quân Trụ tuy đông hơn nhưng binh sĩ chán ghét vua không muốn đánh, đặc biệt trong hàng ngũ quân Ân có nhiều nô lệ bất mãn vì bị ngược đãi nên đồng loạt bỏ gươm giáo mà chạy, mở đường cho quân của Tây bá Cơ Phát tiến vào.
Trụ vương thấy toàn quân tan rã, biết là đại cục đã hỏng, bèn bỏ kinh đô Triều Ca chạy đến Lộc Đài, và phóng hỏa đốt Lộc Đài rồi nhảy vào tự thiêu chết.
Cơ Phát lên ngôi thiên tử, lập ra nhà Chu, tức là vua Chu Vũ Vương. Ông truy tôn cha là Cơ Xương làm Chu Văn Vương. Chu Vũ vương lên ngôi thiên tử khi tuổi đã cao. Năm 1116 TCN, ông lâm bệnh mất.
Năm 771 TCN, khi Chu U Vương bị giết và con cả là thái tử Nghi Cữu lên làm vua, tức là Chu Bình Vương. Năm 722 TCN Bình Vương dời đô từ đất Phong (nay thuộc tây Tràng An, Thiểm Tây) về phía đông tới Lạc Ấp (Lạc Dương, tỉnh Hà Nam hiện nay). Từ đây kết thúc Tây Chu và bắt đầu giai đoạn Đông Chu, và nhà Chu chỉ kết thúc khi bị nhà Tần lật đổ vào năm 256 trước Công Nguyên.
Nhà Chu mà Cơ Phát khai nghiệp tồn tại được 867 năm, là triều đại tồn tại lâu nhất trong lịch sử Trung Quốc.
(Hết Phụ Lục C)
CHƯƠNG 6: PHỤ LỤC D: CÁC TÁC PHẨM TRUNG HOA ĐƯỢC TRÍCH DẨN TRONG CỔ HỌC TINH HOA
Có 46 tác phẩm được trích dẩn trong Cổ Học Tinh Hoa, không kể số tác phẩm có cùng tên với tên tác giả, ví dụ như Mạnh Tử là tên sách trùng tên với tên tác giả Mạnh Tử. Đối với số tác phẩm có cùng tên với tên tác giả này, bạn đọc có thể tham khảo tên danh nhân trong Phụ Lục C. Trong số 46 tác phẩm được trích dẩn trong Cổ Học Tinh Hoa, có 32 tác phẩm không được các tác giả Cổ Học Tinh Hoa chú thích.
10 tác phẩm (gồm 8 tác phẩm không có chú thích và 2 tác phẩm chỉ có chú thích rất vắn tắc) sẽ được chú thích với nhiều chi tiết trong Phụ Lục D và được đánh dấu PLD. Tiêu chuẩn duy nhất để một tác phẩm được chọn đưa vào Phụ Lục D là tác phẩm đó có trong danh mục của Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt!.
Các thông tin trong phụ lục D hoàn toàn được trích từ "Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt", http://vi.wikipedia.org/wiki/.
Phần trích từ Wikipedia đưa vào Phụ Lục D có thể là toàn bộ hay chỉ là các phần chủ yếu; tỉ lệ trích dẩn hoàn toàn do cảm tính.
Tình trạng các tác phẩm Trung Hoa được trích dẩn trong Cổ Học Tinh Hoa STT/ Tên tác phẩm - Có chú thích hay không?/ PLD (= Có trong Phụ Lục D)
1/ Án Tử Xuân Thu - Có
2/ Bách Tử Toàn Thư - Không
3/ Bảo Huấn - Không
4/ Cao Sĩ Truyện - Có
5/ Chiến Quốc sách - Có
6/ Chu Sử - Không
7/ Chu Thư - Không/ PLD
8/ Ðào Ngột (Sở Sử) - Không
9/ Diêu Dung - Không
10/ Đường thư - Không/ PLD
11/ Gia Ngữ - Không
12/ Giả Tử Tân Thư - Không
13/ Hán Sử - Không
14/ Hàn Thi Ngoại Truyện - Có
15/ Hán thư - Không/ PLD
16/ Hậu Hán Thư - Không/ PLD
17/ Hoài Nam Tử - Có/ PLD
18/ Khổng Tử Tập Ngữ - Có
19/ Khổng Tùng Tử - Có
20/ Lã Thị Xuân Thu - Có
21/ Lã Tử - Không
22/ Lễ ký - Không/ PLD
23/ Liệt Nữ Truyện - Không/ PLD
24/ Liệt Tử - Có
25/ Luận Ngữ - Không/ PLD
26/ Lưu Tử - Không
27/ Lý Nguyên Dương - Không
28/ Nhân Phả - Không
29/ Quan Doãn Tử - Không
30/ Quốc Sách - Không
31/ Sử Ký - Không/ PLD
32/ Sử Ký Hán Vân Đế - Không
33/ Sử Ký Mạnh Thường Quân Truyện - Không
34/ Tả Truyện - Có/ PLD
35/ Tấn Sử - Không
36/ Tân Tự - Có
37/ Thế Thuyết - Có
38/ Thông Chí - Không
39/ Thuyết Uyển - Có
40/ Tiềm Thất Tử - Không
41/ Tình Sử - Không
42/ Trần Tử Tuyết - Không 

43/ Trang Tử Tuyết - Không 

44/ Tùy kỷ - Có
45/ Tử Tuân - Không
46/ Úc Ly Tử - Không
Sau đây là 10 tác phẩm được chú thích với nhiều chi tiết trong phụ lục D:
1. Chu Thư: hay còn gọi là Bắc Chu thư hoặc Hậu Chu thư là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (Nhị thập tứ sử) do Lệnh Hồ Đức Phân đời Đường làm chủ biên, cùng Sầm Văn Bản và Thôi Nhân Sư tham gia viết và biên soạn chung vào năm Trinh Quán thứ 3 (năm 629), đến năm Trinh Quán thứ 10 (năm 636) thì hoàn thành. Lệnh Hồ Đức Phân (583–666) người huyện Hoa Nguyên Nghi Châu (nay thuộc huyện Diệu tỉnh Thiểm Tây), là nhà sử học thời Đường của Trung Quốc.
Chu thư có 50 quyển, bao gồm Bản kỷ 8 quyển, Liệt truyện 42 quyển, không có Chí, Biểu, sách ghi chép lịch sử hưng thịnh và suy vong của Bắc Chu và Tây Ngụy thời Nam Bắc triều.
Đế kỷ
(Ghi lại tiểu sử của những vị vua.)
Quyển 1 - Văn Đế thượng
Quyển 2 - Văn Đế hạ
Quyển 3 - Hiếu Mẫn Đế
Quyển 4 - Minh Đế
Quyển 5 - Vũ Đế thượng
Quyển 6 - Vũ Đế hạ
Quyển 7 - Tuyên Đế
Quyển 8 - Tĩnh Đế
Liệt truyện
(Sách thuật truyện các nhân vật tài giỏi đời xưa hay ghi chép tiểu sử các nhân vật lịch sử.)
Quyển 1 Hoàng hậu truyện - Văn Đế Nguyên Hoàng hậu, Sất Nô Hoàng hậu, Hiếu Mẫn Đế Nguyên Hoàng hậu, Minh Đế Độc Cô Hoàng hậu, Vũ Đế A Sử Na Hoàng hậu, Lý Hoàng hậu, Tuyên Đế Dương Hoàng hậu, Chu Hoàng hậu, Trần Hoàng hậu, Nguyên Hoàng hậu, Úy Trì Hoàng hậu, Tĩnh Đế Tư Mã Hoàng hậu
Quyển 2 - Thiệu Huệ Công Hạo, Kỷ Giản Công Liên, Cử Trang Công Lạc Sinh, Ngu Quốc Công Trọng truyện
Quyển 3 - Tấn Đãng Công Hộ truyện
Quyển 4 - Tề Dương Vương Hiến truyện
Quyển 5 - Văn Mẫn Minh Vũ Tuyên chư tử truyện
Quyển 6 - Hạ Bạt Thắng, Hạ Bạt Duẫn, Hạ Bạt Nhạc, Hầu Mạc Trần Duyệt, Niệm Hiền truyện.
Quyển 7 - Khấu Lạc, Lý Bật, Lý Huy, Lý Diệu, Vu Cẩn truyện
Quyển 8 - Triệu Quý, Độc Cô Tín, Hầu Mạc Trần Sùng truyện
Quyển 9 - Lương Ngữ, Nhược Kiền Huệ, Di Phong, Lưu Lượng, Vương Đức truyện 

Quyển 10 - Vương Bi, Vương Khánh Viễn, Vương Thuật, Vương Tư Chính truyện 

Quyển 11 - Đạt Hề Vũ, Hầu Mạc Trần Thuận, Đậu Lư Ninh, Đậu Lư Vĩnh Ân, Vũ Văn Quý, Dương Trung, Vương Hùng truyện
Quyển 12 - Vương Minh, Vương Lệ, Vương Mậu, Hạ Lan Tường, Úy Trì Cương, Sất Liệt Phục Quy, Diêm Khánh truyện
Quyển 13 - Úy Trì Huýnh, Vương Khiêm, Tư Mã Tiêu Nan truyện
Quyển 14 - Chu Huệ Đạt, Dương Khoan, Dương Quân, Liễu Khánh, Liễu Cơ, Liễu Hoằng truyện
Quyển 15 - Tô Xước truyện
Quyển 16 - Lư Biện truyện
Quyển 17 - Lý Hiền truyện
Quyển 18 - Trường Tôn Kiệm, Trường Tôn Thiệu Viễn, Hộc Tư Trưng truyện 

Quyển 19 - Hách Liên Đạt, Hàn Quả, Thái Hữu, Thường Thiện, Tân Uy, Xá Địch Xương, Điền Hoằng, Lương Xuân, Lương Đài, Vũ Văn Trắc truyện
Quyển 20 - Sử Ninh, Lục Đằng, Hạ Nhược Đôn, Quyền Cảnh Tuyên truyện
Quyển 21 - Vương Kiệt, Vương Dũng, Vũ Văn Cầu, Vũ Văn Thịnh, Cảnh Hào, Cao Lâm, Lý Hòa, Y Lâu Mục, Dương Thiệu, Vương Nhã, Đạt Hề Tẩm, Lưu Hùng, Hầu Thực truyện
Quyển 22 - Đậu Sí, Đậu Thiện, Vu Dực truyện
Quyển 23 - Vy Hiếu Khoan, Vy Quýnh, Lương Sĩ Ngạn truyện
Quyển 24 - Thân Huy, Lục Thông, Liễu Mẫn, Lư Nhu, Đường Cẩn truyện
Quyển 25 - Xá Địch Trĩ, Dương Tiến, Triệu Cương, Vương Khánh, Triệu Sưởng, Vương Duyệt, Triệu Văn Biểu truyện
Quyển 26 - Triệu Thiện, Nguyên Định, Dương Phiếu, Bùi Khoan, Dương Phu truyện 

Quyển 27 - Trịnh Hiếu Mục, Thôi Khiêm, Thôi Du, Bùi Hiệp, Tiết Đoan, Tiết Thiện truyện
Quyển 28 - Trịnh Vỹ, Dương Toản, Đoạn Vĩnh, Vương Sĩ Lương, Thôi Ngạn Mục, Lệnh Hồ Chỉnh, Tư Mã Duệ, Bùi Quả truyện
Quyển 29 - Khấu Tuấn, Hàn Bao, Triệu Túc, Từ Chiêu, Trương Quỹ, Lý Ngạn, Quách Ngạn, Bùi Văn Cử truyện
Quyển 30 - Tô Lượng, Liễu Cầu, Lữ Tư Lễ, Tiết Đăng, Tiết Chân, Lý Sưởng, Nguyên Vỹ truyện
Quyển 31 - Vy Thiến, Lương Hân, Hoàng Phủ Phan, Tân Khánh Chi, Vương Tử Trực, Đỗ Cảo truyện
Quyển 32 - Úy Trì Vận, Vương Quỹ, Vũ Văn Thần Cử, Vũ Văn Hiếu Bá, Nhan Chi Nghi truyện
Quyển 33 - Vương Bao, Dữu Tín truyện
Quyển 34 - Tiêu Huy, Tiêu Thế Di, Tiêu Viên Túc, Tiêu Đại Viên, Tông Lẫm, Lưu Phan, Liễu Hà truyện
Quyển 35 - Lý Duyên Tôn, Vy Hữu, Hàn Hùng, Trần Hãn, Ngụy Huyền truyện
Quyển 36 - Tuyền Xí, Lý Thiên Triết, Dương Kiền Vận, Phù Mãnh, Dương Hùng, Tịch Cố, Nhâm Quả truyện
Quyển 37 Nho lâm truyện - Lư Đản, Lư Quang, Thẩm Trọng, Phàn Thâm, Hùng An Sinh, Nhạc Tốn
Quyển 38 Hiếu nghĩa truyện - Lý Đường, Liễu Cối, Đỗ Thúc Bì, Kinh Khả, Tần Tộc, Hoàng Phủ Hà, Trương Nguyên
Quyển 39 Nghệ thuật truyện - Ký Tuấn, Tương Thăng, Diêu Tăng Viên, Lê Cảnh Hy, Triệu Văn Thâm, Chử Cai
Quyển 40 - Tiêu Sát truyện
Quyển 41 Dị vực truyện thượng - Cao Ly, Bách Tế, Man, Lão, Đãng Xương, Đặng Chí, Bạch Lan, Đê, Kê Hồ, Khố Mạc Hề
Quyển 42 Dị vực truyện hạ - Đột Quyết, Thổ Cốc Hồn, Cao Xương, Thiện Thiện, Yên Kỳ, Quy Tư, Vu Điền, Thát Đát, Túc Đặc, An Tức, Ba Tư
2. Đường thư: nay gọi là Cựu Đường thư, là tác phẩm viết về lịch sử Trung Quốc thời kỳ nhà Đường. Đường thư bao gồm 200 quyển, trong đó bản kỉ 20 quyển, chí 30 quyển và liệt truyện 150 quyển, bao quát một số sự kiện chính từ năm Vũ Đức thứ nhất (năm 618) đời Đường Cao Tổ tới năm Thiên Hữu thứ tư (năm 907) đời Đường Ai Đế. Đường thư do tể tướng Lưu Hu giám sát việc tu sửa, xuất bản nên người ta coi sách này là do Lưu Hu chủ biên.
Đường thư bao gồm 200 quyển, trong đó bản kỉ 20 quyển, chí 30 quyển và liệt truyện 150 quyển, bao quát một số sự kiện chính từ năm Vũ Đức thứ nhất (năm 618) đờiĐường Cao Tổ tới năm Thiên Hữu thứ tư (năm 907) đời Đường Ai Đế. Bên cạnh đó còn cung cấp một số tài liệu về các dân tộc ngoài Trung Hoa khi đó như Khiết Đan,Thổ Phồn, Đột Quyết, Hồi Hột hay việc công chúa Văn Thành và công chúa Kim Thành vào đất Tây Tạng.
Sau này, sách Đường thư được xem xét và viết lại vào thời nhà Tống, tên gọi của sách mới là Tân Đường thư nên Đường thư do Lưu Hu chủ biên được gọi là Cựu Đường thư. Đường thư được coi là một kiệt tác lịch sử trong Nhị thập tứ sử.
Cuốn sách này, cùng với Tân Đường thư, Tư trị thông giám và Thông điển là nguồn chính cho các nghiên cứu về văn hóa, chính trị, quân sự và kinh tế thời kỳ nhà Đường
3. Hán thư: là một tài liệu lịch sử Trung Quốc cổ đại viết về giai đoạn lịch sử thời Tây Hán từ năm 206 TCN đến năm 25. Đôi khi, sách này cũng được gọi là Tiền Hán thư để phân biệt với cuốn Hậu Hán thư, viết về giai đoạn Đông Hán từ năm 25 đến năm 220, được Phạm Diệp viết trong thế kỷ 5.
Cuốn sách này do Ban Bưu khởi xướng. Sau khi ông chết, người con trai cả Ban Cố tiếp tục hoàn thành cuốn sách, lên tới tổng số 100 tập, và gồm nhiều bài luận về pháp luật, khoa học, địa lý, và văn chương.
Em gái út của Ban Cố là Ban Chiêu (còn gọi là Ban Cơ) cùng Mã Tục - người ở Phù Phong - đã hoàn thành tác phẩm năm 111, 19 năm sau khi ông chết trong ngục. Ban Chiêu và Mã Tục là người soạn thảo những tập nhỏ từ 13-20 (tám biểu biên niên) và tập 26 (thiên văn chí) được gộp trong tác phẩm đó.
Nội dung
Hán thư tuy mô phỏng cách làm sử của Sử ký nhưng có những thay đổi, sáng tạo mới. Ban Cố không đề cập các thời đại trước nhà Hán như Tư Mã Thiên mà chỉ tập trung vào viết sử về nhà Hán. Ban Cố cho rằng, thể loại kỷ truyện của Sử ký bao quát một thời kỳ quá dài, làm mờ nhạt vai trò của nhà Hán đương thời, do đó ông chỉ lựa chọn giai đoạn nhà Hán làm sách.
Hán thư được đánh giá là bộ sử về lịch sử giai đoạn hoàn chỉnh nhất ở Trung Quốc. Đối với các hoàng đế nhà Hán, Hán thư không gọi là Bản kỷ mà gọi là Kỷ.
Ban Cố nói riêng và các tác giả nói chung viết sách trên tư tưởng độc tôn vị trí của nhà Hán trong sách, chuyển Hạng Vũ từ “Bản kỷ” trong Sử ký sang “Trần Thắng Hạng Tịch liệt truyện” vì Hạng Vũ không phải vua nhà Hán. Tương tự với Vương Mãng dù là vua nhà Tân nhưng là kẻ thù của nhà Hán hay một vua Hán khác là Lưu Bồn Tử(được quân khởi nghĩa Xích Mi lập nên), do chống lại Hán Quang Vũ Đế, cũng chỉ được chép vào liệt truyện. Ban Cố bổ sung thêm thiên bản kỷ về Hán Huệ Đế mà trong sử ký gộp vào trong bản kỷ về Lã hậu.
Hán thư là kho tư liệu phong phú và đa dạng, trong đó bảo lưu được nhiều văn kiện lịch sử quan trọng có giá trị, với nhiều chiếu thư, tấu chương và trước tác thể hiện sách lược, mưu kế, tư tưởng chính trị, ngoại giao của các nhân vật. Hán thư còn bổ sung thêm khá nhiều tư liệu về các dân tộc thiểu số mà Tư Mã Thiên chưa đề cập trong Sử ký.
Ngoài ra, Hán thư còn có các thiên Bách quan công khanh biểu, Hình pháp chí, Địa lý chí, Nghệ văn chí mà Sử ký không có.
Bản kỷ
(Sách ghi lại tiểu sử của những vị vua.)
Quyển 1 Cao Đế kỷ - Cao Tổ Lưu Bang
Quyển 2 Huệ Đế kỷ - Huệ Đế Lưu Doanh
Quyển 3 Cao Hậu kỷ - Cao Hậu Lữ Trĩ (Thiếu Đế Lưu CungThiếu Đế Lưu Hoằng) 

Quyển 4 Văn Đế kỷ - Văn đế Lưu Hằng
Quyển 5 Cảnh Đế kỷ - Cảnh đế Lưu Khải
Quyển 6 Vũ Đế kỷ - Vũ Đế Lưu Triệt
Quyển 7 Chiêu Đế kỷ - Chiêu Đế Lưu Phất Lăng
Quyển 8 Tuyên Đế kỷ - Tuyên Đế Lưu Tuân
Quyển 9 Nguyên Đế kỷ - Nguyên Đế Lưu Thích
Quyển 10 Thành Đế kỷ - Thành Đế Lưu Ngao
Quyển 11 Ai Đế kỷ - Ai Đế Lưu Hân
Quyển 12 Bình Đế kỷ - Bình Đế Lưu Khản
Biểu
(Bảng kê hạng mục, số liệu để làm căn cứ đối chiếu.)
Quyển 1 Dị Tính Chư Hầu Vương biểu - các Vương ngoài họ Lưu
Quyển 2 Chư Hầu Vương biểu
Quyển 3 Vương Tử Hầu biểu
Quyển 4 Cao Huệ Cao Hậu Văn Công Thần biểu
Quyển 5 Cảnh Vũ Chiêu Tuyên Nguyên Thành Công Thần biểu
Quyển 6 Ngoại Thích Ân Trạch Hầu biểu
Quyển 7 Bách Quan Công Khanh biểu
Quyển 8 Cổ Kim Nhân biểu
Chí
(Sách ghi chép. Ví dụ: Tạp chí, Tam quốc chí.)
Quyển 1 Luật lịch chí - Thái Sơ Lịch của Đặng Bình, Tam Thống Lịch của Lưu Hâm 

Quyển 2 Lễ nhạc chí
Quyển 3 Hình pháp chí
Quyển 4 Thực hóa chí
Quyển 5 Giao tự chí
Quyển 6 Thiên văn chí
Quyển 7 Ngũ hành chí
Quyển 8 Địa lý chí
Quyển 9 Câu hức chí
Quyển 10 Vân văn chí - Biệt Lục của Lưu Hướng, dựa vào Thất Lược của Lưu Hâm
Liệt truyện
(Sách thuật truyện các nhân vật tài giỏi đời xưa hay ghi chép tiểu sử các nhân vật lịch sử).
Quyển 1 Trần Thắng Hạng Tịch truyện - Trần Thắng, Hạng Tịch
Quyển 2 Trương Nhĩ Trần Dư truyện - Trương Nhĩ, Trần Dư
Quyển 3 Ngụy Báo Điền Đam Hàn Vương Tín truyện - Ngụy Báo, Điền Đam, Hàn Vương Tín
Quyển 4 Hàn Bành Anh Lư Ngô truyện - Hàn Tín, Bành Việt, Kình Bố, Lư Oản, Ngô Nhuế
Quyển 5 Kinh Yến Ngô truyện - Kinh Vương Lưu Cổ, Yến Vương Lưu Trạch, Ngô Vương Lưu Tị
Quyển 6 Sở Nguyên vương truyện - Sở Nguyên Vương Lưu Giao, Lưu Hướng, Lưu Hâm
Quyển 7 Quý Bố Loan Bố Điền Thúc truyện - Quý Bố, Loan Bố, Điền Thúc
Quyển 8 Cao Ngũ Vương truyện - Lưu Phì, Lưu Như Ý, Lưu Hữu, Lưu Khôi, Lưu Kiến
Quyển 9 Tiêu Hà Tào Tham truyện - Tiêu Hà, Tào Tham
Quyển 10 Trương Trần Vương Chu truyện - Trương Lương, Trần Bình, Vương Lăng, Chu Bột
Quyển 11 Phàn Ly Đằng Quán Phó Cận Chu truyện - Phàn Khoái, Ly Thương, Hạ Hầu Anh, Quán Anh
Quyển 12 Trương Chu Triệu Nhâm Thân Đồ truyện - Trương Thương, Chu Xương, Triệu Nghiêu, Nhâm Ngao, Thân Đồ Gia
Quyển 13 Ly Lục Chu Lưu Thúc Tôn truyện - Lục Cổ, Chu Kiến, Lưu Kính, Thúc Tôn Thông
Quyển 14 Hoài Nam Hành Sơn Tế Bắc Vương truyện - Hoài Nam Lệ Vương Lưu Trường, Hành Sơn Vương Lưu Tứ, Tế Bắc Trinh Vương Lưu Bột
Quyển 15 Khoái Ngũ Giang Tức Phu truyện - Khoái Thông, Ngũ Bị, Giang Sung, Tức Phu Cung
Quyển 16 Vạn Thạch Trực Chu Trương truyện - Thạch Phấn, Vệ Oản, Trực Bất Nghi, Chu Nhân, Trương Âu
Quyển 17 Văn tam vương truyện - Lương Hiếu Vương Lưu Vũ, Đại Hiếu Vương Lưu Tham, Lương Hoài Vương Lưu Ấp
Quyển 18 Cổ Nghị truyện - Cổ Nghị
Quyển 19 Viên Áng Triều Thác truyện - Viên Áng, Triều Thác
Quyển 20 Trương Phùng Cấp Trịnh truyện - Trương Thích Chi, Phùng Đường, Cấp Ảm, Trịnh Đương Thời
Quyển 21 Cổ Trâu Mai Lộ truyện - Cổ Sơn, Trâu Dương, Mai Thặng, Lộ Ôn Thư 

Quyển 22 Đậu Điền Quán Hàn truyện - Đậu Anh, Điền Phẫn, Quán Phu, Hàn An Quốc
Quyển 23 Cảnh thập tam vương truyện - Lâm Giang Mẫn Vương Lưu Vinh, Hà Gian Hiến Vương Lưu Đức, Lâm Giang Ai Vương Lưu Yên, Lỗ Cộng Vương Lưu Dư, Giang Đô Dịch Vương Lưu Phi, Giao Tây Vu Vương Lưu Đoan, Triệu Kính Túc Vương Lưu Bành Tổ, Trung Sơn Tĩnh Vương Lưu Thắng, Trường Sa Định Vương Lưu Phát, Quảng Xuyên Huệ Vương Lưu Việt, Giao Đông Khang Vương Lưu Ký, Thanh Hà Ai Vương Lưu Thừa, Thường Sơn Hiến Vương Lưu Thuấn
Quyển 24 Lý Quảng Tô Kiến truyện - Lý Quảng, Tô Kiến
Quyển 25 Vệ Thanh Hoắc Khứ Bệnh truyện - Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh
Quyển 26 Đổng Trọng Thư truyện - Đổng Trọng Thư
Quyển 27 Tư Mã Tương Như truyện - Tư Mã Tương Như
Quyển 28 Công Tôn Hoằng Bốc Thức Nhi Khoan truyện - Công Tôn Hoằng, Bốc Thức, Nhi Khoan
Quyển 29 Trương Thang truyện - Trương Thang
Quyển 30 Đỗ Chu truyện - Đỗ Chu
Quyển 31 Trương Khiên Lý Quảng Lợi truyện - Trương Khiên, Lý Quảng Lợi
Quyển 32 Tư Mã Thiên truyện - Tư Mã Thiên
Quyển 33 Võ Ngũ Tử truyện - Lệ Thái tử Lưu Cứ
Quyển 34 Nghiêm Chu Ngô Khâu Chủ Phụ Từ Nghiêm Chung Vương Cổ truyện Nghiêm Trợ, Chu Mãi Thần, Ngô Khâu Thọ Vương, Chủ Phụ Yển, Từ Nhạc, Nghiêm An, Chung Quân, Vương Bao, Cổ Quyên Chi
Quyển 35 Đông Phương Sóc truyện - Đông Phương Sóc
Quyển 36 Công Tôn Lưu Điền Vương Dương Thái Trần Trịnh truyện - Công Tôn Hạ, Lưu Khuất Ly, Điền Thiên Thu, Vương Hân, Dương Sưởng, Thái Nghĩa, Trần Vạn Niên, Trịnh Hoằng
Quyển 37 Dương Hồ Chu Mai Vân truyện - Dương Vương Tôn, Hồ Kiến, Chu Vân, Mai Phúc
Quyển 38 Hoắc Quang Kim Nhật Đê truyện - Hoắc Quang, Kim Nhật Đê
Quyển 39 Triệu Sung Quốc Tân Khánh Kỵ truyện - Triệu Sung Quốc, Tân Khánh Kỵ 

Quyển 40 Phó Thường Trịnh Cam Trần Đoạn truyện - Phó Giới Tử, Thường Huệ, Trịnh Cát, Cam Duyên Thọ, Trần Thang, Đoạn Hội Tông
Quyển 41 Tuấn Sơ Vu Tiết Bình Bành truyện - Tuấn Bất Nghi, Sơ Quảng, Vu Định Quốc, Tiết Quảng Đức, Bình Đương, Bành Tuyên
Quyển 42 Vương Cống Lưỡng Cung Bảo truyện - Vương Cát, Cống Vũ, Cung Thắng, Cung Xá, Bảo Tuyên
Quyển 43 Vi Hiền truyện - Vi Hiền
Quyển 44 Ngụy Tương Bính Cát truyện - Ngụy Tương, Bính Cát
Quyển 45 Tuy Lưỡng Hạ Hầu Kinh Dực Lý truyện - Tuy Hoằng, Hạ Hầu Thủy Xương, Hạ Hầu Thắng, Kinh Phòng, Dực Phụng, Lý Tầm
Quyển 46 Triệu Doãn Hàn Trương Lưỡng Vương truyện - Triệu Quảng Hán, Doãn Ông Quy, Hàn Duyên Thọ, Trương Sưởng, Vương Tôn, Vương Chương
Quyển 47 Cái Chư Cát Lưu Trịnh Tôn Vô Tương Hà truyện - Cái Khoan Nhiêu, Gia Cát Phong, Lưu Phụ, Trịnh Sùng, Tôn Bảo, Vô Tương Long, Hà Tịnh
Quyển 48 Tiêu Vọng Chi truyện - Tiêu Vọng Chi
Quyển 49 Phùng Phụng Thế truyện - Phùng Phụng Thế
Quyển 50 Tuyên Nguyên lục vương truyện - Hoài Dương Hiến Vương Lưu Khâm, Sở Hiếu Vương Lưu Hiêu, Đông Bình Tư Vương Lưu Vũ, Trung Sơn Ai Vương Lưu Cánh, Định Đào Cộng Vương Lưu Khang, Trung Sơn Hiếu Vương Lưu Hưng 

Quyển 51 Khuông Trương Khổng Mã truyện - Khuông Hành, Trương Vũ, Khổng Quang, Mã Cung
Quyển 52 Vương Thương Sử Đan Phó Hỷ truyện - Vương Thương, Sử Đan, Phó Hỷ 

Quyển 53 Tiết Tuyên Chu Bác truyện - Tiết Tuyên, Chu Bác
Quyển 54 Trạch Phương Tiến truyện - Trạch Phương Tiến
Quyển 55 Cốc Vĩnh Đỗ Nghiệp truyện - Cốc Vĩnh, Đỗ Nghiệp
Quyển 56 Hà Vũ Vương Gia Sư Đan truyện - Hà Vũ, Vương Gia, Sư Đan
Quyển 57 Dương Hùng truyện - Dương Hùng
Quyển 58 Nho lâm truyện
Quyển 59 Tuần lại truyện
Quyển 60 Khốc lại truyện
Quyển 61 Hóa thực truyện
Quyển 62 Du hiệp truyện
Quyển 63 Nịnh hạnh truyện
Quyển 64 Hung Nô truyện - Hung Nô
Quyển 65 Tây Nam Di Lưỡng Việt Triều Tiên truyện - Nam Việt, Vệ Thị Triều Tiên 

Quyển 66 Tây Vực truyện - Tây Vực
Quyển 67 Ngoại thích truyện - Ngoại thích
Quyển 68 Nguyên Hậu truyện - Vương Chính Quân
Quyển 69 Vương Mãng truyện - Vương Mãng
Quyển 70 Tự truyện - Lịch sử nhà họ Ban, Tự văn của Ban Cố
Phụ Lục D
4. Hậu Hán Thư: là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của Trung Quốc do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử và văn bản trước đó làm nguồn thông tin. Nó bao quát giai đoạn lịch sử Đông Hán từ năm 25 đến năm 220.
Cuốn sách này là một phần trong bộ Tiền tứ sử của tổng tập Nhị thập tứ sử cùng với các cuốn Sử ký Tư Mã Thiên, Hán Thư và Tam Quốc Chí. Phạm Việp đã sử dụng một số cuốn lịch sử trước đó, gồm cả những tác phẩm của Tư Mã Thiên và Ban Cố, và nhiều cuốn sử khác (một số cuốn có tên trùng với tác phẩm này như cuốn Hán sử của nhiều tác giả viết trong thế kỷ thứ 2 hay cuốn Hậu Hán sử của Viên Hoành từ thế kỷ thứ 4) đa số những cuốn đó không còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay. 30 tập cuối cùng của cuốn sách, được lấy từ cuốn Tiếp nối Hán Thư (Tục Hán thư), một tác phẩm do Tư Mã Bưu thực hiện ở thế kỷ thứ 3, đã được Liu Zhao gộp thêm vào ở thế kỷ thứ 6 khi ông thực hiện phần chú giải.
Cuốn "Tây Vực trường sử" (Sử vùng Tây Vực) do Ban Dũng thực hiện một thời gian ngắn sau năm 127, dựa trên một phần những ghi chép của cha ông là Ban Siêu, là nguồn tư liệu chính về văn hoá và kinh tế xã hội của Tây Vực trong tập 88 cuốn sách này. Điều này khẳng định thêm rằng, chính Phạm Việp, người đã ghi chép ngắn gọn trong văn bản viết về những nguồn tài liệu của mình trong tập viết về Tây Vực với lời bình luận của ông ở cuối chương rằng ngày tháng trong đoạn về Tây Vực đó đã được sửa đổi, sử dụng ngày tháng khác biệt so với những cuốn sử trước đó, như thông tin của Ban Dũng.
Bản kỷ
(Sách ghi lại tiểu sử của những vị vua).
Quyển 1 Thượng Quang Vũ Đế thượng (Nguyên tên gốc là Thế Tổ Quang Vũ Đế kỷ, sau Lý Hiền kỵ húy Lý Thế Dân mà đổi tên mới)
Quyển 1 Hạ Quang Vũ Đế hạ
Quyển 2 Hiển Tông, Hiếu Minh Đế
Quyển 3 Túc Tông, Hiếu Chương Đế
Quyển 4 Hiếu Hòa, Hiếu Thương Đế
Quyển 5 Hiếu An Đế
Quyển 6 Hiếu Thuận, Hiếu Xung, Hán Chất Đế
Quyển 7 Hiếu Hoàn Đế
Quyển 8 Hiếu Linh Đế
Quyển 9 Hiếu Hiến Đế (Phụ Hoằng Nông Hoài Vương Lưu Biện)
Quyển 10 Thượng, Hoàng hậu thượng - Quang Vũ Quách Hoàng hậu, Quang Liệt Âm Hoàng hậu, Minh Đức Mã Hoàng hậu, Giả Quý Nhân, Chương Đức Đậu Hoàng hậu, Hòa Đế Âm Hoàng hậu, Hòa Hy Đặng Hoàng hậu (Là bộ sử duy nhất trong nhị thập tứ sử lập kỷ Hoàng hậu)
Quyển 10 Hạ, Hoàng hậu hạ - An Tư Diêm Hoàng hậu, Thuận Liệt Lương Hoàng hậu, Ngu Mỹ Nhân, Trần Phu nhân, Hiếu SùngYển Hoàng hậu, Hoàn Đế Ý Hiến Lương Hoàng hậu, Hoàn Đế Đặng Hoàng hậu, Hoàn Tư Đậu Hoàng hậu, Hiếu Nhân Đổng Hoàng hậu, Linh Đế Tống Hoàng hậu, Linh Tư Hà Hoàng hậu, Hiến Đế Phục Hoàng hậu, Hiến Mục Tào Hoàng hậu
Liệt truyện
(Sách thuật truyện các nhân vật tài giỏi đời xưa hay ghi chép tiểu sử các nhân vật lịch sử).
Quyển 11 Lưu Huyền, Lưu Bồn Tử truyện 1
Quyển 12 Vương Lưu Trương Lý Bành Lư truyện 2 - Vương Xương, Lưu Vĩnh, Bàng Manh, Trương Bộ, Vương Hoành, Lý Hiến, Bành Sủng, Lư Phương
Quyển 13 Ngôi Hiêu, Công Tôn Thuật liệt truyện 3
Quyển 14 Tông thất tứ vương tam hầu liệt truyện 4 - Tề Vũ Vương Diễn, Bắc Hải Tĩnh Vương Hưng, Triệu Hiếu Vương Lương, Thành Dương Cung Vương Chỉ, Tứ Thủy Vương Hấp, An Thành Hiếu Hầu Tứ, Thành Vũ Hiếu Hầu Thuận, Thuận Dương Hoài Hầu Gia
Quyển 15 Lý Vương Đặng Lai liệt truyện 5 - Lý Thông, Vương Thường, Đặng Thần, Lai Hấp
Quyển 16 Đặng Khấu liệt truyện 6 - Đặng Vũ, Khấu Tuân
Quyển 17 Phùng Sầm Giả liệt truyện 7 - Phùng Dị, Sầm Bành, Giả Phục
Quyển 18 Ngô Cái Trần Tang liệt truyện 8 - Ngô Hán, Cái Duyên, Trần Tuấn, Tang Cung
Quyển 19 Cảnh Yểm liệt truyện 9
Quyển 20 Diêu Kỳ Vương Bá Sái Tuân liệt truyện 10 - Diêu Kỳ, Vương Bá, Sái Tuân 

Quyển 21 Nhâm Lý Vạn Phi Lưu Cảnh liệt truyện 11 - Nhâm Quang, Lý Trung, Vạn Tu, Phi Đồng, Lưu Thực, Cảnh Thuần
Quyển 22 Chu Cảnh Vương Đỗ Mã Lưu Phó Kiên Mã liệt truyện 12 - Chu Hữu, Cảnh Đan, Vương Lương, Đỗ Mậu, Mã Thành, Lưu Long, Phó Tuấn, Kiên Đàm, Mã Vũ 

Quyển 23 Đậu Dung liệt truyện 13 - Đậu Dung, Đậu Cố, Đậu Hiến, Đậu Chương 

Quyển 24 Mã Viện liệt truyện 14
Quyển 25 Trác Lỗ Ngụy Lưu liệt truyện 15 - Trác Mậu, Lỗ Cung, Ngụy Bá, Lưu Khoan
Quyển 26 Phục Hầu Tống Sái Phùng Triệu Mưu Vi liệt truyện 16 - Phục Trạm, Hầu Bá, Tống Hoằng, Sái Mậu, Quách Hạ, Phùng Cần, Triệu Hí, Mưu Dung, Vi Bưu 

Quyển 27 Tuyên Trương Nhị Vương Đỗ Quách Ngô Thừa Trịnh Triệu liệt truyện 17 - Tuyên Bỉnh, Trương Trạm, Vương Đan, Vương Lương, Đỗ Lâm, Quách Đan, Ngô Lương, Thừa Cung, Trịnh Quân, Triệu Điển
Quyển 28 Thượng - Hoàn Đàm, Phùng Diễn liệt truyện thượng 18 Quyển 28 Hạ - Phùng Diễn liệt truyện hạ 18 - Phùng Báo
Quyển 29 Thân Đồ Cương, Bảo VĩnhChí Uẩn liệt truyện 19 

Quyển 30 Thượng - Tô Cánh, Dương Hậu liệt truyện thượng 20 Quyển 30 Hạ - Lang Ỷ, Tương Khải liệt truyện hạ 20
Quyển 31 Quách Đỗ Khổng Trương Liêm Vương Tô Dương Giả Lục liệt truyện 21 - Quách Cấp, Đỗ Thi, Khổng Phấn, Trương Kham, Liêm Phạm, Vương Đường, Tô Chương, Dương Tục, Giả Tông, Lục Khang
Quyển 32 Phàn Hoành, Âm Thức liệt truyện 22
Quyển 33 Chu Phùng Ngu Trịnh Chu liệt truyện 23 - Chu Phù, Phùng Phường, Ngu Duyên, Trịnh Hoằng, Chu Chương
Quyển 34 Lương Thống liệt truyện 24
Quyển 35 Trương Tào Trịnh liệt truyện 25 - Trương Thuần, Trương Phấn, Tào Bao, Trịnh Huyền
Quyển 36 Trịnh Phạm Trần Giả Trương liệt truyện 26 - Trịnh Hưng, Trịnh Chúng, Phạm Thăng, Trần Nguyên, Giả Quỳ, Trương Bá, Trương Khải, Trương Lăng, Trương Huyền
Quyển 37 Hoàn Vinh, Đinh Hồng liệt truyện 27
Quyển 38 Trương Pháp Đằng Phùng Độ Dương liệt truyện 28 - Trương Tông, Pháp
Hùng, Đằng Phủ, Phùng Cổn, Độ Thượng, Dương Tuyền
Quyển 39 Lưu Triệu Thuần Vu Giang Lưu Chu Triệu liệt truyện 29 - Lưu Bình, Triệu Hiếu, Thuần Vu Cung, Giang Cách, Lưu Bàn, Chu Bàn, Triệu Tư
Quyển 40 Thượng-Ban Bưu liệt truyện thượng 30
Quyển 40 Hạ-Ban Bưu liệt truyện hạ 30 - Ban Cố
Quyển 41 Đệ Ngũ Chung Ly Tống Hàn liệt truyện 31 - Đệ Ngũ Luân, Chung Ly Ý, Tống Quân, Hàn Lãng
Quyển 42 Quang Vũ thập vương liệt truyện 32 - Lưu Cương, Lưu Phụ, Lưu Khang, Lưu Duyên, Lưu Yên, Lưu Anh, Lưu Thương, Lưu Kinh, Lưu Hành, Lưu Kinh
Quyển 43 Chu Nhạc Hà liệt truyện 33 - Chu Huy, Tôn Mục, Nhạc Khôi, Hà Sưởng 

Quyển 44 Đặng Trương Từ Trương Hồ liệt truyện 34 - Đặng Bưu, Trương Vũ, Từ Phòng, Trương Mẫn, Hồ Quảng
Quyển 45 Viên Trương Hàn Chu liệt truyện 35 - Viên An, Viên Kinh, Viên Sưởng, Trương Bô, Hàn Lăng, Chu Vinh
Quyển 46 Quách Trần liệt truyện 36 - Quách Cung, Trần Sủng
Quyển 47 Ban Lương liệt truyện 37 - Ban Siêu, Lương Cận
Quyển 48 Dương Lý Trạch Ứng Hoắc Viên Từ liệt truyện 38 - Dương Chung, Lý Pháp, Trạch Bô, Ứng Phụng, Ứng Thiệu, Hoắc Tư, Viên Duyên, Từ Cầu
Quyển 49 Vương Sung, Vương Phù, Trọng Trường Thống liệt truyện 39
Quyển 50 Hiếu Minh bát vương liệt truyện 40 - Lưu Kiến, Lưu Tiện, Lưu Cung, Lưu Đảng, Lưu Diễn, Lưu Sướng, Lưu Bính, Lưu Trường
Quyển 51 Lý Trần Bàng Trần Kiều liệt truyện 41 - Lý Tuân, Trần Thiện, Bàng Tham, Trần Quy, Kiều Huyền
Quyển 52 Thôi Nhân liệt truyện 42
Quyển 53 Chu Hoàng Từ Khương Thân Đồ liệt truyện 43 - Chu Tiếp, Hoàng Hiến, Từ Trĩ, Khương Quăng, Thân Đồ Bàn
Quyển 54 Dương Chấn liệt truyện 44
Quyển 55 Chương Đế bát vương liệt truyện 45 - Lưu Kháng, Lưu Toàn, Lưu Khánh, Lưu Thọ, Lưu Khai, Lưu Thục, Lưu Vạn Tuế, Lưu Thắng
Quyển 56 Trương Vương Chủng Trần liệt truyện 46 - Trương Hạo, Vương Cung, Chủng Cảo, Trần Cầu
Quyển 57 Đỗ Loan Lưu Lý Lưu Tạ liệt truyện 47 - Đỗ Căn, Loan Ba, Lưu Đào, Lý Vân, Lưu Du, Tạ Bật
Quyển 58 Ngu Truyền Cái Tang liệt truyện 48 - Ngu Hủ, Truyền Tiếp, Cái Huân, Tang Hồng
Quyển 59 Trương Hành liệt truyện 49
Quyển 60 Thượng - Mã Dung liệt truyện thượng 50
Quyển 60 Hạ - Sái Ung liệt truyện hạ 50
Quyển 61 Tả Chu Hoàng liệt truyện 51 - Tả Hùng, Chu Cử, Chu Hiệp, Hoàng Quỳnh, Hoàng Uyển
Quyển 62 Tuân Hàn Chung Trần liệt truyện 52 - Tuân Thục, Tuân Sảng, Tuân Duyệt, Hàn Thiều, Chung Hạo, Trần Tẩm, Trần Kỷ
Quyển 63 Lý Đỗ liệt truyện 53 - Lý Cố, Đỗ Kiều
Quyển 64 Ngô Duyên Sử Lư Triệu liệt truyện 54 - Ngô Hữu, Duyên Đốc, Sử Bật, Lư Thực, Triệu Kỳ
Quyển 65 Hoàng Phủ Trương Đoạn liệt truyện 55 - Hoàng Phủ Quy, Trương Hoán, Đoạn Huỳnh
Quyển 66 Trần Vương liệt truyện 56 - Trần Phồn, Vương Doãn
Quyển 67 Đảng Cố liệt truyện 57 - Lưu Thục, Lý Ưng, Đỗ Mật, Lưu Hữu, Ngụy Lãng, Phức, Tông Từ, Ba Túc, Phạm Bàng, Doãn Huân, Sái Diễn, Dương Trắc, Trương
Kiệm, Sầm Vãn, Trần Tường, Uyển Khang,Đàn Phu, Lưu Nho, Giả Bưu, Hà Ngung 

Quyển 68 Quách Phù Hứa liệt truyện 58 - Quách Thái, Phù Dung, Hứa Thiệu 

Quyển 69 Đậu Hà liệt truyện 59 - Đậu Vũ, Hà Tiến
Quyển 70 Trịnh Khổng Tuân liệt truyện 60 - Trịnh Thái, Khổng Dung, Tuân Úc 

Quyển 71 Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn liệt truyện 61
Quyển 72 Đổng Trác liệt truyện 62
Quyển 73 Lưu Ngu, Công Tôn Toản, Đào Khiêm liệt truyện 63
Quyển 74 Thượng - Viên Thiệu Lưu Biểu liệt truyện 64 thượng - Viên Thiệu
Quyển 74 Hạ - Viên Thiệu Lưu Biểu liệt truyện 64 hạ - Viên Đàm, Lưu Biểu
Quyển 75 Lưu Yên, Viên Thuật, Lữ Bố liệt truyện 65
Quyển 76 Tuần lại liệt truyện 66 - Vệ Táp, Vương Cảnh, Tần Bành, Vương Hoán, Hứa Kinh, Mạnh Thường, Đệ Ngũ Phóng, Lưu Củ, Lưu Sủng, Cừu Lãm, Đồng Khôi, Đệ Dực
Quyển 77 Khốc lại liệt truyện 67 - Đổng Tuyên, Phàn Diệp, Lý Chương, Chu Tri, Hoàng Xương, Dương Cầu, Vương Cát
Quyển 78 Hoạn giả liệt truyện 68 - Trịnh Huề, Sái Luân, Tôn Trình, Tào Đằng, Đan Siêu, Hầu Lãm, Tào Tiết, Thẩm Trung, Lữ Cường, Trương Nhượng
Quyển 79 Thượng - Nho lâm liệt truyện 69 thượng - Lưu Côn, Tử Dật, Oa Đan, Dương Hồng, Nhâm An, Dương Chính, Trương Hưng, Đái Bằng, Ngụy Mãn, Tôn Kỳ, Âu Dương Hấp, Tào Tằng, Tống Đăng, Trương Tuần, Doãn Mẫn, Chu Phòng, Khổng Hy, Dương Luân
Quyển 79 Hạ - Nho lâm liệt truyện 69 hạ - Cao Hủ, Bao Hàm, Ngụy Ứng, Phục Cung, Nhâm Mạt, Cảnh Loan, Tiết Hán, Đỗ Phủ, Triệu Tuần, Dương Nhân, Triệu Diệp, Thời Sơn, Đổng Quân, Đinh Cung, Chu Trạch,Trương Kham, Chung Hưng, Chân Vũ, Lâu Vọng, Trình Tằng, Trương Huyền, Lý Dục, Hà Hưu, Phục Kiền, Dĩnh Dung, Tạ Cai, Hứa Thận, Sái Huyền
Quyển 80 Thượng - Văn uyển liệt truyện 70 thượng - Đỗ Đốc, Vương Long, Hạ Cung, Phó Nghị, Hoàng Hương, Lưu Nghị, Lý Vưu, Tô Thuận, Lưu Trân, Cát Cung, Vương Dật, Thôi Kỳ, Biên Thiều
Quyển 80 Hạ - Văn uyển liệt truyện 70 hạ - Trương ThăngSĩ Quận, Triệu Nhất, Lưu Lương, Biên Nhượng, Ly Viêm, Hầu Cẩn, Cao Bưu, Trương Siêu, Nhĩ Hành 

Quyển 81 Độc hành liệt truyện 71 Tiều Huyền, Lý Nghiệp, Lưu Mậu, Ôn Tự, Bành Tu, Tác Lư Phóng, Chu Gia, Phạm Thức, Lý Thiện, Vương Truân, Lăng Tục, Lý Sung, Mâu Can, Trần Trọng, Lôi Nghĩa, Phạm Nhiễm, Đái Tựu, Triệu Bao, Hướng Hủ, Lượng Phụ, Lưu Dực, Vương Liệt
Quyển 82 Thượng - Phương thuật liệt truyện 72 thượng - Nhâm Văn Công, Quách Hiến, Hứa Dương, Cao Hoạch, Vương Kiều Giả, Tạ Di Ngô, Dương Do, Lý Nam, Lý Hợp, Đoạn Ế, Liêu Phù, Chiết Tượng, Phàn Anh
Quyển 82 Hạ - Phương thuật liệt truyện 72 hạ - Đường Đàn, Công Sa Mục, Hứa Mạn, Triệu Ngạn, Phàn Chí Trương, Đơn Dương, Hàn Thuyết, Đổng Phù, Quách Ngọc, Hoa Đà, Từ Đăng, Phí Trường Phòng, Kế Tử Huấn, Lưu Căn, Tả Từ, Kế Tử Huân, Hòa Bình
Quyển 83 Dật dân liệt truyện 73 - Hướng Trường, Phùng Manh, Chu Đảng, Vương Bá, Nghiêm Quang, Tỉnh Đan, Lương Hồng, Cao Phượng, Đài Đông, Hàn Khang, Kiểu Thận, Đái Lương, Pháp Chân, Bàng Công
Quyển 84 Liệt nữ truyện 74 (Một trong Nhị thập tứ sử có lập truyện riêng dành cho nữ giới)
Quyển 85 Đông Di liệt truyện 75 - Phù Dư, Ấp Lâu, Cao Câu Ly, Đông Ốc Tự, Uế Mạch, Tam Hàn, Oa
Quyển 86 Nam Man Tây Nam Di liệt truyện 76
Quyển 87 Tây Khương liệt truyện 77 - Khương
Quyển 88 Tây Vực liệt truyện 78 - Vu Điền, Điều Chi, An Tức, Đại Tần, Đại Nguyệt Thị, Thiên Trúc, Yểm Sái, Sơ Lặc, Yên Kỳ, Xa Sư
Quyển 89 Nam Hung Nô liệt truyện 79
Quyển 90 Ô Hoàn, Tiên Ty liệt truyện 80
Chí

(Sách ghi chép. Ví dụ: Tạp chí, Tam quốc chí). 
Quyển 1 Luật lịch thượng
Quyển 2 Luật lịch trung 
Quyển 3 Luật lịch hạ
Quyển 4 Lễ nghi thượng 
Quyển 5 Lễ nghi trung 
Quyển 6 Lễ nghi hạ
Quyển 7 Tế tự thượng 
Quyển 8 Tế tự trung
Quyển 9 Tế tự hạ
Quyển 10 Thiên văn thượng 
Quyển 11 Thiên văn trung 
Quyển 12 Thiên văn hạ 
Quyển 13 Ngũ hành 1 
Quyển 14 Ngũ hành 2 
Quyển 15 Ngũ hành 3 
Quyển 16 Ngũ hành 4 
Quyển 17 Ngũ hành 5 
Quyển 18 Ngũ hành 6 
Quyển 19 Quận quốc 1 
Quyển 20 Quận quốc 2 
Quyển 21 Quận quốc 3 

Quyển 22 Quận quốc 4 
Quyển 23 Quận quốc 5 
Quyển 24 Bách quan 1 
Quyển 25 Bách quan 2 
Quyển 26 Bách quan 3 
Quyển 27 Bách quan 4 
Quyển 28 Bách quan 5 
Quyển 29 Dư phục thượng 
Quyển 30 Dư phục hạ

5. Hoài Nam Tử: cùng với Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh, là những bộ sách quan trọng của Đạo giáo Trung Quốc. Hoài Nam Tử có nhiều điểm tương đồng với các quan niệm về triết học tự nhiên của các triết gia Hy Lạp cùng thời.
Hoài Nam Vương Lưu An đã tập hợp các học giả lại để biên soạn ra sách Hoài Nam Tử.
6. Lễ ký: hay còn gọi là Kinh Lễ là một quyển trong bộ Ngũ Kinh của Khổng Tử, tương truyền do các môn đệ của Khổng Tử thời Chiến quốc viết, ghi chép các lễ nghi thời trước. Ngũ Kinh gồm có: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu (Xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C). Học giả thời Hán là Đới Đức đã dựa vào bản do Lưu Hướng thu thập gồm 130 thiên rồi tổng hợp giản hóa còn 85 thiên gọi là Đại Đới Lễ ký, sau đó cháu Đới Đức là Đới Thánh lại đơn giản hoá Đại Đới Lễ ký còn 46 thiên, thêm vào các thiên Nguyệt lệnh, Minh Đường vị và Nhạc ký, tổng cộng là 49 thiên, được gọi là Tiểu Đới Lễ ký. Đại Đới Lễ ký đến thời Tùy, Đường bị thất lạc quá nửa, hiện nay chỉ còn 39 thiên, do đó Tiểu Đới Lễ ký là bản Kinh Lễ thông dụng hiện nay.
Toàn bộ Kinh Lễ được viết bằng tản văn, không chỉ miêu tả chế độ lễ nghi đương thời mà còn giáo dục về nhân nghĩa, đạo đức, ngoài ra có giá trị về văn học rất lớn. Đại Học vàTrung Dung, hai cuốn sách kinh điển của Nho giáo, chính là hai thiên trong Kinh Lễ.
Khổng Tử hiệu đính lại Kinh Lễ mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ).
Nội dung
Khúc lễ thượng (hai thiên) Khúc lễ hạ (hai thiên)
Đàn cung thượng
Đàn cung hạ
Vương chế Nguyệt lệnh
Tăng Tử vấn
Văn Vương thế tử Lễ vận
Lễ khí
Giao đặc sinh
Nội tắc
Ngọc tảo
Minh đường vị Tang phục tiểu ký Đại truyện
Thiếu nghi
Học ký
Nhạc ký
Tạp ký thượng Tạp ký hạ
Tang đại ký
Tế pháp
Tế nghĩa
Tế thống
Kinh giải
Ai Công vấn
Trọng Ni yên cư Khổng Tử nhàn cư Phường ký
Trung dung
Biểu ký
Truy y
Bôn tang
Vấn tang
Phục vấn
Gian truyện Tam niên vấn Thâm y
Đầu hồ
Nho hành
Đại học
Quan nghĩa
Hôn nghĩa
Hương ẩm tửu nghĩa Xạ nghĩa
Yến nghĩa
Sính nghĩa
Tang phục tứ chế
Phụ Lục D
7. Liệt nữ truyện: 1 trong 120 quyển trong Hậu Hán Thư. Hậu Hán Thư là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của Trung Quốc do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử và văn bản trước đó làm nguồn thông tin. Nó bao quát giai đoạn lịch sử Đông Hán từ năm 25 đến năm 220. Liệt nữ truyện là sách thuật truyện các nhân vật nữ tài giỏi hay ghi chép tiểu sử các nữ nhân vật lịch sử. Liệt nữ truyện là truyện thứ 74 trong 80 truyện trong phần Liệt truyện và là quyển thứ 84 trong 120 quyển trong toàn bộ Hậu Hán Thư. Xin xem Hậu Hán Thư ở Phụ Lục D.
8. Luận Ngữ: là một sách mà do Khổng Tử và những đệ tử của mình biên soạn. Luận Ngữ là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử và những lời nói của người đương thời. Luận Ngữ là một quyển sách trong bốn sách gọi là Tứ Thư. Ngoài Luận Ngữ, Tứ Thư cũng gồm có Đại Học, Mạnh tử và Trung Dung. Luận Ngữ được viết từ đời Tiền Hán tới đời Hậu Hán, và là một chủ đề học vấn chủ yếu trong thi triều đình Trung Hoa Khoa bảng (hay là "Khoa Cử").
Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau:
1. Học Nhi
2. Vi Chính
3. Bát Dật
4. Lý Nhân
5. Công Dã Tràng
6. Ung Dã
7. Thuật Nhi
8. Thái Bá
9. Tử Hãn
10. Hương Đảng
11. Tiên Tiến
12. Nhan Uyên
13. Tử Lộ
14. Hiến Vấn
15. Vệ Linh công 

16. Quý thị
17. Dương hóa 

18. Vi tử
19. Tử Trương
20. Nghiêu viết
Đọc sách này, người ta hiểu được phẩm chất tư cách và tính tình của Khổng Tử, nhất là về giáo dục, ông tỏ ra là người thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem lời giảng dạy thích hợp với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người. Như có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho mỗi người một cách.
Trình Y Xuyên, một nhà Nho đời nhà Tống nói:
"Có người đọc xong Luận Ngữ mà không thấy gì cả, có người đọc xong lại thấy thích thú một vài câu, có người đọc xong thì rất thích thú đến độ múa tay múa chân mà không hay biết. Bởi vậy, khi đọc Luận Ngữ, phải đọc chậm rãi, suy nghĩ tường tận, càng suy nghĩ càng phát hiện được nhiều điều hay."
Trình Y Xuyên lại nói:
"Ai đọc xong Luận Ngữ mà vẫn còn những tính nết như trước khi chưa đọc thì người ấy chưa hiểu được sách Luận Ngữ vậy. Tóm lại sách Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ của Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo."
9. Sử Ký: còn được gọi bằng tên “Sách của ông Thái sử” là cuốn sử của Tư Mã Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, ghi lại lịch sử Trung Quốc từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông sống.
Sử ký gồm trên 52 vạn chữ, 130 thiên, xếp loại các thông tin thành 5 phần khác nhau: Bản kỷ, Biểu, Thư, Thế gia và Liệt truyện.
• 12 thiên Bản kỷ (Quyển 1-12), ghi lại tiểu sử của những vị vua nổi tiếng từ thời vị Hoàng Đế thần thoại cho tới Tần Thuỷ Hoàng và các vị vua của nhà Hạ, nhà Thương, và nhà Chu. Tiểu sử của bốn hoàng đế và một hoàng hậu nhiếp chính (Cao Tổ, Lữ Hậu, Hiếu Văn, Hiếu Cảnh, Hiếu Vũ) nhà Tây Hán trước thời ông cũng được cho vào phần này.
• 10 thiên Biểu (Quyển 13-22) xây dựng bảng thời gian các sự kiện quan trọng.
• 8 thiên Thư (Quyển 23-30), là những đoạn sử về kinh tế, văn hoá, khoa học và tôn giáo trong thời gian sinh sống của các nhân vật trong cuốn sách.
• 30 thiên Thế gia (Quyển 31-60), ghi lại tiểu sử các vị vua chư hầu nổi tiếng, tầng lớp quý tộc và quan lại đa số thuộc giai đoạn Xuân Thu tới Chiến Quốc.
• 70 thiên Liệt truyện (Quyển 61-130) đề cập đến nhiều nhân vật, sự việc khác nhau, từ thường dân đến quý tộc, từ chuyện cung đình đến chuyện xảy ra ngoài địa bàn của Trung Quốc. Phần này có tiểu sử nhiều nhân vật quan trọng như Lão Tử, Mặc Tử, Tôn Tử, Kinh Kha, v.v...
Các bản dịch tiếng Việt:
Đến nay, Sử ký vẫn chưa được dịch trọn bộ ra tiếng Việt. Có các bản dịch phổ biến sau:
• Bản dịch của Nhữ Thành (tức Phan Ngọc), được tái bản nhiều lần từ những năm 1960 tới năm 1988 (Nxb Văn học). Tái bản năm 1999, ký tên thật Phan Ngọc và bổ sung thêm một số thiên như (Hiếu Văn bản kỷ, Tấn Thế gia, Ngô Thái Bá thế gia, Triệu Thế gia, Tề thế gia) cùng một số liệt truyện (Hung Nô, Cam Mậu - Sư Lý Tử,Mạnh Tử - Tuân Khanh, Lỗ Trọng Liên, Ninh hạnh, Lưu Kính - Thúc Tôn Thông, Viên Áng - Tiều Thố)
• Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê - Giản Chi (Sài Gòn, trước 1975). Bản dịch này dịch ít hơn so với bản của Phan Ngọc và nhiều thiên dịch không đủ.
• Bản dịch của Bùi Hạnh Cẩn - Việt Anh (Nxb Văn hóa Thông tin, 2005): Thực chất là bản bổ sung cho bản của Phan Ngọc vì hai dịch giả này dịch thêm các bản kỷ: Ngũ Đế, Hạ, Thương, Chu, Tần. Chính các dịch giả cũng lấy tên gọi của bản dịch theo tinh thần đó: “Sử ký Tư Mã Thiên - Những điều chưa biết”, tức là dụng ý cung cấp cho người đọc một số trong những thiên Sử ký trước đây chưa được dịch.
Dù vậy, Sử ký vẫn chưa được dịch hoàn chỉnh với những thiên các dịch giả đã dịch xong. Tổng số các thiên đã dịch chưa tới một nửa nguyên bản mà Tư Mã Thiên đã viết.
10. Tả truyện: hay Tả thị Xuân Thu là tác phẩm sớm nhất của Trung Quốc viết về lịch sử phản ánh giai đoạn từ năm 722 TCN đến năm 468 TCN.
Theo truyền thống, Tả truyện thường được coi là tác phẩm của Tả Khâu Minh, và là lời bình cho cuốn Xuân Thu, mặc dầu một số học giả hiện nay vẫn còn tranh luận về điều này.
Cuốn sách này là một trong những nguồn tài liệu quan trọng để hiểu được lịch sử giai đoạn Xuân Thu. Cuốn sách cũng chứa đựng thông tin đầu tiên đề cập tới cờ vây trong đoạn viết về năm thứ 25 Lỗ Tương Công theo lịch Gregory là năm 548 TCN. Với phong cách hành văn dễ hiểu và cô đọng, Tả truyện cũng là một tác phẩm quý giá trong những văn bản kinh điển Trung Quốc. Tác phẩm này và cuốn Sử ký Tư Mã Thiên được nhiều thế hệ coi là những khuôn mẫu văn chương có phong cách duy nhất thời Trung Hoa cổ đại.
Về sau, đời Tây Tấn có danh tướng Đỗ Dự say mê sách Tả truyện đến mức thường mang theo trên mình ngựa khi đi ra ngoài, nên bị gọi là mắc "bệnh Tả truyện".
(Hết Phụ Lục D)
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...