Chủ Nhật, 29 tháng 8, 2021

Phần I: Đàng Trong - Quảng Nam - Thanh Chiêm: Những vấn đề Lịch sử

Phần I: Đàng Trong - Quảng Nam
Thanh Chiêm: Những vấn đề Lịch sử

VỊ THẾ CỦA DINH QUẢNG NAM 
ĐỐI VỚI XỨ ĐÀNG TRONG?

Nguyễn Văn Đăng - Mai Văn Được

Xứ Đàng Trong thời chúa Nguyễn cho dù được ra đời từ ý đồ ly khai, tránh thế lực đang muốn thâu tóm quyền lực của vua Lê là họ Trịnh, nhưng nó thật sự là xứ sở cho những thế lực mới, nguồn sinh khí mới nảy sinh, phát triển. Dân tộc Việt Nam đã từ đó tiếp tục mở đất để có một lãnh thổ rộng dài như hiện nay; nhà cầm quyền - chúa Nguyễn - có nhiều chính sách tích hợp Nho - Phật - Đạo - tín ngưỡng bản địa để an dân, mở mang kinh tế đối ngoại, hội nhập với thế giới bên ngoài, đưa Đàng Trong phát triển về mọi mặt tiến kịp với Đàng Ngoài. Có được những thành quả lịch sử đang ngày càng được thừa nhận rộng rãi như thế, vùng đất Thuận - Quảng nói chung, Quảng Nam nói riêng, đã trở thành vùng đất trọng yếu, có vị thế quan trọng trong sự phát triển xứ Đàng Trong, thể hiện vai trò là trung tâm lớn của đất nước thời bấy giờ. 

Bài viết này thử đề cập đến vị thế của vùng đất dinh Quảng Nam trong lịch sử xứ Đàng Trong trên một số lĩnh vực nổi bật: chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự… 

1. Về chính trị, dinh Quảng Nam xưa là trung tâm chính trị lớn sau Đô thành Huế, là kinh đô thứ hai của Đàng Trong 

Năm 1600, sau khi vĩnh viễn rời đất Bắc, Nguyễn Hoàng có một loạt hành động để xác lập quyền lực ở Thuận Quảng và chuẩn bị cho sự ra đời xứ Đàng Trong. Ông đã chuyển lỵ sở đầu não từ dinh Trà Bát sang dinh Cát, cho dựng nhiều ngôi chùa trọng yếu, mở đất Phú Yên và đặc biệt là dựng dinh Cần Húc, đưa Nguyễn Phúc Nguyên vào trấn thủ đất Quảng Nam (1602), cắt vùng đất Nam Hải Vân (thuộc huyện Điện Bàn, xứ Thuận Hóa) nhập vào dinh Quảng Nam (1604). Sử cũ chép: Năm 1602, Nguyễn Hoàng đặt làm dinh Quảng Nam (廣南營) với các chức quan cai trị: trấn thủ, cai bộ, ký lục: “… Sai hoàng tử thứ sáu (Nguyễn Phúc Nguyên) làm trấn thủ Quảng Nam… Liền vượt qua núi (Hải Vân) xem xét hình thế, dựng trấn dinh ở xã Cần Húc (nay thuộc huyện Duy Xuyên), xây kho tàng, chứa lương thực, sai hoàng tử thứ sáu trấn giữ. Lại dựng chùa Long Hưng ở phía đông trấn”.1 

Ở đây, cần hiểu dinh/doanh được dùng phổ biến thời chúa Nguyễn với 3 nghĩa cơ bản: [1] đơn vị hành chính, một khu vực hành chính cấp tỉnh (dưới trung ương); [2] nơi đóng lỵ sở của chúa ở hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam; và [3] đơn vị quân đội lớn.2 

Ở nghĩa [1], cơ cấu hành chính của dinh Quảng Nam3 dưới viên trấn thủ gồm có hai ty là Xá sai ty và Tướng thần lại ty với biên chế: “Xá sai ty Câu kê 3 người, Cai hợp 7 người, Thủ hợp 10 người, lại viên 40 người, giữ việc từ tụng văn án, do Ký lục cầm đầu; lại có ty Tướng thần lại, số người cũng thế, giữ việc cấp lính các xã, cấp các vi tử làm ngụ lộc, thu phát tiền sai dư và thóc tô ruộng do một viên Cai bạ đứng đầu”.4 Rõ ràng, dinh Quảng Nam là một dinh lớn chỉ sau Chính dinh Phú Xuân. Nơi đây chỉ thiếu Lệnh sử ty mà ở Chính dinh Phú Xuân mới có. Ở nghĩa [2], từ dinh Cần Húc (1602) đến dinh Thanh Chiêm (1617 - 1832) có thể được xem là “kinh đô thứ hai”, tương đương như là “dinh thự” của chúa Nguyễn, là nơi các vị hoàng tử “tập dượt” cách trị vì đất nước trước khi kế nhiệm ngôi chúa ở Phú Xuân. 

Gần như triều đại nào cũng có kinh đô thứ hai, nhưng so với các triều đại trước, thì trung tâm chính trị/kinh đô thứ hai thời chúa có nhiều sự khác biệt về vị trí và chức năng.5

Lỵ sở Quảng Nam là dinh Cần Húc/ dinh Thanh Chiêm không phải là nơi quê gốc, là nơi nghỉ ngơi hay khu lăng tẩm của chúa như kinh, phủ của các triều đại trước đó mà là kinh đô thứ hai theo đúng nghĩa của nó. Lỵ sở Quảng Nam (dinh Cần Húc/ dinh Thanh Chiêm) được xây dựng quy mô bề thế tương xứng với một đơn vị hành chính rộng lớn và quan trọng, trở thành trung tâm chính trị lớn thứ hai sau phủ Phú Xuân. Nơi đây, các chúa đã sai các con đến tập dượt làm chính sự để có thể kế nhiệm mình trị vì đất nước. Sử cũ chép: “Năm 1602… Sai hoàng tử thứ sáu (Nguyễn Phúc Nguyên) làm trấn thủ Quảng Nam. Quảng Nam đất tốt dân đông, sản vật giàu có, số thuế nộp vào nhiều hơn Thuận Hóa mà số quân thì cũng bằng quá nửa”.6 “Tháng 4 [năm Giáp Dần (1614)] thăng hoàng tử cả là Chưởng cơ Kỳ là Hữu phủ Chưởng phủ sự, trấn giữ dinh Quảng Nam. Kỳ tới trấn, chăm làm việc ân huệ, yêu thương quân dân, trong cõi yên vui”.7 

Năm 1631, chúa sai hoàng tử thứ ba là Nguyễn Phúc Anh làm trấn thủ Quảng Nam, hoàng tử thứ tám làm tham tướng.8 Tuy nhiên, Nguyễn Phúc Anh đã mưu đồ làm phản, ngầm liên kết với chúa Trịnh, bị Ký lục họ Phạm phát giác.9 Tiếp nối Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Kỳ, Nguyễn Phúc Anh, Nguyễn Phúc Tần... các vị “thái tử”, hoàng tử khác cũng đã từng làm trấn thủ ở đây. 

Các chúa Nguyễn ý thức được Quảng Nam là một vùng chiến lược trọng yếu nên ngoài việc đưa các con mình trấn giữ, còn đưa những cận thần tài giỏi vào giúp cai quản; như sau khi dẹp hoàng tử Nguyễn Phúc Anh mưu phản (1635), sai Bùi Hùng Lương làm Chưởng dinh trấn thủ Quảng Nam, Dương Sơn làm Cai cơ, Phạm làm Nội tán.10 Năm 1687 sai Chưởng dinh Nguyễn Đức Bảo (người Quý huyện) làm trấn thủ Quảng Nam.11 Năm 1710 sai Cai án Phạm Hữu Huệ làm Cai bạ dinh Quảng Nam, Thư ký Nguyễn Đăng Đệ làm Ký lục.12 Nguyễn Đăng Thịnh cũng từng làm Ký lục Quảng Nam…

Những điều này nói lên vị thế địa chính trị của Quảng Nam trong thế liên hoàn Thuận - Quảng. Thuận Hóa là trung tâm chính trị, nơi đóng dinh chúa, hoạch định các chính sách lớn, nơi có chiến trường ác liệt với thế lực họ Trịnh ở Đàng Ngoài, còn Quảng Nam là dinh trấn trọng yếu về mọi mặt, hỗ trợ cho Thuận Hóa, tập sự cho các thế tử làm chúa ở Phú Xuân… 

2. Quảng Nam trở thành một trung tâm kinh tế lớn nhất, một hậu phương vững chắc cho Thuận Hóa phòng ngự ở mặt bắc với chúa Trịnh và trở thành đất trung chuyển cho dân tộc tiến về phương Nam 

Dinh trấn Thanh Chiêm là cơ quan đầu não, cai quản một trung tâm kinh tế lớn nhất xứ Đàng Trong là dinh Quảng Nam với địa bàn rất rộng (từ Nam Hải Vân đến hết đèo Cù Mông) và là một trung tâm lớn nhất trong sản xuất hàng hóa, nơi quy tụ hàng hóa của cả nước để xuất khẩu. 

Trước hết, về bức tranh dân cư: Sự cộng cư hình thành làng xã của cộng đồng cư dân Đại Việt - Champa trên đất Quảng Nam diễn ra lâu dài từ thời Trần đến thời chúa Nguyễn. Dân cư Quảng Nam chủ yếu từ vùng Thanh - Nghệ vào khai phá, cộng cư với người tiền trú là các tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Kh’mer và Mã Lai - Đa đảo vốn đã thuộc vương quốc Champa. Những cuộc di dân thời Hồ - Lê sơ có quy mô lớn hơn thời Trần đặt nền móng cho sự hình thành cư dân Quảng Nam. Sách Ô châu cận lục viết năm 1555 ghi nhận huyện Điện Bàn có hơn 66 làng xã được lập.13 

Sang thời chúa Nguyễn, các cuộc di dân ồ ạt hơn, nhanh chóng lấp đầy những vùng đất còn hoang hóa và hình thành tương đối hoàn chỉnh làng xã nơi đây. Có thể dẫn dụ các làng Đà Ly - Đà Sơn ở Hòa Vang, Câu Nhi (có họ Thân), Phước Đức (họ Phạm), Xuân Đài (họ Hoàng), Mân Thái (họ Lê), Cẩm Phô (họ Trần, Huỳnh, Lê, Nguyễn), Trà Kiệu (13 tiền hiền thời Lê Thánh Tông, 4 người vào năm 1578 và 13 “hậu hiền” theo Mạc Cảnh Huống năm 1600)…14 

Với nguồn nhân lực dồi dào, các chính sách mở mang kinh tế đối ngoại và thúc đẩy kinh tế hàng hóa trong nước phát triển đã làm cho xứ Quảng Nam phát triển phồn thịnh. 

Tiên chúa Nguyễn Hoàng đã sớm nhận thức được vị thế của vùng đất Quảng Nam. Sử cũ chép: “Quảng Nam đất tốt dân đông, sản vật giàu có, số thuế nộp vào nhiều hơn Thuận Hóa mà số quân thì cũng bằng quá nửa. Chúa thường để ý kinh dinh này. Đến đây, đi chơi Hải Vân, thấy một dải núi cao dăng dài mấy trăm dặm nằm ngang đến bờ biển. Chúa khen rằng: “Chỗ này là đất yết hầu của miền Thuận Quảng”.15 Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục đã viết về sản vật xứ này: “Xứ Quảng Nam có nhiều núi sản xuất vàng. Họ Nguyễn đặt hộ đãi vàng ở các phủ, gọi là thuộc Kim hộ, mỗi thuộc hơn 40 thôn, phường… Ở trường vàng có quan Chánh Cai ty Ngân tượng theo đi để nấu, có ty Nội Lệnh sử cắt lượt nhau đi thu”. 16 Kho tàng chứa thóc gạo, tiền của chúa: Thuận Hóa có 7 kho, Quảng Nam 12 kho “Thuận Hóa không có nhiều của cải, đều lấy ở Quảng Nam, vì xứ Quảng Nam là đất phì nhiêu nhất thiên hạ. Người Thăng Hoa, Điện Bàn biết dệt vải lụa vóc đoạn lĩnh là, hoa màu khéo đẹp chẳng kém Quảng Đông, ruộng đồng rộng rãi, gạo lúa tốt đẹp, trầm hương, tốc hương, sừng tê, ngà voi, vàng bạc, đồi mồi, trai ốc, bông, sáp, đường, mật, dầu sơn, cau, hồ tiêu, cá muối, gỗ lạt, đều sản xuất ở đấy”. 17 

Từ đất đai màu mỡ rộng rãi, sản vật phong phú dồi dào, các hoạt động sản xuất hàng hóa ở Quảng Nam rất phát triển. Các nghề và làng thủ công lần lượt ra đời. Ở xứ Điện Bàn, Thăng Hoa nổi tiếng nhất là nghề dệt các loại, tiêu biểu là làng Thi Lai, các làng ven sông Thu Bồn, các làng ở Gò Nổi (Điện Bàn). Nghề yến ở Thanh Châu (Hội An), Cù Lao Chàm, nghề chiếu cói Bàn Thạch, làng gốm Thanh Hà, làng đúc đồng Phước Kiều, làng mộc Kim Bồng, làng trống Lâm Yên, làm đá Quán Khái (Non Nước)… Nguồn Ô Da có sáp ong, nguồn Chiên Đàn có mật ong, nguồn Thu Bồn có quế, ở Trà My có mỏ vàng, ở Diên Phước có đường thạch khối, đường mật… “Từ Quảng Nam về thì các hàng không món gì không có, các nước phiên không kịp được. Phàm hóa vật sản xuất ở các phủ Thăng Hoa, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Bình Khang và dinh Nha Trang, đường thủy đường bộ, đi thuyền đi ngựa, đều hội tập ở phố Hội An, vì thế người Khách phương Bắc đều đến tụ tập ở đấy để mua về nước. Trước đây hàng hóa nhiều lắm, dù trăm chiếc tàu to chở cùng một lúc cũng không hết được”.18 

Mảnh đất Quảng Nam phồn thịnh, ngân sách của chúa nhờ đó mà thu được nhiều sản vật dự trữ qua chính sách tô thuế. Tô thuế năm 1769, Thuận Hóa 63.865 thăng; năm 1767, từ Quảng Nam đến Gia Định là 6.048.526 thăng, 8 hộc thóc… Rõ ràng, thuế thóc gạo của dinh Quảng Nam đóng góp một khối lượng lớn, chiếm đến gần một nửa của cả xứ Đàng Trong với gần 2.918.581 thăng. Trong đó 3 phủ của dinh Quảng Nam như sau: phủ Thăng Hoa có 1.681.293 thăng, phủ Quảng Ngãi có 1.221.882 thăng, phủ Quy Nhơn 15.406 thăng.19 

Với sự phát triển của kinh tế và quân sự, Quảng Nam trở thành bàn đạp để các chúa Nguyễn tiến hành Nam tiến một cách mạnh mẽ. Cư dân Quảng Nam cùng cư dân Thuận Hóa trở thành nguồn lực chính để các chúa Nguyễn tổ chức nguồn nhân lực khai phá vùng đất mới mở Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Các luồng di cư vào Nam xuất phát từ đây diễn ra thường xuyên liên tục từ thời chúa cho đến sau này để lại khá nhiều địa danh (làng xã, vùng đất) mang dấu ấn Quảng Nam trên vùng đất từ Nam Trung Bộ đến tận miền Tây Nam Bộ, tiêu biểu như dòng họ của Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại… 

3. Trong thời đại hội nhập, Hội An của Quảng Nam trở thành thương cảng quốc tế, là cửa ngõ trọng yếu trong chính sách kinh tế đối ngoại, mở rộng giao thương với bên ngoài của chúa Nguyễn 

Mang tầm nhìn thoáng đạt hơn, nắm bắt xu thế của luồng thương mại thuyền buồm ven biển Đông Nam Á, chúa Nguyễn đã ra sức mời gọi, tạo điều kiện cho thương nhân nước ngoài đến buôn bán tại các cảng thị của Việt Nam. 

Với vị thế là cảng sông ở vùng kinh tế hàng hóa phát triển Quảng Nam, Hội An có hai cửa vào là cửa Đại Chiêm (thường dành cho tàu thuyền đến từ phía Nam) và cửa Hàn (tàu thuyền đến từ phía Bắc). Nơi đây tập trung các thương nhân từ nhiều nước đến buôn bán. Thương nhân Đông Bắc Á là Nhật Bản, Trung Quốc đến theo mùa gió, xây dựng các khu phố định cư, buôn bán, gom hàng chở về nước hoặc làm đại lý buôn bán với thương nhân phương Tây. Các thương nhân phương Tây như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp đã từng mở thương điếm tại Hội An, thông qua người Hoa, người Việt để mua hàng hóa. 

Để phục vụ cho thương cảng quốc tế, xung quanh Hội An mật tập một vùng làng nghề cung cấp hàng hóa. Đặc biệt là nghề làm mộc, đóng ghe bầu để vận chuyển hàng hóa giao dịch mua bán. Phạm vi hành nghề của thợ đóng ghe bầu Hội An khá rộng, bao gồm hầu hết các địa phương Đàng Trong và một số nơi ở Đàng Ngoài. Phương thức hành nghề chủ yếu là lập thành các kíp thợ từ 10 - 20 người đi đóng ghe thuê hoặc lập thành trại ghe cố định. Theo tư liệu hồi cố, vào đầu thế kỷ XX, chỉ riêng các vạn ghe bầu Thanh Châu, Cẩm Phô (ở Hội An) và Bàn Thạch, Duy Vinh, An Hòa (ở Duy Xuyên) cũng đã có đến 120 chiếc với tải trọng phổ biến từ 50 - 100 tấn/chiếc...20 Tại Bảo tàng Hội An có mô hình ghe bầu vận tải đường biển, thường có chiều dài cỡ 12 - 15 m, ngang gần 3 m… Trong các thế kỷ XVII - XVIII, ghe bầu là phương tiện chính trong việc chở thóc gạo từ Gia Định ra bán ở Thuận - Quảng và vải vóc, lụa lãnh từ nơi đây vào cung cấp cho vùng đất phương Nam. 

Dinh trấn Thanh Chiêm được giao quản lý thương cảng quốc tế Hội An trong chính sách mở mang kinh tế đối ngoại của chúa Nguyễn. Bộ máy chính quyền ở dinh trấn Thanh Chiêm đã phối hợp với Tào vụ ty của triều đình đến thương cảng Hội An nhằm quản lý hải quan, thu thuế hàng hóa xuất nhập khẩu của thương thuyền tại đây. Nơi đây, nhà nước đặt cơ quan chuyên trách gần như duy nhất trong xứ, về quản lý ngoại thương bằng cơ quan Tào vụ ty: “Lệ Tào vụ của họ Nguyễn, hàng năm cứ tháng Giêng thì các viên Cai bạ, Tri bạ, Lệnh sử, Cai phủ, Ký lục của Tàu ty đều vào phố Hội An… chia sai những người thuộc quân thông hiểu tiếng nước ngoài đi canh giữ Cù lao Chiêm (Cù lao Chàm) và cửa Đà Nẵng, thấy có tàu buôn các nước đến đấy thì phải hỏi xét tất cả, quả là tàu buôn bán chịu thuế thì đem thuyền trưởng và tài phó tàu ấy vào phố Hội An, trình quan Cai bạ, xét thực khải lên và trình quan Cai tàu để truyền cho Tuần ty đem dân phụ lũy đến hộ tống tàu ấy vào cửa, đậu ở sở tuần... Năm Tân Mão, tàu buôn các xứ đến Hội An 16 chiếc tiền thuế là 30.800 quan. Năm Nhâm Thìn 12 chiếc, tiền thuế là 14.300 quan. Năm Quí Tỵ 8 chiệc tiền thuế là 13.200 quan”.21 

Hội An của Quảng Nam trở thành cảng thị lớn nhất, sầm uất nhất xứ Đàng Trong, không chỉ tập trung hàng hóa khắp nơi chuyển về để bán ra nước ngoài mà còn là nơi tiếp nhận thương thuyền, mật tập hàng hóa phân phối về các dinh trấn qua các cảng thị khác ở Đàng Trong. Các cảng thị khác trong xứ như Thanh Hà (Huế), Thu Xà (Quảng Ngãi), Nước Mặn (Quy Nhơn), Cửa Hàn (Đà Nẵng)… chỉ là “tiền cảng” (cảng phía trước/cảng vệ tinh) cho thương cảng quốc tế Hội An. Giáo sĩ Cristoforo Borri đến Quảng Nam đầu thế kỷ XVII đã ghi nhận vai trò của Hội An trong bản tường trình: “Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng nhất là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam”.22 Còn Hòa thượng Thích Đại Sán trong Hải ngoại kỷ sự đã cho thấy sự phồn thịnh của Hội An: “Xa trông cách bờ, cột buồm như rừng tên xúm xít, hỏi ra mới biết đó là đoàn thuyền chở lương, đậu chờ gió tại Hội An vậy… Hai bên nhà cửa đông đúc, người đi đường xôn xao, kẻ gánh người gồng…”.23 

4. Từ cửa ngõ lớn nhất xứ Đàng Trong, Quảng Nam sớm có sự giao lưu, tiếp xúc với văn hóa phương Tây 

Cố giáo sư Trần Quốc Vượng từng cho rằng: “Hội An: đó là sự hội thủy, hội nhân và hội tụ văn hóa vô cùng đa dạng”. 24 Với tư cách là cửa ngõ giao thương lớn nhất nước thời bấy giờ, thông qua việc giao thương với bên ngoài, việc tiếp xúc giao lưu, đón nhận những sắc thái văn hóa mới như du nhập đạo Thiên Chúa, sự ra đời của chữ Latinh, tiếp nhận những yếu tố kỹ thuật mới cũng là một yếu tố góp phần nâng vị thế của dinh trấn Thanh Chiêm nói riêng và Quảng Nam nói chung. Thông qua cửa Đại Chiêm, cửa Hàn, các nhà truyền giáo tập trung nhiều ở vùng đất của biển, cũng từ đó họ sớm đặt chân đi các nơi khác trong vùng Quảng Nam và cả xứ Đàng Trong. Thông qua đó, Thiên Chúa giáo du nhập vào nước ta với nhiều dòng khác nhau như Dòng Tên, dòng Đa Minh… 

Có thể nói trên vùng đất Quảng Nam, các địa điểm cửa Hàn, Faifo (Hội An), Trà Kiệu trở thành những nơi đầu tiên đón nhận sự xuất hiện các giáo sĩ, các cơ sở sinh hoạt Thiên Chúa giáo. Năm 1535 là năm đầu tiên đón nhận giáo sĩ Antonio de Feria đến cửa Hàn. Từ năm 1580 đến 1586, các thừa sai thuộc dòng Đa Minh là Luis de Fonseca và Gregoire de la Motte từ Malacca đến truyền giáo ở Quảng Nam. Họ được ghi nhận là hai vị thừa sai tử đạo đầu tiên trên đất Việt Nam.25 Tiếp bước họ, hai giáo sĩ Dòng Đa Minh khác là Alonze Jimenez và Diego Aduarte đã ghé vào cửa Hàn để tiếp tế lương thực. Năm 1615 ghi nhận giáo sĩ Buzomi - được xem là người sáng lập giáo hội Đàng Trong đến cửa Hàn. Sau đó là các giáo sĩ Francisco de Pina, Alexandre de Rhodes (khoảng trước 1624), Cristoforo Borri... Họ được xem là những người đầu tiên đến cửa Hàn, Hải Phố (Hội An) để truyền giáo… Ngày 2.4.1722, cha Fellibe de la Concaption được Tỉnh Dòng Manila gửi đến Trà Kiệu, Quảng Nam. Ở đây, ông đã xây cất một ngôi nhà thờ kính thánh Philipphe, ở Hải Phố một ngôi nhà thờ kính các thánh tử đạo Nhật Bản. 

Sự tiếp thu Thiên Chúa giáo đã tạo điều kiện cho chữ Quốc ngữ ra đời, mà Quảng Nam là cơ sở đầu tiên. Người có công lớn nhất và đầu tiên là giáo sĩ Bồ Đào Nha Francisco de Pina (1585 - 1625). Ông đến Hội An năm 1617, sống và truyền đạo ở vùng dinh Quảng Nam. Ông rất chịu khó học tiếng Việt, giỏi tiếng Việt và trở thành thầy dạy tiếng Việt cho nhiều giáo sĩ khác, như giáo sĩ Cristoforo Borri, Alexandre de Rhodes… Ông là người đi tiên phong trong việc Latinh hóa tiếng Việt. Trong một đoạn thư ông gửi cho Cha bề trên là Feromino Rodriguez đã thể hiện rõ điều này: “Đối với tôi việc nghiên cứu tiếng nói, Ca Chão (Kẻ Chàm) vẫn là nơi tốt nhất với tư cách là trung tâm của triều đình: ở đây người ta nói rất hay, có sự đổ dồn của những người trẻ tuổi đến nhà họ là những sĩ tử và bên cạnh họ…”.26 Đoạn thư đó cũng cho thấy vai trò của Quảng Nam như thế nào đối với sự ra đời của chữ Quốc ngữ. 

Đi liền với việc giảng đạo, chữ Quốc ngữ ngày càng hoàn thiện, chính thức ra đời qua cuốn Từ điển Việt - Bồ - La của Alexandre de Rhodes. Quốc ngữ ra đời không chỉ là công cụ giao tiếp mới của người Việt mà còn góp phần nhất định trong việc phát triển giao thương khi mà các nhà buôn phương Tây sử dụng nó trong quá trình buôn bán, giao dịch với nước ta. 

Thông qua giao thương và tiếp nhận Thiên Chúa giáo (mặc dù tiếp nhận có phần hạn chế và không chủ động), các giáo sĩ và các thương nhân đến nước ta đã để lại những nguồn sử liệu quý giá. Nó không chỉ cho chúng ta biết về tình hình của xứ Đàng Trong nói riêng và đất nước ta nói chung mà nó còn là nguồn tư liệu quý giá để các nhà nghiên cứu sử dụng để làm sáng tỏ các vấn đề lịch sử đã diễn ra thời bấy giờ. Kiến trúc nhà thờ Thiên Chúa giáo cũng đã bắt đầu du nhập vào nước ta, có các nhà thờ được xây dựng ở cửa Hàn, ở Nước Mặn… 

Các kỹ thuật mới và khoa học kỹ thuật được du nhập vào nước ta. Hai cha con giáo sĩ João da Cruz (người Bồ Đào Nha lai Ấn Độ, còn có tên là Jean de la Croix) và Clement de la Croix được chúa Nguyễn mời ra Phường Đúc (ở Phú Xuân) giúp các thợ ở đây đúc súng theo kỹ thuật phương Tây. Nghề làm đồng hồ, kính thiên lý cũng có cơ hội được du nhập (mặc dù không trực tiếp ở Quảng Nam). Người Bồ Đào Nha đúc đại bác cho chúa…27 

5. Dinh Quảng Nam có tiềm lực quân sự mạnh, sát cánh cùng Chính dinh Phú Xuân bảo vệ bờ cõi và đẩy mạnh Nam tiến 

Để bảo vệ lãnh thổ, các chúa đã ra sức phát triển ngành công nghiệp quốc phòng là sản xuất vũ khí, đóng thuyền chiến và thuyền vận tải công cộng. Thông qua giao thương với bên ngoài, chúa đặt mua các mặt “hàng chiến lược”: vũ khí (đại bác và súng trường), lưu huỳnh, đồng, sắt để đúc chế vũ khí; gươm đao theo kiểu Nhật Bản,… 

Trong các công xưởng của chúa Nguyễn thì ngành đóng tàu là vô cùng quan trọng phục vụ mục đích quân sự, giao thông. Địa điểm các xưởng đóng tàu thuyền phần lớn đều tập trung ở đôi bờ sông Hương (Phú Xuân). Ngoài sông Hương, dòng sông Thu Bồn là nơi chúa huy động thợ đóng thuyền giỏi của cư dân Quảng Nam tổ chức xưởng đóng thuyền Hà Mật28 với quy mô rất lớn được sử sách ghi lại: “Vào năm 1674, chúa Nguyễn Phúc Tần đã có 133 chiến thuyền do các xưởng trực thuộc phủ chúa đóng”.29 Một nhân chứng người Anh, Thomas Bowyear, khi đến Đàng Trong năm 1695, đã nhận thấy rằng: lực lượng thủy quân của chúa Nguyễn Phúc Chu gồm: “200 chiến hạm, mỗi chiếc có từ 16 đến 22 khẩu đại bác, 500 chiến thuyền nhỏ từ 40 - 44 tay chèo. 100 chiến thuyền lớn từ 50 đến 75 tay chèo, 3 chiếc của người Âu. Các thuyền chiến trên đều do xưởng của Phủ chúa đóng. Xưởng đóng tàu Hà Mật có tới 4.000 thợ và đóng được những chiến thuyền trọng tải đến 400 tấn”.30 

Dinh trấn Thanh Chiêm là một trong ba căn cứ thủy quân lớn nhất của chúa Nguyễn ở Đàng Trong (Chính dinh, Quảng Nam dinh và Trấn Biên dinh). Trang bị cho dinh được Phủ biên tạp lục chép lại: Dinh Quảng Nam có 5 cơ; Trung cơ, Trung Thủy, Tả thủy, Hữu Thủy, Tả thắng bộ, có đội Hùng thủy, 3 tượng đội…31 Biên chế quân lực cũng khá lớn: “Số binh Thuận Quảng thì xứ Quảng Nam chiếm quá nửa. Xứ Thuận Hóa tô ruộng cũng ít, thừa chở thóc ở Quảng Nam để cấp cho quân, có quan coi việc chuyên chở…”. 32 

Giữa thế kỷ XVII, việc thế tử Nguyễn Phúc Tần đem quân của mình ở Quảng Nam đánh thắng ba hạm đội hoàng gia Hà Lan đã minh chứng cho sức mạnh quân sự ở đây. Năm 1642, thủy quân Đàng Trong xuất phát từ dinh trấn Thanh Chiêm, Quảng Nam đã đánh tan hạm đội Hà Lan gồm 5 chiến thuyền, 152 thủy thủ và 70 lính do Liesvelt chỉ huy đã uy hiếp vùng biển Cù Lao Chàm và thương cảng Hội An. Năm 1644, lại có 3 chiếc tàu cũng của Hà Lan do Pieter Baek chỉ huy đến Cù Lao Chàm bắt một số người dân. Thế tử Dũng Lễ hầu Nguyễn Phúc Tần, con của chúa Nguyễn Phúc Lan và bà Đoàn Quý phi, trực tiếp chỉ huy 60 chiến thuyền xua đuổi đội tàu này.33 

Quảng Nam là vùng phên dậu của nước ta trong một thời gian dài. Trong đoàn quân Nam tiến những năm 1611 vào Phú Yên, 1653 vào sông Phan Rang, 1693 vào Bình Thuận, chắc chắn binh dân Quảng Nam đóng vai trò trọng yếu trong việc mở đất các xứ này. Những lúc xảy ra giặc giã quấy nhiễu thì quân dân Quảng Nam trở thành lực lượng tiền tiêu, như sự kiện năm 1708: “Mùa thu, tháng 7 [năm Mậu Tý (1708)], bọn ác man ở Lũ Bá, Bà Rịa và bọn man Nam Bàn quấy rối cướp bóc dân ở biên thùy. Sai Câu Kê dinh Quảng Nam là Hòa Đức (không rõ họ) đem quân bản dinh (quân dinh Quảng Nam) đi đánh”.34 Việc trang bị vũ khí, phương tiện cho quân đội không chỉ bảo vệ bờ biển, xuất phát cho Nam tiến mà còn góp phần kiểm soát, quản lý thương nhân, giáo sĩ vào cửa cảng Hội An. 

Tóm lại, có thể nói trong suốt thời chúa Nguyễn, dinh Quảng Nam có vị thế vô cùng quan trọng về chính trị, kinh tế, thương mại, văn hóa và quân sự của xứ Đàng Trong. Đó là một dinh trọng yếu cùng với Thuận Hóa nhanh chóng phát triển về mọi mặt. Thuận Quảng nhanh chóng trở thành vùng đất căn bản cho chúa Nguyễn xây dựng cơ nghiệp đối chọi với thế lực họ Trịnh và tiếp tục và hoàn chỉnh công cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam. 

Chú thích: 

1, 6, 7, 8, 10, 15, 34 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, (Hà Nội: Giáo dục, 2002), 35-36, 35, 39, 47, 53, 35, 122. 

2. Quân số của dinh trên dưới 5.000 người, gồm nhiều cơ do 1 Chưởng dinh chỉ huy. 

3. Dinh Quảng Nam là một trong 12 dinh, 1 trấn của Đàng Trong giữa thế kỷ XVIII. Đó là: Bố Chính dinh, Quảng Bình dinh, Lưu Đồn dinh, Cựu dinh, Chính dinh, Quảng Nam dinh, Phú Yên dinh, Bình Khang dinh, Bình Thuận dinh, Trấn Biên dinh, Phiên Trấn dinh, Long Hồ dinh và Hà Tiên trấn. 

4, 16, 17, 18, 21, 31, 32 Lê Quý Đôn toàn tập, Tập 1: Phủ biên tạp lục, (Hà Nội: Khoa học xã hội, 1977), 145, 225, 337, 234, 232, 192, 240 

5. Vị trí kinh đô thứ hai của các triều đại trước đây thường có vị trí gần như là quê hương của các triều vua. Thời Lý là khu vực Đình Bảng (Bắc Ninh), thời Trần là phủ Thiên Trường (Nam Định), thời Hồ lúc đầu là thành An Tôn (sau đó trở thành kinh đô chính thức - Tây Đô), thời Lê sơ là Lam Kinh (sau đó chuyển thành khu lăng mộ - Thanh Hóa), thời Mạc là Dương Kinh (Hải Phòng). Hơn nữa, chức năng chính của nó như là nơi an dưỡng, nghỉ ngơi của các vua chúa sau khi làm việc ở kinh thành Thăng Long. Nơi đó có thể được hiểu là ngôi nhà thứ hai (résidence) của các vua chúa. 

9. “…Anh đến trấn, ngầm mang chí khác, muốn cướp ngôi thế tử, nuôi riêng dũng sĩ vài trăm người, bí mật ghi họ tên vào sổ “đồng tâm hướng thuận”. Từng viết mật thư đầu hàng họ Trịnh, nhưng công việc không thành. Đến đây nghe tin chúa lên ngôi, Anh tức thì phát binh làm phản, cùng Ký lục Phạm mưu đắp lũy Cu Đê làm kế cố thủ và bày thủy quân ở cửa biển Đà Nẵng để chống lại quân chúa. Phạm lẻn về đem tình trạng làm phản ấy trình chúa…” [Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, (Hà Nội: Giáo dục, 2002), 52]. 

11, 12 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Tập 1 và tập 2, (Huế: Thuận Hóa, 2014), 102, 125. 

13. Dương Văn An, Ô châu cận lục. Tân dịch hiệu chú, Trần Đại Vinh và Hoàng Văn Phúc hiệu đính, dịch chú, (Huế: Thuận Hóa, 2001), 65-67. 

14. Đặng Văn Thu (Chủ biên), “Di dân của người Việt từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIX”, Nghiên cứu lịch sử, 1994, 87-89. 

19. Xem thêm: Lê Đình Cai, 34 năm cầm quyền của chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725), (Huế: Đăng Trình, 1971), 109. 

20. Nguyễn Thanh Lợi, “Ghe bầu xứ Quảng”, Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, Số 5+6/2010, 52-55. 

22. Cristoforo Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, (TPHCM: Tổng hợp TPHCM, 2014), 91. 

23. Thích Đại Sán, Hải ngoại kỷ sự, (Huế: Ủy ban phiên dịch sử liệu, Viện Đại học Huế, 1963), 116. 

24. Trần Quốc Vượng, Việt Nam cái nhìn địa văn hóa, (Hà Nội: Văn hóa dân tộc - Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, 2015), 447. 

25. Nguyễn Văn Kiệm, Sự du nhập của Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, (Hà Nội: Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam - Trung tâm UNESCO bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam, 2001), 102. 

26. Roland Jacques, L’ocuvre de quelques pionniers portufais dans le domaine de la linguistique Vietnamienne jusqúen 1650, (Paris, 1995): Dẫn theo Nguyễn Phước Tương, “Vai trò dinh trấn Thanh Chiêm trong việc phát triển xứ Đàng Trong của các chúa Nguyễn”, Kỷ yếu Hội thảo Vai trò lịch sử dinh trấn Quảng Nam, (Sở Văn hóa thông tin Quảng Nam, 2002), 53. 

27. Li Tana, Xứ Đàng Trong lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Nguyễn Nghị dịch, (TPHCM: Trẻ, 1999), 63. 

28. Nay là làng Hà Mật thuộc xã Điện Phong, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. 

29. Lê Đình Cai, 34 năm cầm quyền của chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725), (Huế: Đăng Trình, 1971), 98. 

30. Pierre Huard et Maurice Durand, Connaisance du Việt-Nam, (Hà Nội: E.F.E.O., 1954), 229; Cadière, L. et Mir, Mme, “Les Européens qui ont vu le vieux Hué: Thomas Bowyear 1695 - 1696”, B.A.V.H., No. 2/1920, 183-240. 

33. Có sử dụng tư liệu của phim tài liệu Biển gọi của QRT

TÀI LIỆU THAM KHẢO: 

1. Cristoforo Borri (2014). Xứ Đàng Trong năm 1621. TPHCM: Tổng hợp TPHCM

2. Lê Đình Cai (1971). 34 năm cầm quyền của chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725). Huế: Đăng Trình. 

3. Lê Quý Đôn (1977). Lê Quý Đôn toàn tập, Tập 1: Phủ biên tạp lục. Hà Nội: Khoa học xã hội. 

4. Li Tana (1999). Xứ Đàng Trong lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Nguyễn Nghị dịch. TPHCM: Trẻ

5. Nguyễn Thanh Lợi (2010). “Ghe bầu xứ Quảng”. Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, Số 5+6/2010. 

6. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002). Đại Nam thực lục, Tập 1. Hà Nội: Giáo dục. 

7. Quốc sử quán triều Nguyễn (2014). Đại Nam liệt truyện. Tập 1-2. Huế: Thuận Hóa. 

8. Thích Đại Sán (1963). Hải ngoại kỷ sự. Huế: Ủy ban phiên dịch sử liệu. Viện Đại học Huế. 

9. Nguyễn Phước Tương (2002). “Vai trò dinh trấn Thanh Chiêm trong việc phát triển xứ Đàng Trong của các chúa Nguyễn”. Kỷ yếu hội thảo Vai trò lịch sử dinh trấn Quảng Nam. Sở Văn hóa thông tin Quảng Nam. 43-104. 

10. Trần Quốc Vượng (2015). Việt Nam cái nhìn địa văn hóa. Hà Nội: Văn hóa dân tộc - Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật.
VAI TRÒ CỦA DINH TRẤN THANH CHIÊM TRONG SỰ NGHIỆP 
MỞ ĐẤT PHƯƠNG NAM CỦA CÁC CHÚA NGUYỄN?
Châu Yến Loan
Tiến về phương Nam để tồn tại và phát triển, đó là sinh lộ của dân tộc. Cuộc hành trình chính thức khởi đầu từ năm 1069, thời Lý Thánh Tông và kết thúc vào năm 1757,thời Nguyễn Phúc Khoát. Hơn 700 năm, các triều đại phong kiến khi thì dùng vũ lực khi dùng biện pháp hòa bình, từng bước mở rộng biên cương xuống phía Nam. Trong lịch sử của dân tộc, chưa có lúc nào mà lãnh thổ nước ta được mở rộng nhanh chóng bằng dưới thời các chúa Nguyễn. Chưa đầy 150 năm, một vùng đất rộng lớn, kéo dài từ đèo Cù Mông đến tận mũi Cà Mau đã được sáp nhập vào bản đồ Đại Việt. 

Trong các đợt mang gươm đi mở cõi, Dinh Chiêm là hậu phương vững chắc đã đóng góp lớn lao về nhân lực cũng như vật lực giúp các chúa Nguyễn hoàn thành sứ mạng lịch sử vĩ đại này. 

Công cuộc mở đất của nhà Nguyễn khởi sự ngay từ thời Nguyễn Hoàng. Năm 1578, Nguyễn Hoàng cử Lương Văn Chánh làm Tri huyện Tuy Viễn (một huyện của Bình Định tiếp giáp với nước Hoa Anh) tập hợp lưu dân đến ở vùng Cù Mông và Bà Đài khai khẩn đất hoang ở sông Đà Diễn để giữ yên vùng biên trấn. Do người Chiêm đến lấn cướp Hoa Anh nên Lương Văn Chánh đã đánh chiếm Thành Hồ (thủ phủ của Hoa Anh) nhằm ngăn chặn ý đồ của Chiêm Thành chiếm lại đất cũ, sau đó ông chiêu mộ dân vào khai khẩn đất hoang lập thôn ấp giúp cho nước Hoa Anh được ổn định và tạo điều kiện để những người Thuận Quảng di dân vào đây nhiều hơn. 

Ngày 6.2.1597, Nguyễn Hoàng đã có sắc lệnh cho Lương Văn Chánh, Tri huyện Tuy Viễn trấn An Biên đem khoảng 4.000 lưu dân Quảng Nam dinh vào khai khẩn vùng đất phía Nam của Đại Việt từ đèo Cù Mông đến đèo Cả (thuộc địa phận tỉnh Phú Yên) tạo nên những làng mạc đầu tiên trên châu thổ sông Đà Diễn.  

Năm 1611, Chiêm Thành xâm lấn biên giới, chúa sai chủ sự Văn Phong đem quân đi đánh, lấy được đất mới, lập ra phủ Phú Yên. 

Đại Nam thực lục ghi rằng: “Tân Hợi, năm thứ 54 (1611), bắt đầu đặt phủ Phú Yên. Bấy giờ quân Chiêm Thành xâm lấn biên giới. Chúa sai chủ sự là Văn Phong (không rõ họ) đem quân đi đánh lấy được (đất ấy), bèn đặt làm một phủ, cho hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa lệ thuộc vào. Nhân sai Văn Phong làm lưu thủ đất ấy”. [Đại Nam thực lục, Tập 1, (Hà Nội: Giáo dục, 2002), 36]. 

Đại Nam nhất thống chí cũng ghi: “Bản triều Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế bắt đầu mở mang đất này, đặt phủ Phú Yên với hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa, lập dinh Trấn Biên, sau gọi là dinh Phú Yên”. 

Trong Việt sử xứ Đàng Trong, Phan Khoang viết: “Bấy giờ, xứ Quảng Nam vào đến phủ Hoài Nhơn và biên giới cực Nam là huyện Tuy Viễn (nay là Tuy Phước), bên kia Tuy Viễn là đất của Chiêm Thành. Năm Hoằng Định thứ 3 (1602), nước Chiêm Thành có sai sứ sang thông hiếu, nhưng đầu năm Hoằng Định thứ 12 (1611) thì sang xâm lấn biên giới, chúa sai chủ sự là Văn Phong (không rõ họ) đem quân đi đánh, lấy đất Phú Yên ngày nay, đặt làm một phủ, chia làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa và sai Văn Phong làm Lưu thủ phủ Phú Yên.” [Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong, (Sài Gòn: Nhà sách Khai Trí), 161, 162]. 

Sự thành lập phủ Phú Yên năm 1611 đánh dấu bước đầu Nam tiến của các chúa Nguyễn và cũng là thời điểm kết thúc 140 năm tồn tại của nước Hoa Anh (từ 1471 đến 1611), vùng đệm giữa Đại Việt và Chiêm Thành. 

Năm Canh Thân (1620), chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên gả công nương Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey Chettha II để xây dựng mối hòa hiếu với một lân bang và tạo điều kiện thuận lợi cho những di dân Quảng Nam dinh vào khai phá vùng đất hoang dã phía Đông Nam Chân Lạp. Còn Chân Lạp thì muốn kết thân với chúa Nguyễn hầu nhờ lực lượng quân đội của Đàng Trong giúp đỡ để đối phó với nạn xâm lăng của quân Xiêm từ phía Tây. 

Công nương Ngọc Vạn xinh đẹp được vua Chân Lạp vô cùng yêu quý phong làm hoàng hậu, gọi là hoàng hậu Ang Cuv, tước hiệu Somdach Prea Peaccac Vodey Prea Voreac Khsattey. Vua Chey Chettha II cho phép nhiều người Đàng Trong đến sinh sống trên lãnh thổ Chân Lạp. Một số buôn bán hay làm thợ thủ công ở vùng kinh đô, có người còn được giữ chức vụ quan trọng trong triều đình. Nhưng đông đảo hơn là những người đến làm ăn ở vùng Đông Nam của Chân Lạp. Nhờ sự bảo trợ của hoàng hậu Ang Cuv, mà số lượng người Việt di dân vào đây tăng lên rất nhiều và tiến sâu hơn đến khai khẩn những vùng đất hoang vu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đây chính là cơ sở giúp cho chúa Nguyễn từng bước hợp pháp hóa quyền kiểm soát của mình trên vùng đất mà người Việt đã dày công khai phá. Vua Chân Lạp còn đồng ý để chúa Sãi lập các trạm thuế thương chính ở vùng Kas Krobei (Bến Nghé, nay là Sài Gòn) và Prei Nokor (Chợ Lớn) để thu thuế. Georges Maspéro trong sách Đế quốc Khmer cho biết: “Nhà vua mới lên ngôi Chey Chettha II liền xây một cung điện ở Udong (Udong). Nơi đây ông long trọng cử hành lễ cưới một công chúa con vua An Nam. Bà này rất đẹp. Chẳng bao lâu bà có ảnh hưởng mạnh đến nhà vua. Nhờ bà mà một sứ đoàn An Nam đã xin được Chey Chettha cho phép lập thương điếm trong miền Nam Cao Miên, ở chính nơi ngày nay gọi là Sài Gòn”. Dinh Chiêm là nơi điều hành mọi hoạt động của Tuần ty và quan Thủ ngự cai trị vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Hội An có nhiều kinh nghiệm mậu dịch, hàng năm đến gió mùa thì gởi các đoàn thuyền chở đặc sản địa phương và hàng ngoại vào buôn bán. 

Vào ngày chợ phiên, trên các sông nước miền Nam xuất hiện nhiều ghe thuyền chở hàng hóa từ các vùng xa xôi về cùng với đoàn ghe bầu Quảng Nam mang đến những thức ngon vật lạ với giá thật rẻ. Chúa Sãi cũng đã cung cấp cho Chey Chettha II thuyền chiến và quân đội để chống cự với quân Xiêm. Cuối năm 1621 đầu năm 1622, vua Xiêm xua hai đạo quân sang đánh Chân Lạp. Nhờ có vũ khí và binh sĩ của chúa Sãi chi viện, Chey Chettha II đã tiêu diệt một đạo quân Xiêm ở Bâribaur, còn hoàng đệ Utey đẩy lui đạo quân thứ hai của Xiêm ở Bantey Meas. 

Năm sau, quân Xiêm tấn công Chân Lạp một lần nữa nhưng cũng bị tổn thất nặng nề và phải tháo chạy về nước. 

Nhờ có sự giúp đỡ về quân sự của Đàng Trong, Chân Lạp hai lần chiến thắng quân Xiêm, bảo vệ được nền độc lập của dân tộc. 

Dưới sự che chở của hoàng hậu Ang Cuv, người Đàng Trong đến khai phá vùng đất hoang của Chân Lạp ngày càng đông. Vào cuối thế kỷ XVII, có hơn 4 vạn hộ di dân người Việt sống trên địa bàn rộng lớn ở vùng Đông Nam Chân Lạp. Họ cần cù lao động để biến vùng đất hoang vu này thành trù phú, lập nên làng xóm, xây dựng phố chợ để trao đổi hàng hóa, chuẩn bị điều kiện cho cuộc sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt sau này. 

Năm Kỷ Tỵ (1629), Văn Phong lưu thủ Phú Yên đã lâu nên thân cận với người Chiêm, bèn dùng quân Chiêm Thành để làm phản, chúa sai phó tướng Nguyễn Phúc Vinh (con trưởng Mạc Cảnh Huống, chồng của công chúa Ngọc Liên) đi đánh, dẹp yên và lập dinh Trấn Biên. (Khi mới mở mang, những nơi đầu địa giới đều gọi là Trấn Biên). [Đại Nam thực lục, Tập 1, (Hà Nội: Giáo dục, 2002), 44]. 

Năm Quý Tỵ (1653), vua nước Chiêm Thành là Bà Tấm xâm lấn Phú Yên, chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần sai Cai cơ Hùng Lộc (không rõ họ) làm Thống binh, Xá sai Minh Vũ (không rõ họ) làm Tham mưu đem 3.000 quân đi đánh. Quân ta vượt đèo Hổ Dương, núi Thạch Bi đánh thẳng vào thành, nhân lúc ban đêm phóng lửa đánh gấp phá được thành. Bà Tấm trốn chạy, ta lấy đất đến sông Phan Rang. Bà Tấm sai con là Xác Bà Ân dâng thư xin hàng, chúa đồng ý cho lấy sông Phan Rang làm giới hạn, từ phía đông của sông đến địa đầu Phú Yên chia làm hai phủ là Thái Khang (nay là Ninh Hòa) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh). Phủ Thái Khang có 2 huyện: Quảng Phúc và Tân An, phủ Diên Ninh có 3 huyện: Phúc Điền, Vĩnh Xương và Hoa Châu, lập dinh Thái Khang (nay là Khánh Hòa) giao cho Hùng Lộc trấn giữ. Phía Tây sông Phan Rang vẫn thuộc về Chiêm Thành và phải giữ lệ triều cống như trước. [Đại Nam thực lục, Tập 1, (Hà Nội: Giáo dục, 2002), 62]. 

Tháng 8 năm Nhâm Thân (1692), vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh làm phản, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Cai cơ Nguyễn Hữu Cảnh/Kính (con Nguyễn Hữu Dật) làm Thống binh, văn chức Nguyễn Đình Quang làm Tham mưu suất lãnh quân Chính dinh, cùng quân Quảng Nam và Bình Khang đi đánh. 

Năm Quý Dậu (1693) Nguyễn Hữu Cảnh đánh bại Chiêm Thành, Bà Tranh bỏ chạy rồi bị bắt, chúa sai đổi nước ấy làm trấn Thuận Thành, sau đó đổi trấn Thuận Thành làm phủ Bình Thuận, toàn bộ phần đất còn lại của Chiêm Thành đã thuộc về chúa Nguyễn. [Đại Nam thực lục, Tập 1, (Hà Nội: Giáo dục, 2002), 106, 107]. Chiêm Thành hoàn toàn bị tiêu diệt, lãnh thổ của Đàng Trong đã tiến sát vào biên giới Chân Lạp. Năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu cử thống suất Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược đất Chân Lạp, lập phủ Gia Định trên phần đất đã được những người di dân Việt Nam khai phá, bao gồm huyện Phước Long (có dinh Trấn Biên) và huyện Tân Bình (có dinh Phiên Trấn). Vùng đất Chân Lạp tương ứng với miền Đông Nam Bộ ngày nay đã được sáp nhập vào Đàng Trong. 

Đại Nam thực lục tiền biên ghi: “Bắt đầu đặt phủ Gia Định. Sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh/Kính kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long (nay thăng làm phủ), dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình (nay thăng làm phủ), dựng dinh Phiên trấn (tức Gia Định ngày nay), mỗi dinh đều đặt các chức Lưu thủ, Cai bạ, Ký lục và các cơ đội thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất nước nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ những dân xiêu dạt từ Bố Chính trở về Nam cho đến ở cho đông. Thiết lập xã thôn phường ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệnh thuế tô dung, làm sổ đinh điền”. [Đại Nam thực lục, Tập 1, (Hà Nội: Giáo dục, 2002), 111]. Như vậy, đến năm 1698, toàn bộ đất đai từ Thuận Hóa đến Sài Gòn đã thuộc về chúa Nguyễn. 

Tháng 8 năm Mậu Tý (1708), Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn, chúa cho ông làm chức Tổng binh tiếp tục cai quản vùng này, phủ Gia Định được mở thêm đất về phía cực Tây Nam.

Tháng 10 năm Giáp Ngọ (1714), Nặc Thâm nước Chân Lạp cùng bầy tôi là Cao La Hâm dấy binh vây Nặc Yêm, Nặc Yêm phải cầu viện với hai dinh Phiên Trấn, Trấn Biên, chúa Nguyễn Phúc Chu giao cho Đô đốc Phiên Trấn là Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trấn Biên là Nguyễn Cửu Phú định đoạt. Chúa sai Cai cơ Tả bộ dinh Bình Khang là Nguyễn Cửu Triêm lãnh 26 thuyền quân thủy bộ của dinh Bình Khang để ứng tiếp, lấy 4 thuyền cơ Tả thủy dinh Quảng Nam để tiếp giữ dinh Bình Khang. [Đại Nam thực lục, Tập 1, (Hà Nội: Giáo dục, 2002), 131]. Năm Bính Tý (1756), trong nước có loạn, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên lánh sang Hà Tiên. Thông qua Mạc Thiên Tứ, Nặc Nguyên xin dâng cho chúa Nguyễn đất 2 phủ Tầm Bôn và Soài Rạp (nay là vùng đất Long An và Gò Công) để trả ơn. 

Năm 1757, Nặc Nguyên nước Chân Lạp chết, người chú họ là Nặc Nhuận tạm coi việc nước, Nặc Nhuận phải hiến cho chúa Nguyễn Phúc Khoát hai phủ Trà Vinh, Ba Thắc (nay là vùng Trà Vinh, Sóc Trăng) để được chúa công nhận lên ngôi. Rồi Nặc Nhuận bị con rể là Nặc Hinh giết để cướp ngôi, con của Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên. Thống suất Trương Phúc Du thừa thế tiến đánh, Nặc Hinh chạy đến Tầm Phong Xuy, bị quan phiên Ốc Nha Uông giết chết, chúa sắc phong cho Nặc Tôn, con của Nặc Nhuận làm vua nước Chân Lạp, sai Mạc Thiên Tứ cùng với tướng sĩ năm dinh hộ tống về nước, Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long (nay là vùng Vĩnh Long, An Giang) cho chúa. 

Cai cơ Nguyễn Cư Trinh theo lệnh chúa tiếp nhận đất này và đặt đạo Đông Khẩu ở xứ Sa Đéc, đạo Tân Châu ở Tiền Giang, đạo Châu Đốc ở Hậu Giang, lấy quân dinh Long Hồ để trấn áp. Nặc Tôn lại cắt 5 phủ Hương Úc, Cần Vọt, Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh để tạ ơn Mạc Thiên Tứ, Thiên Tứ hiến cho triều đình, chúa cho lệ 5 phủ ấy vào quản hạt Hà Tiên. Thiên Tứ lại xin đặt Giá Khê (Rạch Giá) làm đạo Kiên Giang, Cà Mau làm đạo Long Xuyên, đều đặt quan lại, chiêu mộ dân đến ở, lập thôn ấp, làm cho địa giới Hà Tiên ngày càng thêm rộng. [Đại Nam thực lục, Tập 1, (Hà Nội: Giáo dục, 2002), 166, 167]. Như vậy, phần đất cuối cùng của Thủy Chân Lạp thuộc về xứ Đàng Trong. 

Chưa đầy 150 năm, từ khi chúa Tiên Nguyễn Hoàng lập phủ Phú Yên năm Tân Hợi (1611) cho đến khi chúa Nguyễn Phúc Khoát chiếm trọn Thủy Chân Lạp vào năm Đinh Sửu (1757), các chúa Nguyễn đã hoàn tất kế hoạch mở rộng bờ cõi dài hơn nửa nước Đại Việt, khai chiếm toàn bộ vùng đất Nam Bộ gồm cả đất liền và các hải đảo thuộc biển Đông và biển Tây. 

Thủy Chân Lạp là một vùng đất trũng, sình lầy, kênh rạch chằng chịt, biển bao bọc xung quanh. Nơi đây cây cối rậm rạp, cửa sông rộng lớn, những cây cổ thụ tàng lá xum xuê và những cây mây dài rợp bóng mát chính là chỗ tốt cho thú vật và chim chóc trú chân. Những cánh đồng hoang mênh mông, không một gốc cây, hàng ngàn trâu rừng tụ họp từng bầy trên đồng cỏ, cá sấu lúc nhúc lội dưới sông. “Muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lội như bánh canh”. 

Cho đến thế kỷ XVII, vùng đất Nam Bộ vẫn còn rất hoang vu. “Từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, Cửa Tiểu, Cửa Đại trở lên, hoàn toàn là rừng rậm hàng ngàn dặm”. [Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, (Hà Nội: Khoa học Xã hội, 1997), 345]. 

Để khai phá vùng đất hoang dã, độc địa này, các chúa Nguyễn đã áp dụng một chính sách rất thông thoáng. Chúa cho người đứng ra tổ chức những cuộc di cư và lập thành các xã, thôn, phường, ấp của người Việt. Chúa khuyến khích “bọn người Thuận Quảng có vật lực”, tức là những điền chủ có tiền bạc, có vật dụng khai khẩn, có vốn để thuê mướn, kể cả mua nô tì và có của ăn của để trong những năm đầu chưa thu được hoa lợi từ vùng đất mới. Chẳng những có vốn mà họ còn phải có phương tiện di chuyển (ghe, xuồng) để đi lại vận chuyển sản phẩm ở một nơi nhiều sông rạch như vùng đất Nam Bộ. Họ được tự do chiêu mộ dân đi khai khẩn, được hưởng những ưu đãi đặc biệt như: hầu hết ruộng đất khai phá được đều trở thành ruộng đất tư của họ, được mua nhân công, lập ra thôn ấp thì được giữ chức sắc cao nhất của thôn ấp đó, và được ưu đãi về thuế. Trong sách Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn cho biết: “Phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, Cửa Đại, Cửa Tiểu toàn là rừng rậm hàng mấy nghìn dặm. Họ Nguyễn chiêu mộ những người dân có vật lực ở xứ Quảng Nam, các phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn cho dời tới ở đây, phát chặt mở mang hết thảy thành bằng phẳng, đất nước màu mỡ, cho dân tự chiếm trồng cau và làm nhà cửa… Người giàu ở các địa phương hoặc 40, 50 nhà, hoặc 20, 30 nhà, mỗi nhà điền nô hoặc đến 50, 60 người, trâu bò hoặc đến 300, 400 con, cày bừa, cấy gặt, rộn ràng không rỗi”. [Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, (Hà Nội: Khoa học xã hội, 1997), 345]. 

Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí cũng đã ghi lại như sau: “Dân ở vùng này đều có thể tự do đi khai khẩn đất ruộng ở các vùng khác, ai muốn đến ở đâu, khai khẩn ruộng gò, ruộng thấp ở nơi nào tùy ý. Lựa chọn đất đai rồi chỉ cần khai báo với nhà cầm quyền là mình trở thành nghiệp chủ khoảnh đất ấy, chính quyền cũng không đo đạc xem diện tích bao nhiêu, không cần biết đất ấy tốt xấu thế nào. Người nghiệp chủ tùy theo điền sản mình chiếm rộng hẹp mà tự nguyện nộp thuế nhiều hay ít và nộp thuế bằng thóc dùng hộc già hay hộc non đong cũng được”. [Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Bản dịch của Viện Sử học, (Hà Nội: Giáo dục, 1998), 80].

Lực lượng tiên phong khai phá đất phương Nam chủ yếu là các điền chủ và đông đảo lưu dân Quảng Nam. Họ là những người không nản lòng, thối chí trước mọi thử thách khắc nghiệt của vùng đất mới. Bùn lầy nước đọng, rắn rết, hùm beo, cá sấu, muỗi mòng không ngăn được bước chân của những lưu dân vì họ là những kẻ không sống được hoặc không được sống trên quê cha đất tổ. Họ phải tha hương, đến đây, họ không có con đường nào khác để chọn lựa, ngoài việc phải cố bám lại đấu tranh để sống.  

Như vậy, trong cuộc hành trình Nam tiến đầy cam go của các chúa Nguyễn, Dinh Chiêm đã giữ một vai trò quan trọng. Từ những đội quân tinh nhuệ trên chiến trường cho đến những địa chủ giàu kinh nghiệm, những lưu dân cần cù, gan dạ của Dinh Chiêm, họ chính là lực lượng nòng cốt, đã giúp các chúa khai mở và xây dựng thành công vùng đất phương Nam rộng lớn, phì nhiêu, màu mỡ vào bậc nhất của tổ quốc. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 

1. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002). Đại Nam thực lục. Hà Nội: Giáo dục. 

2. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí. 

3. Phan Khoang (1972). Việt sử xứ Đàng Trong. Sài Gòn: Khai Trí 

4. Lê Quý Đôn (1997). Phủ biên tạp lục. Hà Nội: Khoa học Xã hội. 

5. Trịnh Hoài Đức (1998). Gia Định thành thông chí, Bản dịch của Viện Sử học. Hà Nội: Giáo dục. 

6. Huỳnh Văn Lang. Công chúa sứ giả. 

7. TS. Trần Thuận. Công nữ Ngọc Vạn với Quốc vương Chân Lạp. 

8. Châu Yến Loan (2015). Dinh trấn Thanh Chiêm - Kinh đô thứ hai xứ Đàng Trong. Đà Nẵng: Đà Nẵng.
DINH TRẤN THANH CHIÊM VỚI CÔNG CUỘC 
MỞ CÕI VÀ MỞ CỬA CỦA CÁC CHÚA NGUYỄN?
Huỳnh Văn Mỹ
Đến Quảng Nam, kề sát bờ bắc cầu Câu Lâu - cây cầu dài gần ngàn mét bắc qua sông Thu Bồn trên Quốc lộ 1A - du khách sẽ ấn tượng ngay với một thị tứ nổi tiếng với các nhà hàng bê thui đặc sản lúc nào cũng nườm nượp khách. Đây chính là mặt tiền của làng Thanh Chiêm - thủ phủ của dinh Quảng Nam, nơi hơn hai trăm năm trước ngay sát cổng thành là đoạn sông rợp bóng thuyền của đoàn thủy quân hùng hậu của chúa Nguyễn cùng các thương thuyền của nước ngoài. Hơn 400 năm trôi qua với gần 200 năm tồn tại, tiếng tăm về đô lỵ Thanh Chiêm của một Quảng Nam dinh từng được người nước ngoài gọi là “Quảng Nam quốc” vẫn đọng lại nơi ký ức cư dân. Không chỉ là cánh cổng mở đất nước rộng về Nam cả từ đất liền đến biển đảo, dinh trấn Thanh Chiêm còn là cửa ngỏ mở ra sự giao thương, hội nhập với bên ngoài cho một công cuộc kinh dinh, khai phóng kịp thời của dân tộc từ một tư duy chiến lược của cha ông... 
Dinh trấn cho sách lược mở 
Nơi đặt đô lỵ - lớn là của một quốc gia, nhỏ là của một tỉnh, huyện luôn đóng vai trò trọng yếu với sự thịnh/suy, tiến/thoái của đất nước hay của vùng đất đó ở nhiều phương diện. Bởi vậy, từ xa xưa, việc chọn đất để “đóng đô” luôn được các vua chúa, các thủ lĩnh điều nghiên cẩn trọng, bên cạnh thuật phong thủy có khi các yếu tố ngoại cảm cũng được vận dụng vào. 
Nói đến công cuộc mở cõi về phương Nam, về sự ra đời của vương triều Nguyễn, có lẽ không thể không nhắc tới lời chỉ báo kín nhiệm mà chúa Nguyễn Hoàng (1525 - 1613) nhận được từ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân sau khi người anh ruột của ông là Nguyễn Uông bị người anh rể Trịnh Kiểm ám hại. Việc Nguyễn Hoàng được Trịnh Kiểm “chuẩn thuận” để vua Lê cho phép “vượt Hoành Sơn” vào trấn thủ đất Thuận Hóa năm Mậu Ngọ - 1558 là một mốc lịch sử quan trọng, từ đó mở ra một vận hội lớn cho dân tộc trong việc mở mang bờ cõi về Nam, tiếp cận, giao lưu với nền văn minh mới phương Tây. Có thể nói biến chuyển đầu tiên tạo thế và lực cho Nguyễn Hoàng là việc ông được kiêm quản đất Quảng Nam vào năm 1570 với vai trò tổng trấn đất Thuận Quảng (Thuận Hóa - Quảng Nam), bởi trước đó Quảng Nam là một trấn riêng, vẫn do các trấn thủ là người thân tín với Trịnh Kiểm nắm giữ. Từ dinh trại ở Ái Tử (Triệu Phong, Quảng Trị) Nguyễn Hoàng cai quản cả một cương vực kéo dài từ Quảng Bình đến Bình Định ở miền xuôi, và cả đến Gia Lai, Kon Tum ở mạn ngược - một lợi thế lớn cả về kinh tế lẫn quân sự cần được phát huy để có thực lực khi phải đối địch với Trịnh Kiểm ở phía Bắc - điều khả dĩ sẽ xảy đến vốn đã được ông tiên liệu. Và Nguyễn Hoàng đã phát huy được những thế mạnh này - nhất là về kinh tế - trong một thời gian không dài. “Vượt Hoành Sơn” vào vùng đất mới, chỉ trong 40 năm, Nguyễn Hoàng đã tạo được một vùng kinh tế khá giả nhờ biết đẩy mạnh việc chiêu dân khẩn hoang lập ấp, tạo cuộc sống no đủ cho dân cư với nền chính sự khoan dung, độ lượng. Ngoài đóng góp vượt mức vào quốc khố của vua Lê, Nguyễn Hoàng còn mang quân ra Bắc giúp nhà vua dẹp trừ dư đảng của nhà Mạc, những việc làm vừa để thể hiện được vai trò một tôi trung, tướng giỏi, vừa để nuôi dưỡng tiềm lực cần thiết cho tham vọng của mình nơi vùng đất mới. Và mãi đến năm 1600 Nguyễn Hoàng mới tách hẳn khỏi sự thống thuộc triều Lê vốn do chúa Trịnh nắm thực quyền và khuynh loát mọi việc để mở đầu cho việc xây đắp giang sơn phía Nam của mình. 
Phải nhìn lại như vậy, để thấy sự ra đời của dinh trấn Thanh Chiêm sau hơn 40 năm Nguyễn Hoàng “vào Nam” và sau 38 năm trấn Quảng Nam được thống thuộc vào sự quản lĩnh của Tổng trấn Thuận Quảng - Nguyễn Hoàng là “kịp thời” chứ không là chậm trễ. Và, chuyến thị sát kéo dài từ đèo Hải Vân đến đất Điện Bàn của Quảng Nam để ra quyết định thành lập dinh lỵ Thanh Chiêm cho Quảng Nam dinh của Nguyễn Hoàng vào năm 1602 được xem là một mốc lịch sử quan trọng kế tiếp, mở ra sự phát triển đa diện của “vương quốc Đàng Trong” - một danh xưng vốn được người nước ngoài lúc bấy giờ quen dùng. Đây là sự chín muồi sau những thao thức vực dậy đúng mức tiềm lực vùng đất này của Nguyễn Hoàng, bởi ông đã nhận ra sự đắc địa của một Thanh Chiêm hậu cứ cho chính dinh ở phía Bắc nhưng lại là tiền trạm cho cuộc mở cõi chỉ có thể nghĩ đến ở phía Nam. Thanh Chiêm nằm kề ngay bên đoạn đường thiên lý Bắc - Nam, đi ngang qua vùng đất mới vốn được nhà Hồ xây đắp khi Hồ Hán Thương đưa di dân từ miền Bắc đến vùng này khởi từ năm 1402. Nó lại cũng nằm sát bên đoạn cuối của đại giang Thu Bồn, nơi chỉ cách hải khẩu Đại Chiêm (Cửa Đại) dưới mươi cây số về hướng Đông. Nối dinh trấn với hải lộ, điểm tối ưu về lợi thế quân sự của Thanh Chiêm được tỏ rõ bởi thủy quân được coi là thế mạnh của chúa Nguyễn Hoàng. 
Chọn Thanh Chiêm làm đô lỵ cho Quảng Nam dinh, Nguyễn Hoàng đã hiện thực hóa được sách lược kinh tế xuất phát từ một tầm nhìn đầy viễn kiến của mình. Trước khi dinh trấn Thanh Chiêm được thành lập, các hoạt động giao thương giữa cư dân với thương nhân nước ngoài đến từ các tàu viễn dương đã diễn ra lác đác ở các cửa khẩu chính trong vùng. Để đẩy mạnh, làm phát đạt loại hình giao thương mới mẻ nhưng hứa hẹn sẽ làm lợi cho vùng đất mở này cần phải có một bến càng chính cho các thương thuyền nước ngoài cập bến giao thương - một cảng thị; phải có một cơ chế quyền lực quản lý các hoạt động giao thương theo những khuôn khổ quy định, trong đó có quy chế thuế quan, quy chế bảo hộ, giám sát các hoạt động giao thương... Dinh trấn Quảng Nam, với dinh lỵ Thanh Chiêm với cảng thị Hội An - nơi chỉ cách Thanh Chiêm chừng 7 - 8 cây số đường thủy cũng như đường bộ - được thành lập chính là để đáp ứng cho chiến lược mở mang, phát triển vùng đất rộng lớn này. Quảng Nam dinh có vai trò, sứ mệnh trọng yếu như vậy nên ngay sau khi thành lập - 1602, chúa Nguyễn Hoàng đã chọn người con thứ 6 - người con lớn nhất - là Nguyễn Phúc Nguyên (1563 - 1635) theo mình “vượt Hoành Sơn” làm trấn thủ. Quản nhiệm một vùng đất lớn với trọng trách bao trùm cả về quân sự lẫn nội trị, nhất là về hoạt động kinh tế đối ngoại, dinh trấn Thanh Chiêm/Quảng Nam là môi trường đào luyện, thử thách năng lực của người đứng đầu dinh trấn để qua đó sẽ nối nghiệp chúa sau này. Cách đào tạo người nối nghiệp này của chúa Nguyễn Hoàng đã được các vị chúa về sau noi theo triệt để, nhờ vậy, tạo được sự ổn cố cho nghiệp chúa, bảo đảm cho sự phát triển không ngừng của vùng đất Đàng Trong. 
Viếng cảnh phố cổ Hội An - di sản văn hóa thế giới hôm nay, nghĩ về xuất phát điểm, về sự dẫn khởi của di sản này thật cảm kích về tư duy chiến lược của chúa Nguyễn Hoàng. Cái tầm nhìn chiến lược đó của ông có thể nói gọn bằng một từ mở. Khái niệm mở với một nhà lãnh đạo bao hàm nhiều yếu tố trên nhiều lĩnh vực, nhưng có thể nói gọn ấy là khi nhà lãnh đạo có những đường lối mới, thoáng rộng, cấp tiến, dám phá bỏ, vượt qua những gì được coi là khuôn mẫu nhưng không còn phù hợp cho nhu cầu phát triển, tiến bộ của xã hội. Trên tất cả, cái mở ấn tượng nhất của chúa Nguyễn Hoàng là đã thiết lập nền giao thương hay đúng hơn là một chính sách kinh tế đối ngoại đầy mới mẻ cho nước ta mà nổi bật là việc mở ra cảng thị Hội An. Sẽ khó nhận ra hết tầm nhìn thời đại của chúa Nguyễn Hoàng, nếu thiếu những dữ liệu được ghi nhận về thực trạng ngoại thương của nước ta cũng như các nước trong vùng trong các giai đoạn liên quan từ các nguồn bên ngoài. 
Từ những thư tịch sưu tầm được ở nhiều nước quan hệ, TS. Li Tana cho biết Nguyễn Hoàng coi ngoại thương là thế mạnh kinh tế quốc gia, mà với ông là vùng đất dưới quyền mình quản lĩnh. Bởi vậy, cho việc giao thương với nước ngoài vì mục tiêu hưng quốc lợi dân, từ 1601 đến 1606, hàng năm chúa Nguyễn Hoàng và Mạc phủ Tokugawa (chính quyền quân sự của nước Nhật) đều có trao đổi thư từ với nhau, trong đó chúa luôn tỏ ra là “người bạn hàng” hăm hở hơn và luôn đóng vai chủ động. Trong khi đó, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài không có quan hệ chính thức với chính quyền Nhật Bản cho đến lần tiếp xúc vào năm 1624, nhưng lần này cũng chỉ với một cách miễn cưỡng! 
“Nhà nước Đại Việt thường tỏ ra không mấy có thiện cảm đối với việc buôn bán nói chung và đối với ngoại thương nói riêng. Chư phiên chí, cuốn sách của một du khách người Trung Hoa xuất bản vào thế kỷ XIII đã tóm tắt thái độ đặc biệt này của nước Đại Việt đối với việc buôn bán trong một câu ngắn gọn: Xứ này không buôn bán (với người nước ngoài). Và mãi đến giữa thế kỷ XV, Việt Nam và vùng Luzon (Philippines) vẫn chưa giao thương với nước ngoài, trong khi Xiêm (Thái Lan) và Malacca đã có nền ngoại thương khá mạnh...”. Vậy mà... “Số thương thuyền tới buôn bán với Đàng Trong vào đầu thế kỷ XVII đã vượt xa số thương thuyền tới buôn bán với Xiêm, Cao Miên. Vương quốc của chúa Nguyễn được đặt ở đầu danh sách các nước ở lục địa Đông Nam châu Á có thương mại với Nhật Bản...”. Những so sánh trên đây của nhà sử học Li Tana đã cho thấy sự trỗi dậy đáng kinh ngạc của nền ngoại thương Đàng Trong, được chúa Nguyễn Hoàng khai mở khi dinh trấn Thanh Chiêm và cảng thị Hội An ra đời. 
Một điểm nhấn quan trọng và đầy ấn tượng trong sách lược kinh tế đối ngoại mở của chúa Nguyễn Hoàng và các chúa tiếp theo ấy là việc các chúa cho phép thương nhân người Nhật Bản, người Trung Hoa được mua đất để làm nhà, làm cơ sở kinh doanh, xây chùa chiền, hội quán để định cư lâu dài tại cảng thị Hội An. Từ cơ chế thông thoáng đó, một số thương nhân hai nước này đã lập nên hai phố buôn riêng biệt cho mình: phố người Hoa, phố người Nhật. Không muốn lập phố buôn, các thương nhân phương Tây chỉ lập thương điếm, cũng rất thuận lợi cho việc buôn bán của họ tại cảng thị Hội An. Quả là từ chúa Nguyễn Hoàng, từ Thanh Chiêm - Hội An bầu khí thời đại thương nghiệp đã tỏa lan đến mọi miền trong vùng, chia sẻ được cho cư dân phần nào những thành tựu của trào lưu thương nghiệp mang tính thế giới này. Hơn 200 năm trôi qua, nhưng những hình ảnh, tư liệu về Thanh Chiêm được lưu lại từ người nước ngoài vẫn có thể cho người hôm nay có được một cái nhìn khá cận cảnh về vai trò, uy thế của dinh trấn này đối với hoạt động ngoại thương ở cảng thị Hội An và cả khu vực Đàng Trong. Về hình ảnh, đơn cử là bức tranh Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ (vượt biển đến buôn bán với người Giao Chỉ), do Nhật kiều Chaya Shinroku ở Hội An thời đó vẽ, được lưu giữ ở chùa Jomyo-ji tại Nagoya, được các nhà khảo cổ Nhật Bản tặng cho huyện Điện Bàn (tỉnh Quảng Nam) hồi năm 2000. Một phần của bức tranh là tòa hành dinh Thanh Chiêm với vẻ uy nghi, những thương nhân nước ngoài vào đây liên hệ công việc tỏ dáng điệu hết sức cung kính, nghiêm cẩn. 
Về biên khảo, một tác giả người Hoa hồi thế kỷ XVII đã mô tả quyền lực của vị trấn thủ Quảng Nam tại dinh lỵ Thanh Chiêm trong tác phẩm Đông Tây dương khảo của mình khá cụ thể: “Viên trấn thủ Quảng Nam đứng đầu hết tất cả các tiểu địa hạt trong vùng, còn mạnh hơn cả Đàng Ngoài. Tân Châu (Quy Nhơn) và Đề Gi (hải cảng Đề Gi) tất cả đều triều cống cho Quảng Nam. Tàu đến Xinchou và Ti-yi để buôn bán phải bỏ ra nhiều ngày để đến Quảng Nam nộp thuế ở đó. Trấn thủ Quảng Nam cũng ban thẻ gỗ cho các thương gia. Trước tấm thẻ gỗ này người ta phải luôn luôn cúi chào rồi mới được đi. Danh tiếng Quảng Nam quả gây ấn tượng thực sự...”. Kể ra, cũng không gì quá đáng bởi chính uy lực bao trùm của vị “vua trẻ” của “Quảng Nam quốc” tại dinh lỵ Thanh Chiêm đã bảo hộ cho toàn bộ hoạt động giao thương của các thương nhân nước ngoài trong cõi Đàng Trong. 
Nơi mở màn chữ Quốc ngữ 
Cánh cửa hội nhập thời đại thương nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng không chỉ góp phần đưa nền kinh tế Đàng Trong thăng tiến, tạo nguồn lực cần có cho việc mở rộng cõi bờ về phương Nam, mà còn đón nhận những giá trị văn hóa mới từ phương Tây, làm giàu thêm cho nền văn hóa truyền thống dân tộc. Chữ Quốc ngữ - tức chữ Việt - kịp thời xuất hiện trên bản đồ chữ viết thế giới là sản nghiệp to lớn từ cuộc mở cửa giống như một cuộc đại khai phóng từ hơn 400 năm trước của ông cha. 
Như đã biết, chữ Quốc ngữ được tạo lập từ mẫu tự Latinh do các giáo sĩ Dòng Tên đến nước ta truyền đạo Công giáo hồi đầu thế kỷ XVII “chế tác” ra với sự trợ lực của một số người Việt bản địa. Các giáo sĩ Dòng Tên đến Hội An lập cư sở truyền đạo hồi năm 1615, rồi sau mới đó đến lập thêm cư sở ở dinh trấn Thanh Chiêm. Để sứ vụ truyền giáo của mình được thuận lợi lâu dài, các giáo sĩ phải học tiếng Việt, phải tìm cách để ghi lại tiếng Việt bằng mẫu tự Latinh vốn có của mình. Với việc làm này, họ đã có được kinh nghiệm tự thân hay học hỏi từ các giáo sĩ đồng môn qua việc truyền giáo ở Nhật Bản trước đó từ việc chế tác nên chữ Nhật Latinh hóa - tức chữ Nhật mới romaji. 
Chuyến tàu buôn chở ba tu sĩ Dòng Tên, gồm: hai giáo sĩ Francesco Buzomi (người Ý), Diego Carvalho (người Bồ Đào Nha) cùng tu huynh Antonio Dias (người Bồ Đào Nha) từ Ma Cao (Áo Môn) cập bến Cửa Hàn (Đà Nẵng) ngày 18.01.1615 được cho là sự mở màn cho việc “gieo trồng” chữ Quốc ngữ ở nước ta. Từ Cửa Hàn, giáo đoàn Buzomi đã đến Hội An để tìm cách lập cư sở, bởi đây là trung tâm thương mãi lớn nhất ở Đàng Trong và cũng cả ở Đông Nam Á - như nhà sử học Li Tana nhận định, có hai khu phố buôn của người Hoa, người Nhật cùng các thương điếm của các thương nhân người Bồ Đào Nha. Riêng Nhật kiều ở đây, hầu hết là tín đồ Công giáo, họ cần các vị giáo sĩ vốn biết ít nhiều tiếng Nhật này giúp đỡ cho sinh hoạt tôn giáo của mình, đối lại, họ sẽ giúp làm thông ngôn tiếng Việt cho các giáo sĩ giao tiếp với cư dân. 
Nhưng việc truyền đạo ở cư sở Hội An vẫn còn khó khăn bởi trình độ tiếng Việt của các Nhật kiều thông ngôn này vẫn còn khá hạn chế. Đã vậy, một bất trắc lại ập đến với giáo đoàn vào năm 1617: cho rằng các giáo sĩ này mang đến một tôn giáo “sai trái đạo lý” khiến trời làm hạn hán, một số sư sãi và cư dân đã yêu cầu chính quyền trục xuất họ ra khỏi địa phương. Dù không tin là vậy, nhưng để yên lòng dân, thế tử Nguyễn Phúc Kỳ - trấn thủ Quảng Nam, đành buộc các giáo sĩ tạm lùi về Ma Cao một thời gian. Nhưng trong rủi có may, giữa lúc giáo đoàn Buzomi đang trú sóng gió ở một bãi hoang ở biển Đà Nẵng, một vài người lại đang gặp bệnh, họ lại được tri phủ Hoài Nhơn là Cống quận công Trần Đức Hòa - em kết nghĩa của chúa Nguyễn Hoàng - giang tay đón nhận giáo đoàn này. Ông đưa giáo đoàn vào địa hạt của mình, cho họ lập cư sở tại cảng Nước Mặn - 1618 (nay thuộc xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định) và dành cho nhiều giúp đỡ lớn lao. 
Thêm một cơ duyên cho sự hình thành chữ Quốc ngữ: năm 1617 cũng là thời điểm Francisco de Pina (1585 - 1625) - vị giáo sĩ người Bồ Đào Nha giỏi về ngôn ngữ học từ Ma Cao đến Hội An. Thật may mắn, sau những ngày phải lẩn trốn ở khu phố Nhật, khi vào cư sở Nước Mặn, Pina được thỏa lòng giao tiếp, học hỏi ngôn ngữ Việt từ những Nho sĩ, những sư sãi cải đạo, những người trẻ tinh tấn mới tòng đạo. Nhờ vậy, khi việc trục xuất các giáo sĩ của nhà cầm quyền Thanh Chiêm đã nguôi ngoai, khi trở lại cư sở Hội An rồi đến Thanh Chiêm lập cư sở kề bên tòa hành dinh của dinh trấn vào năm 1623, giáo sĩ Pina đã gần như tạo được một “giáo trình” nói - viết tiếng Việt ở giai đoạn phôi thai. Từ vốn liếng ban đầu đó, tiếp tục học hỏi tiếng Việt tại cư sở mới do mình lập nên với khá nhiều thuận lợi có được, chẳng bao lâu Pina đã có thể giảng đạo bằng tiếng Việt mà không cần thông ngôn, trở nên là vị giáo sĩ Dòng Tên đầu tiên làm được điều này. 
Những cơ duyên tạo điều kiện ắt cần và đủ cho việc Latinh hóa tiếng Việt - tức tạo lập chữ Quốc ngữ, dường như luôn đến đúng lúc, kịp thời. Đó là sự có mặt tiếp theo của giáo sĩ Alexandre de Rhodes (1591 - 1660, được quen gọi là Alexandre de Rhores). Biên niên về lịch sử hình thành chữ Quốc ngữ, bên cạnh tên tuổi của Pina, có lẽ là giáo sĩ Alexandre de Rhodes, người đến Hội An - Thanh Chiêm vào năm 1624. Có thể nói cuộc gặp gỡ giữa hai vị giáo sĩ Pina - Alexandre de Rhodes tại cư sở Thanh Chiêm là sự may mắn cho cả hai người: Alexandre de Rhodes có được người thầy, còn Pina có được người học trò, cả hai cùng toàn tâm trong việc dạy/học tiếng Việt cho mục tiêu truyền giáo và Latinh hóa Việt ngữ. 
Dường như là một sắp đặt vô hình, một ân khải được chuẩn nhận, “nhà bác học ngôn ngữ” - giáo sĩ Alexandre de Rhodes kịp đến để thọ giáo tiếng Việt từ đồng huynh Pina hầu tiếp tục sự nghiệp Latinh hóa tiếng Việt mà Pina đang theo đuổi dang dở. Pina chết đuối trong một tai nạn đầy thương tâm ở bờ biển Hội An ngày 16.12.1625! Sau hơn một năm học hỏi/nghiên cứu tiếng Việt với Pina và với người Thanh Chiêm, rồi sau đó trải rộng ra với cư dân ở các vùng miền khác ở nước ta, Alexandre de Rhodes đã có được nguồn vốn cần thiết cho sở nguyện của mình và cũng là của thầy Pina: Latinh hóa Việt ngữ. Thật khó ngờ, chỉ 27 năm sau ngày Alexandre de Rhodes đến Thanh Chiêm, và 26 năm sau ngày Pina mất, việc học hỏi/nghiên cứu ngôn ngữ trong sứ vụ đầy gian nan, bất trắc của mình, từ những luống cày, những hạt giống đầu tiên của người thầy đồng huynh của mình, Alexandre de Rhodes đã cho ra hai sản phẩm căn bản trên cánh đồng Quốc ngữ - chữ Việt: Từ điển Việt - Bồ - Latinh (có cả phần ngữ pháp) và sách Phép giảng tám ngày. Có thể nói thời điểm hai sách này được xuất bản tại Rome, Tòa thánh Vatican, năm 1651 là lúc chữ Việt chính thức xuất hiện trên bản đồ chữ viết thế giới. 
Chữ Quốc ngữ được tạo lập - một sản nghiệp văn hóa cực kỳ to lớn mà dân tộc ta có được. Và đâu là đóng góp của người nước ta vào quá trình hình thành sản nghiệp này? Thật đáng nói, và cũng đáng trân trọng, hai trong số một số người được coi “những ông tổ” của chữ Quốc ngữ, Pina và Alexandre de Rhodes đã ghi lại phần nào những đóng góp này. Bằng chứng xác thực cho điều này chỉ mới được tỏ rõ qua công bố của tác giả người Pháp Roland Jacques. Trên mười năm tìm đọc hàng vạn trang bản thảo lưu trữ tại các thư khố ở một số nước liên quan ở châu Âu, đầu thập kỷ 1990, Roland Jacques đã tìm thấy được ở Thư viện Quốc gia Lisbon một bức thư dài 7 trang, một tập bản thảo 22 trang cho cuốn sách dự trù “Nhập môn tiếng Đàng Ngoài” (bằng chữ Latinh và chữ Quốc ngữ) của giáo sĩ Pina. Nguồn tư liệu chuẩn xác này đã cho phép Roland Jacques hoàn thành xuất sắc luận án tiến sĩ Những người Bồ Đào Nha tiên phong trong lĩnh vực Việt ngữ học mà điểm chính là chỉ ra công sức của Pina trong việc mở đầu việc tạo tác chữ Việt bằng mẫu tự Latinh. 
Với lòng công chính của một giáo sĩ, Pina luôn đề cao công sức của người Việt trong lĩnh vực Việt ngữ học mình đang theo đuổi. “Về vấn đề học ngôn ngữ thì luôn luôn ở Kẻ Chàm (tức dinh trấn Thanh Chiêm - HVM) chính là nơi tốt nhất. Ở đây người ta nói hay. Nhiều người trẻ quy tụ về đây. Họ là sinh viên. Gần họ, những người mới bắt đầu học ngôn ngữ có thể được giúp đỡ...”. Đoạn trích trên trong bức thư vừa nói của Pina gởi Khâm mạng Jerónimo Rodríguez Senior ở Ma Cao cũng cho thấy sự năng động của Pina khi ông chọn lập cư sở ở Thanh Chiêm (1623) cho việc truyền giáo và cũng là để thuận lợi cho việc Latinh hóa tiếng Việt dù nơi đây chỉ cách cư sở Hội An chừng bảy cây số. 
Phần mình, Alexandre de Rhodes cũng kể, ngoài học với Pina, thêm một may mắn nữa đến với ông là một thiếu niên Thanh Chiêm 13 tuổi đã giúp ông nhanh học được tiếng Việt. “Thật kỳ diệu - ông kể, chỉ trong ba tuần cậu bé này đã giúp tôi phân biệt được các dấu thanh tiếng Việt và cách phát âm mỗi tiếng. Cũng trong ba tuần này, cậu bé này hiểu được những gì tôi nói, cả Pháp ngữ và Latinh ngữ”. Theo ghi chép của Alexandre de Rhodes, vì yêu quý ông nên thiếu niên này xin lấy tên ông đặt kề tên thánh của mình, Raphael Rhodes. Rồi Raphael Rhodes trở thành thầy giảng, năm 1642 đến Lào truyền đạo, đến năm 1655 lại trở về Đàng Ngoài, nghỉ làm thầy giảng và lập gia đình, lập cơ sở kinh doanh ở Thăng Long và Phố Hiến. Bởi thông lệ của những người Việt tòng đạo và làm thầy giảng, làm tu sĩ (Công giáo) lúc bấy giờ thường dùng tên thánh mà ít khi kèm theo tên họ Việt, nên khó tìm ra tung tích của Raphael Rhodes. Theo lão làng Thanh Chiêm Đinh Trọng Tuyên - một nhân sĩ dày công nghiên cứu về dinh trấn Thanh Chiêm, Raphael Rhodes là người tộc Lê ở làng Thanh Chiêm, từ ngày tòng đạo rồi đi làm thầy giảng là đi luôn mãi không về, gia phả tộc Lê của Raphael Rhodes cũng không còn vì trải qua chiến tranh, loạn lạc. Thật đáng tiếc! 
Chính nhờ sự cộng tác nhiệt tình của người Việt với các giáo sĩ Dòng Tên cho việc Việt ngữ hóa tiếng Việt buổi đầu, nhờ sự hăm hở đón nhận để học tập/sử dụng loại chữ viết mới này của đại chúng, chữ Quốc ngữ đã sớm trở thành chữ viết chính thức, vô cùng tiện dụng cho dân tộc ta. Đây chính là một thành tựu văn hóa lớn và quý giá mà dân tộc ta sớm có được. Bởi, như nhận xét của TS. Roland Jacques, cả Nhật Bản, Trung Quốc và một số nước Nam Á khác, tuy vẫn được các giáo sĩ Dòng Tên Latinh hóa cho ngôn ngữ của họ nhưng cuối cùng tất cả đều không thành công, người dân những nước này vẫn quay lại dùng lối chữ viết tượng hình cố hữu của mình. 
Thủy quân Thanh Chiêm đánh thắng hai đoàn tàu chiến Hà Lan 
Nhìn đoạn sông từ trước nền dinh trấn Thanh Chiêm kéo dài về hướng Đông chừng một cây số dọc theo đường Thanh Chiêm - Hội An nay là bãi bồi um tùm cỏ dại khó hình dung đây từng là thủy lộ dinh trấn Thanh Chiêm - cảng thị Hội An. Và hơn thế nữa, đây cũng là căn cứ thủy quân lớn của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, thuộc sự thống lĩnh của trấn thủ Quảng Nam dinh. Theo nghiên cứu của ông Đinh Trọng Tuyên, căn cứ thủy quân Thanh Chiêm thuộc làng Văn Đông - một ngôi làng nằm kề sát làng Thanh Chiêm, chỉ cách tòa hành dinh Thanh Chiêm chừng năm - sáu trăm mét về hướng Đông. Sau khi dinh trấn Thanh Chiêm không còn, vùng sông là căn cứ thủy quân ngày trước dần biến thành vạn ghe, có tên là Vạn Đông, cư dân vẫn quen gọi chỗ thủy quân đóng ngày trước là căn cứ Vạn Đông. Ngày dinh trấn Thanh Chiêm mới được thành lập (1602), chúa Nguyễn Hoàng đã cho đặt tạm hành dinh tại làng Văn Đông, sau mới xây dựng ở làng Thanh Chiêm. 
Thanh Chiêm được đặt làm căn cứ thủy quân lớn bởi đây là vùng cửa khẩu trọng yếu, lượng thương thuyền nước ngoài thường ra vào cảng thị Hội An và các cảng nhỏ ở vùng lân cận khá nhiều. Các chúa Nguyễn cũng tiên liệu việc phải đối phó với các tàu chiến nước ngoài là điều có thể xảy ra, bởi hải phận Đàng Trong, nhất là từ vùng Đà Nẵng trở vào là vùng quan yếu về phương diện quốc phòng. Đó là chưa kể việc thủy quân Thanh Chiêm, trong chừng mực, còn phải đối ứng với những hoạt động xâm lấn, quấy nhiễu của các thế lực đối địch ở hai phía Nam - Bắc. 
Những dự liệu của các chúa Nguyễn về việc có thể phải chạm trán, đánh nhau trên biển với một thế lực mới đến từ phương Tây trong thời đại thương mại thế giới phát triển là đúng. Và việc các chúa vun đắp cho sức mạnh thủy quân nhằm ứng phó với “mối lo mới” này đã được chứng minh qua hai lần đánh thắng hai đoàn tàu chiến Hà Lan. 
Chiến thắng đầu tiên của thủy quân Đàng Trong ở Thanh Chiêm là đánh bật đoàn tàu chiến Hà Lan 5 chiếc với quân số trên 170 người ở cửa biển Hội An hồi tháng 6.1642. Thuyền trưởng Jacob Van Liesvelt cùng 10 binh sĩ tử trận, cả đoàn chiến thuyền cùng tháo chạy trước sức tấn công dũng mãnh của thủy quân Thanh Chiêm do trấn thủ Quảng Nam - thế tử Nguyễn Phúc Tần (1619 - 1687) chỉ huy. Đây là chiến thắng có ý nghĩa đặc biệt bởi đây là trận thủy chiến đầu tiên của người Việt Nam đối với các thế lực bên ngoài đến từ phương Tây mãi cho đến thế kỷ XIX - như TS. Li Tana nhấn mạnh. 
Chiến thắng này không chỉ biểu hiện sức mạnh quân sự, mà còn nói lên ý chí kiên định của các chúa Nguyễn trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền thương mại vì lợi ích, vì danh dự dân tộc. Mở rộng cửa đón nhận giao thương với các nước Á - Âu với tinh thần cầu thị, hòa nhập vào thời đại thương mại từ trong đêm dài của nền kinh tế nông nghiệp, nhưng chúa Nguyễn Phúc Lan (1601 - 1648) và thế tử Nguyễn Phúc Tần vẫn không chấp nhận việc coi thường luật pháp bản địa của các thương nhân Hà Lan. Phản ứng việc chủ thương điếm Hà Lan Abraham Dujecker tại Hội An đánh chết một người Việt làm công vì nghi ăn cắp hàng hóa từ thương điếm (1641), từ dinh trấn Thanh Chiêm, trấn thủ Nguyễn Phúc Tần liền cho bắt Dujecker cùng những người Hà Lan khác ở thương điếm này tống giam, đốt hết hàng hóa của họ. Sự bất hòa giữa hai bên - chính quyền Thanh Chiêm/Đàng Trong và các thương nhân Hà Lan từ Công ty Đông Ấn dưới sự bảo trợ của Toàn quyền Hà Lan ở Batavia (Indonesia) ngày càng lên cao. Cũng trong năm 1642, trấn thủ Nguyễn Phúc Tần đã hai lần cho tịch thu hàng hóa, lấy tàu thuyền cùng bắt giam cả người trên 4 chiếc tàu bị đắm ở bờ biển Quảng Nam vì nghi là hải tặc. Cũng trong năm 1642, các tàu chiến Hà Lan đã bắt giữ 120 người Việt ở Touran (Đà Nẵng), lại bố ráp từ vịnh Quy Nhơn trở ra, đốt 400 - 500 ngôi nhà và các kho gạo, bắt đi 49 cư dân ven biển. “Phải trừng trị quân Ô Lan (Hà Lan) ngang ngược!” Trận thắng quân Hà Lan ở cửa biển Hội An chính là từ ý chí đó của trấn thủ Nguyễn Phúc Tần cùng binh sĩ. 
Chiến thắng thứ hai tiếp theo là việc thủy quân Đàng Trong - mà chủ yếu là thủy quân Thanh Chiêm - đánh bật đoàn tàu chiến Hà Lan ngày 07.7.1643 ở vùng biển Cửa Eo (gần cửa Thuận An ngay nay). 
Trận chiến này xảy ra cũng là từ ý chí phục hận của người Hà Lan sau lần thua trận hồi năm 1642 cùng những mâu thuẫn tồn tại giữa hai bên từ trước. Để chuẩn bị cho trận đánh phục thù này, tháng Giêng năm 1643, sau khi lên kế hoạch phối hợp với chúa Trịnh, phía Hà Lan cho một đoàn tàu mới gồm 5 chiếc tới Đàng Ngoài, do Johannes Lamotius chỉ huy để tấn công Đàng Trong. Tháng 6.1943, họ lại gởi thêm một đoàn tàu gồm 3 chiếc, dưới quyền chỉ huy của Pieter Baeck. Nhưng khi đến cách sông Gianh khoảng 5 dặm về phía Nam, quân Hà Lan đã sững sờ khi thấy 50 chiến thuyền của quân Nguyễn đang tiến về phía họ. Quả là họ không ngờ đây là đoàn chiến thuyền đến từ dinh trấn Thanh Chiêm do trấn thủ Nguyễn Phúc Tần thống lĩnh đã ra tận đây để “nghênh đón” họ. Chiến thuyền quân Nguyễn lao vùn vụt rượt đuổi thuyền giặc, xông vào thuyền chỉ huy Wijdenes vốn cũng đang hốt hoảng cùng hai tàu chiến khác tháo chạy. Nhưng dễ đâu thoát được. “Trận chiến hoàn toàn là một thảm họa. 
Tàu De Wijdenes (đô đốc) bị phá hủy, Baeck (Pieter Baeck, chỉ huy đoàn tàu chiến ba chiếc - HVM) bị giết, hai chiếc tàu khác phải vất vả lắm mới thoát được…Cả dám thủy quân gan dạ nhảy lên tàu (Wijdenes) đẵn cột buồm, chặt bánh lái, khiến cho thuyền trưởng và thủy thủ bên địch phải kinh hoàng, thất tán như đứng trước một đoàn âm binh từ đâu dưới thủy cung đột hiện. Túng thế, quân địch phải phá tàu bằng thuốc súng. Đô đốc Pieter Baeck cùng 200 thủy thủ phải thịt nát xương tan. Âm mưu cấu kết giữa quân Trịnh và quân Hà Lan tan vỡ...” - GS. Lê Thành Khôi đã mô tả trận chiến. 
Cả hai trận thủy chiến thắng lợi này của Đàng Trong cũng đã được TS. Li Tana quan tâm nghiên cứu. “Những người Hà Lan sống sót đã chỉ trích nặng nề viên chỉ huy của họ là đã không lường trước được cuộc tấn công của kẻ địch. Trong cả hai trận chiến, các cuộc tấn công bất ngờ của họ Nguyễn đã đặt người Hà Lan vào thế thủ ngay từ giây phút đầu. Theo Tiền biên, họ Nguyễn đã chuẩn bị kỹ lưỡng vì đã nhận được báo cáo từ một đội đặc biệt gọi là tuần hải, thêm vào là các trạm gác dọc bờ biển...”, những dòng viết của Li Tana đã cho thấy sự tổ chức chặt chẽ, sự điều binh thần tốc, sự tuần phòng nghiêm ngặt của thủy quân Đàng Trong đã khiến kẻ địch phải thất bại dù họ là quốc gia có lực lượng hải quân hùng mạnh. Điều đáng nói là giáo sĩ Alexandre de Rhodes đã sớm “phổ biến” thất bại cay đắng này của người Hà Lan đến phương Tây qua tác phẩm Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài từ 1627 - 1646 được in và xuất bản ở Lyon năm 1651. 
Có lẽ cũng nên nhắc lại âm mưu câu kết của chúa Trịnh Tráng với người Hà Lan nhằm mưu lợi cho mình bất chấp đất nước, dân tộc. Âm mưu đen tối này cũng là phần động lực thúc đẩy chúa Nguyễn cùng quân sĩ dốc lòng đánh bại kẻ địch. Bằng chứng này - bức thư của Trịnh Tráng gởi cho Toàn quyền Công ty Đông Ấn Hà Lan năm 1637 - chỉ được lật lên mới đây qua sưu tầm công phu của TS. Li Tana. Thật đáng buồn, nhưng có lẽ không thể bỏ qua phần chính của bức thư này: “...Các ông có thể cho chúng tôi 2 hoặc 3 chiếc tàu, hoặc 200 lính thiện xạ... Thêm vào đó, xin gởi cho chúng tôi 50 chiến thuyền cùng với số lính tuyển chọn và những khẩu súng mạnh, và chúng tôi sẽ gởi một số lính tin cậy đến hướng dẫn các chiến thuyền của các ông tới Quảng Nam. Đồng thời, đạo quân của chúng tôi sẽ tấn công Thuận Hóa... Sau khi chiến thắng, chúng tôi sẽ ban tặng cho binh lính các ông 20.000 tới 30.000 lạng bạc. Về phần các ông, chúng tôi sẽ trao xứ Quảng Nam cho các ông cai trị. Các ông có thể chọn một số lính để xây dựng và canh gác thành, chúng tôi sẽ truyền lệnh cho người dân ở đó làm lao dịch cho các ông. Các ông có thể thu hoạch các sản phẩm trong vùng và gởi một phần cho triều đình chúng tôi, như thế cả hai đều được hưởng lợi...”. 
Mở rộng cõi bờ từ dinh trấn Thanh Chiêm 
Như đã biết, danh xưng Quảng Nam với địa giới từ Nam Hải Vân đến phủ Hoài Nhơn (tỉnh Bình Định ngày nay) có từ sau cuộc thân chinh của vua Lê Thánh Tông hồi năm 1471. Đất Quảng Nam lúc bấy giờ là đạo Thừa tuyên thứ 13 - đơn vị hành chính cuối cùng của Đại Việt ở phía Nam. Quảng Nam, cái tên được vua Lê Thánh Tông định đặt với hàm ý rộng về phía Nam từ thực tế địa hình của vùng đất này khi bước qua khỏi Hải Vân quan, cũng là mong muốn của nhà vua rằng cương vực của đất nước sẽ được rộng mở hơn nữa về phía này qua cái nhìn của vị quân vương am tường về chiến lược và thời thế. 
Và chính chúa Nguyễn Hoàng là người tiên khởi mở đầu cho hiện thực mở rộng giang sơn ấy để rồi các vị chúa tiếp theo tiếp tục. Thật hấp dẫn khi nhìn lại phương cách, hay nói cách khác là sách lược thu nhận đất đai từ bên ngoài vào giang sơn của mình một cách chính danh của các chúa Nguyễn. 
Năng lực quốc phòng của Đàng Trong khá mạnh. Những dữ liệu được ghi nhận từ các tác giả nước ngoài thời bấy giờ cho phép xác tín điều này. “…Người Đàng Trong bây giờ đã thành thạo trong việc sử dụng chúng (trọng pháo trên thuyền chiến - HVM) đến độ họ đã vượt người châu Âu chúng ta: hàng ngày họ tập bắn bia và rồi họ trở nên hung hãn và dễ sợ và tự cao đến độ khi thấy có tàu châu Âu chúng ta tiến vào cảng của họ, những người pháo xạ của nhà vương dàn quân với thái độ thách thức...”, những dòng được giáo sĩ Cristoforo Borri viết trong bản Tường trình về Khu truyền giáo Đàng Trong năm 1621 đệ lên Đức Giáo hoàng Urbanô VII. Qua chiến thắng hai đoàn tàu chiến Hà Lan của thủy quân chúa Nguyễn hồi năm 1642, 1643 rõ là những nhận xét trên đây của tác giả không có gì quá đáng. TS. Li Tana cũng đã mô tả khá chi tiết về tổ chức quân đội chặt chẽ, về phiên chế và năng lực trỗi vượt của thủy quân, đặc biệt là thế mạnh về trọng pháo trên thuyền của quân lực chúa Nguyễn. 
Quốc phòng vững mạnh là để tự vệ. Việc mở rộng bờ cõi của các chúa Nguyễn đều từ những sách lược mềm, vũ lực chỉ được dùng khi đối phương xâm lấn đất đai của ta. Cuộc ra quân theo lệnh của chúa Nguyễn Hoàng hồi năm 1611 là đáp trả việc vua Pô Nit của tiểu quốc Hoa Anh của người Chăm thường cho quân xâm lấn, giết chóc, và xua đuổi người Việt ở vùng biên của Đại Việt giáp với Hoa Anh. Pô Nit thua trận, rút quân về bên kia đèo Cả. Và phủ Phú Yên (nay là tỉnh Phú Yên) được thêm vào bản đồ Đàng Trong bắt đầu từ đó. 
Cũng vậy, việc chúa Nguyễn Phúc Tần cho động binh đánh vua Chăm là Bà Tấm vào năm 1653 cũng là do vị vua này đem quân xâm lấn, quấy nhiễu đất Phú Yên. Bị thua trận, Bà Tấm lui về phía nam sông Phan Rang, tiếp tục trị vì phần đất còn lạị, giữ lệ triều cống hàng năm. Rồi việc chúa Nguyễn Phúc Tần cho quân vào Chân Lạp năm 1658 cũng là để giải cứu người trong hoàng tộc nước này theo yêu cầu của họ khi quốc vương Nặc Ông Chân giết chóc trái đạo người thân trong hoàng gia của mình. 
Nhưng ấn tượng nhất, có lẽ là việc chúa Nguyễn Hoàng gả công chúa Ngọc Vạn cho Quốc vương Chân Lạp Chey Chettha II làm hoàng hậu hầu nâng đẩy mối giao hảo giữa hai nước. Với cái nhìn có viễn kiến của mình, chúa biết sự kết thông sẽ giúp Đàng Trong đưa di dân đến khai khẩn vùng đất không người, đầy sình lầy, sông rạch, rừng rậm và thú dữ nơi vùng biên địa được gọi Thủy Chân Lạp của vị quốc vương là chàng rể của mình. Vượt cả mong đợi của chúa, vua Chettha II còn tạo thêm điều kiện cho những người chủ mới đến từ Đàng Trong có được nguồn thu ở vùng đất được nới rộng thêm ra, nay là vùng Sài Gòn - Chợ Lớn! Và đây chính là địa danh quan trọng được thêm vào trên bản đồ thương nghiệp của Đàng Trong. 
Thế đó, việc thu nạp đất đai bên ngoài vào cương vực Đàng Trong của các chúa Nguyễn đều không mấy nhuốm máu lửa, binh đao, mà phần lớn chỉ bằng sự lao tụy, bằng những xuất xử quyền biến, và bằng cả ân tình. 
Đàng Trong, với dải đất tận về phía Nam mới có được chứa đựng những lợi thế kinh tế cần được khai thác, phát huy, với chính sách cởi mở của các chúa Nguyễn là một hấp lực đối với những người muốn tiến thủ, muốn tìm cơ vận mới, nhất là với người nước ngoài muốn có một vùng trời mới rộng mở, thoáng đạt. Một đoàn di dân người Hoa đặc thù được chúa Nguyễn Phúc Tần tiếp nhận, được sử gia Trịnh Hoài Đức ghi lại trong Gia Định Thành thông chí đã nói lên sự năng động, quyền biến của vị chúa này cho việc thu dụng nhân lực nhằm kinh dinh vùng đất mới giàu tiềm năng kinh tế nhưng còn hoang vắng. Đó là việc chúa đã cho phép đoàn di dân người Hoa với 3.000 binh lính đi trên 50 chiếc thuyền do hai cựu tướng nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên cập cảng Cửa Hàn (Đà Nẵng) vào năm 1679 được định cư ở Đàng Trong. Dẫu biết những di dân này là những người trung thành với nhà Minh, bất mãn với tân triều Mãn Thanh, nhưng với số người vốn là binh lính, lại quá đông, chúa Nguyễn Phúc Tần không khỏi phân vân. Nhưng rồi... “Danh dự khuyên bảo chúa nên chấp nhận họ, nhưng có thể là thiếu khôn ngoan khi tiếp nhận chừng ấy người với vũ khí hẳn hoi vào đất nước của mình. Chúa cuối cùng đưa họ tới định cư tại vùng đất phía Nam nơi chúa vùa tạo được ảnh hưởng...”, GS. Lê Thành Khôi đã viết. 
Lòng độ lượng, sự khôn ngoan của chúa Nguyễn Phúc Tần vừa tạo được ân huệ lớn với “binh đoàn” di dân nước ngoài, vừa làm lợi cho đất nước mình. Được phép của chúa, đoàn thuyền di dân này đến cửa sông Mê Kông tìm đất định cư lập nghiệp. Để tiện việc làm ăn sinh sống, họ chia thành hai đoàn. Đoàn theo Dương Ngạn Địch theo một cửa sông đến lập nghiệp tại Mỹ Tho, đoàn theo Trần Thượng Xuyên vượt sông Đồng Nai đến vùng Biên Hòa lập nghiệp. Hân hoan trước vùng đất mới với nhiều triển vọng tốt lành, ra sức làm lụng, chỉ một thời gian những di dân này đã tạo được làng mạc ổn cố nơi vùng đất mới. Với tài dẫn dắt của mình, cựu tướng Trần Thượng Xuyên cùng các di dân tùng thuộc đã ra sức kinh dinh, khai thác vùng đất họ chọn định cư thành thị tứ Cù Lao Phố thịnh đạt, trở thành cảng thị của nhiều thương thuyền nước ngoài, góp phần cho sự thịnh đạt của nền thương mại Đàng Trong. 
Sẽ thiếu sót, nếu không kể ra việc sử dụng người nước ngoài có tài, rộng tay trao quyền cho họ nhằm để kinh dinh, thu nạp thêm vào những vùng đất hoang vu, trắc trở nơi biên địa của các chúa Nguyễn. Tiêu biểu là việc chúa Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725) thu dụng Mạc Cửu. Là một người Hoa bỏ nhà Mãn Thanh, Mạc Cửu ban đầu đến ở vùng Nam Vang của Chân Lạp, giỏi chuyện làm ăn, ông dần trở nên giàu có và có thế lực. Sau nhiều toan tính, Mạc Cửu đến vùng biên trấn chiêu dụ những người Hoa và người Việt lưu lạc trong vùng đến khai khẩn những vùng đất hoang vu, hẻo lánh ở Hà Tiên lập nên làng mạc, bến bãi và chợ búa thịnh vượng rồi tự mình cai quản vùng đất này. Không ngần ngại trao quyền cho ông, năm 1708, chúa Nguyễn Phúc Chu đã phong cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên - vùng biên trấn trọng yếu với tiềm lực kinh tế đáng kể. Đất Hà Tiên từ hoang vắng, hẻo hút và khiếm khuyết chủ quyền nhà nước trở thành vùng đất giàu đẹp đã được thống thuộc vào giang sơn Đàng Trong/Đại Việt một cách nhẹ nhàng, tốt đẹp. Khi Mạc Cửu qua đời (1735), chúa Nguyễn Phúc Chú (1697 - 1738), cũng mạnh dạn cho con trai Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ (còn gọi Mạc Thiên Tích) nối chức cha. Thấy được tài năng của người tổng binh trấn trẻ, chúa Nguyễn Phúc Chú cho ông thêm quyền lập nền cai trị có những biệt lệ, được lập quân đội, được phép đúc tiền, mở chợ. Mở rộng quyền cho thuộc cấp ở vùng đất biên trấn tiếp giáp biển khơi để giúp vùng đất mới này được nhanh thịnh vượng, thêm sức mạnh cho đất nước Đàng Trong trước những vận hội và thách thức mới là một quyền biến đáng nói của chúa Nguyễn Phúc Chu. 
Một công trạng xuất phát từ một tầm nhìn chiến lược nổi bật của chúa Nguyễn Hoàng ấy là việc chúa đã sớm xác lập chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Với thực lực thủy quân trỗi vượt so với các nước trong vùng Đông Nam Á, hơn cả quân đội Trung Hoa về sức mạnh pháo thuyền - như sử gia Li Tana nhìn nhận, lại có số lượng ngư dân giỏi nghề đông đảo, trong bối cảnh ngành thương mại đường biển đang ngày phát triển, khu vực biển Đàng Trong lại nằm trong trục hải hành chính của các thương thuyền thế giới, việc chúa Nguyễn Hoàng xác lập chủ quyền quốc gia với hai quần đảo nằm ngay trước lãnh thổ nghĩa là trong tầm kiểm soát của quốc gia mình là cần kíp, kịp thời. “Đầu thế kỷ XVII, chúa Nguyễn Hoàng tổ chúc khai thác sản vật trên các đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải (Trường Sa) có nhiệm vụ ra đóng ở hai quần đảo này hàng năm để khai thác các nguồn lợi: đánh cá, thâu lượm những tài vật của đảo và những hóa vật từ những tàu đắm. Nhân lực cho đội Hoàng Sa được lấy chủ yếu từ ngư dân xã An Vĩnh (huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi), còn người ở xã Cảnh Dương (Bình Thuận) thì lấy cho Đội Bắc Hải. Về sau, Đội Bắc Hải thuộc đội Hoàng Sa, gọi tên chung là Đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải” - sách Phủ biên tạp lục (1776) của học giả - sử gia Lê Quý Đôn đã ghi chép. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 
1. Đinh Trọng Tuyên, Đinh Bá Truyền (2011). Dinh trấn Thanh Chiêm, bản tự in của tác giả. 
2. Li Tana (1999). Xứ Đàng Trong - Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, Nguyễn Nghị dịch. TPHCM: Trẻ. 
3. Lê Thành Khôi (2014), Lịch sử Việt Nam - từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ 20. Thế giới + Nhã Nam. 2014. 
4. Đỗ Quang Chính (1972). Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620 - 1659. Sài Gòn: Tủ sách Ra Khơi. 
5. Roland Jacques (2007). Những người Bồ Đào Nha tiên phong trong lĩnh vực Việt ngữ học. Viện Ngôn ngữ học dịch. Hà Nội: Khoa học xã hội
TẦM NHÌN CHIẾN LƯỢC CỦA CHÚA NGUYỄN 
KHI XÂY DỰNG DINH TRẤN THANH CHIÊM?

Đoàn Anh Thái

1. Đặt vấn đề 

Với một vấn đề sống còn không chỉ cho bản thân mình mà còn là sự tồn vong của dòng họ Nguyễn; Nguyễn Hoàng phải tìm cách để tránh sự gây hại của người anh rể Trịnh Kiểm. Sau khi tham khảo ý kiến của Nguyễn Ư Kỷ1 và Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hoàng đã xin Trịnh Kiểm vào trấn thủ vùng Thuận Hóa và Trịnh Kiểm đã đồng ý. “Sau này, Nguyễn Hoàng ngày đêm tìm cách lánh xa Trịnh Kiểm, không còn cách nào hơn là nhờ chị vận động cho mình đi vào Thuận Hóa với chức vụ Trấn thủ.2 Dịp may là lúc này Thuận Hóa vẫn bị người Chàm quấy rối, mặc dầu đất này của họ đã thuộc về ta từ một thế kỷ trước mà trong giai đoạn này Thuận Hóa cũng như Quảng Nam thường bị nhà Mạc đem quân vào đánh để chia lương thực của nhà Lê”.3 

Năm 1558, Nguyễn Hoàng giong buồm vào Nam. Mặc dù mang danh đi trấn thủ nhưng đây là cách để Trịnh Kiểm đẩy Nguyễn Hoàng vào chốn không có chỗ nương thân, dẫn đến diệt vong. Nhưng là một con người tài ba, đã kinh qua bao nhiêu cuộc chiến, Nguyễn Hoàng nhanh chóng biến vùng đất mà người đời gọi là “Ô châu ác địa” thành một vùng đất gây dựng nghiệp cho dòng họ Nguyễn “vạn đại dung thân”, như trong Việt sử tân biên, Phạm Văn Sơn đã viết: “Cũng nên nhắc rằng tại đây, Hoàng gặp đủ loại người mà thành phần xã hội rất phức tạp: ngoài số gia nhân và những người trung thành theo ông từ lâu, Hoàng còn phải dung nạp cả những tay vong mạng, tù đồ, những kẻ thanh tích bất hảo và cả những người Chàm thường không hẳn thực sự lòng qui phục, lại có cả một số người trước kia đã theo họ Mạc đã có mặt nhiều năm tại địa phương. Vậy mà Hoàng đã cảm hóa được hết bằng đủ phương pháp cương nhu. Chẳng bao lâu Thuận Hóa có chợ búa, phố phường làm ăn vui vẻ và thành một đô thị được các nước xa gần (kể cả các nước Tây phương) đến giao thương và dưới chế độ của Hoàng việc thuế má và sai dịch cũng rất nhẹ nhàng, dễ thở. Do đó Hoàng được dân chúng mệnh danh là chúa Tiên”. 4 

Là một con người có tầm nhìn chiến lược, Nguyễn Hoàng đã tiến hành xây dựng những căn cứ hay nói đúng hơn là những trung tâm quân sự - kinh tế để phục vụ cho chiến lược vừa bảo vệ vừa có thể phát triển vùng đất Thuận Hóa và khi được tiếp quản Quảng Nam, ông đã thấy được vị thế của vùng đất này; ông cho đặt dinh trấn, mở thương cảng cho tàu thuyền các nước đến bán buôn. 

2. Tầm nhìn chiến lược khi cho xây dựng dinh trấn Thanh Chiêm 

2.1. Vị thế của vùng đất 

Chúa Nguyễn Hoàng lúc này như ở quảng giữa của những “chiến trận” khi phía Bắc là chúa Trịnh - vua Lê cứ lăm le đòi tiêu diệt còn ở phía Nam là sự quấy phá của Champa. Với vị thế rất đặc biệt và vai trò quan trọng của nó, vùng đất Quảng Nam nói không quá là yếu tố quyết định sự sinh tồn của Nguyễn Hoàng khi vừa làm biên giới vừa làm hậu phương cho cả vùng Thuận Quảng. 

Muốn tồn tại và phát triển, Nguyễn Hoàng không còn con đường nào khác là hướng về Nam, đi về phía Nam. Nơi có đất đai màu mỡ với nguồn lực dồi dào và là một vùng “đất mới”, cho anh hùng vẫy vùng. Còn hướng về Bắc thì điều đó là không thể vì mắc phải sức mạnh của chính quyền Lê - Trịnh. Lúc đầu ông đã dùng những chính sách ngoại giao mềm dẻo với chính quyền Lê - Trịnh để lấy được lòng tin và rồi cơ hội cũng đã đến khi chúa Trịnh - vua Lê cho ông kiêm quản luôn vùng đất Quảng Nam. 

Tỉnh Quảng Nam hay các giáo sĩ phương Tây gọi là tỉnh Cacciam hay gọi tỉnh Cham [Kẻ Chàm]. 

Đại Nam nhất thống chí viết: “Phía Đông có biển cả bao quanh, phía Tây có núi cao chồng chất, phía Bắc chầu về Thần kinh, phía Nam nói liền với trực kỳ. Danh sơn thì có núi Tào, núi Ấn, núi Chúa, núi Ngũ Hành. Đại xuyên thì có Chợ Củi, sông Cẩm Lê, sông Bến Ván. Lại có đèo Hải Vân ngăn phía Bắc, núi Tiêm Bút đứng phía Đông. Quan hà hiểm trở, cồn đảo bao quanh, đồng bằng rộng rãi, dân cư trù mật”.5 

Và kể cả một người đương thời là Trịnh Kiểm cũng đánh giá rất cao và chú trọng đến vùng đất này. Quảng Nam, cùng với Thuận Hóa là vùng đất rất quan trọng, đem lại nhiều nguồn cho lợi nhà Lê, không những thế, đây còn là vùng biên ải của nhà Lê lúc bấy giờ. Tầm quan trọng của đất này thể hiện khi Trịnh Kiểm dâng sớ nói với vua Lê Anh Tông: “Thuận Hóa là nơi quan trọng, quân và của do đấy mà ra, buổi quốc sơ nhờ đấy mà nên nghiệp lớn. Nay lòng dân hãy còn tráo trở, nhiều kẻ vượt biển đi theo nhà Mạc, sợ có kẻ dẫn giặc về cướp, ví không được tướng tài trấn thủ vỗ về yên thì không thể xong. Đoan Quận công là con nhà tướng, có tài trí mưu lược, có thể sai đi trấn ở đấy, để cùng với tướng trấn thủ Quảng Nam cùng giúp sức thì mới đỡ lo đến miền Nam”.6 

Một dinh trấn ra đời, nó không chỉ nằm trong việc bảo vệ quân sự mà còn là một trong những tác nhân để cho sự phát triển kinh tế, đó là việc thể hiện sự quản lý với những chính sách thông thoáng và kịp thời. Dinh trấn Thanh Chiêm đã đáp ứng điều đó với hệ thống điều hành chỉ cách cảng lỵ Hội An về đường sông khoảng 13 km và về đường bộ khoảng 9 km, từ đó việc quản lý và đưa ra những chính sách kịp thời linh động để phát triển kinh tế thương cảng bên cạnh đội ngũ quân quản lý cảng thị luôn thường trực. 

2.2. Xây dựng dinh trấn Thanh Chiêm 

Sau khi được tiếp quản dinh Quảng Nam “năm thứ 13 (1570), triệu Bá Quýnh về, sai Đoan Quận kiêm hành chức thống suất tổng trấn tướng quân hai xứ Thuận - Quảng, cầm binh voi và thuyền để trấn phủ dân địa phương. Họ Nguyễn gồm có hai xứ là từ bấy giờ. Thế tổ đã chết, trong nhà lục đục, hai xứ Thanh Hoa, Nghệ An đều lay động, duy hai xứ Thuận Quảng vẫn yên lặng”.7 

Nguyễn Hoàng đã xem xét địa thế, thấy được vị trí quan trọng và tầm chiến lược8 của vùng đất này. Đến đây vận khí của Nguyễn Hoàng đã bắt đầu phát triển với một vùng đất được mở rộng, tài và lực được nâng lên làm thế đứng vững chắc hơn để phục vụ cho một chiến lược lâu dài. 

Có rất nhiều tài liệu ghi lại sự kiện Nguyễn Hoàng cho xây dựng dinh trấn Quảng Nam nhưng trong tất cả các tài liệu đó chỉ có hai tài liệu đề cập đến địa điểm cụ thể cho xây dựng, đó là Đại Nam thực lục ghi là địa điểm đầu tiên đó là thuộc xã Cần Húc (thuộc huyện Duy Xuyên), còn trong Đại Nam nhất thống chí nói là xây dựng ở xã Thanh Triêm (Thanh Chiêm) thuộc huyện Diên Phước. 

Trong Đại Nam thực lục chép rằng vào năm 1602: “Sai hoàng tử thứ sáu làm trấn thủ dinh Quảng Nam. Quảng Nam đất tốt dân đông, sản vật giàu có, số thuế nộp vào nhiều hơn Thuận Hóa mà số quân thì bằng quá nửa. Chúa thường để ý kinh dinh đất này. Đến đây, đi chơi núi Hải Vân, thấy một dãy núi cao dăng dài mấy trăm dặm nằm ngang bờ biển. Chúa khen rằng: ‘Chỗ này là đất yết hầu của miền Thuận Quảng’. Liền vượt qua núi xem xét hình thế, dựng trấn dinh ở xã Cần Húc (thuộc huyện Duy Xuyên), xây kho tàng, chứa lương thực, sai hoàng tử thứ sáu trấn giữ. Lại dựng chùa Long Hưng ở phía đông Trấn”.9 

Trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn chép: “Đoan Quốc công từng đi chơi núi Ải Vân, thấy thế núi hiểm dốc lấy làm lạ, bèn qua núi vào phủ Thăng Hoa xứ Quảng Nam, trải xem hình thế, rồi sai dựng hành dinh và kho tàng chứa lương tiền. Năm Hoằng Định thứ 3 (1602), Nhâm Dần, sai Thụy Quận công Phúc Nguyên trấn thủ Quảng Nam”.10 

Sách Đại Nam nhất thống chí chép: “Năm Nhâm Dần đời Thái Tổ Gia Dụ Hoàng đế triều ta (1602), đặt làm dinh Quảng Nam, đặt các chức trấn thủ, cai bạ và kí lục. Ba phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn thuộc dinh đó. Ba năm sau, lại nâng huyện Điện Bàn phủ Triệu Phong ở Thuận Hóa lên thành phủ, đổi thuộc về Quảng Nam”.11 Tiếp đó, ở mục viết về thành trì, mặc dầu không nói là năm bao nhiêu xây dựng nhưng đã khẳng định rằng dinh trấn xây dựng ở xã Thanh Triêm (Thanh Chiêm): “Thành tỉnh Quảng Nam: ở xã La Qua huyện Diên Phước. Chu vi 89 trượng, cao một trượng một thước. Hồi đầu triều ta, dựng dinh trấn ở xã Thanh Triêm huyện Diên Phước, sau nhân biến loạn phải bỏ đi. Khi mới Trung hưng, thu phục Quảng Nam, tạm đặt ở Hội An. Năm Gia Long thứ hai (1803), dời đến trị sở cũ ở xã Thanh Triêm, đắp thành đất. Năm Minh Mạng thứ 14 (1833), dời đến chỗ hiện nay. Năm thứ 16 (1835), mới xây gạch”.12 

Cuốn Hoàng Việt giáp tý niên biểu của Nguyễn Bá Trác cũng ghi lại sự kiện: “Nhâm dần (1602) Thái tổ Gia Dụ Hoàng đế, năm thứ 45 sai con thứ 6 làm Quảng Nam trấn thủ”.13 

Sách Lịch triều hiến chương loại chí chép: “Chúa Nam Nguyễn Hoàng lại đi thăm cảnh đến xứ Quảng Nam, thấy núi Ải Vân hiểm trở, sừng sửng vươn cao, dáng ví tựa núi Ma Thiên Lĩnh ở đất Ba Thục. Đoan vương Nguyễn Hoàng khen mãi, cho là nơi cảnh đẹp núi kỳ. Rồi đó Nguyễn Hoàng vượt đèo đi vào địa phận phủ Thăng Hoa14 Quảng Nam đi xem xét hình thế núi non các nơi trong xứ. Thấy xứ này đầu nguồn hiểm úy, cửa biển vững chắc, bèn sai dựng hành điện15 kho tàng để chứa trữ thóc tiền, mưu toan công việc lâu dài. Lại để công tử Thụy quận công Nguyễn Phúc Nguyên ở lại làm trấn thủ để bảo vệ cho kẻ dân lành”.16 

Từ các ghi chép trên cho phép chúng ta đi đến kết luận rằng dinh trấn Quảng Nam được xây dựng từ sau năm 1602, nghĩa là từ khi Nguyễn Phúc Nguyên vào trấn giữ. Tác giả Nguyễn Q. Thắng trong cuốn Quảng Nam trong hành trình mở cõi giữ nước cũng viết: “Đúng, Thanh Chiêm chính là lỵ sở của dinh Quảng Nam từ năm 1602 đến năm 1832 (Minh Mạng thứ 13), và từ đó đến nay (2001) gọi là tỉnh Quảng Nam”.17 

Và nếu căn cứ vào tài liệu Đại Nam nhất thống chí thì xây dựng ở xã Thanh Triêm (Thanh Chiêm), còn căn cứ theo ghi chép của Đại Nam thực lục thì là xã Cần Húc, có điều rằng hai xã này hoàn toàn khác nhau chứ không phải một và hai xã nằm ở hai huyện khác nhau nhưng lại cạnh nhau. Dựa trên tư liệu Đại Nam nhất thống chí cho biết huyện Diên Phước giáp huyện Duy Xuyên về phía Nam. Chúng tôi vẫn chưa tìm thêm được tài liệu nào để khẳng định được dinh trấn đầu tiên xây dựng ở xã Cần Húc hay là Thanh Chiêm? Dựa trên những cơ sở đó chúng tôi cũng đồng tình quan điểm là dinh Trấn Quảng Nam được xây dựng từ năm 1602. 

Các chúa Nguyễn đã xây dựng Quảng Nam thành một thành phố với thành trì quân sự kết hợp với một thị tứ kinh tế không kém phần sôi động, nói đúng hơn là tất cả thương nhân và các loại hàng hóa của Đàng Trong lúc này đa phần chủ yếu thông qua ở thương cảng Hội An. “Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam”.18 Chúa Nguyễn đã thiết lập ở đây một hệ thống quân sự rất mạnh mới có thể cho những người nước ngoài thuê đất ở và làm thương điếm, điển hình như phố người Nhật và người Trung Hoa. Điều đó thể hiện được nhãn quan về kinh tế cũng như sức mạnh về quân sự của chúa Nguyễn để chế ngự khi có biến xảy ra. Quảng Nam đã trở thành một trung tâm về mặt quân sự lẫn kinh tế, nó không kém phần quan trọng so với Thuận Hóa - thủ phủ của chúa Nguyễn. 

Tác giả Nguyễn Thanh Nhã trong cuốn Bức tranh kinh tế Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII, khi nói về việc chúa Nguyễn tiếp quản Quảng Nam đã tiến hành xây dựng nơi đây thành một thành phố theo kiểu thành phố - thành trì “vừa tới trấn giữ tại Thuận - Quảng, họ Nguyễn tập trung sức lực vào việc biến nơi đây thành một cứ điểm phòng ngự, với các công trình và vị trí phòng thủ, theo kiểu các “lâu đài” (castra) và thị trấn của châu Âu thời Trung đại, tạo nên những nét phác thảo đầu tiên cho một mạng lưới các khối dân cư đô thị. Trên con đường tiến dần xuống phía Nam, cũng chính hệ thống phòng thủ này được họ Nguyễn áp dụng tại những vùng đất mới chiếm được để thiết lập nền cai trị, củng cố việc khai thác đất đai và khuyến khích việc nhập cư: tại Bình Khang, Nha Trang, Phan Rang, Phan Rí, Phố Giai và tại Trấn Biên dưới thời chúa Hiền, tại Tầm Bào (Vĩnh Long), tại Sa Đéc, Tân Châu, Châu Đốc, Rạch Giá, Long Xuyên (Cà Mau) (sic), dưới thời Võ Vương”.20 

Từ khi tiếp quản Quảng Nam, cũng là lúc Nguyễn Hoàng xây dựng cho mình một bàn đạp vững chắc tiến xuống phía Nam để mở rộng lãnh thổ do mình quản lý. Đầu tiên là năm 1611, lúc bị quân Champa tấn công, Nguyễn Hoàng đã cho quân đánh và lập nên phủ Phú Yên. “Tân Hợi, năm thứ 54 (1611), bắt đầu đặt phủ Phú Yên. Bấy giờ quân Chiêm Thành xâm lấn biên giới. Chúa sai chủ sự là Văn Phong (không rõ họ) đem quân đi đánh lấy được [đất ấy], bèn đặt làm một phủ, cho hai huyện Đông Xuân và Tuy Hòa lệ thuộc vào. Nhân sai Văn Phong làm lưu thủ ấy”.21 Có thể khẳng định rằng Quảng Nam đã trở thành một bàn đạp vững chắc để cho Nguyễn Hoàng và các vị chúa tiếp theo vươn lãnh thổ xuống phía Nam và sau này đến thời chúa Nguyễn Phúc Khoát đã hoàn thiện việc Nam tiến của dân tộc. 

Dinh Quảng Nam đã trở thành chỗ tập sự cho những người lãnh đạo (kế nghiệp chúa) Đàng Trong tương lai. Đầu tiên là hoàng tử thứ sáu của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên. Với một địa thế của vùng đất lúc đầu là biên địa trực tiếp tiếp giáp với Champa nên việc xảy ra giao chiến là không thể tránh khỏi, điều này rèn luyện cho người đứng đầu cách dùng binh; đồng thời đây cũng là một thương cảng nhộn nhịp với đủ các thương lái ở nhiều nước trên thế giới đến buôn bán, nó rèn cho người đứng đầu các cách ngoại giao và quản lý ngành kinh tế nội ngoại thương; hơn nữa khi các thương lái đến bán buôn thì vấn đề đảm bảo an ninh đòi hỏi người đứng đầu phải có những chính sách hợp lý để có thể điều hành tránh sự xung đột giữa các thương lái, cũng như đảm bảo an ninh cho thương cảng của mình trước những âm mưu của kẻ ngoại bang từ ngoài vào theo đường biển. 

Khi chiến tranh xảy ra với Đàng Ngoài, nơi đây đã cung cấp quân lính, vũ khí và lương thực cho tiền tuyến ở Quảng Bình, để cho quân chúa Nguyễn có thể đối phó lại với Đàng Ngoài trong suốt 45 năm. Hiện nay ở đây người ta vẫn còn lưu giữ lại những tên gọi như mô súng, kho muối... là nơi rèn quân và chuẩn bị lương thảo cho cuộc chiến với Đàng Ngoài cũng như bảo vệ biên giới và mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam của mình. 

“Cái mở đầu” cũng là dinh trấn Quảng Nam và cái kết cũng tại dinh trấn Quảng Nam quyết định, khi thủ phủ của chúa Nguyễn bị tấn công thì lại chạy vào Quảng Nam để lánh nạn nhưng lúc này thế và lực của chúa Nguyễn đã không còn nên đã dẫn đến lụn bại. Trong một bức thư của giáo sĩ truyền giáo ở Đàng Trong gửi cho một cha quản lý chủng viện Hội truyền giáo nước ngoài ở Paris, viết hồi tháng 7.1775: “Nhà vua ở Đông Kinh22 nghe có nội chiến xảy ra ở Đàng Trong, liền sai một đại tướng cầm đầu mấy vạn quân vào trong đấy, lấy cớ đi bình định giặc cướp nhưng thực ra có ý đánh chiếm Đàng Trong. Chúa Nguyễn được tin cấp báo, hoảng hốt rụng rời, vội bỏ chạy hôm 28 âm lịch tháng trước (tính ra là cuối tháng Giêng năm dương lịch 1775). Suýt nữa thì chúa Nguyễn đã bị quân Đàng Ngoài bắt được. Ngài dùng thuyền để trốn khỏi kinh thành nhưng khắp các bến sông đều bị quân Đàng Ngoài chặn cả nên phải bỏ thuyền, trốn bằng đường bộ, chỉ có ba bốn thị vệ đi theo. Ngài định vào tỉnh Cham23 để gặp đạo quân Đàng Trong đang giao chiến với giặc cướp ở đấy. Nhưng ra đến Cham cũng vẫn không được yên thân”. 24 Điều đó cho thấy trong suốt chặng đường phát triển hưng thịnh của Đàng Trong, Quảng Nam chiếm một phần rất quan trọng. Với việc được tiếp quản vùng đất Quảng Nam và sau đó là tiến hành xây dựng dinh trấn ở nơi đây, đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tiến trình dựng nghiệp của Nguyễn Hoàng. 

Với việc chọn đặt vị trí của dinh trấn Thanh Chiêm để có thể ra vào biển dễ dàng theo hai con đường từ cửa Đại Chiêm và từ cảng thị Hội An, đồng thời cũng nằm ngay cạnh đường thiên lý Bắc - Nam, để án ngự, bảo vệ cho sự phát triển của vùng đất Quảng Nam nói riêng và cả Đàng Trong nói chung. Cùng với đó dinh trấn Thanh Chiêm đã trở thành nơi đào luyện lãnh đạo (kế nghiệp chúa), rèn luyện binh sĩ, đặc biệt là thủy quân phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ lãnh thổ và mở rộng lãnh thổ của Đàng Trong. Với những đóng góp quan trọng như vậy dinh trấn Thanh Chiêm xứng đáng có một chỗ đứng quan trọng trong lịch sử của dân tộc. 

Chú thích:

1. Nguyễn Ư Kỷ, có người đọc là Nguyễn Ư Dĩ, là cậu ruột của Nguyễn Hoàng, đang làm Thái phó trong triều Lê. 

2. Theo Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện và Việt sử thông giám cương mục, Nguyễn Hoàng được phong chức Trấn tiết, theo Đại Việt sử ký toàn thư là Trấn thủ. 

3, 4 Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, Quyển III, (Sài Gòn: Khai Trí, 1959), 77, 80. 

5, 11, 12 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Tập I, Bản dịch của Hoàng Văn Lâu, (Hà Nội: Lao động, 2012), 333, 328-329, 335. 

6, 9, 21 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập I, Bản dịch của Viện Sử học (Hà Nội: Giáo dục, 2002), 28, 35-36, 36.

7, 10 Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, Bản dịch Viện Sử học, (Hà Nội: Khoa học, 1964), 41, 43. 

8. Nguyễn Hoàng là con nhà tướng, cùng với đó ông đã là một tướng tài cao cấp, kinh qua nhiều trận mạc nên việc chọn lựa địa thế đối với nhãn quan của ông là rất chính xác với việc tính toán hợp lý trong việc phòng thủ và tấn công, hơn nữa bên cạnh ông còn có quân sư là Nguyễn Ư Kỷ. Nguyễn Ư Kỷ là cậu của Nguyễn Hoàng và đồng thời là người nuôi nấng ông trưởng thành. 

13. Nguyễn Bá Trác, Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu, Dịch và chú thích Bửu Cầm, Hà Văn Liên, Tạ Quang Phát, (Sài Gòn: Bộ Quốc gia giáo dục, 1963), 283. 

14. Thăng Hoa: tên phủ đời Lê, gồm đất các huyện Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn thuộc Quảng Nam cũ. 

15. Hành điện: là nhà làm dành riêng cho vua chúa ở khi đi kinh lý địa phương. 

16. Nguyễn Khoa Chiêm, Trịnh - Nguyễn diễn chí (Nam triều công nghiệp diễn chí), Tập 1, Ngô Đức Thọ giới thiệu, dịch và chú thích, (Sở Văn hóa thông tin Bình Trị Thiên, 1986), 112.

17. Nguyễn Q. Thắng, Quảng Nam trong hành trình mở cõi giữ nước, (TPHCM: TPHCM, 2005), 57. 

18. Hội An. 

19. Cristoforo Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch, chú thích (TPHCM: TPHCM, 1998), 91. 

20. Nguyễn Thanh Nhã, Bức tranh kinh tế Việt Nam thế kỷ XVII và XVII, Nguyễn Nghị dịch, (Hà Nội: Tri thức, 2015), 233. 

22. Thực ra nhà vua ở đây không phải vua Lê mà là chúa Trịnh. Các giáo sĩ phương Tây vẫn gọi chúa Trịnh là vua. 

23. Tỉnh Cham là tỉnh Quảng Nam. 

24. Thư của các giáo sĩ thừa sai, Nguyễn Minh Hoàng dịch, (Hà Nội: Văn học, 2013), 231.
DINH TRẤN THANH CHIÊM TRONG MỐI QUAN HỆ 
VỚI CÁC CẢNG THỊ CỦA CHÍNH QUYỀN ĐÀNG TRONG?

Võ Thị Trang

1. Mở đầu 

Dinh trấn Thanh Chiêm (nay thuộc thôn Thanh Chiêm, xã Điện Phương, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) được chúa Nguyễn Hoàng chọn làm cơ sở hành chính cho vùng đất mới Quảng Nam. Dinh trấn Thanh Chiêm nằm bên bờ sông Sài Thị (sông Chợ Củi), một nhánh lớn của sông Thu Bồn, có bến đậu tàu và có chợ buôn bán tấp nập, đông đúc, nối liền miền núi với biển Đông, nằm dọc trục đường Bắc - Nam, rất thuận lợi về giao thông đến các miền, vùng lân cận và cảng thị Hội An. Dinh trấn Quảng Nam ra đời đã đem lại sự thuận lợi lớn lao về quản lý hành chính, lãnh thổ, tạo điều kiện phát triển vượt bậc về kinh tế, văn hóa của xứ Quảng nói riêng và Đàng Trong nói chung, và còn mang tính quyết định toàn bộ quá trình mở rộng lãnh thổ của xứ Đàng Trong sau này. 

Dinh trấn Thanh Chiêm được coi là thủ phủ thứ hai của Đàng Trong, được chúa Nguyễn Hoàng cho cơ chế toàn quyền định đoạt mọi việc, là nơi thực tập, đào luyện các thế tử, là nơi thực thi chính sách mở cửa với các điều kiện tối ưu nhằm xây dựng một hậu phương vững chắc làm bàn đạp mở rộng bờ cõi về phương Nam. Cùng với chính sách ngoại thương thông thoáng và các biện pháp quản lý chặt chẽ của các chúa Nguyễn, Hội An trở thành một thương cảng phồn vinh bậc nhất trong khu vực thời bấy giờ. 

Cùng với đó, chúa Nguyễn cũng đã tạo điều kiện cho cảng thị Đà Nẵng phát triển góp phần quan trọng cho Quảng Nam thành vùng đất giàu có. Dưới thời chúa Nguyễn, dinh trấn Thanh Chiêm là căn cứ thủy quân mạnh bậc nhất của xứ Đàng Trong. Năm 1644 đạo quân của Thế tử Lễ Thành hầu Nguyễn Phúc Tần đã đánh bại hạm đội Hà Lan trên biển Đông, được ghi vào lịch sử dân tộc chiến công đầu tiên đánh thắng giặc phương Tây. Dinh trấn Thanh Chiêm cũng là nơi đặt cơ sở hậu cần vững chãi và đắc lực giúp Chính dinh (Thuận Hóa) đánh bại các cuộc tấn công quy mô của họ Trịnh, họ Mạc ở Đàng Ngoài. Chính vì những lẽ đó, dinh trấn Thanh Chiêm góp phần quan trọng quyết định công cuộc mở cõi phát triển đất nước của tiền nhân trong thế kỷ XVII và XVIII, đặc biệt, nơi đây cũng chính là một trong những cái nôi khai sinh ra chữ Quốc ngữ của Việt Nam ngày nay. 

2. Nội dung 

Ngay sau khi Nguyễn Uông bị Dục Quận công Trịnh Kiểm giết chết, theo lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1558) “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, Đoan Quận công Nguyễn Hoàng bèn hạ quyết tâm với chủ đích là tránh tai họa và ngự trị vùng đất phương Nam lâu dài. Cơ hội khởi đầu cho sự nghiệp tự chủ phương Nam là năm Canh Ngọ (1570), Nguyễn Hoàng được vua Lê sắc phong Tổng trấn tướng quân, kiêm lãnh hai xứ Thuận - Quảng. Năm 1600, khi đang tham gia tiễu trừ tàn quân nhà Mạc tại Bắc Hà, Nguyễn Hoàng đột ngột bỏ vào phương Nam. Đến năm 1602, Nguyễn Hoàng sai hoàng tử thứ 6 làm trấn thủ dinh Quảng Nam. 

Xứ Quảng là vùng đất tốt dân đông, sản vật giàu có, số thuế nộp vào ngân quỹ nhiều hơn dinh Thuận Hóa, trong khi đó số quan lại chỉ bằng một nửa so với dinh Thuận Hóa. Chúa Nguyễn Hoàng đã sớm để ý và thường kinh lý vùng đất này, khi đi thăm núi Hải Vân thấy một dải núi cao giăng dài hàng trăm dặm đâm ngang ra biển, chúa khen rằng “Chỗ này là đất yết hầu của miền Thuận - Quảng, và liền vượt núi qua xem xét hình thế, dựng trấn dinh ở xã Cần Húc, xây kho tàng chứa lương thực, sai hoàng tử thứ 6 trấn giữ”.1 Vì vậy, “có thể khẳng định rằng: dinh trấn Thanh Chiêm đã có ít nhất trước năm 1645, xét đời chúa Nguyễn Thượng (1635 - 1648) và đời trước nữa là chúa Sãi (1613 - 1635), chính sử không có ghi việc xây dựng thành nào ở xứ Quảng Nam. Vì thế nên chúng ta biết được dinh trấn Thanh Chiêm có từ thời chúa Tiên (Nguyễn Hoàng: 1600 - 1613)”.2 

Nguyễn Phúc Nguyên, con thứ 6 của chúa Nguyễn Hoàng là trấn thủ đầu tiên ở dinh này (từ năm 1602 - 1613). Đến khi lên nối nghiệp, gọi là chúa Sãi, ông trao lại dinh trấn Quảng Nam cho con là Nguyễn Phúc Kỳ, sung chức Hữu phủ Chưởng phủ sự trấn thủ Quảng Nam. Sử chép: “Năm Giáp Dần (1614), hoàng tử Kỳ đến trấn, thi ân đức, chăm nom quân dân, toàn khu vực rất yên ổn. Ông mất vào mùa hạ năm Tân Tỵ (1631), sĩ dân thương tiếc lắm”.3 Lúc đó, chúa Sãi cử người con thứ 3 là Chưởng cơ Nguyễn Phúc Anh làm trấn thủ Quảng Nam và con thứ 8 là Nguyễn Phúc Tứ làm phó tướng. Năm Ất Hợi (1635), chúa Sãi chết, con thứ 2 là Nguyễn Phúc Lan lên nối nghiệp, gọi là Công Thượng vương (chúa Thượng). Cũng vào thời gian này, dinh trấn Quảng Nam xảy ra sự kiện gây nguy hại đến cơ đồ chúa Nguyễn, đó là trấn thủ Chưởng cơ Nguyễn Phúc Anh ganh tị với người anh, sinh lòng phản bội, bí mật thông đồng với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài dấy binh phản loạn, nhưng bị thất bại. 

Ngay từ thời chúa Nguyễn Hoàng được kiêm lãnh Quảng Nam trấn, đeo ấn Tổng trấn tướng quân, chính quyền Đàng Trong đã có chủ trương bảo hộ, khuyến dụ thương khách ngoại quốc, nhất là người Trung Hoa. Khi trị sở của chúa Nguyễn đóng tại Trà Bát, thì Dinh Cát là một cảng khẩu trọng yếu. Đến khi trị sở dời về Phước An (năm Vĩnh Tộ thứ 2, tháng 4.1626), rồi đến Kim Long vào năm 1636, thì cảng khẩu trọng yếu lại là phố Thanh Hà (Thừa Thiên Huế). Cảng khẩu này rất thuận tiện cho việc vận chuyển phân phối hàng hóa từ Hội An đưa ra. Nhưng thực sự kể từ khi dinh trấn Thanh Chiêm được thiết lập thì chính Hội An mới là cảng thị chiếm phần trọng yếu hàng đầu. Quảng Nam giữ vai trò kinh đô thứ hai của chúa Nguyễn, và thường được giao phó cho các thế tử (con kế nghiệp của các chúa), đây là một hình thức thí điểm, tập sự cho các chúa trong tương lai. 

Vị trí dinh trấn Thanh Chiêm được thiết lập trên bờ sông Sài Giang hay Sài Thị Giang (còn gọi là sông Củi hay sông Chợ Củi), đây là một nhánh lớn của sông Thu Bồn. Lúc đó, nhánh sông này vốn là một con sông lớn, do sự hợp lưu của cả ba nguồn (Thu Bồn - Chiên Đàn - Vu Gia) và chảy bên thành dinh trấn, vì vậy, dinh trấn có bến tàu và có chợ buôn bán đông đảo, tấp nập. Dinh trấn lại chỉ cách cảng thị Hội An có 6 dặm nên rất thuận tiện cho việc kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu và ngoại thương cũng như việc tiếp xúc giao thiệp giữa chính quyền với người ngoại quốc thời đó. 

Vào thời kỳ thiết lập dinh trấn Thanh Chiêm, sông Thu Bồn còn có 1 nhánh nữa chảy ra cửa Hàn. Nhánh giao thông này là một con đường giao thông thủy rất thuận tiện. Do vậy, dinh trấn nằm giữa ngã ba của một con sông lớn có hai nhánh, một nhánh nối với Chean Touron (tức Đà Nẵng), một nhánh nối với Faifo (tức Hội An). Tất cả tàu bè ngoại quốc muốn vào xứ Đàng Trong đều phải qua một trong hai cảng của Đà Nẵng hoặc Hội An, và phải chịu sự kiểm soát của Trấn thủ dinh trấn Quảng Nam. Về vấn đề này, giáo sĩ Borri có chép rằng “Người ta cập bến bằng hai cửa biển, một gọi là Turon (Đà Nẵng) và một gọi là Pulluciambello (Hội An). Các cửa biển cách nhau chừng ba hay bốn dặm, kế đó biển chia làm hai nhánh đi sâu vào đất liền chừng bảy tám dặm, làm thành như hai con sông như tách rời nhau để rồi cuối cùng gặp nhau và đổ vào một con sông lớn. Tàu bè từ hai phía tới cũng đi vào con sông này”.4 “Cửa Hàn và Hội An đều đi vào một điểm chung là dinh trấn Thanh Chiêm, nhưng có thể vì Hội An gần dinh trấn hơn, lại ở cách cửa Đại Chiêm 4 km, do vậy rất thuận tiện cho việc thực hiện các thủ tục về mặt giao thương của người ngoại quốc. Việc tiếp xúc với nhà chức trách trong các dịch vụ thương mại, các liên lạc chính trị, ngoại giao… nên Hội An sớm phồn thịnh và quan trọng hơn cửa biển Đà Nẵng thời bấy giờ”.5 

Mặt khác, cũng do sự tác động của chính quyền trung ương, càng làm cho các thương cảng vùng trấn Quảng Nam tăng thêm vai trò thương mại của mình, nếu như “Trước kia, thuyền bè người Nhật, Trung Quốc, Mã Lai và một số người ngoại quốc khác buôn bán với Đàng Trong đã từng đi vào con sông này (sông Huế). Nhưng số lượng đông đảo và tính dữ dằn của nhiều người trong số họ đã làm cho chính quyền lo ngại. Từ đấy trở đi, họ bị chính quyền cấm không cho vào con sông này nữa, rồi vua chỉ định cho họ con sông Faifo và vịnh Tourane để làm cảng, nơi thuyền bè muốn buôn bán với kinh đô có thể đậu lại”.6 Là một trung tâm chính trị và hành chính quan trọng, dinh trấn Thanh Chiêm còn nổi tiếng về mặt quân sự. Được thiết lập trên bờ một con sông lớn nối liền miền sơn cước với đại dương theo chiều Đông - Tây, dinh trấn này không tựa quá sâu vào núi non, cũng không quá chênh vênh ngoài biển. Có thể nói, đây là một địa điểm lý tưởng cho sự phòng thủ và tấn công khi có biến cố xảy ra từ xa cho cảng thị Hội An. Thực tế, dinh trấn Thanh Chiêm đã là một căn cứ thủy lục quân hùng mạnh vào bậc nhất của chúa Nguyễn, không hề thua kém so với Quảng Bình và Thuận Hóa. Cuộc nổi loạn của Trấn thủ Chưởng cơ Nguyễn Phúc Anh năm 1635 đã thể hiện rõ sự hùng mạnh của lực lượng quân sự nơi đây. Chính lực lượng quân sự ở đây đã yểm hộ một cách đắc lực cho kinh đô và tiếp cứu cho Quảng Bình để chặn đứng các cuộc tiến công của họ Trịnh, đồng thời tạo nên một vùng an ninh để phòng có chỗ lui binh khi cần thiết. Ngoài ra, dinh trấn này còn thừa sức tung hoành trên mặt biển để đánh tan các cuộc cướp bóc, xâm lăng của bọn hải khấu giang hồ, và bọn giặc phương Tây công phá bờ cõi. Cuộc tấn công hạm đội Hà Lan năm 1644 là một minh chứng điển hình. 

Nhằm trấn áp phương Nam, Trấn thủ Quảng Nam được trao đặc quyền trực tiếp giao thiệp với người ngoại quốc và kiểm soát ngoại thương, xuất nhập cảng. Quảng Nam là trấn quan trọng nên các chúa Nguyễn thường để một thế tử làm trấn thủ, đồng thời mời gọi thương nhân ngoại quốc đến tiếp xúc và buôn bán tại thương cảng vùng Quảng Nam, nhất là cảng thị Hội An, dưới sự kiểm soát của dinh trấn Thanh Chiêm. Năm 1617, chúa Sãi viết thư mời Công ty Đông Ấn (Hà Lan) ở Malacca đến Hội An buôn bán. Năm 1624, chúa Sãi gửi thư và tặng phẩm cho toàn quyền Hà Lan ở Nam Dương (tức Indonesia), ngỏ lời mời các thuyền buôn Hà Lan đến buôn bán với Đàng Trong qua cửa khẩu Hội An và Đà Nẵng. Năm 1633, hai tàu của Hà Lan từ Batavia đến Đà Nẵng và Hội An, có hai thương nhân Hà Lan được phép của quan trấn thủ Quảng Nam cho mở cửa tiệm buôn bán ở Hội An. Năm 1634, thương nhân Duijcker (Hà Lan) chở hàng đến Hội An, năm 1635 đến cửa Hàn… 

Do chính sách đặc biệt ưu đãi thuế quan mà Công ty thương mại Đông Ấn (do Hà Lan và Anh góp vốn) và các thương nhân Bồ Đào Nha từ Ma Cao thường lui tới Hội An, nhờ đó mà các chúa Nguyễn thu được nguồn lợi lớn do những món quà biếu quý giá của các hội buôn ngoại quốc và những món thuế hàng hóa xuất nhập cảng. 

Bên cạnh vai trò chính trị, quân sự, dinh trấn Thanh Chiêm còn giữ một vai trò quan trọng khác mà không một địa phương nào có thể thay thế được, kể cả Thuận Hóa, đó là việc trực tiếp giao thiệp với người ngoại quốc, kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu và ngoại thương. Phàm là tàu bè, thương gia, du khách hay giáo sĩ ngoại quốc vào xứ Đàng Trong đều do hai cửa Hội An, Đà Nẵng và qua sự kiểm soát của quan trấn thủ dinh trấn Thanh Chiêm. Nhà sử học Trần Trọng Kim cũng viết “Người ngoại quốc thường gọi đất Đàng Trong do chính quyền các chúa Nguyễn quản lý là Quảng Nam quốc, vì ở Quảng Nam có phố Hội An (Faifo) là chỗ thương nhân nước ngoài thường ra vào”.7 

Về phương diện này, chúng ta có thể coi quan Trấn thủ Quảng Nam như một người cai quản công tác ngoại giao và thương mại của chính quyền chúa Nguyễn. Vào đầu năm Bính Tý (1636) và Đinh Sửu (1637), quan trấn thủ ở đây đã tiếp đón hai phái đoàn thương mại của Hà Lan do Abraham Duijcker dẫn đầu, với hai chiếc tàu Warmont và Grol cập bến Đà Nẵng. Năm 1684 và 1686, phái đoàn thương mại nước Anh do Chappelier đại diện Công ty Đông Ấn đến điều đình việc buôn bán, năm 1695 phái đoàn do Thomas Bowyear dẫn đầu cũng đều qua cửa dinh trấn Thanh Chiêm trước khi đến trình diện chúa Nguyễn. Chúng ta phải thán phục tinh thần hiếu khách và chính sách ngoại giao khôn khéo của giới cầm quyền dinh trấn Quảng Nam hồi đó, kết quả là tạo nên hai thương cảng quốc tế phồn thịnh trên thế giới thời bấy giờ, thu hút được nhiều thương nhân các nước như Trung Quốc - Nhật Bản - Bồ Đào Nha - Mã Lai… đến buôn bán. 

Dinh trấn Thanh Chiêm với vai trò kinh tế quan trọng, đó là việc kiểm soát hai cửa ngõ giao thương với ngoại quốc quan trọng vào bậc nhất là Hội An và Đà Nẵng. Việc kiểm soát này nhằm đảm bảo cho sự phồn thịnh của các thương cảng, đây hoàn toàn không phải là kiểm soát nhằm hạn chế hay ngăn cấm thương mại, mà đó là sự đảm bảo an ninh và trật tự cho các hoạt động trao đổi thương mại diễn ra được thuận lợi và có nề nếp hơn. Vị trí thuận lợi về đường hàng hải và hải cảng rộng lớn là địa điểm thích hợp nhất ở Đàng Trong cho nhiều thương nhân nước ngoài đến buôn bán và cư trú. Do có sự quản lý, khuyến khích thương mại của chính quyền cùng với các hoạt động thương mại diễn ra mạnh mẽ đã tạo nên sự phồn thịnh cho vùng. Sách Đại Nam thực lục có chép rằng: “Bấy giờ chúa trấn ở hơn 10 năm, chính sự rộng rãi, quan lệnh nghiêm trang, nhân dân đều yên cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp, thuyền buôn bán các nước đến nhiều. Trấn trở nên một nơi đô hội lớn”.8 

Dinh trấn Thanh Chiêm tuy là sở lỵ của Quảng Nam, nhưng vai trò kinh tế, chính trị, đối ngoại, an ninh, quân sự và việc mở rộng lãnh thổ xét về nhiều phương diện còn quan trọng hơn cả Chính dinh (tức Phú Xuân - Huế). Mọi giao dịch với nước ngoài đều thông qua dinh trấn Quảng Nam, trung tâm ngoại thương vẫn là Hội An, còn Đà Nẵng được coi là tiền cảng. Với sự quản lý từ xa của dinh trấn Thanh Chiêm và cơ cấu quản lý ngoại thương trực tiếp của các thương cảng mà tiêu biểu là Hội An, đã tạo nên một hệ thống cơ cấu quản lý ngoại thương của chính quyền các chúa Nguyễn và phát huy được vai trò của mình trong việc bảo hộ và phát triển thương mại, tạo sự phồn thịnh cho các thương cảng, thu về cho chính quyền nguồn lợi nhuận khổng lồ từ hoạt động ngoại thương. 

Rõ ràng, với nguồn thu lớn cho ngân sách như vậy thì việc xây dựng cơ cấu quản lý hoạt động ngoại thương bằng việc quản lý từ xa và quản lý trực tiếp ở các thương cảng càng có tầm quan trọng đối với chính quyền của các chúa Nguyễn. Chính vì vậy, công việc này chỉ được các chúa Nguyễn giao cho các thế tử nối ngôi mình trực tiếp điều hành, và đây cũng là bước tập dượt ban đầu cho công tác quản lý đất nước sau này. Cũng chính vì thế các thế tử sớm được quản lý vùng thương mại phát triển nhất, tiếp xúc với nước ngoài nhiều nhất, cho nên họ sớm có tư tưởng khai mở về quan hệ giao thương với nước ngoài. 

Các thế tử, quan trấn thủ dinh trấn Thanh Chiêm trong các giai đoạn tiếp theo đã góp phần làm cho cảng thị Hội An và hội chợ quốc tế hàng năm ở đây ngày càng phát triển hơn. Vì vậy, đầu thế kỷ XVII, ngay từ buổi đầu buôn bán tại phố Nhật ở Hội An cho đến khi họ được lệnh buộc phải hồi hương của chính quyền Mạc phủ nước Nhật vào năm 1636, thương nhân Nhật Bản luôn được dinh trấn Thanh Chiêm bảo vệ, khuyến khích. Trong khi đó, phố Nhật ở Phnom Penh của Cao Miên thường bị tàn phá, thương nhân người Nhật ở Ayutthya của Siam bị xua đuổi, tàn sát. Cũng trong bối cảnh mở cửa thời đó, dưới thời chúa Thượng (Nguyễn Phúc Lan), một người Minh Hương có học thức cao ở Hội An đã được trọng dụng làm quan phụ trách Tài vụ ty trong nhiều năm, và được phong tước Trung Lương hầu. Khi ông qua đời vào cuối thế kỷ XVII, đã được chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725) truy tặng tước Vệ Văn hầu. 

Đối với người Bồ Đào Nha, các chúa Nguyễn cũng có những chế độ đãi ngộ riêng. Theo ghi chép của Cristoforo Borri: “Chúa Nguyễn từng cấp cho họ ba bốn dặm đất tốt ở xứ Đà Nẵng để họ xây cất một thành phố với mọi sự tiện lợi như cách người Nhật và người Hoa đã thay mặt chúa Nguyễn ở Quảng Nam Dinh”. 9 Thời kỳ trấn thủ của Thế tử Nguyễn Phúc Nguyên, ông đã lập Ty tài vụ để quản lý, đăng kiểm tàu buôn nước ngoài đến buôn bán ở cảng thị Hội An và tuyển chọn người biết chữ Hán vào làm việc ở Ty tài vụ. 

Mặt khác, Trấn thủ Quảng Nam là người có vị trí tương đối độc lập với chính quyền Trung ương ở Phú Xuân. Trấn thủ ở Quảng Nam này được gọi là những vị “vua trẻ”, bởi ông có quyền cấp “Châu ấn” của Đàng Trong cho các tàu từ nước ngoài vào. Chúng ta cũng thấy nói đến sự kiện này trong nhật ký của Ed. Saris, khi ông tới Đàng Trong cùng với Adams năm 1617: “Tôi được ngài (vua trẻ) cấp cho ‘goshuin’ (ngự Châu ấn) hay Chope của ngài, tức con dấu để tới đây cùng với tàu, hàng năm được thiết lập một cơ sở ở bất cứ nơi nào trong vùng dưới quyền ngài, và ngài sẽ che chở cho tôi”.10 Trong cuốn sách Đông Tây Dương khảo, một cuốn sách nghiên cứu về các nước Đông Nam Á được viết vào thế kỷ XVII ở Trung Hoa cũng xác nhận sự hiện hữu của loại goshuin này như sau: “Viên trấn thủ Quảng Nam đứng đầu hết các tiểu địa hạt trong vùng, còn mạnh hơn cả Đàng Ngoài. Tân Châu (Quy Nhơn) và Đề Gi (hải cảng Đề Gi tỉnh Phú Yên), tất cả đều triều cống cho Quảng Nam. Tàu đến Tân Châu (Xin-chou) và Đề Gi (Ti-yi) buôn bán phải bỏ ra nhiều ngày đến Quảng Nam nộp thuế ở đó. Trấn thủ Quảng Nam cũng ban thẻ gỗ cho các thương gia. Trước tấm thẻ gỗ này người ta luôn luôn phải cúi chào rồi mới được đi, không ai dám gây nên một tiếng động. Danh tiếng của Quảng Nam quả gây ấn tượng thật sự”.11 Điều này cũng nói rõ một phần việc quản lý thương mại của chính quyền Đàng Trong đó là trấn thủ Quảng Nam là người toàn quyền quyết định ai được đến lãnh thổ của mình buôn bán, và các thương thuyền nước ngoài khi đến đây thì bắt buộc phải qua đường thương cảng Hội An hoặc Đà Nẵng đến dinh trấn Thanh Chiêm xin cấp thẻ. Trấn thủ xứ Quảng Nam là người có quyền thế và độc lập đến độ vị “vua trẻ” gần như được coi là vị vua thực thụ. 

Có thể nói rằng, thương cảng quốc tế Hội An cùng với hội chợ quốc tế hàng năm tại đây đã làm cho dinh trấn Quảng Nam có vị trí hàng đầu ở xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn trong các hoạt động ngoại thương, trong quan hệ buôn bán với nước ngoài. Những hoạt động mạnh mẽ của ngoại thương nói trên ở cảng thị Hội An dưới sự điều hành của dinh trấn Thanh Chiêm đồng thời cũng thúc đẩy hoạt động nội thương trong nội địa xứ Quảng Nam và của cả xứ Đàng Trong, chính điều này đã góp phần nâng cao đời sống nhân dân, tăng thêm nguồn thu ngân sách cho nhà nước. 

3. Kết luận 

Khi vào khai phá đất Đàng Trong, tuy mới ngoài 30 tuổi, nhưng Nguyễn Hoàng (1524 - 1613), với tầm nhìn chiến lược và những biện pháp thận trọng, đã chuẩn bị những bước đi lâu dài cho việc xây dựng và phát triển của một chính thể lâu dài. Để thu phục nhân tâm và cũng là để giữ sự bình yên cho chính thể, Nguyễn Hoàng đã ra sức vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được dân mến phục, bấy giờ thường xưng là chúa Tiên. Nghiệp đế dựng nên thực là xây nên từ đấy. 

Thời kỳ các chúa Nguyễn kế tiếp nhau xây dựng và củng cố chính quyền Đàng Trong cũng là thời đại hưng thịnh của hệ thống thương mại châu Á và thế giới. Đó là “Thời đại hoàng kim” đối với nền kinh tế hải thương của nhiều quốc gia khu vực. Để phát triển, Đàng Trong đã hội nhập nhanh chóng với mô hình phát triển chung của hầu hết các quốc gia Đông Á. Dựa vào sức mạnh của kinh tế công thương, như một yêu cầu tất yếu, chúa Nguyễn đã cho khôi phục vị thế của Chiêm Cảng. Tên gọi Faifo (Hải phố - Hội An) trở thành địa chỉ quen thuộc của nhiều thương nhân khu vực và quốc tế. Nhưng không chỉ Hội An, một hệ thống cảng miền Trung vốn có truyền thống từ thời đại Champa cũng được phục hồi trong bối cảnh kinh tế, chính trị mới. 

Lịch sử cho thấy, trong suốt thời kỳ hình thành, phát triển của thương mại, Đàng Trong cũng như cảng thị quốc tế Hội An luôn là điểm đến của nhiều thương nhân trong nước, khu vực và phương Tây, nhưng ở đây đã không diễn ra một cuộc tranh chấp hay xung đột kinh tế lớn nào. Điều đó cho thấy uy lực và năng lực điều hành, tổ chức, quản lý các hoạt động kinh tế đối ngoại của chính quyền Đàng Trong cũng như dinh trấn Quảng Nam. Một chính sách khai mở, đa phương hóa quan hệ và thực thi chế độ thuế quan nghiêm cẩn… đã đem lại sức mạnh thực tế cho chúa Nguyễn. Trải qua hơn 2 thế kỷ, mặc dù phải đương đầu với những áp lực chính trị từ nhiều phía và biết bao thủ đoạn buôn lậu, trốn thuế của các thương nhân ngoại quốc, nhưng chính quyền Đàng Trong đã thực thi quyền lực của mình với một ý thức mạnh mẽ và bảo vệ trọn vẹn chủ quyền dân tộc.

Lần đầu tiên trong lịch sử phong kiến Việt Nam, chính quyền nhà nước coi trọng vai trò của hoạt động ngoại thương, đặt ngoại thương như một nhân tố sống còn của nền kinh tế địa phương, và cũng là lần đầu tiên một chính quyền phong kiến công khai thừa nhận vai trò của hoạt động ngoại thương đối với đất nước của mình. Tính chất hướng biển mạnh mẽ của các chúa Nguyễn thể hiện một tầm nhìn mới và đồng thời cũng kế thừa và phát huy một thể chế biển đã từng tồn tại ở vùng đất này trong các giai đoạn lịch sử trước đó của dân tộc. 

Chính bởi cơ sở nông nghiệp yếu kém của Đàng Trong thế kỷ XVII gần như không thể trợ giúp cho một cuộc đấu tranh chống lại các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài đã buộc các chúa Nguyễn tạm gác lại một bên, điều mà các triều đại phong kiến trước đã làm, đó là dựa vào kinh tế nông nghiệp là chủ yếu để xây dựng nền ngoại thương một cách tự do, tạo tiềm lực mạnh để xây dựng quân đội, củng cố chính quyền để có thể chống chọi với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Cho nên từ sớm, các cảng thị ở Đàng Trong đã được các chúa Nguyễn sớm để tâm, hơn nữa, về mặt quân sự, đây còn là những yết hầu của Đàng Trong. Chính vì tầm quan trọng đó mà các chúa Nguyễn đã sớm thiết lập bộ máy quản lý ở gần các cảng thị như Hội An, Đà Nẵng với đầy đủ cơ cấu cả về kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao. Đó là dinh trấn Thanh Chiêm. Cho nên, khi nghiên cứu mối quan hệ giữa dinh trấn Thanh Chiêm với các cảng thị trong vùng, cần phải xem xét mối quan hệ giữa các cơ cấu quản lý và vận hành giữa các thương cảng với trung tâm chính trị là dinh trấn Thanh Chiêm, đồng thời cũng phải nhìn nhận bộ máy quản lý hoạt động ngoại thương ở đây với tư cách là một hệ thống cơ cấu kinh tế - chính trị - quân sự. 

Chú thích: 

1, 2, 8 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tiền biên, (Hà Nội: Sử học, 1962), 42, 60, 36. 

2. Phạm Đình Khiêm, “Đi tìm địa điểm và di tích hai thành cổ Quảng Nam và Phú Yên đầu thế kỷ XVII”, Việt Nam khảo cổ tập san, Sài Gòn, 1960, 81. 

4, 9 Cristoforo Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, (TPHCM: TPHCM, 1998), 91, 94. 129 

5. Phan Du, Quảng Nam qua các thời đại, (Sài Gòn: Cổ học tùng thư, 1974), 62. 

6. Vũ Hữu Minh, “Tấm bản đồ Huế của Le Floch de la Carriere năm 1787”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học 310 năm Phú Xuân - Huế, 1997. Dẫn theo: Trần Đình Hằng, “Vai trò của Dinh trấn Quảng Nam trong việc họ Nguyễn định đô ở Huế”, Hội thảo khoa học nhân 400 năm “Dinh trấn Quảng Nam - 2002”, 1997. 

7. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Quyển II, (Sài Gòn: Lá Bối, 1971), 89. 

10. The Log - Book of William Adams, 1614 - 1619, (London: C.J. Purnell, 1919), 104. Dẫn theo Li Tana: Xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, (TPHCM: Trẻ, 1999), 221. 

11. Đông Tây Dương khảo, (Bắc Kinh: Trung Hoa thực lực, 1981), 20.
DINH TRẤN THANH CHIÊM NGUYÊN NHÂN 
VÀ THỜI GIAN RA ĐỜI?

Nguyễn Anh Huy

Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu dựa vào Phủ biên tạp lục và Đại Nam thực lục để cho rằng Nguyễn Phúc Nguyên vào trấn thủ Quảng Nam năm 1602 là do Nguyễn Hoàng phân công. 

Dựa vào bức thư do Nguyễn Phúc Nguyên gửi Nhật Bản năm 1601 và một số sử liệu liên quan, chúng tôi xác định lại, do Nguyễn Phúc Nguyên tham gia đánh nhà Mạc có công nên được vua Lê phong tước, trao chức nguyên soái trấn thủ Quảng Nam, và vào dinh Quảng Nam từ năm 1601 chứ không phải 1602 như các sách sử đời sau chép lại! Viết về sự hình thành dinh trấn Quảng Nam, Lê Quý Đôn cho biết: “Đoan Quốc công từng đi chơi núi Ải Vân, thấy thế núi hiểm độc, lấy làm lạ, bèn qua núi vào phủ Thăng Hoa xứ Quảng Nam, trải xem hình thế, rồi sai dựng hành dinh và kho tàng để chứa lương tiền. Năm Hoằng Định thứ 3 (1602), Nhâm Dần, sai Thụy quận công Phúc Nguyên trấn thủ Quảng Nam”.1 

Quốc sử quán triều Nguyễn diễn nghĩa lại: “Nhâm Dần, năm thứ 45 (1602)... sai hoàng tử thứ sáu làm trấn thủ dinh Quảng Nam. Quảng Nam đất tốt dân đông, sản vật giàu có, số thuế nộp vào nhiều hơn Thuận Hóa mà số quân thì cũng bằng quá nửa. Chúa thường để ý kinh dinh đất này. Đến đây, đi chơi núi Hải Vân, thấy một dải núi cao dăng dài mấy trăm dặm nằm ngang đến bờ biển. Chúa khen rằng: ‘Chỗ này là đất yết hầu của miền Thuận Quảng’. Liền vượt qua núi xem xét hình thế, dựng trấn dinh ở xã Cần Húc (thuộc huyện Duy Xuyên), xây kho tàng, chứa lương thực, sai hoàng tử thứ sáu trấn giữ. Lại dựng chùa Long Hưng ở phía đông trấn”. 2 

Các nhà sử học trước đây dựa vào những ghi chép trên để cho rằng Nguyễn Phúc Nguyên vào trấn thủ Quảng Nam là do Nguyễn Hoàng phân công năm 1602. Chẳng hạn như GS. Phan Khoang viết: “Trấn Quảng Nam đất tốt, dân đông... Đoan Quốc 1Công đã có ý kinh doanh đất này... Rồi... sai công tử thứ 6 là Nguyễn Nguyên trấn giữ”3 , hoặc GS. Trần Quốc Vượng cho rằng: “Các chúa Nguyễn có một cách làm hay: Trao cho thế tử trấn thủ Quảng Nam dinh, nơi phát triển kinh tế nông công - thương nghiệp khá toàn diện trước khi ra Phú Xuân lên kế vị ngôi chúa...”.4 

Sau khi tìm hiểu kỹ về nguyên nhân Thụy Quận công vào trấn thủ Quảng Nam, chúng tôi cho rằng sự giải thích này không đúng! 

Vấn đề mà tôi thấy cần quan tâm là, theo quy chế phong tước tập ấm thì đời con, nối dõi cha, khi cha còn sống thì người con thường có tước thấp hơn cha một bậc. Đến khi người cha mất thì người con mới được phong tước bằng cha. Ví dụ: cha tước công, thì con chỉ được tước hầu, và khi người cha mất thì người con mới được phong tước công. Điều này cũng được Lê Quý Đôn ghi nhận về các chúa Nguyễn: “Họ Nguyễn trước kia đời đời làm công thần... thần hạ mới suy tôn Thái phó quốc công... con... chỉ phong tước hầu [Những chỗ in nghiêng - đậm là do chúng tôi nhấn mạnh]”.5 

Vậy thì lúc Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng còn sống thì Nguyễn Phúc Nguyên chỉ được tước hầu thôi! Vậy tại sao cả hai cha con đều là công tước (Đoan Quốc công và Thụy Quận công)? Trả lời câu hỏi này thì sẽ hé lộ ra một chuyện khác mà sử liệu viết không rõ ràng...

Sử chép: “Kính Tông, năm Thuận Đức thứ 1 (1600)... Đoan Quốc công thấy mình công danh ngày càng lớn mà không từng được thưởng thêm... không yên tâm, mưu xử bọn thủy tướng quân... làm phản... rồi tự xin đi đánh, đến nơi giả cách thua, bèn do đường biển về thẳng Thuận Hóa... Đoan Quốc công trấn thủ hai xứ đến đấy đã 40 năm rồi... đến bấy giờ lại về trấn cũ. Có mười con, đem bọn Thụy Quận công Phúc Nguyên là con thứ sáu đi theo, và sai 3 người con... ở cạnh đường mà tạ tội, xin ở lại làm con tin”. 6 Điều này cho thấy từ năm 1592, Nguyễn Phúc Nguyên đã theo cha ra Thăng Long tham gia đánh nhà Mạc. 

Và sau đó, “Thế Tông, năm Quang Hưng thứ 18 (1595), vua dẹp xong giặc Mạc trở về kinh đô, hạ chiếu cho tướng sĩ các cơ các doanh có ai có công đánh giặc thì người đã được phong tước cho thăng một bực... ”.7 

Như vậy, tước hầu của Nguyễn Phúc Nguyên đã được vua Lê thăng thêm một bậc, tức phong thành tước công là Thụy Quận công. Tuy nhiên, “Họ Nguyễn trước kia đời đời làm công thần, tuy các đời vẫn khiến thần dân gọi là chúa, nhưng khi mới nối nghiệp chỉ xưng là Thái bảo Quận công. Mấy năm sau thần hạ mới suy tôn làm Thái phó Quốc công”.8 Do vậy, tuy tước của Nguyễn Phúc Nguyên được vua Lê ban là Thụy Quận công, nhưng do người dân ở Thuận - Quảng suy tôn nên thường gọi thành là “Thụy Quốc công” như ta thấy thỉnh thoảng sử vẫn ghi: “Năm Hoằng Định thứ 3 (1602), Nhâm Dần, sai Thụy Quận công Phúc Nguyên trấn thủ Quảng Nam. Năm thứ 14, Quý Sửu, tháng 6, ngày mồng 3, Đoan Quốc công chết, trước sau làm trấn thủ 56 năm, thọ 89 tuổi, tặng Cẩn Nghĩa công, thụy là Cung Ý. Con là Thụy Quốc công Phúc Nguyên thay giữ việc quân, được sai nối kiêm trấn thủ Thuận Quảng, gia hàm Thái bảo. Bấy giờ tuổi đã 51, Nguyễn Phúc Nguyên nối ngôi, tự xưng là Thống lĩnh thủy bộ chư dinh kiêm chưởng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự... ”.9 

Năm 1601, 瑞國公 (Thụy Quốc công) xứ Đàng Trong đã gửi một bức thư cho Tokugawa Ieyasu (Đức Xuyên Gia Khang) ở Nhật Bản. Bức thư ngoại giao này, từng được học giả Lê Dư giới thiệu trong chuyên khảo Cổ đại Nam Nhật thông khảo đăng trên tạp chí Nam Phong, phần Hán văn, quyển IX, số 54 (1921), từ trang 200 - 213 và quyển X, số 56 (1922), từ trang 54-59. 

Nhiều nhà nghiên cứu từng tỏ ra băn khoăn về tác giả bức thư với danh xưng 國公 (Thụy Quốc công) Nguyễn Phúc Nguyên (?), thậm chí còn tự ý dịch thành 端國公 (Đoan Quốc công) là Nguyễn Hoàng, vì cho rằng có thể tác giả bức thư viết nhầm chữ (đoan) thành (thụy) vì hai chữ này gần giống nhau... Tuy nhiên, chúng tôi đã có nhiều chứng cứ chứng minh được bức thư này đúng là của 瑞國公 (Thụy Quốc công) Nguyễn Phúc Nguyên viết!10 

Phân tích nội dung bức thư, ta thấy có các vấn đề cần lưu ý sau: 

1. Bức thư Thụy Quốc công viết năm Hoằng Định nhị niên, tức năm 1601, đã có đóng dấu 鎮守將軍之印 (Trấn thủ tướng quân chi ấn), mà chúng ta biết: “Từ thời trung hưng trở về sau, chức Trấn thủ ở các xứ do đặc chỉ ban ra”11, điều này có nghĩa rằng Trấn thủ tướng quân của Nguyễn Phúc Nguyên là một chức vụ do vua Lê ban! 

Vậy vùng đất Nguyễn Phúc Nguyên trấn thủ là vùng nào? Điều này đã được Nguyễn Khoa Chiêm...
Bức thư do Nguyễn Phúc Nguyên gửi
Nhật Bản năm 1601. Ảnh: Võ Vinh Quang

“Trấn thủ Tướng quân chi ấn”, ấn soái trấn thủ Quảng Nam 
của Nguyễn Phúc Nguyên. Ảnh: Võ Vinh Quang 

... Chiêm ghi rõ: “... năm Tân Sửu, niên hiệu Hoằng Định thứ hai (1601)... con của chúa Tiên ở Nam triều là Thụy Quận công trấn thủ Quảng Nam...”.12 

Những chứng cứ này cho thấy, Thụy Quốc công Nguyễn Phúc Nguyên vào trấn thủ Quảng Nam từ năm Tân Sửu 1601, chứ không phải đến năm Nhâm Dần 1602 như Lê Quý Đôn và Quốc sử quán triều Nguyễn ghi! 

2. Trong thư, Nguyễn Phúc Nguyên nói: “今我新任都統元帥 (kim ngã tân nhậm Đô thống Nguyên soái: nay tôi mới nhận chức Đô thống Nguyên soái)”, và “上年我奉命天 朝復臨巨鎮 (thượng niên, ngã phụng mệnh Thiên triều phục lâm cự trấn: năm ngoái, tôi vâng mệnh Thiên triều đến trấn lớn này”. 

Ta lại được biết: “Từ thời trung hưng trở đi, phàm quan viên vâng đặc ân hoặc gia ân được thăng chức tước, thì phủ liêu phụng đưa ngự chỉ ra triều đường... Ngày dự định khâm ban... các quan đến ngoài cửa Đoan Môn cử hành lễ khâm ban...”. 13 Cho nên, lời viết trong thư của Nguyễn Phúc Nguyên là “Năm ngoái, tôi vâng mệnh Thiên triều đến trấn lớn này”, cho thấy việc Thụy Quốc công trấn thủ Quảng Nam năm 1601 càng rõ ràng. Bởi vì như trên đã nói, muốn nhận ấn tín của triều Lê thì phải đến cửa Đoan Môn ở Hoàng thành Thăng Long để nhận, mà đọc lại sử sách, ta được biết năm 1600 thì hai cha con Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên vẫn còn ở Đông Đô, cho nên mới đến Đoan Môn được. 

Như vậy, dựa vào bức thư do chính tay Thụy Quốc công Nguyễn Phúc Nguyên gửi cho Nhật Bản năm 1601 và các sử liệu, ta có thể dựng được quá trình hình thành dinh trấn Thanh Chiêm ở Quảng Nam như sau: 

- Năm 1570, do Nguyễn Bá Quýnh từ trấn thủ Quảng Nam được vua Lê triệu đến trấn thủ Nghệ An, Đoan Quận công Nguyễn Hoàng từ chức vụ trấn thủ Thuận Hóa, được kiêm lãnh hai xứ Thuận Hóa - Quảng Nam “đeo ấn tổng trấn tướng quân”14, nhưng ông chưa bao giờ vào Quảng Nam xem xét tình hình cuộc sống dân cư, mà chỉ "giao...

... cho tùy tướng là Dũng Quận công lưu thủ Quảng Nam để thu phục dân chúng”.15 

- Năm 1592, Đoan Quốc công cùng Hầu tước Nguyễn Phúc Nguyên ra Đông Đô giúp vua Lê đánh nhà Mạc, có công, nên Hầu tước Nguyễn Phúc Nguyên được thăng một bậc thành Thụy Quận công. 

- Năm 1600, vua Lê trao chức Đô thống Nguyên soái, trấn thủ Quảng Nam cho Nguyễn Phúc Nguyên tại Đoan Môn. Sau khi nhận ấn tín, hai cha con Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên bỏ về Nam. Cũng trong năm này, để đi trước một bước giúp con mình, Nguyễn Hoàng vào Quảng Nam xem xét tình hình và chọn nơi xây dựng kho tàng, chứa lương tiền... Đó là tiền thân của dinh trấn Thanh Chiêm. 

- Năm 1601, Thụy Quốc công Nguyễn Phúc Nguyên chính thức vào trấn thủ Quảng Nam, đặt dinh quân đội, khu hành chính... ở nơi cha mình đã xây dựng, và phát triển thành dinh trấn Thanh Chiêm... 

Chú thích: 

1, 5, 6, 8, 9, 15 Lê Quý Đôn toàn tập, Tập 1: Phủ biên tạp lục, (Hà Nội: Khoa học Xã hội, 1977), 51-52, 67, 51, 67, 52, 50. 

2, 14 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, (Hà Nội: Giáo dục, 2002), 35-36, 29. 

3. Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong, (Hà Nội: Văn học, 2001), 125. 

4. Trần Quốc Vượng, Dặm dài đất nước, (Huế: Thuận Hóa, 2006), Tập 2, 85. 

7. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, (Hà Nội: Khoa học Xã hội, 1992), 532. 

10. Xem các bài: Võ Vinh Quang, “Một số nhận định về tác giả An Nam quốc thư của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quảng Trị - Đất dựng nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng (1858 - 1613), Triệu Phong, ngày 25.9.2013; Nguyễn Anh Huy, “Về tác giả bức thư gởi Nhật Bản năm 1601”, Xưa và Nay, Số 445, Tháng 3/2014. 

11, 13 Lê Quý Đôn toàn tập, Tập 2: Kiến văn tiểu lục, (Hà Nội: Khoa học Xã hội, 1977), 125, 127-128. 

12. Nguyễn Khoa Chiêm (Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch), Nam triều công nghiệp diễn chí, (Hà Nội: Hội Nhà văn, 2003). Xem từ trang 83 đến 86 kể về chuyện Nguyễn Phúc Nguyên vào trấn thủ Quảng Nam.
TỪ SỰ KIỆN DỰNG DINH TRẤN THANH CHIÊM NHÌN LẠI PHƯƠNG SÁCH MỞ CÕI CỦA CHÚA NGUYỄN HOÀNG?

Lê Bá Vương - Lê Thị Minh Thư  

1. Thách thức và cơ hội 

Năm 1558, Nguyễn Hoàng phải nhờ chị của ông tác động để chúa Trịnh Kiểm tâu với vua Lê “bổ ông làm trấn thủ, để trị an nơi biên thùy”1 (tức vùng Thuận Hóa). Trong mắt của Trịnh Kiểm lúc này, Nguyễn Hoàng đóng vai trò quan trọng trong chiến lược trung hưng: “Nguyễn Hoàng là một người trầm tĩnh cương nghị, lại có mưu lược, đối với quân sĩ có độ lượng khoan dung giản dị”.2 Ở đây không loại trừ âm mưu của Trịnh Kiểm mượn cớ loại bỏ đối thủ đoạt quyền họ Trịnh. Tình thế đó buộc Nguyễn Hoàng phải tìm cách thoát thân. Xin vào trấn trị Thuận Hóa là chủ đích của Trịnh Kiểm, đồng thời cũng nằm trong kế hoạch của chúa Tiên trong mưu đồ trung hưng họ Nguyễn. Tuy nhiên, ông sẽ gặp nhiều khó khăn hơn thuận lợi. 

Ở phía nam sông Gianh, lịch sử dân tộc chứng kiến nhiều cuộc thiên di của người Việt tới khai phá trước thế kỷ XVI. Quá trình đó diễn ra mạnh mẽ hơn từ khi có sự hiện diện của họ Nguyễn. Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, “những người bộ khúc đồng hương ở Tống Sơn và những người nghĩa dũng xứ Thanh Hóa đều vui lòng đi theo”. Năm sau, (1559) “dân Thanh Hoa và Nghệ An lưu tán nhiều vào Nam”.3 Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục đều ghi vào các năm: 1561, 1570, 1572, 1586, 1588, 1589, 1592, 1594, 1595, 1596, 1597, 1608 mất mùa đói kém, dân phải bỏ quê xiêu tán vào Nam. Chẳng hạn năm 1572: “Nghệ An lại có đói và bệnh dịch, nhân dân bị xiêu dạt... kéo vào Nam, vùng Thuận Quảng”.4 Kết quả nghiên cứu của TS. Huỳnh Công Bá cũng cho biết “tổ tiên của 63 dòng họ đến khai phá vùng Bắc Quảng Nam từ thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVIII chủ yếu thuộc người vùng Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Dương và Thăng Long”.5 Những sự kiện diễn ra liên tục từ giữa thế kỷ XVI như một thông lệ: cứ lâm vào cảnh bức bách, bần cùng, dân lại di cư vào vùng nam sông Gianh. Thuận Quảng khó tránh khỏi tình trạng phức tạp. Lê Quý Đôn phản ánh: “Bấy giờ kỷ cương rối loạn, giặc cướp nổi nhiều, triều đình không dẹp yên được”6 ; “Triều đình để ý phủ dụ, đặt quan tam ty và quan phủ huyện để cai trị, nhưng lòng dân vẫn còn giáo giở”.7 Thu phục nhân tâm, ổn định xã hội là yêu cầu và thách thức không nhỏ đối với Nguyễn Hoàng. 

Thuận - Quảng lúc này vẫn là vùng đất của các trung tâm văn hóa có quá khứ huy hoàng. Thách thức không nhỏ được đặt lên vai Nguyễn Hoàng ở việc thu phục dân bản địa. Sau sự kiện vua Lê Thánh Tông tiến đánh Champa, chia nước này làm 3 vùng lãnh thổ (Đại Chiêm, Hoa Anh và Nam Phan) gộp cả vào đạo Quảng Nam, có ý kiến cho rằng, “lịch sử của Chiêm Thành đến đây là hết,… họ chỉ còn một mối liên hệ chung cuối cùng là cái tên “Chàm” mà thôi, cái tên này cũng chẳng bao lâu bị xóa nhòa trong trí nhớ của con người”.8 Nhưng các cuộc nổi dậy của Champa diễn ra từ thời Nguyễn Hoàng cho đến hết thế kỷ XVII (1571, 1611, 1629, 1653, 1693, 1694, 1697) đã không nói lên điều đó. Dương Văn An trong Ô châu cận lục (viết khoảng năm 1553) cho thấy không ít người Chiêm còn trên đất Thuận - Quảng: “Người La Giang nói tiếng Chiêm. Dân Hoài Tài, Tân Nộn và Đan Lương (nay thuộc Phú Vang, Thừa Thiên Huế) thì quá nửa có thói mây mưa. Dân Bao Vinh, Lại Ân và Thế Lại (thuộc huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế) vẫn giữ tục của Giang Hán. Thói quen tính tập vẫn thường có vậy”9 ; “Huyện Điện Bàn đất đai liền với phương Nam, cương giới ở ngoài châu Ô… Hóa Khê, Cẩm Lệ đóng cọc gỗ để chắn cá sấu; Lỗi Sơn, Chiêm Sơn rào rổng gỗ mà phòng hổ báo. Đàn bà mặc váy Chiêm, đàn ông dùng quạt Bắc”.10 Dấu vết văn hóa Chăm còn để lại trong đời sống người Việt ở Quảng Nam khá đậm nét ở tục cúng cá Ông, hệ thống miếu Bà Giàng, Bà Lồi, Bà Thu Bồn, Thiên Y A Na, Diễn Phi Chúa Ngọc, Phiếm Ái Châu Đại Phu Nhân… “Trong một trạng thái tâm lý bất ổn, người Việt vừa bị lôi cuốn nhưng đồng thời lại cố gắng tìm cách thoát khỏi (hay thu phục khi có thể) nền văn hóa xa lạ đã có trước khi họ đến và thường là vẫn bao quanh họ”.11 Thực tế này đòi hỏi chúa Tiên phải suy tính cẩn trọng cho chiến lược an dân, trị quốc. Có thể nói, Việt Nam từ thế kỷ XVI bước vào một giai đoạn đặc biệt đầy biến động của lịch sử dân tộc. Nhà Lê Sơ bước vào suy vong, kéo theo hậu quả của nó với những cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến, trong khi các cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra khắp nơi. Cơ sở tồn tại cho chế độ quân chủ phong kiến có nguy cơ sụp đổ, đòi hỏi phải tìm ra lối thoát cho dân tộc. Một trong những hướng đi đó là “Nam tiến”. Nguyễn Hoàng làm trấn thủ Thuận Hóa năm 1558, lúc này “dân vẫn chưa một lòng”.12 Chọn đất Thuận Hóa để dung thân là một quyết định mạo hiểm nhưng có cơ sở của chúa Tiên. GS.TS. Keith W. Taylor bình luận: “… Nhưng chiến thắng không phải là dễ dàng đối với Nguyễn Hoàng… Đối thủ của ông được xác định là những người xa lạ và là ‘con quái vật nhiều đầu’, với ông không có niềm vui rõ ràng của sự thắng lợi. Cuối cùng ông cũng có một lựa chọn mang tính quyết định mà khi nhìn lại, nó dường như rất tự nhiên và không thể tránh khỏi. Đó là việc ông đã quyết định bỏ lại chính quyền Lê Trịnh nơi ông được dựng lên và cũng là nơi ông tiến hành tham vọng của mình suốt hơn nửa thế kỷ, bởi rằng một thế giới khác đã vẫy gọi, một thế giới chưa định hình nhưng đã được an bài, trở thành nơi con người tìm thấy sự giải thoát khỏi những đòi hỏi truyền thống, nơi những sử gia Việt Nam mô tả như một miền duyên hải thiên đường của hòa bình, phồn vinh và những thương nhân ngoại quốc, đó là đất Thuận - Quảng”.13 

Trên vùng Thuận - Quảng, Nguyễn Hoàng phải đối mặt với thách thức lớn đồng thời cũng là cơ hội không thể tốt hơn trong một tình cảnh hiểm nghèo: yêu cầu ổn định xã hội, xây dựng chính quyền vững mạnh và mở rộng lãnh thổ. Thách thức có thể trở thành cơ hội hoặc ngược lại phụ thuộc vào tài thao lược của chúa Tiên. Thực tế cho thấy quyết tâm lớn lao trong con người Nguyễn Hoàng. Câu nói “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”14 như kíp nổ cho quả tên lửa đã sẵn sàng trên bệ phóng. Khi đang cần thêm sức mạnh tinh thần nhằm lôi kéo nhân tâm, lời sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thành niềm tin và động lực cho họ Nguyễn và những ai muốn theo họ Nguyễn thêm quyết tâm thực hiện một cuộc tẩu thoát. Những gì diễn ra phần nào đúng theo kế hoạch của Nguyễn Hoàng. 

2. Dinh trấn Thanh Chiêm trong chiến lược của Nguyễn Hoàng 

Năm 1602, Thanh Chiêm (nay thuộc thôn Thanh Chiêm, xã Điện Phương, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) được Nguyễn Hoàng chọn làm trấn sở cho vùng Quảng Nam trở vào. Đây là quyết định mang tính chiến lược của chúa Tiên. 

Đất Thanh Chiêm nối liền miền núi với biển Đông, nằm dọc đường thiên lý Bắc - Nam, thuận lợi về mọi mặt. Dưới góc độ địa kinh tế - chính trị, Quảng Nam rất thích hợp với phương thức sinh sống đa dạng, kết hợp giữa nông nghiệp và thương nghiệp. Từ tâm điểm Thanh Chiêm sẽ nối với cảng thị Hội An. Hội An trong thế kỷ XVII và XVIII trở thành một cảng thị vào loại sầm uất của cả vùng Đông Nam Á chính là được quyết định bởi những chính sách, sự điều hành của dinh trấn Thanh Chiêm - trung tâm hành chính lớn nhất của trấn Quảng Nam. Thanh Chiêm là trung tâm chính trị còn Hội An là một cảng thị lớn nhất được Nguyễn Hoàng chọn làm nơi cho cuộc thử nghiệm và thực thi chính sách tiếp nhận văn minh phương Tây. TS. Lê Huỳnh Hoa cho rằng: “Với sự kiện dựng trấn Thanh Chiêm làm trung tâm vùng nam Hải Vân, chính quyền các chúa Nguyễn bắt đầu thực hiện chủ trương và biện pháp chủ yếu thể hiện chính sách giao thương có tính chủ động, “mở cửa”… Một chính sách mở rộng giao thương quốc tế mà vẫn giữ được bờ cõi”.15 Không phải ngẫu nhiên mà Quảng Nam được coi là cái nôi của chữ Quốc ngữ. 

Bên cạnh đó, Thanh Chiêm vốn đã được lưu dân Việt chọn làm nơi tụ cư, đặc biệt là đồng hương của họ Nguyễn. Theo gia phả tộc Trần làng Thanh Chiêm cho biết: “Tên làng được đặt từ các di dân Thanh Hóa. Thanh (hóa) và Chiêm (Chiêm động)”.16 Khi chọn địa điểm này dựng trấn dinh, chúa Tiên muốn thể hiện quyền bảo hộ của mình đối với dân chúng đồng thời mong có một hậu thuẫn làm cơ sở để mở rộng lãnh thổ. 

Mặt khác, Thanh Chiêm nằm bên bờ sông lớn nhất trong vùng, nối biển Đông với Trường Sơn, lại nằm trên trục đường thiên lý Bắc - Nam, do đó rất thuận lợi để xây dựng căn cứ quân sự, cũng là nơi có thể đặt cơ sở hậu cần an toàn nhất của quân họ Nguyễn. 

Nhà nghiên cứu Phan Thuận An cho rằng Quảng Trị là “địa bàn chiến lược tối ưu của chúa Nguyễn Hoàng”.17 Điều này có lẽ chỉ đúng với giai đoạn mới vào trấn trị Thuận Hóa, trong một tâm thế luôn phải đề phòng chúa Trịnh. Việc Nguyễn Hoàng ba lần thay đổi thủ phủ ở Quảng Trị trong nửa thế kỷ làm chủ Thuận Hóa [dinh Ái Tử (1558), dinh Trà Bát (1570), dinh Cát (1600)] đã thể hiện những trăn trở ở ông. Hẳn rằng vùng đất này quá nhỏ hẹp, không thỏa mãn được khát khao của một người đang mang trong mình tham vọng lớn. Năm 1570, Nguyễn Hoàng đã được thỏa mãn phần nào khi ông bắt đầu được kiêm lãnh thêm xứ Quảng Nam. Ngay năm sau (1671), tuyên bố quyền làm chủ của mình bằng một hành động quân sự: “Bấy giờ Quảng Nam cũng có bọn thổ mục rối loạn, cướp giết lẫn nhau. Chúa sai thuộc tướng Mai Đình Dũng dẹp yên, nhân đấy, sai ở lại giữ đất để thu phục vỗ yên tàn quân”.18 Từ đây, tầm nhìn của chúa Tiên đã biến chuyển: hướng về phương Nam với khát vọng thay đổi vị thế của vị thủ lĩnh đang bị kìm hãm ở vùng đất chật hẹp Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng sớm nhận ra vị trí chiến lược của vùng đất mà Thanh Chiêm là tâm địa: “Chỗ này là đất yết hầu của miền Thuận Quảng”.19 

Chúa Tiên thực hiện cơ chế “toàn quyền” định đoạt mọi việc của dinh trấn. Đây còn được chọn làm trường thực tập, đào luyện các thế tử, đồng thời thực thi chính sách mở cửa tối ưu nhằm xây dựng một hậu phương vững chắc làm bàn đạp mở rộng bờ cõi về phương Nam. Ngay sau khi dựng dinh trấn Thanh Chiêm, Nguyễn Hoàng đã tiến thêm vào phía Nam, cho thành lập thêm phủ Điện Bàn, đổi phủ Tiên Dinh thành phủ Quảng Bình, phủ Tư Nghĩa thành phủ Quảng Ngãi (1604), năm 1611 tấn công Phú Yên cắm mốc chủ quyền nơi đây. Lời trăn trối trước khi lâm chung của chúa Tiên một lần nữa cho thấy tầm nhìn chiến lược và tâm nguyện của ông về đất Thuận Quảng, nơi dinh trấn Thanh Chiêm được coi là thủ phủ thứ hai của chính quyền họ Nguyễn: “Đất Thuận Quảng phía bắc có Hoành sơn và Linh giang (sông Gianh) hiểm trở, phía nam ở núi Hải Vân và núi Đá Bia vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thế lực không địch được, thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta”.20 Như vậy, trong con mắt chiến lược của Nguyễn Hoàng, Thanh Chiêm đóng vai trò địa đầu, tạo bàn đạp cho họ Nguyễn Nam tiến. 

3. Phương thức mở cõi và kinh nghiệm của hơn nửa thế kỷ 

Khát vọng của Nguyễn Hoàng không dừng lại ở vùng đất Champa. Nó có tầm khu vực và rộng hơn trong bối cảnh quốc tế lúc bấy giờ, khi làn sóng phương Tây đang tràn sang mạnh mẽ. Đại Nam liệt truyện chép: “Triều ta (Nguyễn) vua Thái tổ hoàng đế khi mới gây nghiệp ở Thuận Hóa, chỉ lấy Chiêm Thành làm nơi phụ quách, riêng sửa sang trước. Còn Chân Lạp thì trì hoãn chưa nghĩ tới”.21 Vì vậy, vùng đất từ nam đèo Hải Vân được ông quan tâm khá sớm. Vấn đề là tìm phương cách phù hợp để thực hiện được chiến lược. 

Trên con đường mưu bá đồ vương, Nguyễn Hoàng lấy an dân làm yếu lược: “Bấy giờ mọi việc bắt đầu. Chúa khuya sớm chăm lo, nghĩ việc củng cố căn bản. Nguyễn Ư Dĩ cùng bọn Tống Phước Trị (bấy giờ gọi là Luân quận công), Mạc Cảnh Huống cùng lòng hợp sức, quy hoạch nhiều phương, chúa đều thành thực tin dùng”.22 Bởi “chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân đều yên cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp. Thuyền buôn các nước đều đến nhiều. Trấn trở nên một nơi đô hội lớn”.23 

Để yên lòng dân, thu phục nhân tâm, đồng thời để thu hút cư dân các địa phương vùng Bắc Trung Bộ tiếp tục di cư vào Thuận Hóa sinh sống: “Chúa vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được dân mến phục, bấy giờ thường xưng là chúa Tiên”.24 

Chúa Nguyễn Hoàng áp dụng chế độ “dĩ binh ư nông” trong quá trình khai phá và mở rộng lãnh thổ. Tộc phả bằng chữ Hán của họ Nguyễn (dòng Nguyễn Bá Niên) đã chép về thời điểm vị thủy tổ của họ khi đến khai canh đất này: “Ngài thủy tổ ta tên Bá Niên, nguyên người xã Lương Niệm, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, Trấn Thanh Hoa, đầu niên hiệu Chính Trị đời Lê [niên hiệu của Lê Anh Tông (1558 - 1571)], theo quân đội vào… đứng đơn xin khai trưng phần đất ấp ta, vạch ranh giới, mở ruộng nương, làm lợi cho dân suốt bốn trăm năm nay”.25 

Tổ chức di dân, khai hoang đồng thời bảo hộ dân bản địa để mở rộng cương vực đem lại hiệu quả bền vững hơn việc dùng vũ lực. Năm 1611, lãnh thổ Đàng Trong đã tới Phú Yên dưới quyền quản lý của Chủ sự Văn Phong. Chức Chủ sự trong chính quyền Đàng Trong chủ yếu làm nhiệm vụ quản lý an ninh trật tự. Như vậy, việc dẹp loạn cuộc chống đối của người Chiêm lúc này chỉ là bước một, nhiệm vụ thứ hai chính yếu hơn mà Nguyễn Hoàng giao phó cho Văn Phong là quản lý cư dân. Đường lối này thể hiện rõ tư tưởng “khoan thư sức dân làm kế sâu dễ bền gốc”26 của chúa Tiên noi theo gương của tiền nhân. 

Trên bước đường Nam tiến, dân bản địa chưa đồng lòng quy phục họ Nguyễn, đặc biệt trong niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo (đây là thước đo cho sự trung thành một cách bền vững nhất). Để giải bài toán mang nhiều biến số này, chúa Tiên cho thực thi chính sách đa dạng hóa dựa trên nền tảng Tam giáo (Nho - Phật - Lão) nhưng có phần chú trọng Phật giáo hơn. 

Sự trải nghiệm xương máu của cả đời dựng nghiệp cho họ Nguyễn với tầm nhìn của một nhà chiến lược giúp Nguyễn Hoàng nhận ra một chân lý: dùng vũ lực chỉ mang lại sự quy thuận gượng ép. Người Chăm sẽ lợi dụng bất cứ một cơ hội nào dù là nhỏ nhất để giành lại lãnh thổ. Nhưng bằng chính sách di dân, an dân, cho người Việt “sống lẫn lộn với người Man”27, “người Kinh người Thổ ở lẫn”28 trong sự bảo hộ của nhà nước, các chúa Nguyễn đã thu được kết quả tốt đẹp. Những chính sách nhằm mở rộng lãnh thổ được áp dụng hơn một thế kỷ (nếu tính từ năm 1558) giúp các chúa Nguyễn nhận ra rằng: dân tới đâu, chủ quyền quốc gia sẽ tới đó. Đồng thời phải từng bước biến cư dân bản địa thành thần dân của mình, nếu không thì cũng cố gắng tạo ra môi trường ổn định với điều kiện có thể thâu tóm được họ. 

Trong khi đó, Phật giáo Đại thừa vốn là nét văn hóa truyền thống Việt. Trong hoàn cảnh mới này, các chúa Nguyễn phải đưa ra một bệ đỡ tinh thần có thể thay thế cho tín ngưỡng của người bản địa đồng thời củng cố tinh thần lưu dân. Phật giáo Đại thừa là một lựa chọn phù hợp. Bởi “Phật giáo một mặt đẩy mạnh bản sắc dân tộc của người Việt, mặt khác làm lắng đọng các mối lo âu của người di dân mà không đặt lại vấn đề tính hợp pháp của những người cai trị”.29 Xây dựng bộ máy quan lại theo luân thường Nho giáo nhưng Phật giáo Đại thừa được xiển dương trở thành công cụ đánh dấu sự hiện diện của mình trong quá trình mở rộng lãnh thổ và xác lập chủ quyền. Chúa Tiên (cái tên mang đậm màu sắc Lão giáo) đã cho dựng chùa “để tụ khí thiêng, cho bền long mạch”30: năm 1601 dựng chùa Thiên Mụ (Huế); năm 1602 tu sửa chùa Sùng Hóa (Huế). Cũng trong năm này, sau khi dựng xong dinh trấn Quảng Nam, Chúa Tiên cho dựng chùa Long Hưng ở phía đông trấn; năm 1607, dựng chùa Bảo Châu ở Trà Kiệu (Quảng Nam); năm 1609 dựng lại chùa Kính Thiên ở Thuận Trạch, huyện Lệ Thủy (Quảng Bình). Với chính sách này, Nguyễn Hoàng không chỉ bảo tồn được bản sắc của người Việt, mà đối với dân bản địa, hành động noi theo kịch bản từ các triều vua Champa xưa kia, họ Nguyễn có thể khẳng định được quyền tối thượng trên mọi làng xã. Họ Nguyễn muốn cho thần dân hiểu rằng: từ phía nam sông Gianh chúa Nguyễn chính là chủ nhân duy nhất. 

Công cuộc mở cõi phải tiến hành tuần tự theo một kế hoạch dài hạn nhưng chắc chắn: “dân đi trước, nhà nước theo sau”. Đến khi chết (1613), Nguyễn Hoàng đã cắm được cột mốc biên giới đến Phú Yên. Lê Quý Đôn (người của nhà Lê - Trịnh) cũng ghi nhận: “Đoan Quận công có uy lược, xét kỹ, nghiêm minh, không ai dám lừa dối. Cai trị hơn mười năm, chính sự khoan hòa, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dùng phép công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quân dân hai xứ thân yên tin phục, cảm thân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang, ai cũng cố gắng, trong cõi đều an cư lạc nghiệp. Hàng năm nộp thuế má để giúp việc quân việc nước, triều đình cũng được nhờ”.31 Mặc dù, “từ vùng núi Cù Mông về nam vẫn là người Man, người Lào ở, chưa có thì giờ kinh lý đến”.32 Nhưng với chính sách đúng đắn, chúa Nguyễn Hoàng đã tạo cơ sở cho các chúa Nguyễn sau đó phát triển một vương quốc có thể chống lại Đàng Ngoài và mở rộng lãnh thổ về phương Nam: “Đến đời Nhân Quận công thì đã qua ba đời, nghiệp bá đã vững”.33 Những gì Nguyễn Hoàng đã làm thực sự là cố gắng và đóng góp lớn lao của ông cho lịch sử dân tộc. 

4. Nhận xét và kết luận 

4.1. Dinh trấn Thanh Chiêm ra đời nằm trong kế sách “tàm thực” của Nguyễn Hoàng 

Họ Nguyễn với công đầu tiên của Nguyễn Hoàng đã tạo dựng một quốc gia hưng thịnh trong mối quan hệ không những với khu vực mà còn đóng vai trò quốc tế. Phương sách mở cõi của chúa Tiên là “tằm ăn dần” theo công thức “lưu dân đi trước, nhà nước theo sau” đã đưa đến thành quả to lớn và được kế thừa liên tục qua các đời chúa Nguyễn. Kết quả của chính sách ấy được sử gia Lê Quý Đôn tổng kết: “Thời Trung Hưng, đầu năm Hoằng Định, đổi phủ Tân Bình làm phủ Tiên Bình. Họ Nguyễn đổi làm phủ Quảng Bình; lấy huyện Điện Bàn phủ Triệu Phong dựng làm phủ, quản 5 huyện, lệ vào xứ Quảng Nam; đổi huyện Lệ Giang phủ Thăng Hoa làm huyện Lễ Dương, huyện Hy Giang làm huyện Duy Xuyên; đổi phủ Tư Nghĩa làm phủ Quảng Nghĩa (Ngãi), phủ Hoài Nhơn làm phủ Quy Nhơn. Lại đánh lấy đất nước Chiêm Thành và nước Cao Miên, đặt 5 phủ Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận, Diên Khánh, Gia Định và trấn Hà Tiên lập các xứ Phiên Trấn, Trấn Biên, Long Hồ, mở thêm đất rất rộng”.34 

4.2. Muốn phát triển quốc gia phải có chính sách an dân đúng 

Ngoài những cuộc chinh phạt xâm chiếm lãnh thổ Champa (và Chân Lạp sau này), không thấy nguồn sử liệu nào đề cập tới xung đột giữa lưu dân Việt với cư dân bản địa. Có thể không hoặc rất ít điều đó xảy ra. Bằng con đường hòa bình và tự nguyện là chủ yếu, chúa Tiên tạo ra những “vết dầu loang” êm ả, thấm dần khắp đất Nam Hà. Dân đến đâu chủ quyền lãnh thổ của chúa Nguyễn được xác lập vững chắc đến đó. Đây là một phương sách hữu hiệu nhất có thể phát triển và bảo vệ lãnh thổ trong tình thế Bắc lấn (từ quân Trịnh), Đông phạm (từ phương Tây). 

Thế kỷ XVII, Quảng Nam vẫn là vùng đất rộng người thưa. “Tình thế ấy chưa thể vội dùng pháp luật để ràng buộc được, cho nên phải tính toán bằng nhiều cách…, nên để cho dân tùy nghi khai hoang lập ấp cho ngày càng rộng ra”.35 Nguyễn Hoàng tỏ ra rất biết tạo tình thế và chớp thời cơ trong tiến trình Nam tiến. Trên vùng đệm Hoa Anh, chúa Nguyễn đã chủ động làm tình hình thêm trầm trọng, làm chủ cục diện tiến tới làm người quyết định tương lai phát triển và cuối cùng trở thành chủ nhân của vùng đất “hoang nhàn” đó. Tất nhiên, nếu Nguyễn Hoàng chỉ dùng quân sự, chắc chắn khó có thể mang lại kết quả mong muốn. 

Trong quá trình mở cõi, Nguyễn Hoàng đã thu phục cư dân bản địa, nhưng thực tế cho thấy, lúc nào người Việt (lực lượng đông đảo và hăng hái nhất) tạo lập được cuộc sống ổn định, khi ấy lãnh thổ của họ mới được khẳng định vững chắc. Việc xây dựng chính quyền địa phương được diễn ra liên tục với phương thức “lưu dân đi trước, nhà nước theo sau” cũng chính là kế sách an dân của họ Nguyễn. Theo tư tưởng “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” của Nho giáo kết hợp tinh thần an cư tịnh lạc trong Phật giáo, chúa Tiên biết lấy dân làm trọng, an dân đúng cách. Mở rộng lãnh thổ là điều kiện đảm bảo cho ổn định và phát triển quốc gia, đáp ứng được những khát khao sáng tạo của dân chúng. Thành công mang lại không những giải quyết được mâu thuẫn giai cấp trong xã hội Thuận - Quảng lúc này, hơn thế, còn mở đường cho sự phát triển. Muốn phát triển quốc gia phải thi hành chính sách an dân đúng. Đây là một bài học lớn của Nguyễn Hoàng để lại cho hậu thế. 

4.3. Trên bước đường Nam tiến không thể thiếu vai trò của nhà nước 

Vai trò lãnh đạo, tổ chức và quản lý của chính quyền họ Nguyễn là rất quan trọng trong tiến trình Nam di. Thiết lập chính quyền ở xứ Quảng với sự ra đời của dinh trấn Thanh Chiêm vừa là kết quả vừa là nguyên nhân cho sự phát triển. Nó không những đáp ứng được khát vọng xây dựng chính quyền, mở rộng lãnh thổ của các chúa Nguyễn mà còn đáp ứng lòng khát khao của một bộ phận không nhỏ lưu dân người Việt đang cần một sự bảo hộ thực sự trước những mối đe dọa từ lực lượng người Chăm. Dinh trấn Thanh Chiêm trở thành một trung tâm chính trị, một hậu cứ chiến lược để Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn kế tục thực hiện khát vọng chiếm lĩnh toàn bộ lãnh thổ Champa và đồng bằng sông Cửu Long. 

Tạo điều kiện cho di dân tự do đến những vùng đất “hoang vu”; tiếp đó lập ấp, dựng chính quyền mới để quản lý và bảo hộ cư dân; cuối cùng là di dân có tổ chức, khai phá trên quy mô lớn hơn rồi tuyên bố chủ quyền lãnh thổ là công thức của Nguyễn Hoàng được các chúa Nguyễn nối nghiệp kế thừa một cách trọn vẹn trong suốt tiến trình mở cõi. Công thức đó được sử gia triều Nguyễn ghi lại: “Trời bảo thánh nhân dựng nước dựng ngôi, dân theo người đức nên đô nên ấp… Đắp đồn lũy, lập trấn dinh, chia phủ châu, họp dân cư, quy mô bản đồ đầy đủ… Truyền nhau trước làm sau theo, dốc lòng dựng, siêng năng xây, đã từ lâu lắm”.36 Kết quả to lớn trong công cuộc Nam tiến của nhân dân chỉ được khẳng định thực sự khi có sự hiện diện và bảo hộ của chính quyền các chúa Nguyễn. Đường lối này đã thể hiện vai trò quan trọng có tính quyết định của chính quyền nhà nước trong việc đưa ra chính sách và tổ chức thực hiện, biến quá trình mở cõi tự phát thành tự giác, đồng thời tạo nên động lực căn bản nhằm xác lập chủ quyền và bảo vệ chủ quyền của các chúa Nguyễn đối với vùng đất phía nam sông Gianh. 

Chú thích: 

1,2 Lê Quý Đôn, Đại Việt thông sử, (Hà Nội: Khoa học xã hội, 1978), 306 

3, 12, 14, 18, 19, 20, 22, 23, 24, 30, 36 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, (Hà Nội: Giáo dục, 2002), 28, 36, 37, 30, 31, 11, 35. 

4. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập II, (Hà Nội: Giáo dục, 1998), 158. 

5. Huỳnh Công Bá, Công cuộc khai khẩn và phát triển làng xã Bắc Quảng Nam từ giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVIII, Luận án tiến sĩ, bản in lưu tại Thư viện Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, (Hà Nội, 1996), 85. 

6, 7, 31, 33, 34 Lê Quý Đôn toàn tập, Tập 1: Phủ biên tạp lục, (Hà Nội: Khoa học xã hội, 1977), 45, 47, 50, 103, 44. 

8. Gioocgio Maxpero, Vương quốc Chàm, (Pari: G. Văng Oet, 1928), 405. 

9, 10 Dương Văn An, Ô châu cận lục, (Nguyễn Khắc Thuần dịch và hiệu đính), (Hà Nội: Giáo dục, 1997), 42, 29. 

11. Li Tana, Xứ Đàng Trong. Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, (Nguyễn Nghị dịch), (TPHCM: Trẻ, 1999), 194. 

13, 17 Phan Huy Lê, Đỗ Bang (đồng chủ biên), Nguyễn Hoàng - Người mở cõi, (Hà Nội: Chính trị quốc gia, 2014), 50, 137. 

15. http://nghiencuuxuquang.com/

16. http://nghiencuuxuquang.com/

21. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 2, (Huế: Thuận Hóa, 2007), 568. 

25. Lê Nguyễn Lưu, Văn hóa Huế trong gia đình và họ tộc thế kỷ XVII - XVIII, (Hà Nội: Lao động, 2012), 155. 

26. Tư tưởng của Trần Quốc Tuấn thế kỷ XIII. 

27, 29 Hạ Môn chí, dẫn theo: Li Tana, Xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, (Nguyễn Nghị dịch), (TPHCM: Trẻ, 1999), 186, 194. 

28, 32 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Tập 3, (Huế: Thuận Hóa, 1996), 132, 6. 

35. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí (Lý Việt Dũng dịch và chú giải), (Biên Hòa: Tổng hợp Đồng Nai, 2006), 142. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO: 

1. Dương Văn An (1997). Ô châu cận lục. (Trịnh Khắc Mạnh và Nguyễn Văn Nguyên dịch), Hà Nội: Khoa học Xã hội. 

2. Huỳnh Công Bá (1996). Công cuộc khai khẩn và phát triển làng xã Bắc Quảng Nam từ giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVIII. Luận án tiến sĩ, bản in lưu tại Thư viện Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Hà Nội. 

3. Lê Quý Đôn toàn tập (1977). Tập I: Phủ biên tạp lục. Hà Nội: Khoa học Xã hội. 

4. Lê Quý Đôn (1978). Đại Việt thông sử. Hà Nội: Khoa học Xã hội. 

5. Trịnh Hoài Đức (2006). Gia Định thành thông chí (Lý Việt Dũng dịch và chú giải). Biên Hòa: Tổng hợp Đồng Nai. 

6. Gioocgio Maxpero (1928). Vương quốc Chàm. Pari: G. Văng Oet. 

7. Phan Huy Lê, Đỗ Bang (Đồng chủ biên) (2014). Nguyễn Hoàng - Người mở cõi. Hà Nội: Chính trị quốc gia. 

8. Lê Nguyễn Lưu (2012). Văn hóa Huế trong gia đình và họ tộc thế kỷ XVII - XVIII. Hà Nội: Lao động. 

9. Li Tana (1999). Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, (Nguyễn Nghị dịch). TPHCM: Trẻ. 

10. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002). Đại Nam thực lục. Tập 1. Hà Nội: Giáo dục. 

11. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998). Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Tập II. Hà Nội: Giáo dục. 

12. Viện Sử học (1993). Đại Nam liệt truyện. Huế: Thuận Hóa. 

13. http://nghiencuuxuquang.com/

14. http://nghiencuuxuquang.com/
LUẬN GIẢI MỤC TIÊU CỦA NGUYỄN HOÀNG TRONG 
VIỆC LẬP NÊN DINH TRẤN THANH CHIÊM?

Nguyễn Đình Cơ

Đặt vấn đề 

Năm 1558, trước nguy cơ đe dọa của người anh rể Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng lên đường trấn nhậm xứ Thuận Hóa, theo lời khuyên: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Mục tiêu ban đầu của Nguyễn Hoàng khi đặt chân đến vùng đất “Ô châu ác địa” cực Nam này không gì khác ngoài việc tìm một nơi lẩn trốn khỏi mối nguy hiểm ở Đàng Ngoài. Chắc hẳn chưa thể manh nha việc mưu đồ cát cứ ở thời điểm này trong con người chúa Tiên, có chăng ông chỉ xem Thuận Hóa như một chỗ đứng chân tạm thời để chuẩn bị cho công cuộc giành lại quyền lực từ tay họ Trịnh sau này. Điều này lý giải tại sao trong thời gian cầm quyền của mình (1558 - 1613), Nguyễn Hoàng đã hai lần không quản vất vả và hiểm nguy cùng bản bộ ra Bắc, lần thứ nhất từ năm 1569 đến năm 1572, lần thứ hai trong thời gian 1593 - 1600. 

Trong lần đầu ra Bắc, với sự thể hiện tài năng quân sự và sự khôn ngoan trong ứng xử, Nguyễn Hoàng đã được vua Lê (thực chất là Trịnh Kiểm) bổ nhiệm kiêm lãnh 2 xứ Thuận Hóa và Quảng Nam (năm 1570). Có được xứ Quảng Nam là một bước tiến quan trọng của Đoan Quận công trong quá trình gây dựng quyền lực của mình ở Đàng Trong, bởi không chỉ Quảng Nam là một xứ sở giàu có, trù phú, mà quan trọng hơn, từ đây Nguyễn Hoàng sẽ thoát khỏi thế bị kiềm tỏa từ hai phía, tạo ra hướng mở cho sự phát triển của vùng đất Thuận Hóa. Lê Quý Đôn ghi lại sự kiện này như sau: “Năm thứ 13 (1570), Nguyễn Bá Quýnh về, khiến Đoan quận công kiêm hành chức thống suất Tổng trấn tướng quân 2 xứ Thuận - Quảng, cầm binh voi thuyền để trấn giữ dân địa phương. Họ Nguyễn gồm có hai xứ đó tự bấy giờ”.1 Tuy nhiên, sự kiện năm 1570 vẫn chưa hoàn toàn thay đổi mục tiêu giành quyền lực với họ Trịnh ở Đàng Ngoài của Nguyễn Hoàng, chỉ sau chuyến đi ra Bắc lần 2 trở về (1600) mới tạo ra bước ngoặt lớn trong con người chúa Tiên cũng như vùng đất Đàng Trong. Từ đây, Nguyễn Hoàng đã có những suy nghĩ và toan tính để thay đổi cách ứng xử với chính quyền vua Lê - chúa Trịnh. Ý thức xây dựng một vương quốc Đàng Trong cường thịnh, tách biệt so với vương quốc Đàng Ngoài đã trỗi dậy trong con người chúa Tiên. Để đạt được mục tiêu này có hai vấn đề cấp bách mà theo chúng tôi thì Nguyễn Hoàng đã hình dung và bước đầu có hướng giải quyết: thứ nhất, phải nâng cao tiềm lực của vùng đất Đàng Trong một cách nhanh chóng để có thể chống lại những cuộc tấn công của Đàng Ngoài (có tiềm lực lớn hơn nhiều) sớm muộn sẽ diễn ra; thứ hai, phải mở rộng vùng đất Đàng Trong ra khỏi không gian chật hẹp của xứ Thuận - Quảng. Việc Nguyễn Hoàng cho lập dinh trấn Thanh Chiêm chỉ một thời gian ngắn sau khi lập mưu trốn khỏi Thăng Long cũng chính là phương sách để thực hiện hai mục tiêu đó. 1. Dinh trấn Thanh Chiêm với việc nhanh chóng nâng cao tiềm lực của vùng đất Đàng Trong 

Sau 8 năm ở Đàng Ngoài trở về, Nguyễn Hoàng đã quyết định sẽ đoạn tuyệt hoàn toàn với chính quyền Lê - Trịnh, xây dựng một vương quốc của riêng mình. Với một tư duy sắc bén, tầm nhìn xa, Nguyễn Hoàng đã quyết định lấy thương nghiệp làm đòn bẩy để gây dựng vương quốc của mình và dồn sức phát triển ngoại thương. “Ông (tức Nguyễn Hoàng) đã tìm thấy giải pháp cho những suy tính của ông trong việc đẩy mạnh nền thương mại với các thương gia nước ngoài”. 2 

Kế thừa một vùng đất có nhiều lợi thế về hải thương, như giáo sĩ Cristoforo Borri đến đây vào năm 1621 đã nhận xét: “Hải cảng thì thật lạ lùng, chỉ trong khoảng hơn 100 dặm một chút mà người ta đếm hơn sáu mươi hải cảng, tất cả đều rất thuận tiện để cập bến và lên đất liền. Là vì ven bờ có những nhánh biển lớn”3 , Nguyễn Hoàng đã có những chính sách cởi mở, thông thoáng để phát triển thương nghiệp, với một tinh thần tự cường cao. Ghi chép của Borri đã cho ta thấy rõ điều này: “Chúa Đàng Trong không đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả người ngoại quốc… Phương châm của người Đàng Trong là không tỏ ra sợ một nước nào trên thế giới”.4 Chúa Tiên đã đi ngược lại với truyền thống trước đây: chỉ chú trọng nông nghiệp, hạn chế thương nghiệp. Nguyễn Hoàng xem thương nghiệp là nền kinh tế chủ lực, thậm chí nói như Li Tana là lẽ sống còn đối với Đàng Trong: “Đối với các nước khác ở Đông Nam Á, vấn đề ngoại thương chỉ là vấn đề làm giàu, nhưng đối với Đàng Trong, vào buổi đầu đây là vấn đề sống chết”. 5 Việc chúa Nguyễn Hoàng cho xây dựng dinh trấn Thanh Chiêm vào năm 1602, chính là một quyết định sáng suốt, khẳng định chính sách trọng thương, hướng biển của vị chúa khởi nghiệp nhà Nguyễn ở Đàng Trong. 

Dinh trấn Thanh Chiêm là lỵ sở chính của Quảng Nam dinh đóng trên đất Thanh Chiêm, huyện Diên Khánh, phủ Điện Bàn, nay là thôn Thanh Chiêm, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Đại Nam thực lục có ghi sự kiện này như sau: “Đến đây, đi chơi núi Hải Vân, thấy một dải núi cao dăng dài mấy trăm dặm nằm ngang đến bờ biển. Chúa khen rằng: ‘Chỗ này là đất yết hầu của miền Thuận Quảng’. Liền vượt qua núi xem xét hình thế, dựng trấn dinh ở xã Cần Húc (thuộc huyện Duy Xuyên), xây kho tàng, chứa lương thực, sai hoàng tử thứ sáu trấn giữ. Lại dựng chùa Long Hưng ở phía đông trấn”.6 

Theo Đại Nam nhất thống chí thì dinh trấn Thanh Chiêm nằm trên bờ sông Sài Thị (sông Chợ Củi), một nhánh của sông Thu Bồn. Lúc bấy giờ đây là một nhánh sông lớn, do sự hợp lưu của ba ngã nguồn: Thu Bồn, Chiên Đàn, Ô Da7, chảy qua gần dinh trấn, vì thế dinh trấn có bến tàu thuyền đậu và có chợ buôn bán đông đúc, tấp nập. Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh đến vai trò của dinh trấn Thanh Chiêm trong việc kiểm soát Hội An và đề cao mục đích quản lý, thúc đẩy việc buôn bán của các thương nhân ở thương cảng lớn nhất đàng Trong này. Điều này đúng nhưng chưa đủ, chúng ta phải nên nhớ rằng khi Nguyễn Hoàng quyết định lập dinh Quảng Nam và xây dựng dinh trấn Thanh Chiêm đầu thế kỷ XVII, Hội An tuy đã phát triển nhưng chưa phải là một thương cảng sầm uất giống như sau này. Về thời gian ra đời của đô thị Hội An, theo GS. Trần Kinh Hòa, người nhiều năm nghiên cứu về ngoại thương Đàng Trong cho rằng: đô thị Hội An chỉ chính thức được thành lập trong giai đoạn cầm quyền của chúa Sãi (1613 - 1621), mốc thời gian này theo tác giả thì quá trễ so với thực tế. Ý kiến của nhà Quảng Nam học Nguyễn Văn Xuân hợp lý hơn khi cho rằng ngay từ khi Nguyễn Phúc Nguyên làm trấn thủ ở Quảng Nam (1602 - 1613) thì đô thị này đã tấp nập các thương nhân trong nước cũng như nước ngoài đến buôn bán.8 Tầm nhìn sáng suốt của chúa Tiên đã nhìn thấu được truyền thống thương mại của vùng đất Quảng Nam (từ đèo Hải Vân tới đèo Cù Mông).9 Dựng dinh trấn Thanh Chiêm thể hiện mục tiêu của Nguyễn Hoàng là muốn nhanh chóng phục hưng trở lại hệ thống thương cảng đã từng rất phát triển dưới thời kỳ Champa: Hội An, Đà Nẵng, Nước Mặn (Quy Nhơn)… trong đó quan trọng nhất là cảng thị Hội An. Có thể thấy dinh trấn Thanh Chiêm có vị trí rất quan trọng đối với dinh Quảng Nam nói riêng cũng như Đàng Trong nói chung, đặc biệt từ đây có sự kết nối trên cả đường bộ lẫn đường thủy với Hội An, thương cảng lớn nhất Đàng Trong, nơi nhiều tàu bè nước ngoài đến buôn bán và lập thương điếm: “Phía Nam và phía Đông của dinh trấn Thanh Chiêm, có sông Chợ Củi bao bọc, nối liền với cảng thị Hội An, thông ra biển Đông. Phía Tây Bắc giáp với một nhánh của sông Điện Bình (nay chỉ còn lại các đoạn bàu sen gọi là Bàu Ấu). Về đường bộ, Thanh Chiêm cũng nối với Hội An bằng đường bộ liên xã từ ngã 3 chợ Tổng đến Hội An dài khoảng 9 km và thông với đường thiên lý Bắc Nam…”.10 Vì vậy dựng dinh trấn ở đây chính là phương sách để chính quyền Đàng Trong có thể dễ dàng kiểm soát Hội An, bảo vệ và thúc đẩy buôn bán phát triển. 

Dinh trấn Thanh Chiêm chính là nơi được chúa Nguyễn Hoàng giao nhiệm vụ là trung tâm điều hành hoạt động buôn bán ở các cảng thị Đàng Trong, đặc biệt là ở Hội An. Thuyền buôn của các nước đến buôn bán ở Hội An đều phải xin phép và chịu sự kiểm soát của dinh Quảng Nam. Thế tử Nguyễn Phúc Nguyên được chúa Tiên giao toàn quyền trong việc thúc đẩy và quản lý việc buôn bán ở vùng đất Quảng Nam. Những bức thư giữa chính quyền Đàng Trong gửi cho chính quyền Mạc phủ và một số thương nhân Nhật Bản trong thời gian từ năm 1602 đến năm 1694 đã khẳng định quyết tâm của chính quyền chúa Nguyễn trong việc thúc đẩy ngoại thương phát triển. Nếu như trước đây hầu hết các nhà sử học (cả Việt và Nhật Bản) đều dựa vào nhận định của Morishige Kondo (Cận Đằng Thủ Trọng, 1771 - 1829) khẳng định những bức thông thư của chính quyền Đàng Trong (được soạn trong thời gian 1601 - 1613) trong An Nam quốc thư tác giả đều là vị chúa đầu tiên: Nguyễn Hoàng. Với những tư liệu mới được phát hiện, một số nhà nghiên cứu đã khẳng định: hầu hết những bức thông thư ngoại giao đó là do trấn thủ Quảng Nam Nguyễn Phúc Nguyên soạn thảo.11 Theo chúng tôi đây là nhận định hoàn toàn hợp lý, phù hợp với mục tiêu mà chúa Nguyễn Hoàng đã xác định đối với vùng đất này.12 Những bức thông thư này, đặc biệt là bức thông thư đầu tiên (1601) được trấn thủ Nguyễn Phúc Nguyên gửi tới Mạc phủ kêu gọi Nhật Bản thiết lập quan hệ, đưa tàu thuyền tới Đàng Trong buôn bán đã khẳng định một sự phân cấp rất rõ ràng của chúa Tiên: dinh Thuận Hóa quản lý chung, trực tiếp là vùng đất bắc đèo Hải Vân, nhiệm vụ chính là bảo vệ vùng đất Đàng Trong trước cuộc tấn công của Đàng Ngoài; dinh Quảng Nam đảm trách vùng đất nam đèo Hải Vân và có nhiệm vụ quan trọng trong việc phát triển ngoại thương ở Đàng Trong. Như nhận định của GS. Trần Quốc Vượng: “Chúa Nguyễn đóng đô ở xứ Huế mà không ở xứ Quảng vì còn luôn phải để mắt về hướng Bắc canh chừng sự xâm lấn của tập đoàn chúa Trịnh. Vượt Hải Vân mà vô xứ Quảng thì cả miền Bình Trị Thiên dễ lọt vào tay chúa Trịnh. Kinh nghiệm đã chẳng chỉ ra rằng các vua Chămpa đóng đô ở nam Hải Vân nên luôn luôn để mất từ bắc Hải Vân trở ra cho Trung Hoa rồi Đại Việt đấy thôi?“Chúa ở Phú Xuân, thế tử ở xứ Quảng” là công thức tối ưu về địa chính trị, địa chiến lược, với Hội An là cảng chính, và cũng là tiền cảng của Đàng Trong”. 13 

Từ thế kỷ XVII cho đến giữa thế kỷ XVIII, ngoại thương Đàng Trong đã có bước phát triển mạnh mẽ chưa từng có. Các cường quốc hải thương lớn của khu vực cũng như quốc tế hầu hết đều có thiết lập quan hệ buôn bán với vùng đất của chúa Nguyễn. Trong sự phát triển đó, dinh Quảng Nam chắc chắn nằm ở vị trí trung tâm với thương cảng Hội An sầm uất, nơi hội tụ của các dòng buôn bán trong nước, cũng như nơi tập trung buôn bán với các thương nhân nước ngoài. Lê Quý Đôn đã nhận xét rất xác đáng: “Thuận Hóa không có nhiều của cải, đều lấy ở Quảng Nam, vì xứ Quảng Nam giàu có nhất thiên hạ… Trước đây hàng hóa nhiều lắm, dù hàng trăm chiếc tàu to chở cũng không hết được”.14 Có được thành quả này ngoài những thuận lợi về điều kiện tự nhiên, yếu tố quan trọng nhất theo tác giả đó là kết quả của một tư duy sáng suốt của Nguyễn Hoàng, những chính sách hợp thời của trấn thủ Nguyễn Phúc Nguyên đã kế thừa và phát huy truyền thống của vùng đất Quảng Nam để xây dựng Đàng Trong nói chung, Quảng Nam nói riêng thành một trung tâm buôn bán, nơi hợp lưu của các dòng buôn bán trên biển Đông thời kỳ này. Một số thương nhân ngoại quốc đến với các thương cảng Đàng Trong ở thế kỷ XVII - XVIII đã gọi nơi đây là Quảng Nam quốc (cũng có khi họ gọi là Cacciam, hay Kẻ Chàm)16 có lẽ do Quảng Nam là nơi sầm uất nhất ở Đàng Trong và cũng có thể bởi các thương nhân ngoại quốc giao thiệp chủ yếu ở dinh trấn Thanh Chiêm. 

2. Dinh trấn Thanh Chiêm và công cuộc Nam tiến 

Từ năm 1600, chúa Nguyễn Hoàng với quyết tâm xây dựng một vương quốc cường thịnh, tách biệt với Đàng Ngoài, thì mở rộng lãnh thổ trở thành yêu cầu cấp thiết đối với Đàng Trong. Nam tiến là con đường duy nhất để có thể thoát ra khỏi cái áo Thuận - Quảng đã bắt đầu chật hẹp so với chí vẫy vùng của chúa Tiên. Dinh trấn Thanh Chiêm có vị trí quan trọng trong mục tiêu mở rộng lãnh thổ, xác lập chủ quyền ở Đàng Trong. 

Việc thành lập dinh Quảng Nam của chúa Tiên đã tạo nên một thế đứng vững chắc ở vùng đất từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông. Đây là thành quả có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc Nam tiến sau này. Bởi vùng đất này tuy đã thuộc về lãnh thổ của Đại Việt từ thời Lê Sơ nhưng đây vẫn là một vùng đất biên viễn bất ổn, ở đó “lòng dân hãy còn tráo trở, nhiều kẻ vượt biển đi theo họ Mạc, sợ có kẻ dẫn giặc về cướp…”.15 Dinh trấn Thanh Chiêm nằm ở vị trí thuận lợi về giao thông thủy bộ: “nối liền miền núi với biển Đông theo hướng Tây - Đông và nằm trên trục giao thông quan trọng nhất là đường thiên lý Bắc - Nam tại cây số 952, rất thuận lợi về giao thông, vận tải đường thủy cũng như đường bộ…”.16 Từ điểm nhìn thuận lợi như vậy, chúa Tiên đã củng cố được sự cai quản của mình đối với vùng đất Quảng Nam thông qua người con trai là thế tử Nguyễn Phúc Nguyên, tạo bàn đạp để sáp nhập những vùng đất còn lại của đế chế Champa suy tàn vào lãnh thổ Đàng Trong. Năm 1611, quân Champa từ thành Đồ Bàn kéo tới quấy nhiễu biên giới Đàng Trong. Chúa Tiên sai “Chủ sự Văn Phong (không rõ họ) đem quân đi đánh lấy được [đất ấy], bèn đặt làm một phủ, cho hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa lệ thuộc vào. Nhân sai Văn Phong làm lưu thủ đất ấy”.17 Phủ Phú Yên được lập là điểm khởi đầu cho những bước tiến lớn trong công cuộc Nam tiến sau này của các vị chúa kế vị, để từng bước hoàn thành công cuộc mở cõi về phía Nam của dân tộc ta. 

Dinh trấn Thanh Chiêm ra đời tạo lực đẩy cho sự phát triển của vùng đất Quảng Nam trù phú. Cùng với sự phát triển của ngoại thương, xứ Quảng càng có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn. Quảng Nam trở thành hậu phương cung cấp nhân lực, vật lực cho công cuộc mở đất ở Đàng Trong. Từ đầu thế kỷ XVII, dòng di dân người Việt đã bắt đầu vượt đèo Cù Mông tiến xuống cực Nam của Nam Trung Bộ và vượt biển vào Gia Định tìm vùng đất mới, khai phá đất đai, lập làng xóm. Dinh Quảng Nam rõ ràng đã có tác động tích cực trong quá trình tiến xuống phía Nam của lưu dân người Việt, điều này đã nằm trong sự định liệu của Nguyễn Hoàng. Với tầm nhìn chiến lược sáng suốt của chúa Tiên, với tài năng cai quản của Nguyễn Phúc Nguyên, dinh trấn Thanh Chiêm đã hoàn thành tốt nhiệm vụ là trung tâm của vùng đất Đàng Trong ở phía nam đèo Hải Vân, là kho dự trữ về nhân lực và vật lực phục vụ cho công cuộc khai phá vùng đất phía Nam. Sau khi lập ra phủ Phú Yên, chính quyền Đàng Trong đã kêu gọi dân từ Thuận Quảng (chủ yếu là Quảng Nam) di cư vào khai phá lập làng ở đây để củng cố sự thống trị của mình, rồi khuyến khích cư dân tiếp tục tiến xuống phía Nam. Cũng bằng phương thức đó, các vị chúa kế vị Nguyễn Hoàng đã tiếp tục hoàn thành sự nghiệp Nam tiến mà chúa Tiên đã đặt nên những viên gạch đầu tiên. Có thể lấy sự kiện năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu sáp nhập vùng đất Gia Định vào lãnh thổ Đàng Trong để thấy rõ hơn sự kế tục của những người kế vị đối với đường lối chiến lược của người tiên phong mở cõi. Sách Đại Nam thực lục ghi lại: “Sai Thống suất Nguyễn Hữu Kính kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long (nay thăng làm phủ), dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình (nay thăng làm phủ), dựng dinh Phiên Trấn (tức Gia Định ngày nay), mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và các cơ đội thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất được nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ những dân xiêu dạt từ Bố Chính trở về Nam cho đến ở cho đông”.18 

Rõ ràng, dinh Quảng Nam chính là trung tâm trong chiến lược mở cõi, là địa bàn quan trọng cho những bước tiến của chính quyền Đàng Trong. Đó là kế sách “tàm thực” (tằm ăn lá dâu) đã được Nguyễn Hoàng khai triển bắt đầu từ việc lập dinh trấn Thanh Chiêm (1602) để củng cố vùng đất Quảng Nam, làm bàn đạp để người dân Việt tiến xuống sâu hơn về phía Nam; đến năm 1611, khi điều kiện chín muồi thì tiến hành lập phủ Phú Yên - mở đầu cho quá trình Nam tiến của các chúa Nguyễn sau này. 

Như vậy, dinh trấn Thanh Chiêm ra đời chính là sự cụ thể hóa tham vọng của Nguyễn Hoàng trong việc xây dựng một vương quốc cường thịnh tách biệt với Đàng Ngoài. Tất nhiên, ngoài hai mục tiêu lớn như tác giả phân tích ở trên, có thể thấy nhiều dụng ý khác của ông khi lập ra dinh Quảng Nam (1602), như: tạo ra tiền đồn để bảo vệ Thuận Hóa trước những cuộc tấn công của các thế lực từ phía Nam và phía Đông, nơi đây cũng được tổ chức như mô hình của Chính dinh trở thành nơi thể nghiệm, rèn giũa tài năng của vị chúa kế nhiệm (Nguyễn Phúc Nguyên)… Với một tầm nhìn sáng suốt, một tư duy khai phóng, vị chúa đầu tiên của nhà Nguyễn đã biến mình từ một người tưởng như bị tước bỏ quyền lực trở thành người khai sáng của một triều đại, khai mở một vùng đất mới đầy sức sống, mà như nhận định của Li Tana là “một thế giới khác” với trước đây, cũng như khác với Đàng Ngoài. Ý nghĩa của danh xưng mà nhân dân Đàng Trong gọi Nguyễn Hoàng - chúa Tiên, cũng chính là ở sự công nhận vị thế người tiên phong mở cõi để có một đất nước Việt Nam như hiện nay. 

Chú thích: 

1, 14 Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, (Hà Nội: Văn hóa Thông tin, 2007), 61, 234. 

2, 5, 15 Li Tana, Xứ Đàng Trong. Lịch sử kinh tế, xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, (TPHCM: Trẻ, 1999), 87, 85, 89. 

3, 4 Cristoforo Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, (Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị dịch, chú thích), (TPHCM: Tổng hợp TPHCM, 2014), 93, 92. 

6, 16, 18, 19 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, (Hà Nội: Giáo dục, 2007), 27, 18, 286, 97. 

7. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Tu Trai Nguyễn Tạo dịch, (Nha Văn hóa Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, quyển 5, 1962), 38. 

8, 10, 17 Châu Yến Loan, Dinh trấn Thanh Chiêm - kinh đô thứ hai xứ Đàng Trong, (Đà Nẵng: Đà Nẵng, 2015), 132, 56, 56. 

9. Vùng đất Thuận - Quảng từng là một bộ phận của vương quốc Champa với một nền thương mại biển rất phát triển. 

11. Xem bài: “Một số nhận định về tác gia An Nam quốc thư của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong” của ThS. Võ Vinh Quang in trong Nguyễn Hoàng - Người mở cõi, Hà Nội: Chính trị Quốc gia. 

12. Phan Huy Lê, Đỗ Bang (đồng chủ biên), Nguyễn Hoàng - Người mở cõi, (Hà Nội: Chính trị Quốc gia, 2014), 379 - 397. 

13. Trần Quốc Vượng, Việt Nam cái nhìn địa - văn hóa, (Hà Nội: Văn hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, 1998), 391. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO: 

1. Cristoforo Borri (2014). Xứ Đàng Trong năm 1621 (Hồng Nhuệ, Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị dịch, chú thích). TPHCM: Tổng hợp TPHCM

2. Lê Quý Đôn (2007). Phủ biên tạp lục. Hà Nội: Văn hóa thông tin. 

3. Phan Huy Lê, Đỗ Bang (đồng chủ biên) (2014). Nguyễn Hoàng - Người mở cõi. Hà Nội: Chính trị Quốc gia. 

4. Li Tana (1999). Xứ Đàng Trong. Lịch sử kinh tế, xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18. TPHCM: Trẻ. 

5. Châu Yến Loan (2015). Dinh trấn Thanh Chiêm - kinh đô thứ hai xứ Đàng Trong. Đà Nẵng: Đà Nẵng. 

6. Quốc sử quán triều Nguyễn (1962). Đại Nam nhất thống chí (Tu Trai Nguyễn Tạo dịch). Quyển 5. Sài Gòn: Nha Văn hóa Bộ quốc gia giáo dục xuất bản. 

7. Trần Quốc Vượng (1998). Việt Nam cái nhìn địa - văn hóa. Hà Nội: Văn hóa Dân tộc và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật..
DẤU ẤN CỦA DINH TRẤN THANH CHIÊM TRONG LỊCH SỬ?

Phạm Văn Hòa

1. Vài nét khái quát về dinh trấn Thanh Chiêm 

Dinh trấn Thanh Chiêm là lỵ sở chính của Quảng Nam. Dinh được xây dựng trên đất làng Thanh Chiêm, huyện Diên Khánh, phủ Điện Bàn, nay là thôn Thanh Chiêm, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. 

Sau sự kiện năm Tân Mão (1471), vua Lê Thánh Tông đã chiếm lấy Chiêm Động, Cổ Lũy và mở rộng bờ cõi vào phía Nam đến đèo Cù Mông, lập nên đạo Thừa tuyên Quảng Nam. Dinh trấn Thanh Chiêm khi đó nằm trên bờ sông Sài Thị (sông Chợ Củi), là một con sông lớn do sự hợp lưu của ba nguồn: Thu Bồn, Chiên Đàn và Ô Da. Vì thế, dinh trấn có bến tàu thuyền ra vào tấp nập, có chợ buôn bán đông đúc giao thương với nhiều nơi, nhất là cảng thị Hội An. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thiếu Dũng cho rằng: “Dinh trấn Thanh Chiêm được xem như triều đình thứ hai của chúa Nguyễn, mô hình Cần Húc, Thanh Chiêm là lặp lại mô hình Chánh dinh ở Thuận Hóa, vị trí các dinh đều nằm ở bờ Bắc của các con sông (sông Hương, sông Sài Thị), ở vị trí này Dinh Chiêm rất thuận tiện cho việc điều hành cảng thị Hội An ở cả đường bộ lẫn đường thủy. Đây là vị trí chiến lược quan trọng, chúa Nguyễn muốn tiến quân vào Nam thì phải đề phòng Chiêm Thành phản công, dùng sông Chợ Củi làm chiến hào tự nhiên để bảo vệ dinh trấn là rất hợp lý”.1

Mặc dù đạo Thừa tuyên Quảng Nam ra đời (1471) nhưng nửa phía bắc của dinh Quảng Nam vẫn đang là một huyện của phủ Triệu Phong thuộc Thuận Hóa. Đến năm Giáp Thìn (1604) khi chúa Tiên Nguyễn Hoàng lấy huyện Điện Bàn thuộc phủ Triệu Phong đặt làm phủ Điện Bàn, sát nhập vào dinh Quảng Nam thì vùng đất Quảng Nam thống nhất được xác lập. Đây là một đóng góp lớn lao của chúa Nguyễn Hoàng đối với vùng đất Quảng Nam nói riêng, hành trình mở cõi của đất nước nói chung. Không chỉ đem lại những thuận tiện trong việc quản lý địa giới hành chính mà còn tạo điều kiện cho những phát triển về kinh tế - văn hóa của Quảng Nam trong lịch sử. 

Trong hơn 30 năm (1771 - 1802) với các cuộc giao tranh giữa chúa Nguyễn với Tây Sơn và với chúa Trịnh đã làm cho dinh trấn Thanh Chiêm bị hư hại nên sau khi thống nhất đất nước (1802) vua Gia Long đặt dinh trấn Quảng Nam tạm thời ở cảng thị Hội An, đến 1803 mới dời lại về Thanh Chiêm. Năm 1832, vua Minh Mạng cải tổ hành chính, chia cắt dinh thành các tỉnh, năm 1833 vua dời lỵ sở dinh Quảng Nam về làng La Qua (Điện Bàn) cách dinh trấn Thanh Chiêm khoảng 3 km về phía tây bắc. Việc dời dinh trấn Thanh Chiêm đến La Qua đã chấm dứt vai trò lịch sử dinh trấn Thanh Chiêm sau hơn 200 năm tồn tại và phát triển. Ngày nay, dinh trấn Thanh Chiêm chỉ còn lại những vết tích, địa danh trong tâm khảm ký ức người dân địa phương như: dinh trấn, thành vệ, mô súng, tàu tượng, kho muối, nhà lao, văn miếu, chợ Củi và gò Sài… 

Có thể nói, thịnh suy, tồn vong của dinh trấn Thanh Chiêm gắn liền với sự thịnh suy tồn vong của chín đời chúa Nguyễn. Dinh trấn Thanh Chiêm sinh ra từ chúa Tiên Nguyễn Hoàng và tiêu vong cùng cái chết của chúa Nguyễn Phúc Thuần. Vai trò lịch sử của dinh trấn Thanh Chiêm tiêu trầm kéo theo ánh mặt trời từng chói rạng cảng thị Hội An chìm dần vào buổi hoàng hôn. Thiên nhiên và chính trị cùng một lúc đặt dấu chấm hết cho phố thị một thời nhộn nhịp nhất Đông Nam Á để dần chuyển giao cho cảng thị Đà Nẵng. 

Trong khoảng thời gian 200 năm sinh tử đó, dinh trấn Thanh Chiêm đã từng bước theo đoàn quân Nam tiến, mở rộng biên cương, đóng vai trò chủ động trong công cuộc khai khẩn đồn điền, tạo nên vựa lúa khổng lồ nuôi sống cả nước. Phải nói rằng, nếu không có chúa Nguyễn với nhân dân Thanh, Nghệ Tĩnh vào Quảng Nam để lập nên dinh trấn Thanh Chiêm thì đất nước Việt Nam không thể nối dài thêm nửa nước với tài nguyên phong phú và con người năng động như ngày nay. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của dinh trấn Thanh Chiêm đã để lại những dấu ấn nhất định trong dòng chảy lịch sử của vùng đất Quảng Nam nói riêng và cả nước nói chung. 

2. Những dấu ấn lịch sử của dinh trấn Thanh Chiêm 

2.1. Khai sáng xứ Đàng Trong 

Theo nhà nghiên cứu Châu Yến Loan thì dinh trấn Thanh Chiêm có một vai trò hết sức quan trọng và được coi như “kinh đô thứ hai xứ Đàng Trong” sau phủ chúa ở Thuận Hóa dưới thời chúa Nguyễn. Năm 1604, sau khi nhìn thấy vị trí đắc địa của vùng đất “yết hầu của miền Thuận Quảng” thì Tiên chúa Nguyễn Hoàng đã tách Điện Bàn khỏi phủ Triệu Phong của xứ Thuận Hóa, nâng lên thành phủ Điện Bàn với 5 huyện là: Hòa Vang, An Nông, Diên Khánh, Tân Phúc và Phú Châu thuộc xứ Thuận Quảng. Đó là cả một vùng đất rộng lớn thuộc bắc Quảng Nam và Đà Nẵng ngày nay, từ đèo Hải Vân vào đến phía nam của sông Bà Rén. Đồng thời, cử hoàng tử thứ sáu là Nguyễn Phúc Nguyên vào trấn giữ, cai quản. Có thể nói, quyết định của chúa Nguyễn Hoàng không chỉ đơn thuần là một quyết định hành chính mà là một sự kiện lịch sử trọng đại của miền Thuận Quảng đối với tiến trình lịch sử phát triển của dân tộc vào phía Nam. Từ đó, cho thấy tầm nhìn chiến lược, vai trò và đóng góp to lớn của chúa Nguyễn Hoàng đối với dinh trấn Thanh Chiêm nói riêng và xứ Đàng Trong nói chung. Năm 1611, quân Chiêm Thành xâm lấn biên giới ra phía Bắc, chúa Nguyễn Hoàng đã sai Chủ sự Văn Phong đem quân đi đánh trả và lấy được vùng đất mới, lập ra phủ Phú Yên gồm hai quận là Đồng Xuân và Tuy Hòa. Như vậy, ranh giới Đàng Trong trước đây chỉ tới đèo Cù Mông thuộc phủ Hoài Nhơn (nay là Bình Định) thì bây giờ được mở rộng thêm về phía Nam tới mũi Đại Lãnh (đèo Cả). 

Năm 1613, trước khi đi vào cõi vinh hằng chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã để lại lời dặn dò tâm huyết với vùng đất này cho Thái tử thứ sáu Nguyễn Phúc Nguyên rằng: “Đất Thuận Quảng phía Bắc có núi Ngang (Hoàng Sơn) và sông Gianh (Linh Giang) hiểm trở, phía Nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn) vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thế lực không địch được, thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta”.2 Có thể nói, hơn 50 năm cai trị vùng đất này (1558 - 1613), bằng sự thông minh mưu trí, tài dụng binh xuất sắc và nhất là bằng cái tâm, chúa Nguyễn Hoàng đã đem lại cho nhân dân Thuận Quảng một đời sống ấm no, yên ổn, bờ cõi được mở mang và danh thơm lừng lẫy muôn đời. 

Thời kỳ Nguyễn Phúc Nguyên cai quản Dinh Chiêm (1613 - 1635) là thời mở đầu cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn nên ông dốc hết tâm lực cho cuộc chiến tranh hai miền. Một trong những quan tâm của ông là xây dựng tiềm lực kinh tế, trong đó chú ý đến việc khai khẩn đất hoang, mở rộng canh tác trên quy mô rộng lớn. Với chính sách của chúa Nguyễn là cung cấp lương thực đủ ăn trong nửa năm, cung cấp trâu bò và dụng cụ làm ruộng cho người đi khai khẩn. Kêu gọi nhà giàu giúp đỡ cho nhà nghèo vay mượn thóc gạo, phương tiện cần thiết, tận dụng lực lượng khai khẩn là người Việt và người Chăm bản xứ để phát triển kinh tế, đảm bảo tốt nhất cho đời sống cho nhân dân. 

Trong thời gian của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần trị vì (1648 - 1687) thì không những kết thúc được cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài hơn 40 năm, mở rộng được lãnh thổ biên cương mà còn nâng cao vị thế của dinh trấn Thanh Chiêm ra bên ngoài khi đánh đuổi quân của Hà Lan vào xâm chiếm lãnh thổ vùng biển xứ Đàng Trong nước ta. Trong thời kỳ giao tranh giữa nhà Nguyễn với nghĩa quân Tây Sơn (1771 - 1802) thì dinh trấn Thanh Chiêm nhiều lần bị chiếm đi lấy lại, làm cho tình hình của xứ Thuận Quảng cũng như Đàng Trong rơi vào bất ổn, chiến tranh liên miên giữa các thế lực đối đầu. Trong cuộc chiến đấu xóa bỏ chế độ Tây Sơn không còn được nhân dân ủng hộ, vào năm 1801 thủy quân chúa Nguyễn dưới sự chỉ huy của Nguyễn Phúc Ánh đã tiến vào Cửa Đại chiếm đánh đuổi quân Tây Sơn ở Quảng Nam và Phú Xuân (Huế), nhà Tây Sơn chấm dứt vai trò lịch sử của mình. 

Sau nhiều năm chiến tranh liên miên giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài của hai tập đoàn Trịnh - Nguyễn; cuộc nội chiến của Tây Sơn với các chúa Nguyễn đã làm cho dinh trấn Thanh Chiêm bị tàn phá nặng nề. Đến khi vua Gia Long thống nhất được đất nước, dinh trấn Thanh Chiêm không còn nguyên vẹn nên đã chuyển lỵ sở Quảng Nam vào tạm ở Hội An cho đến khi sắp xếp, xây dựng lại Dinh Chiêm (1803) mới dời về lại dinh trấn Thanh Chiêm như ban đầu. Tuy nhiên, khi vua Minh Mạng lên ngôi, tiến hành cải cách đất nước năm 1832, chia tách đất nước thành các tỉnh thì dinh trấn Thanh Chiêm cũng chấm dứt vai trò lịch sử vốn đã ra đời, tồn tại và phát triển qua hơn 200 năm lịch sử. 

2.2. Mở rộng quan hệ giao thương với bên ngoài 

Với vị trí địa lý thuận tiện cho việc giao thương, nhất là đường thủy và lợi thế nhiều sản vật quý hiếm của vùng đất Thuận Quảng nên từ sớm, dinh trấn Thanh Chiêm có nhiều hoạt động giao thương không những trong vùng mà còn cả các nước bên ngoài từ phương Đông sang tận phương Tây như Trung Quốc, Ấn Độ, Bồ Đào Nha, Anh, Hà Lan… Hoạt động ngoại thương của nước ta đã có từ sớm nhưng để có những chính sách, chỉ dụ thúc đẩy nền ngoại thương phát triển tích cực, trước hết phải kể đến Tiên chúa Nguyễn Hoàng. Nhà nghiên cứu Châu Yến Loan đã cho rằng: “Chúa không đóng cửa một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả mọi người ngoại quốc”.3 Năm 1601, Nguyễn Hoàng đã gửi cho Kato Kiyamasa một bức thư bày tỏ sự nồng nhiệt của chúa trong việc buôn bán với Nhật Bản; Chúa còn nhận thương gia Hunamoto Yabeije làm con nuôi để thắt chặt mối quan hệ giao thương giữa hai nước. 

Kế thừa và thực hiện chính sách ngoại thương của Nguyễn Hoàng một cách xuất sắc là Nguyễn Phúc Nguyên, ngay từ khi mới nhận chức dinh trấn Quảng Nam đã mở rộng phạm vi các tàu thuyền nước ngoài vào buôn bán ở cảng thị Hội An. Năm 1619, ông gả con gái nuôi cho một thương gia Nhật Bản tên là Araki Sotaro, sau này lấy tên Việt Nam và trở thành hoàng thân của Đàng Trong. Hoạt động giao thương thời kỳ này không chỉ các thương lái, mà bản thân các quan chức cũng lao vào việc buôn bán. Trong bức thư Nguyễn Phúc Nguyên gửi cho Toba năm 1634, “chúa yêu cầu Toba mang theo 1.000 lạng bạc để mua hàng (chủ yếu là các mặt hàng xa xỉ như 50 cái bát nửa bằng vàng, nửa bằng bạc, 50 cái dĩa cũng thuộc loại này). Rồi vào năm 1635, ông còn gửi cho Toba 300 lạng tơ thô (11.340 gr) và nhờ Toba mua hàng ở Nhật cho ông theo giá trị của số tơ này”.4 

Một trong những minh chứng làm sáng tỏ nhận định trên là thương cảng Hội An - trung tâm thương mại lớn nhất Việt Nam và có tầm cỡ vùng Đông Nam Á, đủ khả năng cạnh tranh thương mại với các nước xung quanh. Hàng năm, từ tháng giêng đến tháng sáu, các thương nhân người Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung Quốc hay Manila, Malacca đến đây buôn bán. Với vị trí địa lý thuận lợi nên Hội An đã trở nên phồn thịnh, cư dân ở đây hầu hết sinh sống bằng thương mại, hàng hóa vô cùng phong phú. Nhà bác học Lê Quý Đôn ghi nhận: “Ở đây không có thứ gì là không có, hóa vật sản xuất ở các phủ Thăng Hoa, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Bình Khang và dinh Nha Trang, đường thủy, đường bộ, đi thuyền, đi ngựa, đều hội tụ ở phố Hội An, vì thế người khách phương Bắc đều đến tụ tập ở đấy để mua về nước. Trước đây, hàng hóa nhiều lắm, dù trăm chiếc tàu to chở cùng một lúc cũng không hết được”.5 

Đối với Nhật Bản, chủ yếu mua tơ lụa vì đó là mặt hàng không những được ưa chuộng nhất lúc bấy giờ mà giá cả ở đây lại rẻ hơn các nơi khác. Ngoài ra, họ còn mua các sản vật khác như: da đanh, vải thô, long não, vàng, gỗ trầm hương, hồ tiêu và mật ong. Việc buôn bán với các Châu ấn thuyền của người Nhật đã giúp cho nền kinh tế Đàng Trong tăng vọt và chúa Nguyễn có thể trang bị cho quân đội những khí giới tiên tiến để chống lại quân Trịnh và ngoại bang. 

Đối với Trung Hoa, việc buôn bán trao đổi hàng hóa của người Hoa ở Hội An cũng diễn ra mạnh mẽ, tấp nập. Hàng năm, chúa tổ chức chợ phiên tại Hội An kéo dài chừng bốn tháng để thuyền các nước vào buôn bán, trong đó khách người Hoa chiếm phần đông. Theo nhà nghiên cứu Châu Yến Loan, “thương thuyền của người Hoa từ Hội An đi Cao Miên và buôn bán tại đây trước khi đi Nhật Bản. Một số lại đi từ Cao Miên tới buôn bán ở Hội An rồi sau đó tới Nhật Bản. Một số thuyền đi từ Xiêm tới Nhật Bản đã ghé Hội An có khi cả năm để chờ gió thuận. Đa số thuyền khác đi từ Trung Hoa tới Hội An rồi sau đó đi Nhật Bản”.6 

Đối với các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Anh, Pháp và Hà Lan đều có thương thuyền đến Hội An để buôn bán quanh năm. Việc giao thương với các nước phương Tây không chỉ dừng lại ở trao đổi hàng hóa mà họ còn thành lập các công ty để giao dịch, vận đổi hàng hóa tại Hội An và vùng phụ cận như Công ty Đông Ấn Anh, Công ty Đông Ấn Hà Lan... Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần là người có chính sách rộng mở nhất để giao thương với các thương nhân phương Tây, năm 1651, đã ký một hiệp ước cho phép người Hà Lan một lần nữa buôn bán “tự do và công khai”, không bị nhòm ngó và không phải trả các loại thuế xuất, nhập khẩu như các nước khác. Tuy nhiên, một thời gian ngắn rồi các thương nhân, đại lý buôn bán ở Hội An của Hà Lan phải đóng cửa vĩnh viễn. Đối với người Pháp, các thương nhân không chỉ dừng lại ở kết quả khảo sát thị trường buôn bán mà còn có ý đồ thăm dò địa lý để thực hiện mục đích xâm chiếm lâu dài. Vào khoảng 1758 - 1759, Charles Hector tức bá tước Estaing đưa ra kế hoạch tấn công chớp nhoáng Phú Xuân trong 72 giờ để đoạt vàng bạc, kho tàng và chiếm luôn Đà Nẵng làm căn cứ vì theo ông “Đà Nẵng là điểm khởi đầu của cuộc bành trước thế lực thương mãi và chính trị của Pháp tại Viễn Đông”7 nhưng kế hoạch này không thực hiện được. 

Như vậy, chính sách ngoại thương của các chúa Nguyễn và những hoạt động giao thương ở Hội An đã để lại dấu ấn quan trọng trong chiều dài lịch sử của dinh trấn Thanh Chiêm nói riêng và lịch sử xứ Đàng Trong nói chung. Đây được coi là một trong những thời kỳ vàng son của nền ngoại thương với các nước trong khu vực và trên thế giới lúc bấy giờ. 

2.3. Cái nôi khai sinh và nuôi dưỡng chữ Quốc ngữ 

Chữ Quốc ngữ ra đời vào khoảng đầu thế XVII tại dinh trấn Thanh Chiêm, Quảng Nam, trong quá trình đi truyền đạo các giáo sĩ phương Tây đã dùng mẫu tự Latinh để ghi âm tiếng Việt sau đó hoàn thiện dần thành chữ Quốc ngữ. Người đầu tiên sáng tạo ra loại chữ này là giáo sĩ Francisco de Pina cùng với những người Việt cộng sự với ông trong quá trình làm việc. 

Đầu năm 1617, giáo sĩ trẻ Pina được cử vào xứ Đàng Trong, giúp đỡ những Nhật kiều Công giáo ở Hội An. Nhận thấy người Việt sốt sắng đón nhận Thiên Chúa nên linh mục Pina bắt đầu chuyên tâm giúp đỡ người Việt. Năm 1621, Pina đến Thanh Chiêm, ở hẳn nơi đây bắt đầu chuyên tâm học tiếng Việt. Đầu năm 1625, trụ sở Thanh Chiêm được thành lập, Pina là người nói thạo tiếng Việt nên được cử làm Cha bề trên cai quản cả vùng này. Ở đây, “Pina đã thiết lập được mối quan hệ mật thiết với Hoàng tử Kỳ. Pina thường đến thăm quan Trấn thủ, cũng có khi quan Trấn thủ đến thăm Pina cùng với một số nho sĩ để nghe Pina giảng về đạo lý. Ở đây, Pina đã làm được nhiều việc lợi ích cho việc truyền giáo vì đã chinh phục được một số người quyền quý có gia thế ở trong dinh. Tại nhà một số bà tên là Gioanna, Pina đã dạy giáo lý bằng tiếng bản xứ khiến người nghe có thể cảm nhận đích thực suối nguồn của đạo”.8 

Tuy nhiên, công trình vĩ đại và hệ trọng hơn hết mà Pina đã làm được ở Thanh Chiêm là sáng tạo ra chữ Quốc ngữ theo mẫu tự Latinh. Ông là người đầu tiên cho dịch sang tiếng Việt Kinh lạy cha và có thể xem đó là khởi đầu cho việc ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latinh. Ông đã soạn xong một tiểu luận về chính tả, các thanh điệu tiếng Việt và bắt tay vào soạn ngữ pháp tiếng Việt. 

Trong quá trình thực hiện công việc này, ngoài những cố gắng vượt trội thì ông còn nhận được sự hỗ trợ của các nhà thông thái bản xứ như: thanh niên, giáo dân, nho sĩ, quan lại… Làm được việc khó khăn này, Pina xác nhận không đâu lý tưởng hơn Dinh Chiêm - cơ quan đầu não của xứ Quảng lúc đó, quy tụ được nhiều người học thức cần thiết để phục vụ cho công trình nghiên cứu tiếng người bản xứ. Trong bức thư gửi cho đức cha ở Ma Cao, Pina viết: “Về vấn đề học ngôn ngữ thì luôn luôn ở Kẻ Chàm chính là nơi tốt nhất. Đây là kinh đô của triều đình”. 

Cuối năm 1924, Alexandre de Rhodes được cử đến Đàng Trong cùng với de Fontes về Thanh Chiêm để phụ giảng đạo cho Pina. Nhưng điều may mắn hơn là được học tiếng Việt và thừa hưởng tất cả những gì Pina đã sở hữu được về cách ghi âm tiếng Việt theo mẫu tự Latinh. Chính Alexandre de Rhodes cũng thừa nhận “chúng tôi đã hái được kết quả” từ việc Pina đã sáng tạo ra chữ Quốc ngữ để học. 

Tại Thanh Chiêm, Pina còn sáng lập một trường dạy ngôn ngữ phương Tây đầu tiên ở nước ta, nơi đó ông đã đào luyện những người Việt Nam học tiếng Bồ Đào Nha để làm thông dịch viên cho các giáo sĩ. Như vậy, từ chỗ nhiệt tâm phụng sự chúa Kitô đi truyền đạo, Francisco de Pina đã trở thành cha đẻ của chữ Quốc ngữ, cái mà ông chỉ khiêm tốn coi đó là công cụ, phương tiện mầu nhiệm để chinh phục người bản xứ theo giáo lý đạo Thiên Chúa. Thanh Chiêm chính là miền đất vinh hạnh làm nơi khai sinh chữ Quốc ngữ - Một công cụ giao tiếp cho dân tộc Việt Nam trên đường phát triển và hội nhập quốc tế. 

Tóm lại, vào khoảng 1618 - 1625 tại dinh trấn Thanh Chiêm của Quảng Nam dinh, các giáo sĩ Bồ Đào Nha (Francisco de Pina, Alexandre de Rhodes) và các cộng sự giúp việc người Việt, lần đầu tiên đã sáng tạo ra chữ Quốc ngữ dựa trên cơ sở mẫu tự Latinh. Về sau, phát minh này đã được các giáo sĩ người Pháp cùng với người Việt địa phương tiếp tục nghiên cứu phát triển ra loại chữ mới - chữ Quốc ngữ. Qua đó, chúng ta có thể khẳng định dinh trấn Thanh Chiêm - Quảng Nam là cái nôi khai sinh và dần hoàn thiện chữ Quốc ngữ ở nước ta. 

Chú thích:

1. Nguyễn Thiếu Dũng, Khoa học và sáng tạo, số 28, Tháng 9.2004, 12. 

2. Nguyễn Văn Xuân, Huỳnh Công Bá, Trương Quốc Bình, Phạm Hồng Việt, Nguyễn Đình Đầu, Trần Quốc Vượng, Vai trò lịch sử Dinh trấn Quảng Nam, (Quảng Nam: Quảng Nam, 2002). 

3, 4, 6 Châu Yến Loan, Dinh trấn Thanh Chiêm - Kinh đô thứ hai xứ Đàng Trong, (Đà Nẵng: Đà Nẵng, 2015), 124, 131. 

5. Lê Quý Đôn, Toàn tập, Tập 1: Phủ biên tạp lục, (Hà Nội: Khoa học xã hội, 1977), 234. 

7. Võ Văn Dật, Lịch sử Đà Nẵng (1306 - 1975), (Nam Việt, 2007), 88. 

8. Nguyễn Khắc Xuyên, Để hiểu lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt Nam đầu thế kỷ XVII, (Ánh Sáng xuất bản, 1994), 11.  

DINH TRẤN THANH CHIÊM TRONG SỰ NGHIỆP BẢO VỆ 
AN NINH, CHỦ QUYỀN XỨ ĐÀNG TRONG CỦA CHÚA NGUYỄN?

Trịnh Thị Hà

Quảng Nam với ý nghĩa là vùng đất rộng lớn về phương Nam đã có quá trình lịch sử hình thành và phát triển hơn 500 năm. Trải qua nhiều triều đại khác nhau gắn liền với những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc, ngày nay Quảng Nam được biết đến là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, “vùng đất văn hóa”, “vùng đất khoa bảng”. Nơi đây không chỉ sản sinh ra biết bao tài danh, hào kiệt cho đất nước mà còn là nơi lưu giữ những công trình, dấu tích văn hóa, di chỉ khảo cổ học có giá trị cao về mặt lịch sử, văn hóa. Trong đó, dinh trấn Thanh Chiêm (thuộc huyện Điện Bàn) là một trong những dấu tích có giá trị to lớn về mặt lịch sử bởi đây không chỉ là một trong các địa danh được coi là “cái nôi” cho sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ ở Việt Nam (Nước Mặn - Bình Định), mà Thanh Chiêm còn là trị sở hành chính quan trọng dưới thời trị vì của chúa Nguyễn trong hai thế kỷ XVII, XVIII, có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển xứ Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn, trong đó có vai trò về bảo vệ an ninh, chủ quyền của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong. 

1. Chúa Nguyễn với việc xây dựng dinh trấn Thanh Chiêm 

Trong hai thế kỷ XVII và XVIII, dinh trấn Thanh Chiêm là lỵ sở chính của dinh Quảng Nam, một trong các dinh quan trọng có ý nghĩa về mặt chiến lược kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa của xứ Đàng Trong. Trấn Thanh Chiêm được đóng trên đất Thanh Chiêm, huyện Diên Khánh, phủ Điện Bàn (nay là thôn Thanh Chiêm, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Theo nguồn thư tịch cổ và bút ký, ghi chép của các giáo sĩ phương Tây đến Đàng Trong trong thế kỷ XVII còn lưu giữ lại, đặc biệt là các phát hiện khảo cổ quanh di tích Thanh Chiêm trong thời gian gần đây đều cho biết: chúa Nguyễn Hoàng cho đặt dinh trấn tại Thanh Chiêm vào năm 1604, sau khi dời hành cung từ Cần Húc về Thanh Chiêm. Chúng ta biết rằng, vào năm 1600 sau khi giúp chính quyền vua Lê chúa Trịnh đánh thắng tàn quân họ Mạc, Đoan Quận công Nguyễn Hoàng (1558 -1613) tự ý trở về Đàng Trong và bắt đầu quan tâm đến việc xây dựng vùng đất Quảng Nam ở phía nam đèo Hải Vân đông dân và giàu có thành một hậu phương vững chắc để hỗ trợ cho vùng tiền tiêu Thuận Hóa nhằm mưu toan công việc chính sự lâu dài. Vì vậy, vào năm 1602 Nguyễn Hoàng đã thực hiện chuyến tuần du phương Nam ở bên kia đèo Hải Vân cho đến tận phủ Thăng Hoa nhằm thị sát địa lý và kinh tế của vùng này để quản lý và phát huy tiềm năng của vùng đất giàu có và đông dân. Sách Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm viết năm 1719 dưới thời Minh vương Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725) đề cập: “Chúa Nguyễn Hoàng lại đi thăm đến xứ Quảng Nam, thấy núi Ải Vân hiểm trở sừng sững vươn cao, đáng ví tựa núi Ma Thiên Lĩnh ở đất Ba Thục, Đoan Vương Nguyễn Hoàng khen mãi, cho là nơi cảnh đẹp núi kỳ. Rồi đó Nguyễn Hoàng vượt đèo đi vào địa phận phủ Thăng Hoa, Quảng Nam xem xét tình hình núi non các nơi trong xứ. Thấy xứ này đầy nguồn hiểm yếu, cửa biển vững chắc, bèn sai dựng hành điện, kho tàng để chứa trữ thóc tiền, mưu toan công việc lâu dài. Lại để công tử Thụy Quận công Nguyễn Phúc Nguyên ở lại trấn thủ để bảo vệ cho dân lành”.1 

Như vậy hành điện đầu tiên của chúa Nguyễn đã được xây dựng vào năm 1602, tọa lạc trên một cồn cát cao và rộng ở ven bờ sông Chợ Củi (nay là sông Thu Bồn) tại xã Cần Húc - nay là xã Văn Đông, huyện Diên Phước, tiếp giáp xã Thanh Chiêm. Cần Húc là một xã phía nam của phủ Điện Bàn nằm ở gần sông Sài Thị (sông Chợ Củi), liền kề với Thanh Chiêm, là một xã vạn chài, có bến cá tấp nập. Vì nó nằm về phía đông của dinh trấn Thanh Chiêm nên gọi là xã Vạn Đông, về sau cải thành Văn Đông đều có ý nghĩa là hướng mặt trời mọc.2 Do vị trí gần sông, về mùa mưa lũ hay bị sụt lở không an toàn làm cho hành điện bị hư hại phải bỏ, vì thế sau đó chúa Nguyễn Hoàng đã chuyển và xây dựng dinh trấn mới thay thế hành điện tại Thanh Chiêm. Vậy vì sao Đoan Quận công Nguyễn Hoàng lại chọn vùng đất Thanh Chiêm làm nơi di chuyển hành điện cũ, xây dựng dinh trấn mới mà không phải là vùng đất khác? 

Thanh Chiêm, xưa thuộc đất Chiêm Động của Chiêm Thành được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt từ năm 1402 khi Hồ Hán Thương đích thân đem đại quân đi đánh Chiêm Thành. Vua Chiêm Thành là Ba Đích Lại hoảng sợ phải dâng lễ vật và đất Chiêm Động để xin nhà Hồ rút quân nhưng Hồ ép phải dâng luôn đất Cổ Lũy. Hồ Hán Thương chia đất Chiêm Động thành châu Thăng và châu Hoa, chia đất Cổ Lũy thành châu Tư và châu Nghĩa. Tất cả bốn châu được hợp lại làm một lộ là Thăng Hoa. Cuối năm 1406, quân Minh sang xâm lược và thiết lập chính quyền đô hộ trên toàn cõi nước ta, Chiêm Thành nhân cơ hội này chiếm lại Chiêm Động và Cổ Lũy. Năm 1470 vua Lê Thánh Tông (1442 -1497) đem 26 vạn tinh binh đi đánh Chiêm Thành, đến năm 1471 lần lượt chiếm được Trà Bàn, Chiêm Thành, Cổ Lũy đồng thời đặt đơn vị hành chính Thừa tuyên Quảng Nam, xác lập biên giới Đại Việt kéo dài đến núi Thạch Bi (Phú Yên). Năm 1558, Đoan Quận công Nguyễn Hoàng - con thứ hai của Nguyễn Kim được vua Lê cho vào trấn thủ trấn Thuận Hóa theo kế sách “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nhằm tránh thế lực nhà Trịnh. Năm 1570, Nguyễn Hoàng được nhà vua cho kiêm lãnh trấn Quảng Nam. Tháng 7 năm Nhâm Dần (1602), chúa Tiên Nguyễn Hoàng thành lập dinh trấn Quảng Nam ban đầu tại xã Cần Húc, huyện Duy Xuyên sau dời về Thanh Chiêm, huyện Điện Bàn.

Về vị trí: Dinh trấn Thanh Chiêm nằm trên bờ sông Sài Thị (sông Chợ Củi), một nhánh sông Thu Bồn. Nhánh sông này thuở đó vốn là một con sông lớn do sự hợp lưu của cả ba ngã nguồn: Thu Bồn, Chiên Đàn và Ô Da3 và chảy gần bên thành dinh trấn, vì thế Thanh Chiêm có điều kiện để phát triển kinh tế đánh bắt thủy sản. Mặt khác dinh trấn Thanh Chiêm nối liền miền núi với biển Đông theo hướng Tây - Đông và nằm trên trục giao thông quan trọng nhất là đường thiên lý Bắc - Nam tại cây số 92 rất thuận lợi về giao thông, vận tải đường thủy cũng như đường bộ.4 Phía nam và phía đông của dinh trấn có sông Chợ Củi bao bọc, nối liền với cảng thị Hội An thông ra biển Đông. Phía tây - bắc tiếp giáp một nhánh sông Điện Bình. Về đường bộ Thanh Chiêm cũng nối với Hội An dài khoảng 9 km và thông với trục đường Bắc Nam đi qua Vĩnh Điện (Điện Bàn) chạy tới trạm Nam Giản (Miếu Bông) ở phía Bắc để đi ra đèo Hải Vân và với trạm Nam Phước (nay thị trấn Nam Phước) ở phía nam để đi vào Quảng Ngãi. 

Như vậy, Thanh Chiêm là vùng đất không chỉ có bề dày lịch sử, mà còn có lợi thế về địa lý rất lớn, rất quan trọng vì vậy việc chúa Nguyễn Hoàng cho đặt khu dinh trấn ở đây cũng chính là nó đã nằm đúng vị trí trọng yếu của hệ thống giao thông thủy bộ. Đồng thời với vị trí này, Thanh Chiêm là địa điểm hội tụ các đầu mối giao lưu và nguồn cung cấp lâm sản phong phú, nơi tập trung hương liệu từ vùng thượng lưu, từ đó tham gia quản lý được các cảng mậu dịch quốc tế ở hạ lưu. Quan trọng hơn, vị trí của dinh trấn Thanh Chiêm còn tham gia vào việc kiểm soát được con đường giao thông quan trọng nối liền Nam - Bắc. Mặt khác, do Thanh Chiêm nằm phía bắc con sông Chợ Củi sẽ tạo nên vị trí chiến lược quan trọng trong việc dùng sông Chợ Củi làm chiến hào tự nhiên để bảo vệ dinh trấn trước các cuộc tấn công của quân Chiêm Thành. 

Nắm bắt được vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng đó, vào năm 1604 chúa Nguyễn Hoàng đã tách phủ Điện Bàn ở bắc sông Chợ Củi khỏi Thuận Hóa, sáp nhập với phủ Thăng Hoa ở bờ nam sông Thu Bồn để lập dinh Quảng Nam, xây dựng dinh trấn trên địa phận xã Thanh Chiêm. Do vậy mà dinh trấn Quảng Nam còn được gọi là dinh trấn Thanh Chiêm (thường gọi là Dinh Chiêm hay Kẻ Chiêm, Kẻ Chàm). Đồng thời chúa Nguyễn đã cử các quan (chủ yếu các con của mình) vào trấn thủ tại dinh Quảng Nam đến dinh trấn Thanh Chiêm và cho đặt tại đây chế độ tam ty để tự quản thúc công việc của dinh.5  

Qua cuộc “kinh lý” năm 1602, việc thành lập Thừa tuyên Quảng Nam năm 1604 gắn liền với việc di chuyển hành điện từ Cần Húc, xây dựng dinh trấn mới tại Thanh Chiêm đã thể hiện cái nhìn chiến lược của Nguyễn Hoàng đối với Quảng Nam trong sự nghiệp dựng nước và mở nước. Nó không chỉ đem lại những thuận lợi lớn lao trong công tác quản lý hành chính, lãnh thổ, mà còn tạo điều kiện dẫn đến những phát triển vượt bậc về kinh tế và văn hóa, có vị trí chiến lược về mặt quân sự của Quảng Nam, một vùng đất rộng lớn của xứ Đàng Trong kéo dài từ đèo Hải Vân đến tận đèo Cù Mông - biên giới Chiêm Thành.6 

2. Vị thế quân sự của dinh trấn Thanh Chiêm 

Dưới thời trị vì của chúa Nguyễn, dinh trấn Thanh Chiêm có vị thế rất quan trọng cả về chính trị, kinh tế và văn hóa, được coi là thủ phủ thứ hai ở Đàng Trong sau Thuận Hóa khi vua Gia Long nhận định Thanh Chiêm là “Cựu đô” kinh đô xưa. Bởi dưới thời các chúa Nguyễn, Thanh Chiêm là nơi thực tập, tập sự việc quản lý, điều hành đất nước của các “thế tử” - người sẽ kế vị ngôi chúa.7 Do vị trí nằm ngay trên trục đường Bắc - Nam và ngoài thủ lộ chính Thu Bồn rất thuận lợi trong việc giao tiếp với thương nhân nước ngoài. Tại dinh trấn Thanh Chiêm, nơi có Đại Chiêm hải khẩu với chính sách thoáng mở của các chúa Nguyễn như chính sách “trú đông”, lưu đông” hay cho thương nhân người nước ngoài được dựng làng, lập phố thậm chí được xây dựng chế độ “tự quản riêng” như các làng Minh Hương của người Hoa, “phố Nhật” ở Hội An đã tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế có bước phát triển quan trọng, góp phần quan trọng vào sự hưng khởi của đô thị Hội An. Một thành tựu quan trọng khác của Thanh Chiêm là về mặt văn hóa. Trục văn hóa Hội An - Thanh Chiêm trong hai thế kỷ XVII - XVIII là nơi du nhập đạo Thiên Chúa sớm nhất ở Đàng Trong. Tại Hội An và Thanh Chiêm, từ năm 1621 đến 1625, linh mục Francisco de Pina đã học tiếng Việt, truyền đạo bằng tiếng Việt và dạy cho hai giáo sĩ là Alexandre de Rhodes, người Pháp và Antonio de Fontes, người Bồ Đào Nha. Linh mục Francisco de Pina cũng đồng thời viết hai tài liệu giảng dạy về Phương pháp Latinh hóa tiếng Việt và Ngữ pháp tiếng Việt. 

Về mặt quân sự, do vị thế nằm bên bờ sông lớn, có vị trí giao thông thuận lợi giữa miền ngược với miền xuôi, nam với bắc, đất liền và biển nên Thanh Chiêm rất được chúa Nguyễn coi trọng về mặt quân sự nhằm xây dựng dinh trấn thành tâm não lãnh đạo mọi hoạt động quân sự đối với các binh chủng trên phạm vi vùng đất quản lãnh, đồng thời có vai trò quan trọng trong việc phối hợp với Chính Dinh và các dinh khác nhằm bảo vệ an ninh và độc lập chủ quyền của Đàng Trong. 

2.1. Chúa Nguyễn với việc xây dựng quân lực tại dinh trấn Thanh Chiêm 

Khi Nguyễn Hoàng mới vào tiếp quản vùng đất Thuận Quảng thì đây vẫn còn là vùng đất mới hoang vu, thành phần dân cư phức tạp, chiến tranh liên miên, bối cảnh xã hội còn sơ khai về học vấn, yếu tố Nho học còn mờ nhạt, Phật giáo mang đậm yếu tố dân gian, nhân dân phải lo tập trung sức lực vào việc khai phá mở rộng đất đai, thành lập làng xóm, xây dựng cuộc sống mới. Do vậy, họ Nguyễn chưa có điều kiện để xây dựng một xã hội theo ý thức hệ Nho giáo như ở khu vực Đàng Ngoài. Đặc điểm xã hội này đòi hỏi trong chính sách cai trị của mình, các chúa Nguyễn cần phải lựa chọn một tín ngưỡng, tôn giáo khác với tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân bản địa để củng cố phần lớn tinh thần bộ phận cư dân người Việt. Thực tế các chúa Nguyễn đã tìm thấy ở Phật giáo Đại thừa những điểm thích hợp cho sự cai trị của mình, yếu tố từ bi, khoan dung của Phật giáo gần gũi và phù hợp với những quyết sách an dân, thu phục lòng người. Vì vậy, chúa Nguyễn Hoàng và các vị chúa kế tiếp sau này đã tỏ ra rất sùng đạo Phật, đã dựa vào Phật giáo vào những tư tưởng quảng đại, khoan dung của loại hình tôn giáo này để phục vụ quá trình xây dựng cơ nghiệp của mình.8 Nhưng đồng thời, chúa Nguyễn cũng từng bước xây dựng một thiết chế chính quyền tăng cường sức mạnh quân sự, trong đó các chúa đồng thời là quan Tổng trấn là Tổng tư lệnh quân đội (Thống lĩnh thủy bộ chư dinh kiêm Tổng nội ngoại Bình chương quân quốc trọng sự9). Các đơn vị hành chính được chia thành các dinh (nghĩa là đạo quân) được đặt dưới quyền cai quản của các vị quan võ gọi là quan chưởng dinh hay trấn thủ nhằm tăng cường khả năng phòng thủ và mở rộng vùng lãnh thổ. 

Để thực hiện mục tiêu này các chúa Nguyễn không chỉ ra sức chiêu mộ binh lính, người di cư đặc biệt là người bản xứ gia nhập quân đội, mà còn tăng cường xây dựng lực lượng quân sự, với các binh chủng tinh nhuệ và thiện chiến tại dinh Quảng Nam, gồm thủy binh, bộ binh, tượng binh và kỵ binh. Trong đó thủy binh là binh chủng chủ yếu tạo nên lực lượng vũ trang không chỉ của dinh Quảng Nam mà của cả vùng Đàng Trong, với số lượng thuyền chiến rất lớn, trang bị chu đáo với nhiều loại khí giới khác nhau từ súng, giáo và câu liêm. Chúng ta có thể thấy rõ sức mạnh to lớn của thủy quân tại dinh Thanh Chiêm qua mô tả của Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục như sau: “Đến như dinh Quảng Nam thì có Trung cơ, thuộc về đấy là thuyền Tả thắng nhất. Có cơ Trung thủy, thuộc về đấy là các thuyền Kiên trụ súng, Nghĩa nhất, Súng nhị, Kiên nhị, Hữu kiên, Trạch tam, 6 thuyền. Có cơ Tả thủy, thuộc về đấy là các thuyền Cường nhất, Trạch tứ, Kiên tam, Kiên ngũ, 4 thuyền. Có cơ Hữu thủy, thuộc về đấy là các thuyền Trạch nhất, Tả kiên, Súng nhất, Trạch tứ, Kiên nhất 5 thuyền. Có cơ Tả thắng bộ, thuộc về đây là các thuyền Xung nhị, Xung tam, Hữu súng, Đột tử, Tả đao, 5 thuyền. Có các thuyền đội bộ, thuộc về Cai bạ là 4 thuyền, Tiệp nhất Tiền kiên súng, Tráng đột nhị, Hữu đao, thuộc về Ký lục là 4 thuyền Tân liệp, Hữu kiên, Tả súng, Hữu súng. Có đội Hùng thủy quản 3 thuyền Hùng nhất, Hùng nhị, Hùng tam để giữ cửa biển Đà Nẵng. Có đội Thắng thủy quản 3 thuyền An nhất, An nhị, Súng nhất để giữ cửa biển Đại Chiêm. Về Tượng đội thì có cơ Trung tượng, cơ Tả tượng, cơ Hữu tượng”.10 

Vạn Đông - Thanh Chiêm của dinh Quảng Nam nằm trên bờ bắc sông Chợ Củi thuộc huyện Điện Bàn là căn cứ nội thủy quan trọng nhất của Đàng Trong thời bấy giờ. Số lượng thuyền rất lớn, được trang bị tốt, chỉ tính riêng trong những năm 1620 - 1621, theo mô tả của giáo sĩ Cristoforo Borri, thuyền thủy quân của dinh Quảng Nam đã có hơn một trăm chiếc: “Luôn có hơn một trăm thuyền chiến có đủ súng ống”.11 Bên cạnh đó, thời bấy giờ rừng núi Đàng Trong có rất nhiều voi, nhất là ở “Các xứ Hòn Lãnh, Thu Bồn, Phường Tây hoặc hai phủ Thăng, Điện sản voi như trâu, ngựa, nhà dân chăn nuôi, Quy Nhơn, Quảng Ngãi cũng có. Các xứ Cò Đen, Kẻ Dã phủ Quy Nhơn thì sản xuất ngựa, ngựa sinh trong hang núi thành đàn hàng trăm ngàn con, có con cao đến hai thước rưỡi, ba thước trở lên”.12 Với lợi thế này các chúa Nguyễn đã cho xây dựng các đơn vị tượng binh gồm cơ Trung tượng, cơ Tả tượng, cơ Hữu tượng đặt dưới quản lý của quan trấn thủ. Ngay dinh trấn Thanh Chiêm cũng có chuồng nuôi voi chiến gọi là Tàu tượng, và tại xã Hòa Phong (nay là Hòa Vang) có một hồ rộng gọi là Đầm voi là nơi cho voi tắm.13 Các chúa Nguyễn rất coi trọng việc xây dựng các đội tượng binh bởi như mô tả của giáo sĩ Borri thì voi là “một con vật rất khỏe, nó không chỉ chuyển một khẩu súng lớn, một mình kéo mười chiếc thuyền chiếc nọ theo sau chiếc kia, giữa đôi ngà một cách khéo léo” mà còn “triệt hạ từng dãy phố theo mệnh lệnh để phá hoại quân địch trong trận chiến”.14 

Như vậy, tại dinh trấn Thanh Chiêm, các chúa Nguyễn đã xây dựng quân lực hùng mạnh với các binh chủng tinh nhuệ và thiện chiến, chủ yếu về thủy binh, tượng binh và kỵ binh, trong đó quan trọng nhất là thủy binh. Với quân lực hùng mạnh này, dinh trấn Thanh Chiêm dưới thời các chúa Nguyễn đã góp phần quan trọng làm cho quân đội Đàng Trong hùng mạnh, đủ sức đương đầu với quân đội chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và đẩy lùi các cuộc xâm lấn biên giới cực Nam Đại Việt của Chiêm Thành và Chân Lạp, đánh bại âm mưu xâm chiếm của phương Tây trên biển. 

2.2. Dinh trấn Thanh Chiêm góp phần đẩy lùi các cuộc tấn công của quân Trịnh 

Cùng với quá trình xây dựng chính quyền, thực hiện các chính sách an dân, khôi phục và xây dựng kinh tế, chúa Nguyễn luôn chú trọng củng cố lực lượng quân sự để đối phó lại các cuộc tấn công của quân Trịnh. Từ năm 1627 đến 1672, chiến sự “Nam - Bắc phân tranh” giữa hai dòng Trịnh - Nguyễn đã xảy ra 7 lần giao chiến vào các năm: 1627, 1630, 1635, 1648, 1653, 1661, 1672, trong đó dinh Quảng Nam đã có những đóng góp quan trọng trong các trận đánh năm 1627, 1648, 1672. Trong trận đọ sức đầu tiên năm Đinh Mão (1627), dưới sự lãnh đạo của Tiết chế Tôn Thất Vệ, Giám chiến Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật, dinh Quảng Nam đã phối hợp cung cấp hỏa lực mạnh với đại bác, tượng binh, thủy binh cùng với Quảng Bình, Thuận Hóa đã đánh thắng đạo quân của Trịnh Tráng, buộc Trịnh Tráng phải rút quân về. 

Nổi bật nhất là trận đánh năm Mậu Tý (1648) do Thế tử Nguyễn Phúc Tần lúc ấy đang làm trấn thủ Quảng Nam dinh chỉ huy. Theo Đại Nam thực lục, quân Trịnh dưới quyền thống lĩnh của đô đốc Trịnh Đào kéo vào xâm lấn Đàng Trong đóng quân ở cửa Nhật Lệ. Thế tử Dũng Lễ hầu Nguyễn Phúc Tần lúc bấy giờ đang trấn thủ Quảng Nam dinh, đem binh ra Quảng Bình phối hợp với đại quân của các dinh để ứng chiến, đánh địch. Thế tử Nguyễn Phúc Tần sai Triều Phương đem thủy quân phục ở bên tả sông Cẩm La, sai Chưởng cơ Nguyễn Hữu Tiến đem hơn 100 thớt voi ban đêm xông vào dinh của địch đánh úp, còn mình đốc thúc các đạo quan theo sau. Bị tấn công bất ngờ nên quân Trịnh thất bại, đạo quân của chúa Nguyễn thắng lớn, bắt sống được các tướng Trịnh và 3 vạn tàn quân. Đây là chiến thắng lớn nhất từ khi quân Trịnh khai chiến với Đàng Trong, và theo nhận xét của các sử gia triều Nguyễn thì “Từ khi Nam - Bắc chia cõi đến nay, quân hai miền lần lượt khi được khi thua, chưa có trận nào thắng to bằng trận này. Thật là võ công bậc nhất”. 15 Trong suốt 45 năm Trịnh - Nguyễn phân tranh, Dinh Chiêm đã hoàn thành sứ mạng là hậu phương vững chắc của Chính Dinh để đẩy lùi các cuộc tấn công của quân Trịnh bảo vệ biên giới phía Bắc, góp phần chấm dứt hoàn toàn cục diện “Nam - Bắc phân tranh” sau gần nửa thế kỷ. 

2.3. Thủy quân của dinh Thanh Chiêm đánh thắng quân Hà Lan, góp phần bảo vệ an ninh biển 

Đặc biệt, quân đội Quảng Nam dưới sự chỉ huy của quan trấn thủ Phó tướng Dũng Lễ hầu Nguyễn Phúc Tần đã hai lần đánh bại các hạm đội của Hà Lan do thuyền trưởng Van Liesvelt chỉ huy (vào năm 1641) và hạm đội Hà Lan do Peter Baeck chỉ huy (năm 1644), từ đó làm cho không một hạm đội các nước phương Tây nào dám tấn công vào dinh Quảng Nam và Đàng Trong, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ chủ quyền quốc gia trước sự xâm lấn của phương Tây. 

Năm 1641, một thương nhân Hà Lan ở Hội An tên là Abraham Duejcker đã giết một người Việt Nam làm công trong thương điếm vì nghi là ăn cắp. Sau khi điều tra Thế tử Nguyễn Phúc Tần khi đó đang giữ trấn thủ ở dinh Thanh Chiêm đã cho bắt tên chủ thương điếm cùng 8 người Hà Lan khác tống giam, đốt hết hàng hóa trong thương điếm, và định xử tử. Hành động này của Nguyễn Phúc Tần đã khiến cho Công ty Đông Ấn ở Hà Lan rất tức giận. Vì vậy, vào tháng 11.1641, 2 chiếc tàu Hà Lan là Gulden Buis và Maria de Mecdici bị bão đắm ở gần Cù Lao Chàm, 82 người Hà Lan sống sót đều bị bắt giam ở Hội An. Thuyền trưởng Hà Lan Van Liesvelt yêu cầu chúa Nguyễn thả số người bị giam nhưng chúa không đồng ý, Van Liesvelt liền dùng 5 chiếc thuyền chở 70 binh sĩ và 150 thủy thủ tấn công Hội An hòng chiếm lấy cảng thị nhưng bị thủy quân từ căn cứ Văn Đông dưới sự chỉ huy Nguyễn Phúc Tần đánh trả quyết liệt, giết chết Van Liesvelt cùng 12 binh sĩ Hà Lan, đồng thời Thế tử Nguyễn Phúc Tần liền ra lệnh xử tử tất cả bọn hải tặc đã bị bắt giam trước đây. Sự việc này đã gây nên mâu thuẫn giữa chính quyền chúa Nguyễn với các thương nhân Hà Lan. 

Vào năm 1644, do những mâu thuẫn của người Hà Lan với chúa Nguyễn từ năm 1641 nên Hà Lan đã cho một chiến thuyền tấn công Đàng Trong. Trước tin đó, Thế tử Nguyễn Phúc Tần đang trấn thủ tại dinh trấn Thanh Chiêm đã chỉ huy thủy binh tiến thẳng ra biển Đông, tấn công quân Hà Lan. Về sự kiện này, sách Đại Nam thực lục ghi như sau: “Bấy giờ, giặc Ô Lan đậu thuyền ngoài biển, cướp bóc lái buôn. Quân tuần biển báo tin. Chúa đương bàn kế đánh dẹp. Thế tử Nguyễn Phúc Tần tức thì mật báo với Chưởng cơ Tôn Thất Trung ước đưa thủy quân ra đánh. Trung lấy cớ chưa bẩm mệnh, ngại ngần quyết. Thế tử tự đốc suất chiến thuyền của mình tiến thẳng ra biển... Trung lấy cờ vẫy lại nhưng Thế tử không quay lại. Trung bèn giục binh thuyền tiến theo. Chiếc thuyền trước sau lướt nhanh như bay, giặc trông thấy cả sợ, nhắm thẳng phía Đông mà chạy, bỏ rơi lại một chiếc thuyền lớn. Thế tử đốc quân vây bắn, tướng giặc thế cùng phóng lửa tự đốt chết”.16 Với chiến thắng này, Nguyễn Phúc Tần và đội quân của Quảng Nam dinh ghi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta một chiến công oanh liệt khiến cho các nước phương Tây phải kiêng nể và kể từ đó quân Hà Lan không dám quấy phá bờ biển nước ta nữa. Đặc biệt Nguyễn Phúc Tần là người đầu tiên đã ghi vào lịch sử chiến công oanh liệt đánh thắng quân Tây. 

Như vậy do vị thế, lợi thế đặc biệt quan trọng về mọi mặt, vùng đất Quảng Nam nói chung, Thanh Chiêm nói riêng đã được các chúa Nguyễn quan tâm, lựa chọn cho đặt lỵ sở dinh trấn, cắt cử các thế tử làm quan trấn thủ, chăm lo xây dựng phát triển kinh tế, chính trị, chăm lo đời sống nhân dân nhằm xây dựng nơi đây thành một hậu phương vững chắc để hỗ trợ cho vùng tiền tiêu Thuận Hóa, mưu toan công việc chính sự lâu dài. Nhờ vậy trong sự nghiệp xây dựng và phát triển xứ Đàng Trong của các chúa Nguyễn trong hai thế kỷ XVII, XVIII Thanh Chiêm đã có những đóng góp quan trọng về mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. 

Đặc biệt, tại đây các chúa Nguyễn rất chú trọng tới việc xây dựng, củng cố lực lượng quân sự với lực lượng đội quân gồm nhiều binh chủng tinh nhuệ từ bộ binh, thủy binh, tượng binh và kỵ binh. Chính lực lượng quân sự hùng mạnh này đã góp phần quan trọng cùng với Chính Dinh, các dinh khác của Đàng Trong đẩy lùi các cuộc tấn công của quân Trịnh, đánh tan các đạo quân xâm lược của các nước tư bản phương Tây trên biển Đông, góp phần quan trọng bảo vệ an ninh, độc lập và chủ quyền ở vùng đất Đàng Trong trong một thời gian dài. Để thấy được vị trí chiến lược cũng như vai trò của dinh trấn Thanh Chiêm về mặt quân sự trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, chủ quyền lãnh thổ xứ Đàng Trong dưới thời trị vì chúa Nguyễn, tác giả xin trích dẫn đánh giá rất xác đáng của tác giả Phạm Đình Khiêm để thay lời tạm kết như sau: “Dinh trấn Thanh Chiêm không quá thế thủ bằng cách tựa lưng vào núi non như quan niệm Chiêm Thành, cũng không chênh vênh ngoài bãi biển để hứng lấy những cuộc tấn công của bọn giang hồ quốc tế, thành cổ Quảng Nam quả thực đã chiếm cứ một vị trí lý tưởng, mà chiến lược gia ngày nay, không đặt mình vào bối cảnh lịch sử xứ Nam hồi ấy, chắc cũng phải lấy làm cảm phục”.17 

Chú thích: 

1. Nguyễn Khoa Chiêm, Nam triều công nghiệp diễn chí, Bản dịch, chú thích của Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga, Tái bản, (Hà Nội: Hội Nhà văn, 2003), 83. 

2, 4, 13 Châu Yến Loan, Dinh trấn Thanh Chiêm - kinh đô thứ hai xứ Đàng Trong, (Đà Nẵng: Đà Nẵng, 2015), 43, 56, 170. 

3. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Tập 1 (Hà Nội: Lao động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2012), 347. 

5. Chế độ Tam ty gồm 3 cơ quan: 

- Ty Xá sai do quan Đô tri đứng đầu, có các quan Ký lục giúp việc, lo công việc tố tụng, văn án. 

- Ty Lệnh sử do quan Nha úy đảm nhiệm, lo việc tế tự, khánh tiết và cấp lương thực cho các quan lại trong dinh trấn. 

- Ty Tướng thần lại do quan Cai bạ điều hành, lo việc thu thuế và chu cấp lương thực cho các quan lại ở địa phương. 

6. Xứ Quảng thời kỳ chúa Nguyễn gồm 4 phủ: Điện Bàn, Thăng Hoa, Tư Nghĩa, Hoài Nhơn (nay thuộc địa phận các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định). 

7. Dưới thời Tiên chúa Nguyễn Hoàng, Thế tử Nguyễn Phúc Nguyên được cử làm trấn thủ dinh Quảng Nam từ 1604 - 1613; thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Thế tử Hữu Phủ Chưởng Phủ sự Nguyễn Phúc Kỳ làm trấn thủ. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Lan (1635 - 1648) cử Thái phó Dũng Lễ hầu Nguyễn Phúc Tần giữ chức trấn thủ... 

8. Trong số các chúa Nguyễn, chúa Nguyễn Phúc Chu là người sùng mộ đạo và có công chấn hưng Phật giáo ở Đàng Trong. Năm 1694, chúa cho người sang Quảng Đông mời Hòa thượng Thạch Liêm (Thích Đại Sán) sang Thuận Hóa thuyết pháp về đạo Phật và lập trai đàn ở chùa Thiên Mụ để cầu siêu và tịnh độ cho binh dân xứ Thuận Hóa. Ông quy y với Hòa thượng Thạch Liêm, phát tâm thọ giới bồ tát tại gia vào năm 1695 và được Hòa thượng Thạch Liêm ban cho pháp danh Hưng Long, đặt hiệu là Thiên Túng đạo nhân. Sách Đại Nam thực lục tiền biên còn cho biết: Vào năm 1714, ông bỏ tiền của tu bổ, mở mang cảnh trí chùa Thiên Mụ như xây đắp tự viện, đúc chuông, lập khánh, dựng bia trước chùa. Chúa cũng tự thân chế bài văn bia để ghi, sai người sang nước Thanh mua Kinh Địa Tạng cùng luật và luận hơn nghìn bộ để ở tự viện. Năm 1721, chúa Nguyễn Phúc Chu còn cho dựng ngôi chùa Hoàng Giác ở xã Hiền Sĩ (nay thuộc huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế) và chế biển vàng ban cho. Vào năm 1734, chúa Nguyễn Phúc Chú (1725 - 1738) cho ban biển ngạch chùa Hộ Quốc (ở phía nam sông Phúc Giang, thuộc tỉnh Biên Hòa), lúc bấy giờ còn gọi là chùa Sắc Tứ. 

9, 10, 12 Dẫn từ: Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, (Hà Nội: Văn hóa Thông tin, 2007), 64, 242- 243, 432. 

11, 14 Cristoforo Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, (TPHCM: TPHCM, 1998), 85, 40-45. 

15, 16 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, (Hà Nội: Giáo dục, 2002), 58, 56. 

17. Phạm Đình Khiêm, “Đi tìm địa điểm và di tích hai thành cổ Quảng Nam và Phú Yên đầu thế kỷ XVII”, Việt Nam khảo cổ tập san, Số 1, 1960, 92.

Quảng Nam, tháng 8/2016
Theo http://www.dienban.gov.vn/

1 nhận xét:

  1. Trong sách viết của cá nhận, tất cả các giáo sĩ thừa sai Tây phương đều công nhận đây là thứ chữ và cách đọc của người Việt, tức chữ Quốc ngữ. Kể cả Pina hay Rhodes cũng thế, hai giáo sĩ thừa sai này không biết chữ Hán Nôm, trong khi đó chữ Quốc ngữ là sự tích hợp như nước với sữa trong chừng mực giữa Phiên âm Hán Nôm và Quốc ngữ thuần Việt... Nguyên lý nào sáng tạo ra từ vựng Quốc ngữ?

    Trả lờiXóa

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...