Nhà bác học Alexandre Yersin
với Nha
Trang
Alexandre Yersin |
Mất: 1 tháng 3, 1943 (80 tuổi), tại Nha Trang, Việt Nam.
Quốc tịch: Pháp - Thụy Sĩ.
Ngành: vi khuẩn học.
Nổi tiếng vì: Phát
hiện ra vi khuẩn dịch hạch (Yersinia
pestis), điều
chế huyết thanh đẩy lùi bệnh dịch hạch, Tìm ra Cao nguyên Lâm Viên (Đà Lạt ngày nay).Mộ của ông: nằm trên một ngọn đồi nhỏ gần
Trại chăn nuôi Suối Dầu (xã Suối Cát, H. Cam Lâm, Khánh Hòa), cách TP. Nha Trang
khoảng 20 km. Alexandre
Émile Jean Yersin (sinh
ngày 22 tháng 9 năm 1863 tại Aubonne,
Tổng Vaud, Thụy Sĩ -
mất ngày 1
tháng 3 năm 1943 tại Nha
Trang, Việt Nam) là
bác sĩ y khoa, nhà vi khuẩn học, và nhà thám hiểm người Pháp gốc Thụy Sĩ. Ông
là người khám phá ra Cao nguyên Lâm Viên (Đà
Lạt ngày nay) và vạch ra một con đường bộ từ Trung
Kỳ sang Cao
Miên,
cũng là người thành lập và là hiệu trưởng đầu tiên của Trường Y Đông Dương (tiền
thân của Đại học Y Hà Nội ngày nay), người thành lập Viện Pasteur Nha Trang,
người đặt nền móng cho ngành thú y Đông Dương. Ông còn là người đầu
tiên di thực giống cây cao su (cho mủ cao su xuất khẩu) và
cây canh-ki-na (quinquina) để
chiết xuất ra thuốc điều trị sốt rét (Quinin) vào trồng ở Việt Nam. Nhờ đó
mà chúng ta có những nông trường cao su là nguồn xuất khẩu quan trọng
và có đủ Quinin để đẩy lùi sốt rét trong những năm kháng chiến.Yersin
đã tìm ra trực khuẩn gây
bệnh dịch hạch, sau
này được đặt theo tên ông: Yersinia
pestis. Người điều chế ra huyết thanh kháng dịch hạch và đẩy
lùi bệnh dịch hạch.Ông
đã có 52 năm (1891 - 1943) gắn bó với mảnh đất Nha Trang - Việt Nam,
được người dân Nha Trang gọi với cái tên trìu mến là ông Năm. Trước khi mất ông
để lại di chúc với nguyện vọng "Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu. Yêu cầu ông
Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác.
Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang, và những người
cộng sự lâu năm. Đám tang làm giản dị, không huy hoàng không điếu văn."[3] Theo
nguyện vọng của ông, ông được chôn cất ở tư thế nằm sấp hai
tay giang rộng như để ôm trọn mảnh đất mà ông coi như quê
hương thứ hai của mình. 1. Thiếu thờiYersin là con út trong
gia đình có ba người con. Họ là thành viên Giáo hội Tin Lành Cải cách Tổng
Vaud. Mẹ ông là hậu duệ của những người Huguenot ở Cévennes phải đào thoát khỏi nước Pháp để tránh bị bức hại tôn giáo sau khi Louis XIV ra Chỉ dụ Fontainbleau năm 1685 thu hồi Chỉ dụ Nantes do Henri IV ban hành năm 1598. Lúc ấy Tổng Vaud còn thuộc lãnh thổ
Savoie, sau giành được độc lập ngày 24 tháng 1 năm 1798 và gia nhập Thụy Sĩ
ngày 14 tháng 4 năm 1803.Cha ông, Alexandre
(1825-1863), là giáo viên môn khoa học tự nhiên tại những trường trung học ở
Aubonne và Morges, kiêm nhiệm chức quản đốc kho thuốc súng, và say mê nghiên
cứu các loại côn trùng. Ông qua đời chỉ ba tuần lễ trước khi Yersin chào đời do
bị xuất huyết não.[1][2][3] Mẹ ông một mình nuôi ba con (Émilie, Franck, và Alexandre),
dời đến sinh sống ở Morges, tại đây bà mở trường dạy nữ công gia chánh và cung
cách sống cho các thiếu nữ.[4] Năm 1888, A. Yersin
vừa đúng 25 tuổi trình luận án tiến sĩ y khoa "Bệnh lao thực nghiệm",
và được nhận làm phụ tá cho giáo sư Émile Roux, trong viện Pasteur vừa khai
trương năm ấy tại Paris.2. Học vấnSau khi tốt nghiệp
trung học, năm 1883 Yersin đến Lausanne để học y khoa, rồi sang Marburg, Đức, tiếp tục theo đuổi ngành học của mình. Trong thời gian lưu trú ở
Marburg, qua báo chí Yersin đọc biết về David
Livingstone -
nhà truyền giáo và nhà thám hiểm người Scotland - và Livingstone trở thành hình mẫu lý tưởng cho chàng trai
Yersin nhiều hoài bão.[5] Năm 1885, ông đến Pháp, nghiên cứu y học tại Hôtel-Dieu de Paris (bệnh viện lâu đời nhất
Paris, liên kết với Khoa Y thuộc Đại học Paris Descartes). Tin tức, những
chuyến đi, và những tấm bản đồ về Đông Dương đã khơi dậy niềm đam mê thám hiểm của chàng sinh viên y khoa,[6] người trong suốt cuộc đời luôn muốn chọn những gì mới mẻ và
tuyệt đối hiện đại.[7] Năm 1886, ông gia nhập viện nghiên cứu của Louis
Pasteur tại
Trường Sư phạm Paris (École Normale Supérieure)
do lời mời của Émile Roux, và tham gia việc phát triển huyết thanh ngừa bệnh
dại.Ở tuổi 25, ngay sau
khi nhận văn bằng Tiến sĩ Y khoa với luận án Étude sur le Développement du
Tubercule Expérimental (Nghiên cứu về sự phát triển của bệnh
lao bằng thực nghiệm), Yersin liền sang Berlin để kịp ghi danh theo học lớp vi trùng học kỹ thuật do Robert
Koch giảng
dạy. Trở về Paris, Yersin xin nhập quốc tịch Pháp bởi vì lúc ấy chỉ có công dân
nước Cộng hòa Pháp mới được hành nghề y.[8] Năm 1889, A. Yersin được chấp nhận vào quốc tịch Pháp. Năm
ấy, trùng với lễ bách niên của cuộc "Cách mạng Pháp" và khánh thành
tháp EIFFEL. Ông gia nhập Viện
Pasteur ở
Paris mới được thành lập vào năm 1889 làm người cộng tác với Roux, hai người cùng khám phá ra độc
tố bạch hầu (do trực khuẩn Corynebacterium diphtheriae tạo
ra).3. Đến Đông DươngTuy nhiên, nhà khoa
học trẻ đầy triển vọng này không chịu hài lòng với môi trường học thuật đỉnh
cao ở Paris. Năm 1890, Yersin quyết định rời nước Pháp để đến Đông Dương (lúc bấy giờ là thuộc địa của Pháp). Phải đợi đến năm 26
tuổi, Yersin mới thấy biển lần đầu tiên, lúc ấy là một bác sĩ trẻ được cử đi
công cán ở làng chài Grandcamp. Trải nghiệm này khơi mở khát vọng được đi và khám phá cũng như
sự sẵn lòng từ bỏ tương lai xán lạn trong nghiên cứu khoa học ở Paris như là
một môn đệ của Pasteur. Yersin viết cho mẹ, "Con sẽ không buồn nếu phải
rời Paris vì con thấy chán ngấy kịch nghệ, đám thượng lưu làm con kinh tởm, và
đời mà không đi thì còn gì là đời".[9]Khi biết chắc không
thể thuyết phục Yersin ở lại Paris, Pasteur bèn viết thư cho Công ty
Messageries Maritimes (Vận tải Hàng hải), đề cử Yersin làm bác sĩ trên tàu.[10][11]Yersin nhận nhiệm vụ
chăm sóc sức khỏe cho hành khách và thủy thủ đoàn trên tàu Volga,
một con tàu cũ kỹ chạy bằng buồm và hơi nước trên tuyến hàng hải Sài Gòn -
Manila, chuyên chở 67 hành khách cùng vài tấn hàng hóa.[12] Đang lúc làm bác sĩ trên tàu Volga, qua lại giữa
hai thành phố Sài
Gòn và Manila, Yersin tự tổ chức cho mình những chuyến thám du ở Philippines và Nam
Kỳ,
tích lũy kiến thức cùng kinh nghiệm cho ước mơ khám phá những vùng đất mới của
ông.[13] Trong thời gian này, Albert
Calmette, một
môn đệ khác của Pasteur, đến Sài Gòn tìm gặp Yersin đề nghị hợp tác trong nỗ
lực thành lập Viện Pasteur ở Sài Gòn.[14]Năm sau, Yersin được
thuyên chuyển sang tuyến hàng hải mới mở Sài Gòn - Hải
Phòng, làm
bác sĩ trên tàu Saigon trọng tải chỉ bằng nửa tàu Volga,
di chuyển dọc bờ biển. Thời ấy chưa có tuyến đường bộ nối liền hai miền nam bắc.[15] Yersin dùng thời gian rảnh rỗi trên tàu để ký họa địa hình
bờ biển và, dưới sự hướng dẫn của thuyền trưởng, học cách sử dụng kính lục
phân, nghiên cứu môn trắc địa cũng như thu thập kiến thức toán học cần thiết
cho công việc quan sát thiên văn học.[16]Cả chuyến đi cũng như
chuyến về, con tàu đều dừng lại ở Nha
Trang, một
vịnh nước yên tĩnh đầy nắng.[17] Lần nào đến Nha Trang, Yersin cũng bị mê hoặc đến sững sờ
bởi vùng đất hoang dã đó với mảng thực vật trên đất liền đẹp rực rỡ, bên trên
sừng sững những đỉnh núi mây mù chưa từng ai đặt chân đến, cũng chưa hề được vẽ
bản đồ.[18]Andrien Loir, cháu
ruột và là một trong những môn đệ đầu tiên của Pasteur, tìm gặp Yersin kêu gọi
sự giúp đỡ của bạn đồng môn cũ cho kế hoạch thành lập một viện Pasteur ở Úc lúc ấy là một lục địa đang trên đà phát triển mạnh, nhưng
Yersin từ chối như ông đã khước từ lời đề nghị của Calmette trước đó.[19]Nơi nhà riêng của Yersin tại Nha Trang, nay là Nhà nghỉ Bộ Công An.Năm 1891, Yersin xin
thôi việc ở Messageries, quyết định đến sống tại Nha
Trang. Ông
cho dựng một ngôi nhà gỗ ở Xóm Cồn, và mở một phòng khám. Ông
Năm (Yersin được người dân ở đây gọi như thế) là bác sĩ người
Âu đầu tiên hành nghề trong vùng này. Ông nhận tiền khám của những người có máu
mặt và có tiền, nhưng tiếp tục chữa bệnh miễn phí cho người nghèo mặc dù thường
khi ông không thể nào phân biệt nổi giữa hai hạng người ấy, trong khi vẫn luyện
tập chạy điền dã.[20] Ông thực hiện những chuyến thám du hàng trăm cây số trong
những vùng đồi núi, vào ở trong các ngôi làng người Mọi (cách gọi
người sắc tộc thiểu số thời bấy giờ), học chút ít ngôn ngữ, săn bắn, và chữa
bệnh cho họ.[21]Muốn tìm một con đường
bộ vào Sài Gòn, Yersin đi ngựa đến Phan
Rí,
thuê người dẫn đường vào rừng, ông tìm ra cao nguyên Di Linh,[22] nhưng không thể đi tiếp, phải trở lại Phan
Thiết, rồi
lấy thuyền về Nha Trang.[3] Dù vậy, Yersin vẫn tiếp tục ý định khám phá dải rừng núi bí
hiểm dọc theo dãy Trường Sơn, lúc ấy là một vùng hiểm trở hoang vu, là nơi sinh sống của những
bộ tộc thiểu số không chịu khuất phục triều đình.[3]Với mục tiêu tìm một
con đường bộ từ Nha Trang ven Biển Đông băng qua dãy Trường Sơn để đến sông
Mekong phía
bên kia. Yersin sử dụng phần còn lại của món tiền tiết kiệm còm cõi đang cạn
dần để mua trang thiết bị và lên kế hoạch cho chuyến thám hiểm.[23] Ngày 23 tháng 9 năm 1892, đoàn thám hiểm gồm bảy thành viên,
với vài con ngựa, hai con voi, và một khẩu súng săn hiệu Winschester, dưới sự
lãnh đạo của Yersin khởi hành từ Nha Trang ra Ninh
Hòa rồi
lên Ban Mê Thuột. Ba tháng sau khi rời Nha Trang, đoàn thám hiểm đến Stung
Treng bên
bờ sông Mekong. Yersin bán lại mấy con ngựa và voi rồi cùng các bạn đồng hành
lên thuyền độc mộc về Phnom
Penh.
Những tấm bản đồ ông vẽ được gởi sang Luang
Prabang bên Lào để đối chiếu với những ghi nhận của Phái đoàn Pavie, rồi chuyển về Paris.[24] Yersin về Pháp, ở lại Paris trong ba tháng để ghi danh theo học ở Đài Thiên văn
Montsouris, và từ chối gia nhập Phái đoàn Pavie.[25] Nhờ sự vận động của Pasteur, Yersin nhận được sự trợ giúp
của Hãng Đường biển để mua dụng cụ và thêm khoản tiền trang trải chi phí cho
những chuyến thám hiểm.[26]Năm 1892, ít lâu sau
chuyến thám hiểm lần thứ nhất, theo lời khuyên của Albert
Calmette,
Yersin gia nhập đoàn y sĩ hải ngoại để khỏi phải lo lắng về mặt tài chính.[3] Sau 28 năm phục vụ, năm 1920 ông về hưu với cấp bậc Đại tá
Quân y.Tháng 6 năm 1893, được
sự ủy thác của Toàn quyền Đông Dương Jean-Marie de Lanessan, Yersin tổ chức đoàn thám hiểm theo đường bộ từ Biên
Hòa ra Đồng
Nai, lên
Di Linh, cuối cùng khám phá Cao nguyên Lâm Viên. Trong nhật ký đề ngày 21 tháng 6 năm 1893, Yersin ghi nhận có
vài làng của người sắc tộc D'Lat[27] nằm rải rác trong vùng, "Từ trong rừng thông bước ra
tôi sững sờ khi đối diện một bình nguyên hoang vu giống như mặt biển tràn đầy
những làn sóng màu xanh lá cây. Sự hùng vĩ của rặng Langbiang hòa lẫn vào đường chân trời tây bắc tạo nên bối cảnh tráng
lệ, gia tăng vẻ đẹp của vùng đất này."[28] Đến năm 1899, tại vùng đất được Yersin khám phá, Toàn quyền Paul
Doumer cho
thiết lập một khu nghỉ dưỡng cho người Âu châu, sau trở thành Đà
Lạt.[3][29]Đà lạt những năm 1920Nguồn bảo tàng văn hóa
xã hội Đà Lạt.Với sự trợ giúp từ
chính quyền - được cung cấp vật dụng, nhân lực, tiền và vũ khí - quy mô của
chuyến thám hiểm lần này lớn hơn nhiều so với lần trước, đôi khi lên đến tám
mươi người đi quanh co dưới tán lá rừng. Để đổi lại, Yersin phải khảo sát tìm
ra những con đường mới để phát triển thương mại, những địa điểm thích hợp để
chăn nuôi gia súc, cũng như kiểm kê tài nguyên rừng và khoáng sản.[30]Trên đường về, khi vừa
đến một ngôi làng người thiểu số thân quen vừa bị bọn cướp - khoảng năm mươi
người là tù vượt ngục - đốt phá. Cùng những người can đảm nhất trong đoàn thám
hiểm, Yersin quyết định truy đuổi băng cướp, kịp khi bọn chúng dừng chân, đốt
lửa và kiểm kê chiến lợi phẩm. Yersin giơ khẩu súng ngắn lên nhưng Thục, thủ
lĩnh băng cướp, nhảy đến đẩy chệch nòng súng. Yersin lĩnh một nhát chùy vào
chân gãy cả xương, bị rựa chặt đứt nửa ngón cái của bàn tay trái, bị Thục đâm
ngọn giáo vào ngực. Bọn cướp bỏ đi vì đinh ninh Yersin đã chết.[31] Theo sự hướng dẫn của Yersin, người ta khoét rộng vết
thương, rút mũi giáo, khử trùng, nẹp chân, đặt ông lên một chiếc cáng kết bằng
tre và dây rừng, khiêng đi suốt nhiều ngày đến tận Phan
Rang. Ở
đó có một chuyên gia điện tín báo cho Calmette ở Sài Gòn biết để gửi thuốc đến.
Trong khi chờ các vết thương liền sẹo, Yersin dành thì giờ tìm hiểu cách
vận hành của máy phát điện
tín. Sau
đó, ông được đưa về Sài Gòn, viết tường trình, vẽ bản đồ, và phác thảo những
tuyến đường tiềm năng.[32]Yersin chuẩn bị cho
chuyến thám hiểm thứ ba, chuyến đi dài nhất và nhiều tham vọng nhất của ông,
với dự định mở một con đường mới từ Trung
Kỳ sang
Lào, khác với con đường của Pavie qua Điện Biên Phủ.[33]Bản đồ đường đi ba
chuyến thám hiểm của YersinNguồn bảo tàng văn hóa
xã hội Đà Lạt.Cuối năm 1893, với một
lực lượng hùng hậu - ngoài 54 người tùy tùng còn có một toán lính tập mang súng
theo hộ tống.[3] - Yersin khởi hành từ Biên Hòa lên Đà Lạt, đi tiếp đến cao
nguyên Đắk Lắk, vào Attopeu ở nam Lào, rồi đi theo hướng đông ra biển. Yersin đến Đà
Nẵng vào
ngày 17 tháng 5 năm 1894. Cuộc khảo sát lần thứ ba này thăm dò một vùng đất
rộng lớn trải rộng từ vĩ tuyến 11 ở phía nam đến vĩ tuyến 16 ở phía bắc, và từ
sông Mekong ở phía tây đến bờ biển Việt Nam ở phía đông.[28] Trang nhật ký ngày 11 tháng 4 của Yersin ghi, "Đường đi
thật là khủng khiếp. Trong 4 ngày liên tiếp, chúng tôi phải vượt qua một vùng
núi hiểm trở, trèo xuống, leo lên, cứ đơn điệu như thế mãi làm cho chúng tôi
rất mệt mỏi. Cây cối chen chúc. Không có đường mòn. Chúng tôi phải khòm lưng
chui qua các bụi tre. Vì trời mưa nên rừng có nhiều vắt không thể tả được.
Những người Việt Nam đi cùng với chúng tôi bị sốt rét mặc dầu đã uống thuốc
ngừa..."[3]Tượng Yersin tại Bảo tàng Y
khoa Hồng KôngTrong khi Yersin đang
chuẩn bị cho cuộc thám hiểm thứ tư thì bệnh dịch đã bột phát ở miền Nam Trung
Hoa và
lan truyền xuống Đông Dương. Tháng 5 năm 1894, dịch phát mạnh ở Hồng
Kông, gây
tử vong cao, và trở thành mối đe dọa cho tất cả cảng biển có giao dịch thương
mại với Trung Hoa, trong đó có cảng Hải Phòng. Nhà cầm quyền thuộc địa cử
Yersin đến Hồng Kông để nghiên cứu bệnh dịch.[35]Ngày 15 tháng 6 năm
1894, Yersin đặt chân đến Hồng Kông, trông thấy xác người chết vì dịch hạch
trên đường phố, giữa những vũng nước, trong các khu vườn, trên ghe thuyền đang
cắm neo. Yersin liền ghi lại quan sát ban đầu của mình, "Tôi nhận thấy có
rất nhiều chuột chết trên mặt đất."[36] Ba ngày trước đó, Kitasato đã đến Hồng Kông cũng để nghiên cứu bệnh dịch.[37][38] Với sự hỗ trợ dồi dào từ người
Anh,
Kitasato lập một phòng thí nghiệm trong Bệnh viện Kennedy Town, Yersin chỉ được
phép đến quan sát nhóm Kitasato làm việc. Yersin ngạc nhiên về phương pháp làm
việc của Kitasato: khám nghiệm máu và cẩn thận khảo nghiệm các cơ phận của tử
thi nhưng bỏ qua chỗ sưng bạch hạch.[35]Năm ngày sau, ông
quyết định hoạt động độc lập. Với sự trợ giúp của Vigano, một người
Ý sống
ở Hồng Kông, Yersin làm việc trong một cái lán bằng tre phủ rơm với vài xác
chết có được nhờ Vigano đút tiền cho đám lính thủy người
Anh trông
coi nhà xác, và Yersin xác định được nguyên nhân của bệnh dịch.[39]Sau khi nhóm khoa
học gia người Nhật ra đi, người Anh muốn giữ Yersin ở lại Hồng Kông nhưng ông
từ chối.[40]Bởi vì những tường
trình ban đầu của Kitasato còn mơ hồ và đôi khi có những mâu thuẫn, nhiều người
tin rằng Yersin là người duy nhất tìm ra trực khuẩn.[41][42] Tuy nhiên, một cuộc phân tích hình thái học về những gì
Kitasato khám phá cho thấy "Kitasato đã khảo nghiệm trực khuẩn gây bệnh ở
Hồng Kông vào cuối tháng 6 và đầu tháng 7 năm 1894", chỉ một thời gian
ngắn sau khi Yersin công bố khám phá của ông (ngày 20 tháng 6). Do đó,
"không thể bác bỏ sự đóng góp" của Kitasato.[43] Cũng nên biết rằng, trực khuẩn gây bệnh phát triển tốt hơn
trong môi trường nhiệt độ thấp, vì vậy, phòng thí nghiệm được trang bị kém của
Yersin lại có lợi thế hơn trong cuộc chạy đua với Kitasato.Yersin và lán tre phủ rơm,
nơi ông tìm ra trực khuẩn gây bệnh dịch hạch, Hồng Kông năm 1894.Yersin là người đầu
tiên chứng minh rằng trực khuẩn hiện diện ở chuột bệnh và người bệnh là một, nhờ đó ông đã giải thích được
phương thức truyền bệnh. Cũng trong năm ấy, khám phá này được cộng tác viên Émile
Duclaux gửi
đến Viện Hàn lâm Khoa học Pháp trong bài báo nhan đề La Peste Bubonique de Hong-Kong (Bệnh
dịch hạch ở Hồng Kông).Từ năm 1895 đến 1897, Yersin nghiên cứu thêm về bệnh dịch hạch. Năm 1895 ông trở lại
Viện Pasteur ở Paris và cùng với Émile Roux, Albert
Calmette và Armand Borrel đã điều chế ra huyết thanh chống bệnh dịch hạch đầu tiên.
Cùng năm đó, ông trở về Đông Dương và lập một phòng thí nghiệm nhỏ tại Nha
Trang để sản xuất huyết thanh, (năm 1905 viện này trở thành một chi nhánh của Viện Pasteur). Năm
1896, ông thành lập trại chăn nuôi Suối Dầu, nuôi ngựa để sản xuất huyết thanh.Năm 1896, Yersin đến Quảng
Châu,
được phép tiêm huyết thanh được điều chế tại Nha Trang cho một chủng sinh đang
mắc bệnh tại đây, và mau chóng thu được kết quả. Ông trở thành người thầy thuốc
đầu tiên cứu sống một bệnh nhân dịch hạch.[44] Yersin tiếp tục cuộc hành trình chống bệnh dịch hạch bằng
huyết thanh với những điểm đến kế tiếp là Hạ
Môn,
Formosa (nay là Đài
Loan),
rồi Macao. Song, khi đến Bombay, Yersin đối diện với một môi trường phức tạp hơn nhiều - người
bệnh từ chối vào bệnh viện cách ly vì ở đó không tuân thủ hệ thống đẳng cấp
(theo đạo Hildu), loài chuột phát triển mạnh bởi vì người dân không chịu sát
sinh, sự đố kỵ của người Anh đối với người Pháp - ông không làm được gì, cuối
cùng phải rút lui để lại một đống hỗn độn cho Paul-Louis Simond, người đồng
nghiệp được Viện Pasteur cử đến thay thế ông.[45]Viện Pasteur Nha TrangSau Bombay, Yersin
quyết định trở về Nha Trang trong năm 1898. Với sự hỗ trợ từ Toàn quyền Doumer,
ông xây dựng Viện Pasteur Nha Trang. Rồi ông mua một khu đất rộng 500 héc-ta ở
Suối Giao (nay là Suối Dầu) để làm nông nghiệp và chăn nuôi. Ông cho trồng cây
cà-phê Liberia, các loại cây thuốc, cây coca để sản xuất cô-ca-in sử dụng trong
ngành dược, tuyển chọn nhiều loại thực vật và động vật từ khắp nơi trên thế
giới để nuôi trồng tại đây, biến nó thành một cộng đồng nông nghiệp và khoa học
với một trạm xá phục vụ cư dân trong vùng. Trong thời gian này, sản xuất huyết
thanh chống dịch cho bò là nguồn thu nhập chính của Yersin.[46] Trung tâm thí nghiệm này về sau trở thành viện thú y đầu
tiên ở Đông Dương.[28]Là người đầu tiên nhập
giống cây cao su về trồng tại Việt Nam, Yersin trở thành chủ một đồn điền cao
su lúc đầu rộng khoảng 100 hec-ta, kiếm tiền đủ để nuôi sống Viện của ông. Ông
liên lạc với André Michelin, người sáng lập tập đoàn Michelin, một trong những hãng sản xuất bánh xe lớn nhất thế giới. Nhờ
cách làm hiệu quả và suy nghĩ quyết liệt nên lợi tức gia tăng đáng kể, ông gửi
tiền vào Hongkong
and Shanghai Bank (nay là ngân hàng HSBC) và mua các loại cổ
phiếu.[47]Về Nha Trang lập trang
trại là khởi điểm cho một giai đoạn khác trong cuộc đời Yersin: sống ẩn dật, để
lại đằng sau ánh hào quang của một huyền thoại sống - người đẩy lùi bệnh dịch
hạch và là người khám phá cao nguyên Lâm Viên - để sống với niềm đam mê mới:
nghiên cứu cùng thực hành nông nghiệp và chăn nuôi.[48] Ông từ chối tiếp các nhà báo, họ bèn dựng lên những câu
chuyện huyễn hoặc về Yersin, nhưng ông chẳng hề quan tâm.[49]Từ Suối Giao, sau một
chuyến thám hiểm ngắn với Armand Krempf - hai ngày đi thuyền và hai ngày leo
núi - Yersin phát hiện ngọn núi Hòn
Bà.
Trong năm 1915, ông tiến hành di thực các loài thực vật và động vật, gieo các
loại hạt giống,[50] và xây dựng một ngôi nhà gỗ kiểu Thụy Sĩ. Ông nghiên cứu
điểu học, nghề làm vườn, và sưu tầm các loại hoa.[51] Ông cũng mở một chiến dịch trồng rừng đồng thời khuyên dân
làng bỏ tập tục chặt đốt cây rừng. Ông dựng chuồng nuôi chim và đưa về lãnh địa
rộng 15 000 héc-ta của mình các loài chim lạ.[52] Ông trồng thử nghiệm cây canh-ki-na để sản xuất thuốc ký
ninh chữa bệnh sốt
rét. Ông
tìm ra thổ nhưỡng thích hợp cho loại cây này ở vùng đất Dran (nay là Đơn Dương) và Di Linh.[53]
«Yersin là một con người đơn độc. Ông biết rằng không
sự kỳ vĩ nào được thực hiện ở số nhiều. Ông căm ghét bè nhóm, ở đó hàm lượng
trí tuệ tỉ lệ nghịch với số lượng thành viên tạo nên đám đông ấy. Thiên tài
luôn đơn độc.[54]” - Patrick
Deville, nhà văn.
Yersin dùng số tiền có
được nhờ những giải thưởng khoa học để xây dựng một con đường dài 30 cây số
quanh co uốn khúc từ Suối Giao lên Hòn Bà. Sử dụng thiết bị tiên tiến Improver
Road Tracer, ông "đích thân chỉ đạo công việc, với sự giúp đỡ
của các cai An Nam, làm một con đường có độ dốc rất đều, ở mức mười phần
trăm". Đôi khi phải dùng bộc phá để nổ phá đá, và "dùng các mảnh vụn
để xây tường chống."[55] Nhờ con đường này, Yersin chuyển một máy phát điện lên ngôi
nhà gỗ, lắp đặt hệ thống đèn, khởi động một máy dẫn nước để tưới cây, và đặt
mua từ Pháp một chiếc Citroën bánh xích, cùng loại với "những chiếc xe đã băng qua sa
mạc Sahara."[56]
Yersin thích biết mọi
thứ, ông là chuyên gia về nông học nhiệt đới, nhà vi trùng học, nhà dân tộc
học, nhiếp ảnh gia, rồi nghiên cứu khí tượng. Ông mua máy điện lượng kế, làm
một con diều thật lớn thả lên độ cao một ngàn mét để đo điện khí quyển và dự đoán
giông bão. Ông muốn giúp những người dân chài thường khi bị mất tích trên biển
mỗi lúc có lốc xoáy vụt đến. Yersin thuyết phục Fichot, một kỹ sư thủy văn phục
vụ trong hải quân và rất say mê thiên văn học, đến sống với ông trong ngôi nhà lớn ở Xóm Cồn với kính thiên văn
và máy quan tinh được lắp đặt trên sân thượng để cùng nhau nghiên cứu khí tượng.[57] Trong những ngày cuối đời, Yersin gắn bó với niềm đam mê
mới: văn chương.[58] Ở tuổi tám mươi, ông lại học tiếng
Latin, tiếng Hy Lạp, và biên dịch những tác phẩm của Phèdre, Virgile, Horace, Salluste, Cicéron, Platon, và Démosthène.[59]
7. Trường Y Đông Dương
Năm 1902 Toàn quyền
Paul Doumer, trước khi rời Đông Dương, mời Yersin từ Nha Trang ra Hà Nội để mở
một trường Y, một bệnh viện, và một trung tâm vệ sinh. Chỉ với Trường Y
"ước tính việc xây dựng sẽ tốn một triệu rưỡi franc!" Một số
tiền lớn, song theo nhận xét của Yersin, "vẫn rẻ hơn nhiều, lại hữu ích
hơn nhiều so với cái nhà hát ở Sài Gòn."[60]Đại học Y Hà Nội, năm 1930Yersin được bổ nhiệm
làm hiệu trưởng đầu tiên của École de Médecine de l’Indochine (Trường
Y Đông Dương), là tiền thân của Đại học Y Hà Nội.[61]
Ông thiết lập giáo
trình theo hình mẫu đại học Pháp - sáng khám bệnh ở bệnh viện, chiều dành cho
lý thuyết - đích thân ông giảng dạy trong các giờ vật
lý, hóa
học, và phẫu thuật.[62]
Trường khai giảng ngày
1 tháng 3 năm 1902, năm học đầu tiên có 29 sinh viên, 15 người đến từ Bắc
Kỳ, 5
từ Trung Kỳ, 8 từ Nam
Kỳ, và
1 từ Cao Miên. Tất cả đều được nhận học bổng 8 đồng mỗi tháng.[63] Ghi nhận của Yersin về những sinh viên Y khoa đầu tiên được
đào tạo ở Đông Dương, "Họ rất chăm học, có những người xuất sắc ngang với
những sinh viên giỏi nhất bên Pháp. Điều thú vị là ngay cả những người thông
minh cũng học rất chăm. Gần như có thể nói rằng không có ai lười biếng."[64]
Ông có công di chuyển
trường khỏi làng Kinh Lược, cho xây dựng ngôi trường ở phố Bobillot (Lê Thánh
Tông ngày nay), và xây dựng bệnh viện thực hành ở phố Lò Đúc.[61]
Sau hai năm, khi mọi
thứ đã vào guồng, Yersin xin từ nhiệm, và trở về Nha Trang.[65]
8. Từ trần
Trong thời gian diễn
ra Đệ nhị thế chiến, ngày 1
tháng 3 năm 1943, Yersin từ trần tại nhà riêng ở Nha Trang, ông để lại di chúc, "Tôi muốn được chôn ở Suối
Dầu. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem
tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang,
và những người cộng sự lâu năm. Đám tang làm giản dị, không huy hoàng không
điếu văn."[3] Dù
vậy, rất đông người tìm đến để đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng. Nhiều
người dân Xóm Cồn và Nha Trang than khóc và để tang cho ông. Đoàn người đưa
tang dài đến hơn ba cây số.[66]
Chúng tôi viếng mộ
Yersin (30.4.2017) tại Suối Dầu, xã Suối Cát, H. Cam Lâm, TP.
Nha Trang.9. Di sản
Yersin để lại nhiều ký
ức sâu đậm tại Việt Nam,[67] nơi người dân trong vùng gọi ông cách thân mật là Ông
Năm, theo cấp bậc Đại tá Quân y (quân hàm có năm vạch).[3] Tuy nhiên, theo Patrick Deville, người dân Xóm Cồn gọi
Yersin như thế là do "ông có cái lon năm vạch mạ vàng trên bộ đồng phục
trắng" khi ông còn là bác sĩ phục vụ trên tàu.[68]
“Chắc
chắn rất hiếm có người ít tư lợi đến thế. Yersin tự xóa mờ mình đi để người
khác được tự do sáng kiến, sự tự do mà chính bản thân ông hết sức gắn bó.[69]” - Noël Bernard, người đầu tiên viết tiểu sử
Yersin.
Từ khi còn là một sinh
viên trẻ tuổi theo học y khoa ở Marburg, Yersin đã tỏ lòng ngưỡng mộ David
Livingstone, và
nuôi hoài bão bước theo dấu chân của nhân vật nổi tiếng người Scotland chào đời
trước ông nửa thế kỷ.[70] Yersin đã dành trọn đời mình để thực hiện giấc mơ ấy. Patrick
Deville, tác
giả quyển Peste & Choléra đoạt giải Femina
năm 2012, nhận xét rằng Yersin là "một tín đồ chân chính của Giáo hội Tin
Lành vùng Morges và của tấm gương Livingstone, người cũng là bác sĩ, nhà thám
hiểm, và mục sư".[68]
Năm 1891, khi đặt chân
đến Nha Trang, Yersin yêu mến vùng đất này, và quyết định lưu trú tại đây. Ông
viết cho Émile Roux, "Hãy đến đây với tôi, ông sẽ biết ở đây thú vị như
thế nào, thời tiết không nóng nhiều, cũng không lạnh lắm, một khung cảnh thanh
bình tuyệt đối và nhiều công việc cần làm."[71]
Ông sống gần gũi với
cư dân trong vùng, và tận tụy giúp đỡ những ngư dân nghèo khó trong xóm chài
nhỏ bé.[72] Ông sống trong một lô cốt cổ ba tầng, trên tầng thượng ông
đặt kính thiên văn để quan sát báo bão cho làng chài.[3] Khi có bão, ông gọi dân làng đến trú ngụ ở nhà ông, và cung
cấp thực phẩm cho họ.[73]
Yersin khám bệnh miễn
phí cho người nghèo. Ông viết cho mẹ, "Mẹ hỏi con có thích ngành y không.
Có và không. Con rất vui được chữa trị cho những người đến nhờ con khám, nhưng
con không muốn biến y học thành một cái nghề, nghĩa là con sẽ không bao giờ có
thể đòi một người bệnh trả tiền vì đã chữa bệnh cho người đó. Con coi y học là
thiên chức, là mục vụ.[74] Đòi tiền để chữa trị cho bệnh nhân thì chẳng khác nào nói
với người đó rằng: tiền hay mạng sống."[28][75]
Yersin trân trọng
những đóng góp của các phụ tá người bản địa, yêu quý họ,[76] và quan tâm đến đời sống của họ.[77]
Ngoài vi khuẩn Yersinia pestis được đặt tên để vinh danh Yersin, có nhiều địa danh tại Việt
Nam được đặt tên theo ông.
Tại Hà Nội[78], Đà Nẵng[79], Nha Trang[78], Đà Lạt[80],Thủ Dầu Một[81] và Thành phố Hồ Chí Minh[82] đều có những con đường được đặt tên để vinh danh Yersin.
Tọa lạc bên trong
khuôn viên Viện Pasteur Nha Trang là Bảo tàng Yersin, nơi lưu trữ nhiều kỷ vật
của Yersin.[83] Công viên Yersin nằm dọc theo bờ biển Nha Trang, với tượng
Yersin cao 4m, là một thắng cảnh của thành phố.[84] Phần mộ của Yersin tại Suối Dầu (cách Nha Trang 20 km) hằng năm có nhiều
người đến viếng. Theo tập quán đối với người có công và được nhiều người yêu
quý, người dân xây cho ông một miếu thờ.[85] Năm 1990, quần thể mộ Yersin ở Suối Dầu và thư viện Yersin ở
Viện Pasteur Nha Trang được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia; đây
được xem là "trường hợp duy nhất nước Việt Nam cấp bằng chứng nhận di tích
lịch sử cấp Quốc gia cho một người nước ngoài".[86] Làng Tân Xương ở Suối Dầu còn thờ cúng ông như một thành
hoàng.[87]Lycée Yersin, nay là Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt.Một ngôi trường - khởi
công xây dựng năm 1927 và khai giảng năm 1935 - được đặt theo tên Yersin để
vinh danh ông. Lycée Yersin (nay là Trường Cao đẳng
Sư phạm) là một kiến trúc đẹp và độc đáo của Đà Lạt.[88][89] Tại thành phố này, cũng mang tên ông còn có Công viên Yersin,[90] và một ngôi trường thành lập năm 2004, Đại học Yersin.
Yersin được trao tặng Bắc Đẩu Bội tinh, huân chương cao quý nhất của nước Pháp.[91]
Năm 1934, sau khi Pasteur, Roux, và Calmette qua đời, Yersin - người cuối
cùng trong nhóm Pasteur - được đề cử làm Giám đốc Danh dự của Viện Pasteur
Paris, và là ủy viên Ban Quản trị. Chức vụ này buộc ông mỗi năm phải về Pháp
một lần để họp. Năm 1940, Yersin về thăm Pháp lần cuối cùng trước khi Đệ Nhị
Thế Chiến bùng nổ.[28]
Tác phẩm Peste
et choléra (Dịch hạch và thổ tả) của nhà văn Patrick
Deville nói
về cuộc đời của Yersin đoạt giải
Femina năm
2012.[92] Hội Ái mộ Yersin, được thành lập năm 1992 với hơn 700 hội
viên, với mục đích hoạt động giúp đỡ người nghèo và trẻ em khuyết tật cũng như
truyền bá về thân thế và sự nghiệp của Yersin[93], là tổ chức phi chính phủ duy nhất ở Việt Nam nhận Huân chương Lao động.[94][95]
Ngày 20 tháng 9 năm
2013, nhân kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Yersin, Tổng công ty Bưu chính Pháp đã
phối hợp với Viện Pasteur Paris, Viện Hàn lâm Khoa học Hải ngoại Pháp và Đại sứ
quán Việt Nam tại Pháp tổ chức lễ phát hành hai mẫu tem chung Việt Nam và Pháp
về Alexandre Yersin.[96][97] Ngày 22 tháng 9 năm 2014, nhân kỷ niệm 151 năm ngày sinh của
Alexandre Yersin, tại Nha Trang diễn ra lễ công bố quyết định truy tặng
"Công dân Việt Nam danh dự" cho Yersin, đồng thời tổ chức triển lãm
bộ sưu tập tem "Bác sĩ Alexandre Yersin - người công dân danh dự Việt
Nam".[98]
10. Chuyện bên lề
- Yersin dưới mắt người cùng thời:
Các đồng nghiệp của
ông Yersin tại viện Pasteur Paris và những người Pháp tại Đông Dương thấy ông
phân tán trí thức lấy làm gai mắt, cho ông là một người kỳ dị. Càng gai mắt hơn
nữa là ông thành công trên nhiều lĩnh vực. Luôn luôn tiên phong trong những
lĩnh vực mới, những phát minh tối tân, ông là một tư nhân đầu tiên có được: Máy
phát thu bằng chữ morse để liên lạc giữa Nha Trang, Suối Dầu, Hòn Bà; Máy thu
thanh tân tiến, bắt được các đài bên Pháp; Kính thiên văn; Từ những năm đầu
tiên của thế kỷ 20, Yersin là người lái những chiếc ô-tô đầu tiên tại Hà Nội:[101] chiếc đầu tiên hiệu Serpollet 5 mã
lực chuyển
từ Nha Trang ra, rồi chiếc Serpollet thứ hai, đời mới nhất 6 mã lực có thể chạy
100 cây số giờ, đặt mua từ Paris. Suốt nửa thế kỷ sống ở Việt Nam, ông không
ngừng nhập những máy móc tân tiến nhất, lại còn có ý định xây dựng một sân bay
ở Nha Trang102]. Năm 1910, ông lại muốn tạu một chiếc phi cơ, nhưng vì Đông
Dương không có sân bay, ông đành bỏ dự định này. Trong khi công sứ tại Nha
Trang chưa có xe nhà thì Yersin đã gửi mua tại Pháp chiếc Serpollet năm mã lực,
chiếc xe Clément và một thuyền máy. Hai năm sau, ông bán lại chiếc Serpollet
năm mã lực cho ông công sứ Nha Trang, rồi sang Paris tạu chiếc xe Serpollet sáu
mã lực đem ra Hà Nội làm lác mắt chẳng những dân cư Hà Nội, cả chính quyền.
Viên tướng chỉ huy quân đội Pháp còn nhờ ông đưa xe đi diễn binh qua cầu Long
Biên. Tháng Giêng năm 1905, Yersin bán chiếc Serpollet sáu mã lực, tạu chiếc
Serpollet mười một mã lực. Năm 1907, ông mua một chiếc Alcyon. Năm 1912, ông mua
chiếc Clément Bayard mười lăm mã lực, nhưng khi chiếc xe này không chạy được
nữa, ông trở lại dùng xe đạp. Đến năm 1925 vì cần phương tiện liên lạc giữa Nha
Trang, Hòn Bà, Dran, Djiring, ông lại tạu chiếc Zèbre vừa mau vừa êm. Nhưng một
hôm về ngang Phan Rang, ông suýt đụng một em bé, nên ông bán chiếc Zèbre, và từ
đấy ông dùng lại xe đạp. Năm 1943, vì phổi yếu, ông dùng xích-lô. Nhắc đến
Yersin, ai cũng hình dung một ông cụ già khiêm tốn ăn mặc xuềnh xoàng đi chiếc
xe đạp cũ kỹ, quên rằng Alexandre Yersin đã làm bực mình các giới chính quyền
bấy giờ với những chiếc ô-tô tối tân. Luôn luôn tiên phong trong những lĩnh vực
mới, năm 1932, khi chuyến bay đầu tiên của hàng không Pháp nối liền Sài
Gòn-Paris thì ông dùng máy bay để vận chuyển. Tháng 3 năm 1940, Yersin bảy mươi
bảy tuổi, lấy máy bay về Pháp để dự buổi họp hàng năm của viện Pasteur Paris.
Một cuộc hành trình rất gay go. Ngày 30 tháng 5 năm 1940, chuyến máy bay cuối
cùng đưa ông về Việt Nam, trước khi quân đội Đức vào Paris.
- Nhiều người muốn biết tên Đà Lạt xuất phát từ đâu?
Có người cho rằng đó
là chữ viết tắt của Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperem – “Nơi mang lại niềm vui
cho một số người và đem lại sức khỏe cho những người khác.” Tuy nhiên, tên Đà
Lạt xuất phát từ chữ D’Lat trong nhật ký của Yersin. Theo Mục sư Phạm Xuân Tín,
một nhà truyền giáo Tin Lành kỳ cựu tại cao nguyên miền Trung Việt Nam và cũng
là một nhà ngôn ngữ học đã đặt chữ viết cho các sắc tộc thiểu số, Đa có nghĩa
là xứ, Lạt là Lạch. Đa Lạt là xứ của người Lạch. Về sau, người Việt viết thành
Đà Lạt. Thành ngữ La Tinh là do những người Âu Châu đặt ra từ tên Đà Lạt khi
họ nhận thấy được những ích lợi của thành phố này. Một tên khác cũng
có cùng nguồn gốc tương tự. Dran hay Đơn Dương là tên một thị trấn nhỏ thuộc
tỉnh Tuyên Đức; và D’Ran hay Đà Rằn là tên một con sông nhỏ ở Di Linh.
- Hai mươi lăm năm còn lại của cuộc đời.
Yersin đã chú
tâm vào việc nghiên cứu thực vật. Yersin cho nhập các giống trà, cà phê, ca
cao, cao su, cọ, dừa, các loại cây ăn trái, dâu, mận, cà-rốt, bắp cải, súp-lơ.
Ông cho trồng thí nghiệm những loại cây và rau này trên những loại đất và địa
hình khác nhau. Sau khi nghiên cứu, Yersin hướng dẫn cách trồng và giới thiệu
cho nhà nông. Năm 1915, Yersin cho trồng cây Can-kina (Quiquina) tại Hòn Bà để
chiết dược thảo làm thuốc trừ sốt rét (thuốc Quinin). Nhờ Yersin, Việt Nam ngày
nay trở thành một trong những nước sản xuất cà phê nhiều nhất trên thế giới.
Những công ty trà và cà-phê Việt Nam thành công trong việc kinh doanh hiện nay
một phần nhờ công khó nhọc của Yersin. Hàng trăm ngàn người Việt ngày nay
có việc làm và cuộc sống ổn định nhờ trồng hoặc chế biến trà, cà phê, đào, mận,
dâu, cà rốt, bắp cải, rau quả mà Yersin đã nghiên cứu trồng gần 100 năm trước.
Nhiều loại rau trái cây mà người Việt dùng hàng ngày do Yersin nhập vào lúc đó.
- Công đầu trong trồng cây cao su và di thực cây
canh ki na vào Việt Nam.
Năm 1895, BS Yersin
lập trại chăn nuôi Suối Dầu (huyện Cam Lâm). Ở đây, ông đã trồng thử nhiều loại
cây khác nhau, nhưng chỉ thực sự bị cây cao su chinh phục. Năm 1897, ông mang
200 cây cao su đầu tiên trồng thử trong đồn điền của mình và nhanh chóng nhận
thấy triển vọng từ loại cây này. Trong một bức thư gửi cho Emile Roux ở Pháp,
ông khẳng định: “Tôi tin chắc cây cao su hiện nay là cây mọc tốt nhất trong đồn
điền của chúng ta... Tôi ước mong, một cây cao su trưởng thành cho trên 1kg mủ
khô mỗi năm và mỗi héc-ta có tối thiểu 400 cây”. Sở dĩ nói Yersin có công đầu
trong việc trồng cây cao su, đó là ngoài việc trồng thành công cây cao su ở
Suối Dầu cho năng suất, chất lượng mủ cao, ông còn có sự liên kết chặt chẽ giữa
đồn điền với các phòng thí nghiệm và các công ty tiêu thụ cao su. Nhờ vậy, sau
hơn thế kỷ có mặt ở Việt Nam, cây cao su đang là một trong những cây công
nghiệp cho nguồn thu lớn.
Khi hoạt động sản xuất
vaccine và huyết thanh tạm ổn, Yersin hoạch định trồng cây để tạo nguồn kinh
phí hoạt động, vì Viện Pasteur Nha Trang và Trại chăn nuôi Suối Dầu do ông sáng
lập không được nhà nước thuộc địa bảo trợ tài chính. Thời điểm này cây cao su
còn xa lạ với người Việt, mặc dù vườn thực vật Sài Gòn đã từng trồng thử nghiệm
từ năm 1877 nhưng cây đều chết hết. Trong những lần đến Malaisia,
Indonesia, Yersin đã nhìn thấy người Anh, Hà Lan trồng cao su giống Nam Mỹ, nên
tháng 10-1897 ông đưa loài cây này vào vùng đất ở Suối Dầu. Một năm sau, trong
thư viết cho Roux ngày 12-10-1898, Yersin kể “Những cây cao su của chúng ta mọc
đẹp vô cùng”. Trong chuyến đi Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ, Yersin đến thăm hai đồn điền
cao su do người Anh quản lý, ông thật sự yên tâm với cây cao su ở Suối Dầu. Nếu
như ngày 2-7-1902, Yersin thổ lộ với mẹ bằng những dòng thư “Cây cao su tăng
trưởng một cách đặc biệt”, thì hai năm sau Yersin báo tin “Những nhát cạo đầu
tiên rất đáng phấn khởi”, nên mùa xuân 1905 ông thu được 1.316 kg mủ khô. Lúc
này màu xanh cao su mở rộng trên vùng đất Suối Dầu, Yersin trở thành chủ đồn
điền cao su 100 ha. Ông liên lạc với André Michelin - người sáng lập Tập đoàn
Michelin sản xuất lốp ô tô hàng đầu thế giới để bán mẻ cao su đầu tiên được
25,50 Franc. Cây cao su mang lại nguồn thu đáng kể khi sản lượng năm 1909 tăng
lên 1,5 tấn mủ khô, bán được 15.000 Franc. Yersin gửi tiền vào Hongkong and
Shanghai Bank và mua các loại cổ phiếu. Từ hiệu quả sản xuất và tín dụng, đời
sống nhân viên và hoạt động của Viện Pasteur Nha Trang, Trại chăn nuôi Suối Dầu
tạm ổn. Như
thế mới thấy ông không chỉ là nhà khoa học đại tài trên nhiều lĩnh vực mà còn
là một doanh nhân kiệt xuất.
Đang yên bình, bất ngờ một trận
bão kinh hoàng ập đến trong đêm cuối tháng 10-1909, quật ngã hơn 500 cây cao su,
gây thiệt hại kinh tế không nhỏ, nhưng Yersin không hề nản lòng mà tiếp tục trồng
lại và mở rộng diện tích lên đến 307 ha vào đầu thế kỷ 20. Từ năm 1930, sản lượng
mủ cao su khô thu được ở Suối Dầu đạt trên 100 tấn. Tiếc rằng, sau khi Yersin mất,
kết hợp với nhiều nguyên nhân khách quan khác trong đó có chiến tranh nên cây
cao su ở Suối Dầu chìm vào quên lãng.
Với cây canh ki na
(quinquina), trước khi được BS Yersin nhập vào trồng ở miền Nam, Toàn quyền
Đông Dương Paul Bert cũng đã thí điểm trồng ở miền Bắc vào năm 1886, nhưng
không thành công. Bản thân BS Yersin dù biết đưa cây canh ki na vào sẽ rất có lợi
cho người dân Đông Dương và một số thuộc địa khác, nhưng những thử nghiệm ban đầu
của ông cũng không phải đã nhận được kết quả tích cực. Từ ước vọng đưa cây canh
ki na vào trồng ở Việt Nam, ông đã bỏ công đi tìm được vùng đất phù hợp với tập
tính sinh trưởng và kết quả Yersin đã tìm ra Hòn Bà (huyện Cam Lâm) ở độ cao
1.500m. Những hạt giống và 30 cây canh ki na ghép nhanh chóng được đưa từ vườn
thực vật Buitenzorg (Pháp) lên trồng ở Hòn Bà. Thời gian đầu, những cây ghép mọc
không tốt, còn những cây ươm hạt đều phát triển khỏe. Tuy nhiên, tốc độ phát
triển của tất cả các cây dần chậm lại, lá cây nhiễm nấm mốc. Không nản lòng,
ông quyết định chuyển việc thực nghiệm sang vùng Đồng Nai Thượng (Lâm Đồng). Kết
quả, cây canh ki na đã phát triển tốt ở vùng đất này. Có thể nói, việc chủ động
trồng được cây canh ki na cũng đồng nghĩa với việc chủ động được nguồn sunfat
kí ninh kết tinh dùng để bào chế thuốc chống sốt rét, một căn bệnh phổ biến ở
Việt Nam trong một thời gian dài. Điều này cho thấy sự cống hiến của BS Yersin
vào nền nông nghiệp, y học Việt Nam là rất to lớn.Cây Quinquina trồng trước mộ Yersin (Ảnh chụp 30.4.2017). Bên cạnh cây cao su, Yersin luôn mơ ước cây canh-ki-na hiện diện ở
Việt Nam vì loài thực vật này là nguồn dược liệu sản xuất thuốc ký ninh chữa
sốt rét - một căn bệnh ám ảnh nhiều người ở Đông Dương. Sau khi khám phá Hòn Bà
ở độ cao 1.400m với khí hậu mát lành, Yersin nhập cây canh-ki-na từ Java -
Indonesia và Calcutta - Ấn Độ đưa về trồng thử nghiệm, nhưng thất bại. Dẫu vậy,
tính nhẫn nại kiên trì đã thôi thúc Yersin đưa cây canh-ki-na lên cao nguyên Di
Linh và Dran - tức Đơn Dương. Đáp lại những nỗ lực tích cực của ông, cây
canh-ki-na phát triển tốt nên Yersin quyết định mở rộng diện tích hơn 670 ha.
Sau khi tiếp nhận hai tấn vỏ cây canh-ki-na do Yersin gửi sang Pháp vào năm
1930, giáo sư Perrot - Chủ nhiệm khoa dược Paris tiến hành phân tích và xác
nhận hàm lượng dược liệu tương đương canh-ki-na ở Indonesia. Trong năm sau,
Yersin cho khai thác hết một lượt vỏ cây hiện có và thu được 29.600 kg với hàm
lượng thuốc 7,47%, tương đương 2.045 kg Sunfate ký ninh kết tinh, hai năm kế
tiếp con số này tăng lên 3.227 kg. Cứ thế, nguồn ký ninh sản xuất từ cây
canh-ki-na ở Di Linh và Dran tăng dần. Đến khi đại chiến thế giới thứ hai bùng
nổ, nước Pháp bị bao vây, Đông Dương cô lập nhưng Việt Nam vẫn có thể tự chủ
nguồn ký ninh chữa bệnh sốt rét. Cho tới lúc này những người quan tâm đến sức
khỏe cộng đồng mới thật sự cảm phục Yersin, vì ông đã dự báo chuyện này hơn 30
năm về trước.
- Người tạo
lập ngành thú y đầu tiên
Để có nơi nuôi ngựa và
sản xuất huyết thanh chữa bệnh dịch hạch, năm 1896 Yersin xây dựng cơ sở chăn
nuôi súc vật thí nghiệm Suối Dầu - nay là Trại chăn nuôi Suối Dầu ở thôn Dầu
Sơn, xã Suối Tân, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa. Cơ sở này thuộc Viện vaccine -
sinh phẩm y tế (IVAC) Nha Trang và là nơi có đàn ngựa phục vụ y học lớn nhất
Đông Nam Á. Thời đó giao thông cách trở, quốc lộ cũng chưa có nên mỗi ngày
Yersin cọc cạch đạp chiếc xe đạp Peugeot hơn một giờ trên con đường
mòn gập ghềnh từ Nha Trang lên Suối Dầu để kiểm tra, hướng dẫn công nhân trồng
trọt, chăn nuôi. Sau đó Yersin sắm xe ngựa thay cho xe đạp, đỡ vất vả hơn đôi
chút. Suối Dầu lúc đó là vùng đất hoang vu, đôi lúc cọp từ trên núi bất ngờ ập
xuống tấn công đàn ngựa, một vài loài thú khác phá hoại cây trồng, thế nhưng
phải mất nhiều lần đệ trình, đến ngày 17-7-1899 viên Khâm sứ Trung Kỳ mới giao
cho Yersin 500 ha đất. Ông tuyển chọn nhiều loại cây thuốc và động vật đưa về
nuôi trồng, tạo thành một cộng đồng nông nghiệp gắn kết y học. Khi trại chăn
nuôi Suối Dầu hình thành, Yersin nghĩ rằng Đông Dương là vùng đất nông nghiệp,
rất cần trâu, bò, ngựa phục vụ cày kéo, nhưng chưa có thuốc phòng dịch, trong
khi đời sống kinh tế người dân còn nhiều khó khăn, nên ngoài việc sản xuất
huyết thanh phòng trị dịch hạch cho người, Yersin quyết định nghiên cứu dịch tễ
trên gia súc để tạo nền móng cho ngành thú y Việt Nam. Cũng từ đó ông sản xuất ra
nhiều loại vaccine và huyết thanh phòng bệnh tụ huyết trùng và dịch tả cho bò,
lợn, gà. Trong năm 1899, Yersin thiết lập thêm phòng thí nghiệm các bệnh trên
súc vật và đào tạo chuyên môn về bệnh lý, vệ sinh dịch tễ gia súc cho nhân viên
thú y toàn Đông Dương. Các bác sĩ thú y từ Pháp đến Đông Dương đều phải thực
tập ba tháng ở Viện Pasteur Nha Trang. Công sức, trí tuệ của Yersin trên lĩnh
vực khoa học thú y đã tạo ra bước ngoặt đổi mới và phát triển ngành chăn nuôi
Việt Nam từ đầu thế kỷ 20, mà Viện Pasteur Nha Trang được coi là “tổ đường”
nghề nghiệp. Những khoản tiền thưởng từ Huân chương Bắc đẩu Bội tinh, giải
thưởng Francois Audiffred của Viện hàn lâm khoa học, Lasserre của Bộ Giáo dục
Pháp…,ông đều dành để mua cây trồng, vật nuôi, chi phí hoạt động của Viện
Pasteur Nha Trang, Trại chăn nuôi Suối Dầu, trong đó có sự đóng góp của E.Roux
và A.Calmette.
- Nơi cư trú của Yersin
Yersin thích sống
chung với người dân nghèo chài lưới và đã chọn cái lô-cốt hai tầng lầu bỏ hoang
gần xóm Cồn và cửa sông cái. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí quyển XI về Khánh Hòa,
đó là một đồn biên phòng rất lâu đời.
Từ năm 1895, Yersin đã
tạo lập cho mình chỗ ở tuyệt vời để hằng ngày quan sát và hoà nhập với thiên
nhiên.
Lô-cốt mỗi bề khoảng
7m50. Mỗi tầng có hành lang rộng bao bọc. Có thể đi dọc hành lang để quan sát.
Ông bố trí tầng trệt là phòng ăn, tầng một là phòng làm việc và tầng hai là
phòng ngủ. Về sau, nóc nhà làm thêm một vòng tròn để dựng kính thiên văn.
Từ khi sống xa nhà,
Yersin thường xuyên viết thư cho mẹ và chị.[99] Với khoảng 1.000 bức thư, chúng ta biết nhiều chi tiết về
cuộc đời cống hiến của ông, cũng có thể nhận thấy nét hóm hỉnh của nhà khoa học
trong những lá thư ông gởi từ Hồng Kông, "Con còn nhiều điều nữa muốn
thưa với mẹ, nhưng có hai xác chết đang chờ con. Họ muốn ra nghĩa địa cho sớm.
Tạm biệt mẹ thân yêu. Mẹ rửa tay sau khi đọc thư này kẻo bị lây dịch hạch, mẹ
nhé."[3]
Tháng 11 năm 1920, khi
đáp tàu Paul Lecat đi Marseille, Yersin bị ngăn không được vào phòng ăn trên tàu vì không đeo cà
vạt. Ông quay về phòng rồi trở lại, hỏi người phục vụ, "Chiếc cà vạt này
cậu có chấp nhận không?", vừa nói vừa chỉ tay vào cổ áo nơi ông đeo tấm
huân chương Bắc Đẩu bội tinh.[3]
Yersin biết tiếng Việt, thứ tiếng Việt thực dụng, hiệu quả, nhưng không mấy tinh tế. Ông
"thường sử dụng từ người ta cho cả
ba ngôi số ít lẫn ba ngôi số nhiều, dùng cho cả người lẫn con vật. Ông gọi
người ta chó, người ta mèo..."[73][100]
Yersin yêu trẻ, ông
thường chiếu phim cho trẻ em Xóm Cồn xem. Một hôm, chúng đánh vỡ chậu hoa, ông
bảo người giúp việc: "Đừng rầy đánh, người ta sợ."[66]
- Nhà bác học vị tha
Đó là một người không
chạy theo danh vọng, quyền lợi cho riêng mình.
Ông đầu tư ngay số
tiền kèm theo các giải thưởng vào các công trình đang thực hiện. Huân chương
Bắc Đẩu Bội Tinh đem lại cho ông 250 quan Pháp mỗi năm. Giải Audiffret của Hàn
lâm viện Tâm lý và Chính trị có kèm theo 15000 quan Pháp. Ông dùng số tiền này
tiếp trợ cho nền tài chính Suối Dầu. Giải thưởng Lassen đem lại cho ông 8000
quan Pháp. Ông dùng ngay tiền đó vào việc mở đường mòn nói liền Suối Dầu-Hòn Bà.
Tháng 12 năm 1927, khi
nhận giải thưởng Leconte của viện Hàn lâm Khoa học, ông tuyên bố :"Giải
thưởng này là vinh dự cho viện Pasteur và số tiền nhận được sẽ giúp cho các
cuộc thí nghiệm trồng cây quinquina".
Ông không hãnh diện,
không phô trương huy chương. Đây là một đoạn thư ông viết cho mẹ năm 1890 khi
ông hai mươi bảy tuổi :" Mẹ hãy tưởng tượng xem ông Pasteur đã xin được
cho con huân chương của Hàn lâm viện. Các thành viên của viện đại học Pháp rất
mong muốn có được tấm huân chương màu tím này, song bản thân con lại không hề
thấy mình xứng đáng được nhận".
Khi Vua Bảo Đại trao
tặng bội tinh Kim Khánh cho ông, vì phép lịch sự ông buộc lòng phải cho Vua Bảo
Đại đeo Kim Khánh vào cổ mình, nhưng khi vừa bước xuống, ông đã e lệ dùng chiếc
mũ ép lên ngực che hết chiếc huân chương Kim Khánh. Năm 1938, trường trung học
Đà Lạt muốn có một bức tượng bán thân của Yersin, ông cương quyết từ chối làm
mẫu.
Khi Toàn Quyền Decoux
muốn biết tên những người quyền quý, danh tiếng, mà Yersin đã gặp, ông trả lời: "Ở Đông Dương tôi ít giao thiệp với những hạng người ấy".
Thật ra Yersin đã có
nhiều lần gặp nhiều người danh tiếng. Năm 1896, Thống Chế Lyantey (lúc bấy
giờ là thiếu tá) đến Nha Trang có ghi vào sổ tay :"Vị bác sĩ trẻ này tận
tụy với vi trùng học, nghiên cứu, chế tạo "vắc-xe" với một niềm tin
tưởng, ý chí đam mê của một nhạc sĩ cao siêu. Những giờ thăm viện của ông làm
phấn khởi tinh thần, mặc dầu viện còn thô sơ."
- Yersin con người nhân ái
Noel Bernard viết về
A. Yersin có câu: "Ít có người không vụ lợi như Yersin. Khiêm tốn, giản
dị, lịch sự".
Ông ăn mặc xoàng xĩnh
bộ đồ kaki bạc màu cũ kỹ, áo khoác bốn khuy ba túi, áo sơ-mi vải trắng hở cổ,
quần kaki trên rộng dưới hẹp giặt sạch mà không bao giờ ủi. Giày vải bố. Trong
túi ngực bên trái đựng một cái đồng hồ trái quít đeo bằng một sợi dây gai đỏ.
Phải nói rằng Yersin không thiếu đồng hồ. Năm 1945, người ta tìm thấy trong tủ
sắt của viện Pasteur Nha Trang rất nhiều đồng hồ trái quít chế tạo tại Thụy Sĩ,
phần lớn bằng vàng, dây đeo cũng bằng vàng, bên trong cái nắp đều có dòng chữ:
Chế tạo riêng cho Bác Sĩ Yersin.
Ngày 22 tháng 11 năm
1920, ông đáp tàu Paul Lecat đi Marseille. Một phục vụ viên trẻ của tàu không
biết ông, cương quyết không cho ông vào phòng ăn. Nội quy của tàu bắt buộc phải
thắt cravate khi bước vào phòng khách. Yersin trở về cabine. Sau đó, ông quay
lại phòng ăn nói với phục vụ viên: "Chiếc cravate này cậu có chấp nhận
không?" Vừa nói ông vừa chỉ tay vào chỗ hở ở cổ áo nơi ông vừa đeo tấm
huân chương "Bắc Đẩu Bội Tinh" vào.
Năm 1925, một buổi
sáng ông đến hãng xe gặp một người khách sang trọng từ Pháp mới tới. Tên này
thấy ông ăn mặc xoàng xĩnh buột miệng kêu lên: "Tên bụi đời lang thang này
làm gì ở đây?
Bữa ăn của ông thường
đạm bạc. Món ăn ông ưa thích thường ngày chỉ là món xúp rau cải ăn với bánh mì
hoặc biscotte. Trong thời gian chiến tranh ông phải ăn bánh tráng thay cho bánh
mì. Ông thích ăn cá hơn là thịt. Các loại cá được ông ưa thích là cá thu,
cá mú.
Món rượu khai vị của
ông thường chỉ là thứ nước có bột quinquina do ông tự chế. Nước uống đôi khi
ông dùng nước lá sả mà ông bảo rằng dễ tiêu hóa. Có lần đi thám hiểm vùng cao
nguyên, ông chỉ ăn cơm không trong hai tháng.
Vì Nha Trang thường có
bão, Yersin nghiên cứu về khí tượng, thời tiết để giúp ngư dân.
Ông cho làm hai cái bồ
to, có đường kính một mét, trên sơn màu đen. Khi có bão, hai cái bồ được kéo lên hai cây cột bằng phi lao trên núi Sinh Trung để báo hiệu.
Tháng 11 năm 1939,
đoán biết rằng một cơn bão lớn sẽ đổ vào bờ biển Nha Trang, Yersin tập trung
tất cả ngư dân xóm Cồn vào trong nhà mình. Cơn bão biển dữ dội đêm ấy đã cuốn
trôi nhiều nhà cửa xóm Cồn, nhưng bà con vẫn an toàn. Từ hôm ấy, Yersin
được nhiều người dân xóm Cồn tặng cho biệt hiệu "người đã trị con sóng
thần".
Viết về Yersin, và
viện Pasteur Nha Trang, Henri Jacotot đã có những lời ca ngợi tốt
đẹp: "Trong những thời điểm quan trọng, Yersin luôn luôn sống trong
tình trạng báo động thường trực cả ngày lẫn đêm." (Yersin et son
temps, H. Jacotot-1937).
Chẳng những lo bảo vệ
dân chúng tránh tai nạn bão lụt, Yersin còn luôn luôn tỏ ra nhân ái đối với
người dân ở Nha Trang, nên ông được người Việt yêu chuộng và kính phục. Ông tự
coi mình như một người dân trong làng, một người có phần may mắn hơn ngườI
khác, vì vậy ông thấy có bổn phận an ủi và giúp đỡ thuốc men.
Một hôm đi xe đạp từ
nhà đến sở, ông bị một tài xế bất cẩn đụng ngã. Không nói một lời nào, ông vội
vã dựng xe đạp lên, rồi đi đến viện để băng bó, không đả động gì đến người tài
xế có lỗi.
Lần khác ông gặp người
nông phu nằm ngủ trong xe bò dưới gốc cây bàng. Mặt trời lên cao, bóng mát thay
chiều, ông bảo những người phụ tá đẩy xe bò vào chỗ mát.
Ông rất thương yêu trẻ
con xóm Cồn, thường chiếu phim cho chúng xem. Trẻ con cũng thích ông chia kẹo
hàng ngày cho chúng. Một hôm, chúng đánh vỡ chậu hoa, ông bảo người giúp việc:
"Đừng rầy đánh, người ta sợ."
Ông thường đọc báo chí
Việt ngữ. Một hôm đến viện, ông trao cho ông Bùi Quang Phương, người cộng sự từ
năm 1897, bài thơ Năm Cụ, Ông chép trong báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng
nói về năm bộ trưởng đương kim bị cách chức và thay thế bằng năm người khác do
Pháp chỉ định. Bài thơ khó hiểu vì có nhiều nghĩa bóng.
Yersin rất nhẫn nại tử
tế vớI những người cộng sự bản xứ, không bao giờ to tiếng, không bao giờ thị
oai.
- Ông Năm
Người dân Nha Trang
gọi ông là Ông Năm vì theo ngạch nhà binh ông là Bác sĩ Đại tá. Một tác
giả Pháp Elisabeth Duclosel ghi ông là Nam, bác sĩ Annam, là sai.
Ông sống thanh đạm độc
thân, tiết chế xa hoa nhục dục.
Elisabeth Duclosel
thêu dệt cho ông một quan hệ tình ái giữa ông và một công chúa của bộ lạc
Rhadé, thật đáng buồn cười.
Yersin đến với người
Việt Nam bằng một tấm lòng chân thật. Đó là chìa khóa kỳ diệu đã mở cửa cho ông
đi vào tình cảm của người Việt Nam.
Ông ra đi rất thanh
thản, ngày 01 tháng 03 năm 1943 vào lúc 01 giờ sáng, vừa đúng tám mươi tuổi.
Một ngày trước khi từ
giã cõi đời, ông còn ngồi trên ghế xích-đu dùng ống dòm đo mực thủy triều.
Mặc dầu có lời căn dặn
của ông trong di chúc muốn được an táng đơn giản, đám táng của ông to lớn chưa
từng thấy ở Việt Nam. Ngoài đại diện của chính quyền còn vô số người Việt,
người Pháp, người Chà, người Hoa, người Thượng. Dân chúng bày hương án hai bên
đường từ Nha Trang lên tận Suối Dầu nơi an táng ông.
Trong
năm mươi bảy năm hoạt động khoa học (1886 - 1943) Yersin đã công bố năm mươi
lăm công trình và bốn mươi tác phẩm về y học, trong đó có mười ba đề tài chuyên
cứu về dịch hạch, và mười lăm đề tài chuyên về nông nghiệp trồng cây quinquina
và cao su.
Người dân Việt Nam vẫn
tiếp tục tôn thờ Yersin. Hà Nội, Sài Gòn, Nha Trang, vẫn còn giữ nguyên đường
Yersin.
Bên cạnh mộ Yersin có
xây một cái miếu nhỏ đặt ảnh ông và hương án. Tại chùa Linh Sơn và Long Tuyền
có bàn thờ ông bên cạnh bàn thờ Phật, mặc dù lúc sinh thời, người dân Nha Trang
không hề thấy Yersin bước chân vào chùa hoặc nhà thờ.
Mỗi năm đến ngày 01.03
người dân Nha Trang đến đốt hương và nghiêng mình trước mộ Yersin.
Yersin mãi mãi đi vào
lòng của người Việt Nam. Đó là đền Panthéon của Ông Năm và ông còn sống mãi
mãi, vì đại văn hào Lỗ Tấn có nói:
"Người chết chỉ
thật là chết, khi không còn tồn tại trong lòng người sống nữa."
"Người quá khứ mà hình ảnh còn tồn tại trong lòng người sống, thì chưa
hẳn là chết."
- Di chúc của Bác Sĩ Alexandre Yersin
***Tôi
muốn được chôn ở Suối Dầu. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha
Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho
viện Pasteur Nha Trang, và những người cộng sự lâu năm. Đám tang làm giản
dị, không huy hoàng không điếu văn***
1 giờ ngày 1.3.1943,
những giây phút cuối đời, bác sĩ âu yếm nhìn những người đứng chung quanh
giường bệnh, nói một tiếng “vĩnh biệt” rồi nhắm mắt. Khi hay tin ông trút hơi
thở cuối cùng, đông đảo người dân Nha Trang đeo khăn tang đến viếng ông với
lòng tiếc thương vô hạn; nhiều người dân xóm Cồn đang đi biển liền kéo nhau trở
về. Ngày 3.3.1943, lễ tang Yersin được cử hành. Đông đảo người dân, từ ông già,
bà cả đến người lớn, con nít, đều đến khóc thương, xếp thành hàng dài tiễn đưa
ông đến nơi an nghỉ cuối cùng. Người dân càng kính trọng ông hơn khi biết trong
di chúc để lại, Yersin viết đám tang ông phải được tổ chức thật giản dị, không
điếu văn, điếu từ gì cả. Khi chôn cất, ông xin được nằm úp mặt, hai tay dang
ra, để được ôm trọn mảnh đất không phải nơi chôn nhau cắt rốn nhưng ông đã nặng
tình, không thể chia xa.
Những kỷ vật của ông
còn lại, viện Pasteur Nha Trang đã trân trọng giữ gìn. Chiếc giường, ghế
xích-đu, bàn làm việc, ghế ngồi, tủ sách, kính hiển vi, kính viễn vọng, đều
được trưng bày trong viện Bảo Tàng Nha Trang.
Yersin để lại trong
lòng người dân nơi ông gắn bó là xóm Cồn, Nha Trang, cũng như cả tỉnh Khánh Hòa
niềm thương tiếc khôn nguôi. Nhà thơ Quách Tấn từng viết trong cuốn Xứ Trầm
Hương: “Tuy là người ngoại quốc, nhưng Yersin sống ở Nha Trang hơn 50 năm
và lấy Khánh Hòa làm nơi “sống gửi nạc thác gửi xương”. Tình thâm, đức hậu của
ông, khiến người Khánh Hòa luôn luôn nhớ đến công ơn”.
Đi dọc QL1, qua địa phận xã
Suối Cát, du khách sẽ thấy tấm biển với dòng chữ “Khu mộ bác sĩ Yersin”. Từ
đây, theo con đường mòn rẽ vào khoảng 1.000 m là đến mộ. Khu mộ bác sĩ nằm trên
một ngọn đồi nhỏ, lối lên với những bậc đá lượn hình cánh cung. Mộ khá đơn sơ,
nằm tĩnh lặng dưới những vòm cây xanh ngát. Khu mộ được xây dựng ngày
3.3.1943. Qua thời gian, mộ bị xuống cấp. Sau năm 1975, nhân dân Khánh Hòa đã
tôn tạo lại mộ của ông như hiện nay.
- Ngày 22-9-2014, nhân kỷ
niệm 151 năm ngày sinh bác sĩ Alexandre Yersin, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch
tỉnh Khánh Hòa đã công bố quyết định của nhà nước về việc truy tặng danh hiệu
“Công dân Việt Nam danh dự” cho bác sĩ Yersin, đồng thời tổ chức triển lãm bộ
sưu tập tem “Bác sĩ Alexandre Yersin - người công dân danh dự Việt Nam”.
- Louis
Pasteur - người thầy lỗi lạc của Bác sĩ Yersin - đã từng nói: “Khoa học không
có tổ quốc nhưng nhà khoa học phải có một tổ quốc”, Bác sĩ Yersin không những
chỉ có một tổ quốc mà có đến ba tổ quốc:
° Nước Thụy Sĩ, nơi ông sinh
ra, sống những ngày thơ ấu, học bậc trung học và những năm đầu bậc đại học;
° Nước Pháp, nơi ông tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa, nghiên cứu trong Viện Pasteur
Paris, nhận nhiều giải thưởng khoa học; thuyết trình về công trình nghiên cứu
vi trùng bệnh dịch hạch (Yersinia pestis) và bệnh ỉa chảy (Yersinia
enterocotitica); được tôn vinh Viện trưởng danh dự Viện Pasteur Paris;
° Nước Việt Nam, nơi ông sáng lập Viện Pasteur Nha Trang, trại chăn nuôi ở Suối
Dầu, trồng thử nghiệm cây canh-ki-na, cao su, cà phê, ca cao, cọ dầu, cây sơn,
Ipeca, Simaruba,…; đảm nhiệm trọng trách Hiệu trưởng Trường Y khoa Hà Nội, Tổng
thanh tra các viện Pasteur ở Đông Dương; thám hiểm cao nguyên Lang Biang và giới
thiệu với Toàn quyền Paul Doumer để thành lập nơi nghỉ dưỡng. Việt Nam cũng là
nơi ông đã sống cùng người dân xóm Cồn, gần gũi với nhiều người Việt Nam và trẻ
em Nha Trang với trái tim nhân hậu.
Cây Quinquina trồng trước
mộ Yersin (Ảnh chụp 30.4.2017).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét