Cổ học tinh hoa 3
CHƯƠNG 7: 244 TIỂU PHẨM TRONG CỔ HỌC TINH HOA
1. KHÔNG QUÊN ĐƯỢC CÁI CŨ
Đức Khổng Tử ra chơi ngoài đồng, thấy một người đàn bà đứng
khóc nỉ non ở chỗ bờ đầm. Đức Khổng Tử lấy làm lạ, bảo học trò hỏi vì cớ gì mà
khóc.
Người đàn bà nói: "Độ trước tôi cắt cỏ thi, tôi đánh mất
cái trâm cài đầu bằng cỏ thi, cho nên tôi khóc."
Đức Khổng Tử hỏi: Đi cắt cỏ thi, mà mất cái trâm bằng cỏ thi,
thì việc gì mà phải khóc? Người đàn bà nói: Không phải vì tôi đánh mất cái trâm
cỏ thi mà tôi khóc; tôi sở dĩ khóc, là tôi thương tiếc một vật cũ, dùng đã lâu,
mà ngày nay không sao thấy được nữa.
Khổng Tử Tập Ngữ
GIẢI NGHĨA
Khổng Tử Tập Ngữ: sách chép những lời nói, những truyện về đức
Khổng Tử. - Khổng Tử tên là Khưa, tên tự là Trọng Ni, người nước Lỗ, thời Xuân
Thu nhà Chu, học về Lễ, Nhạc, Văn chương đời cỗ, đi nhiều nước chư hầu không được
dụng bỏ về làm kinh Xuân Thu, san định các kinh Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc và dạy
học trò được ba nghìn người, có bảy mươi hai người giỏi. Nước Tàu xưng làm Tổ đạo
Nho. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
Đức: tiếng gọi có ý tôn trọng, hoặc còn có nghĩa chỉ bậc đức
hạnh cảm hóa được người ta.
Cỏ thi: một thứ cỏ giống như cỏ le, thân tròn ruột vuông, lá
nhỏ mà dài, cạnh sắc, hoa tựa như hoa cúc, trắng hay đỏ phớt, người ta hay dùng
cuống cỏ để bói dịch gọi là bói cỏ thi. Ở nước ta, núi Quyền Sơn (Hà Nam) cũng
có cỏ thi.
LỜI BÀN
Cái gì đã là của mình, mình có bụng yêu, mà lỡ khi mất, thì về
sau dù có được cái khác giống như thế, hay hơn thế, mình cũng không thể sao yêu
cho bằng. Thường, lại chỉ vì thấy cái mới mà hồi nhớ đến cái cũ, sinh ra chạnh
lòng, nên câu ta thán, có khi ngậm ngùi thương khóc nỉ non. Tại sao vậy? Tại đối
với mình, cái của mất không chỉ có giá của mà thôi, lại hình như còn có một phần
tâm hồn mình hay tâm hồn người để lại cho mình ngụ ở trong nữa. Sự cảm động đầu
tiên bao giờ cũng là sự cảm động hay nhất, bền nhất. Ôi! Cáo chết ba năm quay đầu
về núi, con người ta, dù cho lông bông xiêu bạt đến thế nào, còn có chút tâm
tình cũng không sao quên được gốc tích xứ sở mình. "Hồ mã tê bắc phong, Việt
điểu sào nam chi". Con ngựa rợ Hồ (phía bắc nước Tàu) thấy gió bắc còn cất
tiếng kêu, con chim đất Việt (phía nam nước Tàu) chọn cành nam mới chịu làm tổ,
huống chi là người mà lại quên được nguồn gốc ư.
2. LÚC ĐI TRẮNG, LÚC VỀ ĐEN
Một hôm trời nắng Dương Bố đi chơi. Khi ở nhà ra, thì mặc áo
trắng, đi được nửa đường, gặp trời mưa, quần áo ướt hết, mới vào ẩn mưa ở nhà
bà con. Người ấy thấy Dương Bố ướt cả cho mượn cái áo thâm.
Một lúc trời tạnh, Dương Bố mặc áo thâm về nhà. Con chó trông
thấy, vừa cắn vừa xua đuổi. Dương Bố giận toan cầm gậy đánh.
Anh là Dương Chu chạy ra bảo:
"Đừng đánh nó làm gì! Nó đuổi như thế cũng phải. Giả sử
con chó trắng nhà ta, lúc đi, thì trắng, lúc về thì đen, phỏng em có không lấy làm lạ
mà không ngờ được không?"
Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của
Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư
Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Dương Chu: người thời Chiến quốc, xướng lên học thuyết “Vị
ngã” trái lại với học thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử. (Xin xem thêm Dương Chu ở Phụ
Lục C).
LỜI BÀN
Lúc đi mặc áo trắng, lúc về mặc áo thâm, chính mình không biết
mình thay đổi, con chó thấy khác thì xua đuổi. Mình đánh nó chẳng hóa ra lầm lắm
ru! Lỗi tại mình thay đổi không tại con chó cắn xằng. Vậy nên ở đời khi mình
làm điều gì khác thường, mà người ta không rõ, thì tất nhiên người ta bàn trái
bàn phải. Nếu mình không tự xét mình thay đổi hay dở, chỉ biết trách người nghị
luận nọ kia, thì chẳng khác nào như Dương Bố đánh chó trong truyện này.
3. LỢI MÊ LÒNG NGƯỜI
Nước Tống có kẻ mất cái áo thâm. Anh ta ra đường tìm. Thấy
người đàn bà mặc áo thâm, níu lại đòi rằng: “Tôi vừa mất cái áo thâm, chị phải
đền trả tôi cái này”. Rồi cứ giữ chặt cái áo không buông ra nữa.
Người đàn bà cãi:
“Ông mất cái áo thâm, tôi biết đấy là đâu. Áo tôi mặc đây là
áo của tôi, chính tay tôi may ra”.
Anh kia nói:
“Chị cứ phải đền trả áo cho tôi. Cái áo thâm tôi mất dày, cái
áo thâm chị mặc mỏng. Lấy áo thâm mỏng của chị đền cái áo thâm dày cho tôi, còn
phải nói lôi thôi gì nữa!”
Tử Hoa Tử
GIẢI NGHĨA
Tử Hoa Tử: một nhà học thuyết giỏi nước Ngụy đời vua Chiêu
Hi.
Nước Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy
mất, ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
Ngụy: Một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc, ở vào bắc
bộ Hà Nam và phía nam Sơn Tây bây giờ.
Thâm: Sắc đen. (2)
Níu: Giằng dai giữ lại không cho đi. (2)
LỜI BÀN:
Mất áo trong nhà mà ra đường tìm, đã là chuyện bật cười. Mất
áo đàn ông mà đòi áo đàn bà lại là chuyện bật cười. Mất áo thâm dày bắt đền áo
thâm mỏng mà cho là phải, lại là chuyện bật cười nữa. Ôi cái lợi nó làm cho
lòng người mê muội, chỉ biết có mình không biết có ai, chỉ vụ lợi cho mình mà
quên cả phải tráị Kẻ nào đã vụ lợi như thế, thì cái gì mà chẳng dám làm, cái gì
mà chả dám nói! Than ôi! Cái đời kim tiền bây giờ biết bao nhiêu phường đòi áo
như người nói trong truyện này.
4. LẤY CỦA BAN NGÀY
Nước Tấn có kẻ hiếu lợi một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy.
Anh ta nói rằng: "Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái này tôi
tiêu được, cái này tôi dùng được."
Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói:
"Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng
hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy ai nữa. Thôi, các
người cứ cho tôi, sau nầy
82
tôi giàu có, tôi sẽ đem tiền trả lại".
Người coi chợ thấy càn dỡ, đánh cho mấy roi, bắt của ai phải
trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắng:
"Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng
thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa
ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư? Các ngươi cười ta là các người
chưa nghĩ kỹ!"
Long Môn Tử
GIẢI NGHĨA
Long Môn Tử: tức là Tư Mã Thiên làm quan Thái Sư nhà Hán là một
nhà sử ký có danh. (Xin xem thêm Tư Mã Thiên ở Phụ Lục C).
Tấn: một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ
Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực
Lệ bây giờ.
Hiếu lợi: ham tiền của quên cả phải trái. (2)
Lửa tham: lòng tham muốn bốc lên làm ngốt người. (2)
Mờ cả hai con mắt: chỉ để cả vào của muốn lấy, ngoài ra không
trông thấy gì nữa. (2) Thế gian: cõi đời người ta ở. (2)
Thiên phương bách kế: mưu này, chước khác xoay đủ trăm nghìn
cấp. (2)
Ban ngày: lúc sáng sủa dễ trông thấy. (2)
LỜI BÀN
Đã là kẻ thấy của tối mắt, tham vàng bỏ nghĩa, thì dù ít, dù
nhiều cũng là đáng khinh cả, song đem những kẻ mặt to, tai lớn, vì ham mê phú
quý mà lường thầy, phản bạn, hại ngầm đồng bào so với những quân cắp đường, cắp
chợ giữa ban ngày để nuôi miệng thì tội đến nặng hơn biết bao nhiêu. Thế mà
trách đời chỉ biết chê cười những quân trộm cướp vặt chớ không biết trừng trị
những kẻ đại gian đại ác.
5. KHỔ THÂN LÀM VIỆC NGHĨA
Mặc Tử ở nước Lỗ sang nước Tề, qua nhà người bạn cũ, vào
chơi. Người bạn nói chuyện với Mặc Tử rằng: "Bây giờ thiên hạ ai còn thiết
đến việc "nghĩa", một mình ông tự khổ thân để làm việc nghĩa, thì có
thấm vào đâu! Chẳng thà thôi đi có hơn không?
Mặc Tử nói: "Bây giờ có người ở đây, nhà mười đứa con, một
đứa cày, chín đứa ngồi ăn không, thì đứa cày chẳng nên càng chăm cày hơn lên ư?
Tại sao thế? Tại đứa ăn không nhiều, đứa đi cày ít. Bây giờ thiên hạ chẳng ai
chịu làm việc nghĩa, thì ông phải biết khuyên tôi càng làm lắm mới phải, có đâu
lại ngăn tôi như thế!"
Mặc Tử
GIẢI NGHĨA
Mặc Tử: tên sách của Mặc Địch soạn, chủ nghĩa là kiêm ái yêu
người như yêu mình cũng gần giống chủ nghĩa của đạo Cơ Đốc và đạo Thích Ca.
(Xin xem thêm Mặc Tử ở Phụ Lục C).
Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt
mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở
vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Thiên hạ: đất dưới gầm trời, người Tàu xưa cho nước Tàu và mấy
nước chung quanh là thiên hạ.
Nghĩa: việc phải, việc hay mà người ta nên làm. (2)
Tự khổ thân: tự mình làm cho mình khóc nhọc vất vả. (2)
LỜI BÀN
Trong khi nhân tâm thế đạo suy đồi, mình là người còn đứng vững
được, thì sao lại chịu suy đồi với thiên hạ cho cùng trôi một loạt. Vì nếu ai
cũng như thế cả, thì còn đâu là người cảnh tỉnh được kẻ u mê để duy trì lấy nhân tâm
thế đạo nữa? Cho nên những người thức thời, có chí, dù ở vào cái đời biến loạn
đến đâu, cũng không chịu đắm đuối vào cái bất nghĩa, khác nào như: cây tòng,
cây bách, mùa đông sương tuyết, mà vẫn xanh, như con gà trống, mưa gió tối tăm
mà vẫn gáy. Những bậc ấy chẳng những thế mà thôi, lại còn đem bao nhiêu tinh lực
tâm trí ra, cố gắng giữ lấy phong hóa mà dìu dắt, mà đưa đường cho những kẻ u
mê đắm đuối. Như Mặc Tử đây, cho là đời là suy biến, coi sự làm việc
"Nghĩa", sự cổ động việc nghĩa như cái chức vụ của mình phải làm, thực
là người có công với loài người vậy.
6. CÁCH CƯ XỬ Ở ĐỜI
Thầy Nhan Uyên hỏi Đức Khổng Tử: "Hồi này muốn nghèo mà
cũng được như giàu, hèn mà cũng được như sang, không phải khỏe mà có oai, chơi
bời với người ta suốt đời không lo sợ gì, muốn như vậy, có nên không?"
Đức Khổng Tử nói:
"Người hỏi thể phải lắm. Nghèo, mà muốn cũng như giàu,
thế là biết bằng lòng số phận không ham mê gì. Hèn, mà cũng muốn như sang, thế
là biết nhún nhường và có lễ độ. Không khỏe, mà muốn có oai, thế là biết thận
trọng, cung kính không lầm lỗi gì. Chơi bời với mọi người mà muốn suốt đời
không lo sợ, thế là biết chọn lời rồi mới nói.
Khổng Tử Tập Ngữ
GIẢI NGHĨA
Khổng Tử Tập Ngữ: sách chép những lời nói, những truyện về đức
Khổng Tử. - Khổng Tử tên là Khưa, tên tự là Trọng Ni, người nước Lỗ, thời Xuân
Thu nhà Chu, học về Lễ, Nhạc, Văn chương đời cỗ, đi nhiều nước chư hầu không được
dụng bỏ về làm kinh Xuân Thu, san định các kinh Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc và dạy
học trò được ba nghìn người, có bảy mươi hai người giỏi. Nước Tàu xưng làm Tổ đạo
Nho. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
Nhan Uyên: tên là Hồi, người nước Lỗ, thời Xuân Thu, học trò
giỏi nhất của Đức Khổng Tử.
Hồi: theo lễ xưa, hầu chuyện những bậc trên, như vua, cha, thầy
học, thường hay xưng tên.
Lễ độ: phép tắc mực thước. (2)
Thận trọng: cẩn thận, trọng hậu. (2)
LỜI BÀN
Không cần công danh phú quí thế là biết giữ thiên tước hơn là
nhân tước, không để ai khinh lờn được, thế là biết trọng phẩm giá mình, không
muốn đeo cái lo vào mình, thế là biết giữ thân không phiền lụy đến ai. Ở đời mà
giữ trọn vẹn được mấy điều như thế, tưởng thật là một cách vui thú rất cao thượng
vậy.
7. TU THÂN
Thấy người hay, thì phải cố mà bắt chước; thấy người dở thì
phải tự xét xem có dở như thế không để mà sửa đổi.
Chính mình có điều hay, thì phải cố mà giữ lấy; chính mình có
điều dở, thì phải cố mà trừ đi.
Người chê ta, mà chê phải, tức là thầy ta; người khen ta, mà
khen phải, tức là bạn ta; còn người nịnh hót ta lại là người cừu địch hại ta vậy.
Cho nên người quân tử trọng thầy, quí bạn và rất ghét cừu địch,
thích điều phải mà
không chán, nghe lời can mà biết răn... như thế dù muốn không
hay cũng không được.
Kẻ tiểu nhân thì không thế. Cực bậy, mà lại ghét người chê
mình; rất dở, mà lại thích
84
người khen mình; bụng dạ như hổ lang, ăn ở như cầm thú, mà thấy
người ta không phục, lại không bằng lòng; thân với kẻ siểm nịnh, xa cách kẻ can
ngăn, thấy người chính trực thì cười, thấy người trung tín thì chê... Như thế
thì dù muốn không dở cũng không được.
Tuân Tử
GIẢI NGHĨA
Tuân Tử: tên thật là Huống, tên tự là Khanh, người nước Triệu,
sinh ra sau Mạnh Tử độ 50 năm, thấy đời bấy giờ cứ loạn luôn mãi và phong hóa
suy đồi, làm sách nói về lễ nghĩa, lễ nhạc, cốt ý để chỉnh đức và hành đạo.
(Xin xem thêm Tuân Tử ở Phụ Lục C).
Quân tử: Người có tài đức hơn người. (2)
Tiểu nhân: Kẻ bất chính, gian ác, tự tư, tự lợi. (2)
Cầm thú: cầm: giống có hai chân và hai cánh; thú: giống có bốn
chân, hai chữ chỉ loài chim và loài muông. (2)
Chính trực: ngay thẳng. (2)
Trung tín: hết lòng, thật bụng. (2)
LỜI BÀN
Cái đạo tu thân rút lại chỉ có biết theo điều hay, biết tránh
điều dở. Mà muốn tới cái mục đích ấy, thì không những là tự mình phải xét mình
lại còn phải xét cái cách người ở với mình nữa. Đối với người, cần phải biết
hai điều: Ai khen chê phải, khuyên răn hay, thì phục, thì bắt chước; ai chiều
lòng nịnh hót, thì tránh cho xa, coi như quân cừu địch. "Nên ưa người ta
khuyên mình hơn người ta khen mình" có như thế, thì mới tu thân được.
8. ÔM CÂY ĐỢI THỎ
Một người nước Tống đang cày ruộng. Giữa ruộng có một cây to.
Có con thỏ đồng ở đâu chạy lại, đâm vào gốc cây, đập đầu chết.
Người cày ruộng thấy thế, bỏ cày, vội chạy đi bắt thỏ. Đoạn,
cứ ngồi khư khư ôm gốc cây, mong lại được thỏ nữa. Nhưng đợi mãi chẳng thấy thỏ
đâu, lại mất một buổi cày. Thiên hạ thấy vậy, ai cũng chê cười.
Hàn Phi Tử
GIẢI NGHĨA
Hàn Phi Tử: công tử nước Hàn, học trò Tuân Tử chuyên về bình
danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau
bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà
Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ
Lục C).
Tống: một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất,
ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
Đoạn: nghĩa đen là đứt, việc nầy đứt đến việc khác. (2)
LỜI BÀN
Thấy mùi, quen mui làm mãi. Ở đời những kẻ ngẫu nhiên gặp
may, mà ước ao được gặp may luôn như thế nữa, không biết sự may là tình cờ mới
có, thì có khác gì người nước Tống ôm cây đợi thỏ nầy. Anh ôm cây đợi thỏ này lại
còn là người cố chấp bất thông, không hiểu thời thế, không thấu tình cảnh, khư
khư đười ươi giữ ống, cũng một phường với những hạng chơi đàn gắn chặt phím, khắc
mạn thuyền để nhớ chỗ gươm rơi.
9. ĐÁNH DẤU THUYỀN TÌM GƯƠM
Có người nước Sở đi đò qua sông. Khi ngồi đò, vô ý đánh rơi
thanh gươm xuống sông. Anh ta vội vàng đánh dấu vào mạn thuyền, nói rằng:
"Gươm ta rơi ở chỗ nầy
85
đây".
Lúc thuyền đỗ vào bến, anh ta cứ theo chỗ đánh dấu, lặn xuống
nước tìm gươm. Thuyền đã đi đến bến, chớ gươm rơi đâu thì vẫn ở đấy, có theo
thuyền mà đi đâu? Tìm gươm như thế, chẳng khờ dại lắm ư!
Lã Thị Xuân Thu
GIẢI NGHĨA
Lã Thị Xuân Thu: sách của Lã Bất Vi làm. Lã Bất Vi người đời
nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của
Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lã Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm
Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, thì thưởng cho ngàn
vàng". (Xin xem thêm Lã Bất Vi ở Phụ Lục C).
Sở: một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây
giờ.
Thanh gươm: tục xưa người ta đi đâu cũng hay đeo gươm để thủ
thân mà lại giữ lễ nữa. (2)
LỜI BÀN
Thanh gươm rơi xuống sông, thì ở ngay chỗ rơi. Nếu muốn tìm
thấy gươm, tất phải lặn ngay xuống chỗ rơi mà tìm. Chớ sao lại đánh dấu vào
thuyền, đợi đến lúc thuyền đỗ vào bến, mới lặn xuống bến tìm? Người tìm gươm nầy
có khác nào như người đánh đàn sắt đem gắn cả ngựa lại, tưởng ngựa không di dịch
được là các âm vận tự nhiên điều hòa được đúng! Than ôi! người cố chấp bất
thông, chỉ câu nệ biết giữ chặt một cái đã nắm chặt trong tay, chớ không hiểu
nghĩa chờ "thời" là gì?
10. BA CON RẬN KIỆN NHAU
Ba con rận hút máu một con lợn, tranh nhau ăn, đem nhau đi kiện.
Một con rận khác gặp, hỏi:
- Ba anh kiện nhau về việc gì thế?
Ba con rận đáp:
- Chúng tôi kiện nhau, vì tranh nhau một chỗ đất màu mỡ.
Con rận kia nói:
- Tôi tưởng các anh chẳng nên tranh lẫn nhau thế làm gì. Các
anh chỉ nên lo đến con dao của người đồ tể giết lợn, ngọn lửa của bó rơm thui lợn
mà thôi.
Ba con rận nghe ra, biết là dại, thôi không đi kiện nữa, cùng
nhau quần tụ, làm ăn với nhau, dù no, dù đói, cũng không bỏ nhau. Con lợn thành
mỗi ngày một gầy, người ta không làm thịt cứ để nuôi, ba con rận nhờ thế mà no
đủ mãi.
Hàn Phi Tử
GIẢI NGHĨA
Hàn Phi Tử: công tử nước Hàn, học trò Tuân Tử chuyên về bình
danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau
bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà
Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ
Lục C).
Đồ tể: người làm thịt các giống vật để bán.
Quần tụ: quây quần ăn ở bao bọc lấy nhau.
LỜI BÀN
Nhân dân một xứ mà cứ tranh giành lẫn nhau cái lợi trước mắt,
không nghĩ gì đến cái việc lâu dài cho cả toàn thể, thì trí khôn thật không bằng
mấy con rận nói trong truyện này.
Tranh nhau, cãi nhau, đánh nhau, kiện nhau, thì oan oan tương
kết, lợi chẳng thấy
đâu, chỉ thấy hại, hại cho một mình lại hại cho cả đàn, cả lũ
nữa. Sao không biết: Sâu đục cây, cây đổ thì sâu cũng chẳng còn: trùng hại vật,
vật chết thì trùng cũng hết kiếp.
86
Last edited by Truc Vo; 05-08-2011 at. Thay chú thích về
Dương Chu trong tiểu phẩm “2. Lúc đi trắng, lúc về đen”
Reply With Quote
05:04 AM
Reason:
1.
04-08-2011 01:56 PM #18
Knight
o View Profile
o View Forum Posts
Thành Viên
Join Date
Posts
12-04-2011
627
Góp ý
Mục 2. LÚC ĐI TRẮNG, LÚC VỀ ĐEN trong phần giải nghĩa có nói
thuyết Kiêm Ái của Khổng Tử.
Đây là 1 sự nhầm lẫn, kiêm ái, tên đầy đủ là kiêm ái phi công
là của Mặc Tử, có đề cập trong phần 5. KHỔ THÂN LÀM VIỆC NGHĨA.
Reply With Quote
2.
04-08-2011 08:47 PM #19
Truc Vo
o View Profile
o View Forum Posts
Thành Viên
Join Date
11-08-2010
Posts
257
Chú thích về Dương Chu trong tiểu phẩm “2. Lúc đi trắng, lúc
về đen”
Trong Cổ Học Tinh Hoa có 3 tiểu phẩm nói đến Dương Chu. Chú
thích trong 3 tiểu phẩm này khác nhau. Sau đây là các chú thích về Dương Chu
theo Cổ Học Tinh Hoa do Nhà Xuất Bản T.P. Hồ Chí Minh in năm 1988 (in theo
nguyên văn như trong sách):
Dương Chu: người đời chiến quốc xướng lên các học thuyết vị kỷ.
(Tiểu phẩm 2. Lúc đi trắng, lúc về đen)
Dương Chu: người thời Chiến quốc, xướng lên học thuyết “Vị
ngã” trái lại với học thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử. (Tiểu phẩm 161. Mất dê)
Dương Chu: người đời Chiến quốc xướng lên cái thuyết “vị
ngã”. (Tiểu phẩm 169. Hai cô vợ lẽ người nhà trọ)
Tôi đã chọn chú thích trong tiểu phẩm “161. Mất dê” làm chú
thích chung cho cả 3
87
tiểu phẩm 2, 161 và 169, vì chú thích này đầy đủ nhất trong cả
3. Khi copy và paste tôi đã thao tác như thế nào không rõ và đã nhầm lẫn biến Mặc
Tử thành... Khổng Tử nên đã post tiểu phẩm “2. Lúc đi trắng, lúc về đen” với
chú thích:
Dương Chu: người thời Chiến Quốc, xướng lên học thuyết “vị
ngã” trái với học thuyết “kiêm ái” của Khổng Tử. (Xin xem thêm Dương Chu ở Phụ
Lục C).
Chú thích trong tiểu phẩm “2. Lúc đi trắng, lúc về đen” nay
đã được sửa lại là: Dương Chu: người thời Chiến quốc, xướng lên học thuyết “Vị
ngã” trái lại với học thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử. (Xin xem thêm Dương Chu ở Phụ
Lục C).
Xin chân thành cảm ơn bác Knight đã chỉ ra chỗ sai sót này!
Last edited by Truc Vo; 05-08-2011 at 05:08 AM. Reason: Thay
chú thích về Dương Chu trong tiểu phẩm “2. Lúc đi trắng, lúc về đen”
Reply With Quote
3.
04-08-2011 08:59 PM #20
Truc Vo
o View Profile
o View Forum Posts
Thành Viên
Join Date
11-08-2010
Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
11. HAI PHẢI
Sông Vĩ nước lên to. Một nhà giàu không may có người chết đuối.
Có kẻ vớt được xác.
Người nhà giàu xin chuộc, kẻ ấy đòi nhiều tiền. Người nhà
giàu đem câu chuyện thưa với Ðặng Tích.
Ðặng Tích bảo:
"Cứ để yên. Nó còn bán cái xác cho ai được mà sợ?"
Kẻ vớt được xác, thấy nhà kia không hỏi nữa, lấy làm lo, cũng
đem câu chuyện thưa với Ðặng Tích. Ðặng Tích bảo:
"Cứ để yên. Nó còn mua cái xác ấy của ai được mà sợ?"
Lã Thị Xuân Thu
GIẢI NGHĨA
Lã Thị Xuân Thu: sách của Lã Bất Vi làm. Lã Bất Vi người đời
nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của
Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lã Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm
Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, thì thưởng cho ngàn
vàng". (Xin xem thêm Lã Bất Vi ở Phụ Lục C).
Vĩ: tên sông, chảy ở địa phận Hà Nam, Trung Quốc.
Ðặng Tích: quan đại phu nước Trịnh thời Xuân Thu, là một nhà
luật pháp giỏi.
LỜI BÀN
Cứ như người giảng giải việc nói trong bài này cho phải đạo
lý, thì một bên, nên khuyên người nhà giàu liệu trả kẻ vớt được xác thêm ít nhiều
tiền, mà lấy ngay xác về; còn một bên, nên dụ kẻ vớt được xác chớ có coi sự chẳng
may của người ta làm
88
một món bổng, mà bắt bí người ta. Giữ cái xác, không cho chuộc,
chẳng những không được tiền, mà lại còn mang tội nữa. Nhưng khốn thay! Lý sự là
cái nguồn bắt phải, bắt trái đều được cả. Cho nên Ðặng Tích mới có chốn xúi bẩy
được cả đôi bên kiện tụng lẫn nhau mà ngấm ngầm lấy lợi cho mình. Thế tức là
cái chủ nghĩa "Hai phải" ngụy biện, rất hại cho dân gian ngu dại mà lại
hay kiện tụng. Biện bác mà không đáng lý tức là giả dối, khôn ngoan mà không
đáng lý tức là gian trá, những kẻ ấy phải trừng phạt thì mới yên dân, lợi nước
được. Người trị dân tưởng phải thấu cái tình, để xét cái lý, mới là người trị
dân sáng suốt vậy.
12. TĂNG SÂM GIẾT NGƯỜI
Ông Tăng Sâm ở đất Phị. Ở đấy có kẻ trùng danh với ông giết
chết người.
Một người hớt hãi chạy đến báo mẹ ông Tăng Sâm rằng:
"Tăng Sâm giết người."
Bà mẹ nói:
"Chẳng khi nào con ta lại giết người." Rồi bà điềm
nhiên ngồi dệt cửi.
Một lúc lại có người đến bảo: "Tăng Sâm giết người."
Bà mẹ không nói gì, cứ điềm nhiên dệt cửi.
Một lúc lại có người đến bảo: "Tăng Sâm giết người."
Bà mẹ sợ cuống, quăng thoi, trèo qua tường chạy trốn.
Quốc Sách
GIẢI NGHĨA
Tăng Sâm: người thời Xuân Thu, tính chất chân thật và có hiếu,
học trò đức Khổng Tử và mau truyền được đạo của ngài. (Xin xem thêm Tăng Tử ở
Phụ Lục C).
Trùng danh: cùng giống tên nhau. (2)
Điềm nhiên: biết mà cứ im lặng như không. (2)
LỜI BÀN
Tăng Sâm vốn là người hiền hậu, hiếu thảo, bà mẹ vốn là người
trung tín, một bụng tin con. Thốt nhiên có kẻ bảo: "Tăng Sâm giết người".
Bà mẹ không tin, và người thứ hai bảo, còn chưa tin; đến người thứ ba bảo, thì
cuống cuồng chạy trốn. Như thế mới hay cái dư luận của thiên hạ rất là mạnh. Một
việc, dù cho sai lầm đến mười mươi, nhiều người đã có cùng một nghị luận đều
như thế cả, thì cũng dễ khiến người ta nghi nghi hoặc hoặc rồi đem bụng tin mà
cho là phải, nom đỉa hóa ra con rươi, trông con chó thành con cừu. Đến như giữa
chợ, làm gì có cọp! Thế mà một người, hai người, đến ba người nói có cọp, thiên
hạ cũng tin có cọp thật nữa là! Những bậc ra được ngoài vòng dư luận, giữ vững
được bụng như cây giữa rừng, như kiềng ba chân rất là hiếm, nhưng có thế được mới
cao. Một chân lý có chứng minh rõ ràng, mười phần chắc chắn, thì mới nên công
nhận.
13. BÁN MỘC BÁN GIÁO
Có người nước Sở làm nghề bán mộc, vừa bán giáo.
Ai hỏi mua mộc, thì anh ta khoe rằng: "Mộc này thật chắc,
không gì đâm thủng."
Ai hỏi mua giáo, thì anh ta khoe rằng: "Giáo này thật sắc,
gì đâm cũng thủng."
Có người nghe nói, hỏi rằng: "Thế bây giờ lấy giáo của
bác đâm vào mộc của bác, thì thế nào?"
Anh ta không đáp ra làm sao được.
GIẢI NGHĨA
Hàn Phi Tử
Hàn Phi Tử: công tử nước Hàn, học trò Tuân Tử chuyên về bình
danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau
bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà
Tống sau thêm chữ
89
Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ
Lục C).
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ
Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
Mộc: đồ binh khí bằng gỗ, hình bầu dục để đỡ khi mũi nhọn đâm
xỉa. Cái khiên thì đan bằng mây và hình tròn.
Giáo: đồ binh khí, đầu nhọn, cán dài, dùng để đâm.
LỜI BÀN
Ôi! một cái chắc, đâm không thủng, với một cái sắc, đâm gì
cũng thủng, hai cái phản đối hẳn nhau thì cùng đi với nhau sao được! Thế mà người
nước Sở dám khoe mộc, lại khoe giáo luôn ngay một lúc. Chẳng qua là chỉ vì mối
lợi mà thành ra nói dối. Nhưng cái trò nói dối hay cùng, khi người ta hỏi đến lẽ,
là không đối đáp làm sao được nữa. Có khác gì kẻ đem tượng gỗ ra chợ bán, khoe
rằng: "Ai mua tượng về nhà, thì được giàu sang." Đến lúc có người bẻ:
"Thế sao bác không để ở nhà cho được giàu sang, lại mang ra chợ bán làm
gì?" thì tắc khẩu mà đành vác tượng về.
14. NGỌC TRONG ĐÁ
Một người thợ ngọc qua hàng thợ đá, vào xem các thứ đá, thấy
một tảng trong có ngọc, mua về, đẽo ra quả nhiên được ngọc. Ngọc ấy trắng muốt
và có gân đỏ, quý giá vô cùng. Người thợ ngọc nhờ đó mà giàu có.
Thợ đá thấy thế, lấy làm thích lắm, cũng muốn bắt chước. Anh
ta nghĩ bụng: "Đá nào trong cũng có ngọc." Rồi ở nhà có bao nhiêu thứ
đá, đem cả ra đập để tìm ngọc. Không những không thấy ngọc, mà các đá vỡ tan chẳng
dùng được việc gì nữa.
Anh ta vừa mất của, vừa lỗ vốn, cùng quẫn khổ sở, chẳng bao
lâu rồi chết.
GIẢI NGHĨA
Cùng quẫn: túng bần quá không đủ ăn tiêu. (2)
LỜI BÀN
Ngọc chẳng qua là một thứ đá đẹp, đá quý lẫn với đá thường mà
thôi. Nhưng phải có con mắt tinh xem ngọc mới nhận ra và tìm được ngọc ở trong
đá. Người thợ ngọc biết ngọc nên trông qua đủ biết đá nào có ngọc, chớ người thợ
đá chỉ biết đá, lại muốn tìm ngọc, chẳng những không tìm thấy ngọc mà lại còn hại
cả bao nhiêu đá của mình nữa! Ôi! thực là xôi hỏng bỏng không! Tham thì thâm!
Cái thói tham không phải đường nó vẫn hại con người như thế! Cho nên người trí
giả phải có kiến thức rõ đích xác rồi mới chịu làm.
15. BẮT CHƯỚC NHĂN MẶT
Nước Việt có nàng Tây Thi nổi tiếng đẹp một thời. Nàng có chứng
đau bụng, mà khi nào đau, ôm bụng nhăn mặt, thì lại càng đẹp lắm.
Có người đàn bà ở cùng làng thấy mặt nhăn mà đẹp, muốn bắt
chước, về nhà cũng ôm bụng mà nhăn mặt. Người làng trông thấy, tưởng là ma quỷ;
nhà giàu thì đóng cửa chặt không dám ra, nhà nghèo thì bồng bế vợ con mà chạy
trốn.
Trang Tử
GIẢI NGHĨA
Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam
Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lão tử, sau người ta vẫn xưng Lão tử với Trang
tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
Tây Thi hoặc còn gọi là Tây Tử: người con gái nước Việt ở
thôn Trữ La, làm nghề
dệt vải, cha thì bán củi. Nàng nổi tiếng đẹp, sau vua nước Việt
là Câu Tiễn vì thua nước Ngô đem nàng hiến cho vua Ngô là Phù Sai. (Xin xem
thêm Tây Thi ở Phụ Lục C).
90
Việt: tên nước thời Xuân Thu ở vào tỉnh Chiết Giang, Giang Tô
và một phần Sơn Đông bây giờ.
LỜI BÀN
Chỉ biết nhăn mặt là đẹp. Không biết nét mặt phải thế nào thì
nhăn mới đẹp. Thực là đáng tiếc! Kẻ quên phận mình, chỉ muốn bắt chước người
thì có khác gì người xấu muốn bắt chước nàng Tây Thi nói trong truyện này
không? Ôi! bắt chước là một cái hay, nhưng nếu không chịu suy nghĩ cứ nhắm mắt
bắt chước liều như con lừa thổi sáo, con nhái muốn to bằng con bò, thì chỉ làm
trò cười cho thiên hạ, chẳng những không được lợi gì mà lại thiệt đến bản thân.
16. CÁI ĐƯỢC CÁI MẤT CỦA NGƯỜI LÀM QUAN
Khổng Miệt là cháu đức Khổng Tử. Bật Tử Tiện là học trò đức
Khổng Tử, hai người cùng làm quan một thời.
Đức Khổng Tử qua chơi Khổng Miệt, hỏi rằng: "Từ khi
ngươi ra làm quan được những điều gì, mất những điều gì?"
Khổng Miệt thưa:
"Từ khi tôi ra làm quan chưa được điều gì, mà đã mất ba
điều: việc quan bận, không còn thời giờ học tập, vì thế mà học vấn không tấn tới;
bổng lộc ít, không đủ chu cấp cho họ hàng, vì thế mà họ hàng không thân thiết;
công việc nhiều không thể đi thăm người đau, viếng người chết, vì thế mà ăn ở với
bầu bạn không được trọn vẹn".
Đức Khổng Tử nghe nói không bằng lòng.
Sau ngài đến chơi Bật Tử Tiện, lại hỏi như hỏi Khổng Miệt.
Bật Tử Tiện thưa: "Từ khi tôi ra làm quan, chưa mất điều
gì, mà đã được ba điều: Những điều trước học nay đem ra thực hành vì thế mà học
càng rõ; bổng lộc dù bạc, cũng có thể chu cấp ít nhiều cho họ hàng, vì thế mà họ
hàng càng gần; việc quan tuy bận, song cũng bớt được ít thời giờ đi thăm người
đau, viếng người chết, vì thế mà bầu bạn càng thân".
Đức Khổng Tử nghe nói khen rằng:
"Tử Tiện thực là người quân tử".
Gia Ngữ
GIẢI NGHĨA
Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
Chu cấp: chu - giúp, cấp - cho, giúp đỡ cho người ta những
cái mà người cần đến. (2)
Thân thiết: gần gũi năng đi lại. (2)
Thực hành: đem ra làm thật sự. (2)
Bạc: mỏng, đối lại với hậu, đây là ít ỏi. (2)
LỜI BÀN
Hai đoạn này bày ra hai cái cảnh phản đối lại hẳn với nhau.
Cũng là làm quan, mà một đàng "mất" một đàng "được" khác
nhau chẳng qua là chỉ do tự mình cả, chớ không phải nghề làm quan bó buộc mình
phải như thế.
Đức Khổng Tử khen người "được" là quân tử, thì tất
bỉ người "mất" là tiểu nhân. Ôi! làm quan tuy là bận việc, tuy là ít
lương, tuy là hẹp thời giờ, mà vẫn học hành cho rộng thêm trí thức mà vẫn chu cấp
được cả cho bà con, mà vẫn ân cần cả với chúng bạn, thì cũng đáng phục là ông
quan quân tử thật.
17. CAN VUA BỎ RƯỢU
Vua Cảnh Công nước Tề hay uống rượu, có bận say luôn mấy đêm
ngày, xao lãng cả việc nước. Huyền Chương can, nói:
"Nhà vua uống rượu say sưa như thế, hạ thần xin can, nhà
vua không nghe, hạ thần
91
xin tự tận."
Ngay lúc ấy Án Tử vào yết kiến vua. Vua bảo:
"Huyền Chương can ta bỏ rượu, không thì y tự tận. Nếu ta
mà nghe, thì ta hóa ra non, nếu ta không nghe, lỡ Huyền Chương chết thì cũng
đáng tiếc."
Án Tử nói: "May lắm! May mà Huyền Chương gặp được nhà
vua, chớ như vua Kiệt, vua Trụ, thì chết mất rồi, còn đâu sống được đến bây giờ
nữa!"
Cảnh Công nghe nói, tỉnh ngộ, tự hôm đó chừa rượu.
Án Tử Xuân Thu
GIẢI NGHĨA
Án Tử Xuân Thu: bộ sách ghi chép những công việc cùng lời nói
của Án Tử. Án Tử tức Án Anh, tên tự là Bình Trọng, người nước Tề thời Xuân Thu,
làm tướng ba đời vua Linh Công, Trang Công, Cảnh Công, có tính cần kiệm, một bụng
trung thành nổi tiếng thời bấy giờ.
Cảnh Công: vua hiền nước Tề thời Xuân Thu. (Xin xem Tề Cảnh
Công ở Phụ Lục C).
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân thu Chiến quốc ở vào địa
phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Xao lãng: quên bỏ không để tâm đến.
Hạ thần: hạ: dưới, thần: bầy tôi. Tiếng bầy tôi xưng với vua.
Tự tận: tự mình làm cho mình chết.
Yết kiến: vào hầu.
Kiệt, Trụ: hai vua tàn bạo, độc ác say mê tửu sắc, bỏ cả
chính sự đến nỗi mất nước. (Xin xem thêm Kiệt, Trụ ở Phụ Lục C).
Tỉnh ngộ: đang say mê việc gì mà biết hối lại.
LỜI BÀN
Tính thích uống rượu, nghe người ta can mà chừa được như Cảnh
Công, là ông vua hiền; thấy vua say sưa, xao lãng chính sự liều thân mà can vua
như Huyền Chương, là bầy tôi trung. Đến như Án Tử vừa là trung trực, lại vừa có
tài phúng gián. Cũng là can ngăn mà không nói thẳng, cùng bức bách quá làm cho
người có tật hổ thẹn không muốn nghe, nhưng gợi cái lòng tự phụ của người, uyển
chuyển được bụng người khiến cho phải tỉnh ngộ mà chừa đi ngay thì mới là giỏi.
18. KHÉO CAN ĐƯỢC VUA
Vua Cảnh Công nước Tề có con ngựa quý, giao cho một người
chăn nuôi. Con ngựa tự nhiên một hôm lăn ra chết. Vua giận lắm, cho là giết ngựa,
sai ngay quân cầm dao để phanh thây người nuôi ngựa. Án Tử đang ngồi chầu, thấy
thế, ngăn lại, hỏi vua rằng: "Vua Nghiêu vua Thuấn xưa phanh người thì bắt
đầu từ đâu trước?"
Cảnh Công ngơ ngác nhìn rồi nói: "Thôi hãy buông ra, đem
giam xuống ngục để rồi trị tội."
Án Tử nói: "Tên phạm này chưa biết rõ tội mà phải chịu
chết, thì vẫn tưởng là oan. Tôi xin vì vua kể rõ tội nó, rồi hãy hạ ngục."
Vua nói: "Phải."
Án Tử bèn kể tội rằng: "Nhà ngươi có ba tội đáng chết.
Vua sai nuôi ngựa mà để ngựa chết, là một tội đáng chết. Lại để chết con ngựa rất
quý của vua, là hai tội đáng chết. Để vua mang tiếng, vì một con ngựa mà giết một
mạng người, làm cho trăm họ nghe thấy ai cũng oán vua, các nước nghe thấy ai
cũng khinh vua, ngươi làm chết một con ngựa mà để đến nỗi dân gian đem lòng oán
giận, nước ngoài có bụng dòm
dỏ, là ba tội đáng chết. Ngươi đã biết chưa? Bây giờ hãy tạm
giam ngươi vào ngục..."
92
Cảnh Công nghe nói ngậm ngùi than rằng: "Thôi, tha cho
nó! Thôi, tha cho nó! Kẻo để ta mang tiếng bất nhân."
Án Tử Xuân Thu
GIẢI NGHĨA
Án Tử Xuân Thu: bộ sách ghi chép những công việc cùng lời nói
của Án Tử. Án Tử tức Án Anh, tên tự là Bình Trọng, người nước Tề thời Xuân Thu,
làm tướng ba đời vua Linh Công, Trang Công, Cảnh Công, có tính cần kiệm, một bụng
trung thành nổi tiếng thời bấy giờ.
Cảnh Công: vua hiền nước Tề thời Xuân Thu. (Xin xem Tề Cảnh
Công ở Phụ Lục C).
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân thu Chiến quốc ở vào địa
phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Vua Nghiêu vua Thuấn xưa...: câu nầy hỏi thế là có ý làm cho
Cảnh Công không có lối mà trả lời. Đời Nghiêu, Thuấn chưa có tội phanh thây.
(2). (Xin xem thêm Nghiêu, Thuấn ở Phụ Lục C).
Phanh thây: mổ người, róc xương, lấy thịt. (2)
Thôi hãy buông ra: cứ theo như sách án Tử Xuân thu thì là
"Tòng quả nhân thủy" (khởi tự ta ra) theo Hàn Thi Ngoại truyện thì lại
là Túng chi (buông ra). Đây dịch là buông ra để ăn nghĩa với câu trên. (2)
Trăm họ: chỉ nhân dân trong nước. (2)
Dòm dỏ: ngấp nghé xem người ta hở cơ thì làm hại. (2)
LỜI BÀN
Vua Cảnh Công thấy con ngựa yêu của mình chết, mà bắt phanh
thây kẻ nuôi ngựa là đang cơn tức giận, không còn biết nghĩa lý, pháp luật là
gì nữa. Thế mà Án Tử can ngăn được là vì tuy gọi chiều lòng, kể tội người nuôi
ngựa, mà kỳ thực lại gợi đến cái lòng nhân ái của Cảnh Công làm cho Cảnh Công
phải tỉnh ngộ và biết hối. Giỏi thay! Mấy lời nói dịu dàng, thảnh thơi mà cảm
hóa được quân vương.
19. CHẾT MÀ CÒN RĂN ĐƯỢC VUA
Cừ Bá Ngọc là người hiền mà vua Linh Công nước Vệ không dùng.
Di Tử Hà là người dở mà vua lại dùng.
Sử Ngư thấy thế, đã răn nhiều lần, mà vua không nghe. Lúc ông
có bệnh, sắp mất, dặn con rằng:
"Ta làm quan tại triều nước Vệ, không hay tiến được Cừ
Bá Ngọc, thoái được Di Tử Hà thế là bầy tôi không khuyên răn nổi vua, thì khi
ta nhắm mắt, không được làm đủ lễ. Cứ để thây ta dưới cửa sổ, thế là xong việc
cho ta"
Lúc ông mất, người con cứ làm theo lời dặn. Vua Linh Công đến
viếng thấy vậy, lấy làm ngạc nhiên. Người con đem lời di chúc của cha tâu lại.
Vua thất sắc nói rằng: "Ấy là cái tội của quả nhân!"
Rồi sai người đem xác ông Sử Ngư vào nhà, bắt khâm liệm và
mai táng cho đủ lễ. Sau quả nhiên vua Linh Công dùng Cừ Bá Ngọc mà bãi Di Tử
Hà.
Đức Khổng Tử nghe truyện ấy, nói:
"Đời cổ những gián quan đến lúc chết là hết cả mọi việc,
chưa có ai được như Sử Ngư chết rồi mà còn dùng xác để can vua làm cho vua phải
cảm động mà nghe mình. Thế chẳng là trung trực lắm ư!"
GIẢI NGHĨA
Gia ngữ
Vệ: Tên một nước thời Xuân Thu ở vào vùng tỉnh Trực Lệ và Hà
Nam bây giờ. Di Tử Hà: người thời Xuân Thu, làm quan đại phu nước Vệ.
Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
93
Tiến: cử lên làm một chức gì. (2)
Thoái: trừ bỏ đi. (2)
Thất sắc: mặt tự dưng tái đi. (2)
Khâm liệm: Khâm: đồ bổ khuyết xếp trên, dưới bốn bên thây người
trong áo quần cho chặt; liệm: vải hay lụa để bó thây người chết. (2)
Gián quan: chức quan chủ việc cản ngăn vua mà đàn hặc các
quan khi có lầm lỗi. (2)
Trung trực: trung: hết lòng; trực: ngay thẳng. (2)
LỜI BÀN
Đời quân chủ chuyên chế, phải có những chức gián quan thì mới
có người chế hạn được quyền vua, can vua bỏ điều xằng, khuyên vua làm điều hay.
Nếu can khuyên vua không được thì chẳng là không làm hết cái chức trách rất trọng
của gián quan ư? Nhưng một đàng vua cứ nhất định không nghe, một đàng mình cố sức
can mãi đến lúc chết chưa thôi, còn lấy xác can nữa, thì thực là đáng khen cái
tâm chí sâu xa bền chặt ấy! Xem chuyện Sử Ngư lại nhớ đến chuyện bác sĩ
Bergonie suốt đời hết lòng với khoa học, lúc chết, cũng hiến xác cho người ta mổ
xẻ để nghiên cứu về y học. Như thế mới thực là những gương sáng tận tâm với chức
vụ để cho thiên hạ soi chung.
20. YÊU NÊN TỐT GHÉT NÊN XẤU
Trước, vua nước Vệ rất yêu Di Tử Hà. Cái phép nước Vệ, ai đi
trộm xe của vua, thì phải tội chặt chân. Mẹ Di Tử Hà đau nặng. Đêm khuya có người
đến gọi, Di Tử Hà vội vàng lấy xe vua ra đi. Vua nghe thấy, khen rằng:
"Có hiếu thật! Vì hết lòng với mẹ, mà quên cả tội chặt
chân."
Lại một hôm, Di Tử Hà, theo vua đi chơi ở ngoài vườn, đang ăn
quả đào thấy ngọt còn một nửa, đưa cho Vua ăn. Vua nói:
"Yêu ta thật! Của đang ngon miệng mà biết để nhường
ta."
Về sau, vua không có lòng yêu Di Tử Hà như trước nữa. Một hôm
phạm lỗi, vua giận nói rằng:
"Di Tử Hà trước dám thiện tiện lấy xe của ta đi. Lại một
bận dám cho ta ăn quả đào thừa. Thực mang tội với ta đã lâu ngày."
Nói xong bắt đem trị tội.
Ôi! Di Tử Hà ăn ở với vua trước sau cũng như vậy, thế mà trước
vua khen, sau vua bắt tội, là chỗ tại khi yêu khi ghét khác nhau mà thôi. Lúc
được vua yêu, chính đáng tội thì lại hóa công thần; lúc phải vua ghét, chính
không đáng tội thì lại hóa ra sơ; cho nên người muốn can ngăn, đàm luận với vua
điều gì, thì trước phải xem xét cái lòng vua yêu hay vua ghét tính thế nào rồi
hãy nói.
Hàn Phi Tử
GIẢI NGHĨA
Hàn Phi Tử: công tử nước Hàn, học trò Tuân Tử chuyên về bình
danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau
bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà
Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ
Lục C).
Vệ: Tên một nước thời Xuân Thu ở vào vùng tỉnh Trực Lệ và Hà
Nam bây giờ.
Di Tử Hà: người thời Xuân Thu, làm quan đại phu nước Vệ.
Chặt chân: một thứ hình trong năm hạng trọng hình đời cổ. (2)
Thiện tiện: chính mình không được làm như vậy mà cứ làm liều.
(2)
Trị tội: đem luật hình ra mà trừng trị kẻ phạm phép. (2)
Thân: gần, đằm thắm, quý hóa. (2)
Sơ: xa, hững hờ, ghét bỏ. (2)
94
Đàm luận: nói năng, bàn bạc. (2)
LỜI BÀN
Sự yêu, ghét thường làm cho người ta mờ đi không rõ hẳn được
cái giá trị của người được yêu hay bị ghét ra thế nào. Không nói gì yêu người
này, ghét người nọ, cũng chỉ là một người ấy, lúc yêu cho ra thế này, lúc ghét
cho ra thế kia. Cái thói thường: yêu thì nên tốt, ghét thì nên xấu, khen chanh
thì chanh ngọt, chê hồng thì hồng chua. Trong bụng đã thế, thì cư xử chắc cũng
theo như thế, lúc yêu hậu bao nhiêu, thì đến lúc ghét lại bạc bấy nhiêu, yêu
nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười. Lại chẳng những yêu ghét
riêng một người ấy, thường yêu ghét đến cả những sự hay những người có can thiệp
đến người ấy, yêu nhau yêu cả tông chi, ghét nhau ghét cả đường đi lối về. Sự
yêu, ghét làm cho ta thiên và nhẩm như thế, cho nên ta muốn cho công bình, khi
yêu khi ghét phải nên rõ cái giá trị của người được yêu hay bị ghét, biết chỗ
phải cũng phải biết chỗ trái, biết chỗ trái cũng phải biết chỗ phải cho người
ta mới được.
95
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
21. HÀ BÁ LẤY VỢ
Dân đất Nghiệp có tục cứ mỗi năm góp tiền mua một người con
gái ném xuống sông để làm vợ cho Hà Bá. Sự mê tín ấy có đã lâu ngày, không ai
phá nổi.
Lúc ông Tây Môn Báo, đến làm quan ở đấy, ông thân hành ra đứng
làm chủ lễ cưới cho Hà Bá. Trước mặt đông đủ cả bô lão, hào trưởng, ông đồng bà
cốt, ông cho gọi người con gái đến. Ông xem mặt xong, chê rằng: "Người con
gái này không được đẹp! Ta nhờ bọn ông đồng xuống nói với Hà bá xin hoãn lại
hôm khác, để tìm người đẹp hơn". Ông lập tức sai lính khiêng một ông đồng
quăng xuống sông.
Một lúc, ông nói: "Sao lâu thế này!" Rồi ông bảo
đám bà cốt xuống nói hộ. Lập tức sai lính bắt một bà cốt ném xuống sông.
Một lúc, ông nói: "Sao không thấy tin tức gì cả! Chừng
lũ đồng cốt xuống nói không nên lời. Dám phiền các cụ bô lão đi giúp cho. Lại lập
tức sai lính lôi một cụ vứt xuống sông.
Một lúc, ông nói: "Sao mãi không thấy về thế này! Bọn đồng
cốt, bô lão dễ đi cũng không được việc, phải nhờ đến bậc hào trưởng mới
xong."
Lúc bấy giờ bao nhiêu người đều xám xanh mặt lại van lạy xin
thôi. Tây Môn Báo nói: "Để thong thả ta xem đã..." Mọi người run như
cầy sấy. Một chốc ông mới bảo: "Thôi tha cho họ. Thế là Hà bá không lấy vợ
nữa rồi".
Thành thử từ đây dân đất Nghiệp không ai dám nhắc đến truyện
Hà bá lấy vợ nữa. Sử Ký
GIẢI NGHĨA
Sử Ký: còn được gọi bằng tên "Sách của ông Thái sử"
là cuốn sử của Tư Mã Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, ghi lại lịch sử
Trung Quốc từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông sống. (Chú thích này được
trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Sử Ký trong Phụ Lục D, Tư Mã Thiên trong
Phụ Lục C).
Nghiệp: tên một huyện đời nhà Hán tức là huyện Lâm Chương tỉnh
Hà Nam bây giờ. Tây Môn Báo: người nước Ngụy thời Chiến Quốc làm quan rất giỏi,
trừ được hại, hưng được lợi cho dân.
Tục: thói quen lưu truyền lâu ngày đã thành nếp. Hà bá: Thần ở
dưới nước. (2)
Mê tín: tin một cách mê muội không biết lẽ phải là thế nào nữa.
(2)
Thân hành: chính mình đi làm lấy một việc gì. (2)
Bô lão: các cụ già. (2)
Hào trưởng: kẻ có quyền thế, làm bực trên trong dân làng. (2)
LỜI BÀN
Sự mê tín thường làm hư người, tốn của, nát nhà, có khi mất cả
mạng, thật là tai hại. Khi mê tín đã thành tục, thì khó lòng mà phá nổi. Muốn
phá, tất phải dụng tâm khéo làm sao mới được. Ông Tây Môn Báo sở dĩ mà phá nổi
cái tục cưới vợ cho Hà bá là vì ông biết trừ tự cái gốc rễ; tức là đám đồng cốt
quàng xiên, bọn cường hào ngoan cố, xưa nay quen thói cổ hoặc nhũng nhiễu người
ta để kiếm ăn, để cầu lợi. Trừ hai hạng ấy để cứu vớt lương dân, chỉnh đốn
phong tục thật là công minh và cương quyết vậy.
22. GHÉT CON KHÔNG GIỐNG MÌNH
Doãn Văn Tử sinh được một đứa con, không thấy giống mình, lấy
làm giận lắm, thường đánh đập luôn. Một hôm đang cầm gậy đánh, thấy Tử Tư đến
chơi bèn nói rằng: "Nó không giống tôi, không phải là con tôi. Tôi lại ngờ
mẹ nó có ngoại tình mà đẻ ra nó, nên tôi muốn bỏ..."
Tử Tư hỏi: "Cứ như ông nói thì vợ vua Nghiêu vua Thuấn
cũng chẳng đáng ngờ ư?
96
Hai ông là bậc thánh đế mà đẻ ra Ðan Chu và Thương Quân thực
không bằng kẻ thất phu. Như thế thì còn cái gì mà giống cha? Cái đạo thường,
thì phần nhiều cha mẹ làm sao đẻ ra con được như vậy. Nhưng cha hiền mà đẻ con
ngu thì cũng là cái thế thường tự nhiên như thế, chớ nào có phải tội tự người vợ
đâu?"
Doãn Văn Tử nghe hiểu, nói rằng: "Thôi, xin ông đừng nói
nữa." Rồi về sau Văn Tử không bỏ vợ.
Khổng Tùng Tử
GIẢI NGHĨA
Khổng Tùng Tử: tên bộ sách, ba quyển, 21 thiên của nhà Bác sĩ
là Khổng Phụ làm ra. Khổng Phụ, tên Tử Ngư hay Tử Giáp, cháu đời thứ tám đức Khổng
Tử. Nghiêu, Thuấn: xin xem Nghiêu, Thuấn ở Phụ Lục C.
Tử Tư: xin xem Ngũ Tử Tư ở Phụ Lục C.
LỜI BÀN
Có cha ấy tất phải có con ấy, thường thì vẫn thế. Nhưng không
phải cái lý nhất định bao giờ cũng như thế. Có khi cha mẹ rất hay mà đẻ con ra
rất dở. Hổ phụ khuyển tử cũng nhiều, chớ ghét đứa con vì nó không giống mình, cầm
gậy đánh nó, rồi lại rắp tâm đuổi mẹ nó đi, thì cũng chẳng là tự ái quá mà hóa
ra si ư? Cha mẹ sinh con, trời sinh tính, cố nhiên là thế. Nhưng đẻ con phải dạy,
dạy con là việc rất cần. Nếu đẻ con chẳng dạy, để vậy mà nuôi rồi cứ trách con
dở, giận con hư, đó là lỗi nặng của người làm cha mẹ vậy.
23. LỢN MẸ GIẾT LỢN CON
Họ Tử Xa có con lợn nái sắc đen tuyền đẻ một lứa ba con, hai
con đen tuyền, một con loang lổ. Lợn nái nuôi hai con lợn con giống mình rất
chăm chỉ cẩn thận, hơi một tí cũng lo sợ. Còn con lợn loang lổ khác mình thì
ghét bỏ, sau cắn chết xé cả gan ruột nát nhừ mới thôi.
Tử Hoa Tử nói: "Gớm thay tâm thuật hay chuyển di. Mắt đã
mờ về kẻ giống mình hay khác mình, thì bụng sanh ngay ra có kẻ yêu, kẻ ghét. Ðã
ghét, đến con ruột đẻ ra mà cũng hại cả con mà không hối huống chi người khác
máu với mình. Người đời lúc bình cư, thì âu yếm thân thiết, thề ước cùng nhau,
kiên cố tưởng keo sơn cũng không bằng. Khi lâm đến thế lợi, chỉ chênh nhau bằng
sợi tơ sợi tóc, thì mặt đã đổi sắc, cơn giận nổi lên và tìm cách tàn hại nhau
ngay lập tức. Gớm thay! Tâm thuật chuyển di, tưởng chẳng khác gì con lợn nái.
Tử Hoa Tử
GIẢI NGHĨA
Tử Hoa Tử: một nhà học thuyết giỏi nước Ngụy đời vua Chiêu
Hi.
Tử Xa: quan Ðại phu nước Tần.
Tâm thuật: cách nghĩ trong tâm não làm thế này thế kia. (2)
Chuyển di: thay đổi. (2)
Thế lợi: quyền thế, tài lợi. (2)
LỜI BÀN
Thói thường, đồng chủng đồng tông, hay đồng tình, đồng chí
thì ưa nhau, mến nhau, còn ngoại giả, thì đem bụng ngờ vực, ghen ghét, coi người
ta như cừu địch cả, thực là hẹp hòi đáng tiếc. Người quân tử không bao giờ lấy
cái hình sắc khác nhau mà thành bụng yêu hay sinh bụng ghét, lại nhất là, không
lấy cái tư tưởng thế lợi trái nhau là lúc hợp, lúc ly, lúc thân, lúc sơ, lúc thề
ước, lúc tàn hại nhau bao giờ. Người ta tuy không cùng nòi giống, cùng tư tưởng,
cùng chí hướng với mình, nhưng người ta là hạng quang minh chính đại, mình cũng
nên có lòng thân yêu, có lượng cao cả để đối với người ta thì mới đáng gọi là
yêu đồng bào và trọng nhơn đạo. Nếu không thì tâm thuật lợn nái mất rồi!
97
24. GIÁP ẤT TRANH LUẬN
Giáp hỏi Ất: "Ðúc đồng làm chuông, đẽo gỗ làm dùi, lấy
dùi đánh chuông tiếng kêu boong - boong thì tiếng kêu ấy là gỗ kêu hay đồng
kêu?"
Ất đáp: "Lấy dùi gõ vào tường vách không kêu, gõ vào
chuông kêu, thế thì tiếng kêu ở như đồng."
Giáp hỏi: "Lấy dùi gõ vào đồng tiền trinh không kêu, thế
thì có chắc tiếng kêu ở như đồng mà ra không?"
Ất nói: "Ðồng tiền đặc, cái chuông rỗng, vậy tiếng kêu ở
như các đồ vật rỗng mà ra." Giáp hỏi: "Lấy gỗ, lấy bùn làm chuông
đánh không ra tiếng, thế thì có chắc tiếng kêu là ở đồ vật rỗng mà ra
không?"
Âu Dương Tu
GIẢI NGHĨA
Âu Dương Tu: người đời nhà Tống thi đỗ tiến sĩ làm quan Hiếu
sư, là một nhà văn chương có tiếng. (Xin xem thêm Âu Dương Tu ở Phụ Lục C).
Tiền trinh: tiền đồng, có người cho tiền đồng bên Trung Quốc
đem sang ta đầu tiên là tiền đồng niên hiệu Càn Trinh nên gọi là tiền trinh.
(2)
LỜI BÀN
Cứ xem Giáp, Ất tranh luận, thì cũng phân vân, không rõ tiếng
kêu là tự chuông hay tự dùi ra. Chuông là đồng vốn kêu, nhưng không có dùi đánh
vào, không kêu. Vậy có muốn tiếng kêu, tất phải có cả chuông cả dùi mới được.
Tiếng kêu là gì? Chẳng qua là cái âm thanh từ hai vật chọi nhau, chạm vào nhau
mà sinh ra. Tuy vậy, nếu nói tiếng kêu là tự cả chuông, cả dùi mà ra, thì hình
như giữ cái chủ nghĩa "hai phải" trắng, đen là một. Thế mới hay, lẽ
phải không cùng, càng nghị luận lắm, có khi lại càng như bối rối thêm ra, không
tài nào gỡ rối. Nên biết được thế nào, thì hay thế, chớ cứ cố chấp nhất câu nệ
cho mình là phải, không bết cái phần phải của người, thì là có tính nhân thiên
và lượng hẹp. Nói cho đúng: muốn rõ vật lý, cần phải có khoa học. Không biết
khoa học mà bàn luận vật lý thì không tài nào xác thực được.
25. MẶT TRỜI XA, GẦN
Ðức Khổng Tử đi chơi ra phía đông, thấy hai đứa bé cãi nhau,
hỏi tại làm sao, thì một đứa nói rằng:
"Tôi thì tôi cho mặt trời, lúc mới mọc, ở gần ta hơn, về
buổi trưa, ở xa ta hơn."
Còn một đứa nói: "Tôi thì tôi cho mặt trời lúc mới mọc ở
xa ta hơn, về buổi trưa, ở gần ta hơn,"
Ðứa trước cãi: "Mặt trời lúc mới mọc to nhứ cái bánh xe,
đến giữa trưa, nhỏ như cái bát ăn, thế chẳng phải tại xa ta mới nhỏ, gần ta mới
to là gì?"
Ðứa sau cãi: "Lúc mặt trời mới mọc, thì mát mẻ, đến giữa
trưa thì nóng nực, thế chẳng phải tại gần ta mới nóng, xa ta mới mát là
gì?"
Khổng Tử nghe nói, không giải quyết được ra làm sao.
Hai đứa bé cười bảo: " Thế thì cho ông là người học rộng
hiểu nhiều thế nào được!" Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của
Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư
Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
LỜI BÀN
Buổi sáng, buổi trưa, mặt trời ở cách trái đất cũng không phải
lúc gần, lúc xa gì cả. Nếu buổi sáng, thấy mát, buổi trưa thấy nóng hơn, chẳng
qua là tại tia nóng mặt trời
98
chiếu vào chỗ ta ở trên mặt đất, buổi sáng còn chếch, buổi
trưa mới thẳng. Vả chăng buổi sáng, còn những sương móc ban đêm chưa tan hết
cho nên mát hơn buổi trưa là lúc khí nóng tụ tích mãi vào, cho nên nhiệt độ
càng cao. Còn nếu buổi sáng, trông mặt trời to, buổi trưa trông mặt trời nhỏ,
chẳng qua là một cõi hoãn hình của con mắt trông như thế mà thôi. Mặt trời đâu
vẫn ở đó. Trái đất xoay chung quanh mặt trời. Lúc mặt trời mọc, con mắt trông
chếch, đến buổi trưa, con mắt trông thẳng mà lại trông qua từng không khí, cho
nên thấy to nhỏ khác nhau. Vậy chỉ tại người trông hóa to, nhỏ, chớ không phải
chính mặt trời xa, gần gì cả. Ấy đại để bây giờ thì ta giải nghĩa như thế.
Nhưng ở vào cái đời ông Khổng, khoa học chưa có mấy, thì xem hai đứa bé suy lý
với nhau, đứa nào cũng phải, khó lòng mà quyết định được thật. Vả lại ngừơi ta
thông minh, thánh trí đến đâu cũng không sao biết cho hết mọi sự vật được. Vì rằng
đời người sống có hạn, mà sự trí thức thì mông mênh, không bờ bến nào!
26. CÁCH PHỤC LÒNG NGƯỜI
Mình làm người sang trọng giàu có, thì chớ nên kiêu sa.
Mình là bậc trông minh tài trí, thì chớ nên khinh ngạo.
Mình có sức lực khỏe mạnh, thì chớ nên đè nén người.
Mình ăn nói linh lợi, thì chớ nên dối trá người.
Mình còn kém thì phải học, chưa biết thì phải hỏi.
Ðối với làng nước, thì phải giữ cái trật tự trên dưới.
Ðối với người nhiều tuổi, thì phải giữ cái nghĩa con em.
Ðối với người bằng vai, thì phải giữ cái nghĩa bầu bạn.
Ðối với lũ trẻ thơ, thì phải dạy bảo khoan dung.
Như vậy thì ai cũng yêu, ai cũng kính, không ai tranh giành với
mình. Tâm địa rộng rãi thênh thang như trời đất, thì bao bọc được cả muôn loài.
Hàn Thi Ngoại Truyện
GIẢI NGHĨA
Hàn Thi Ngoại Truyện: là bộ sách chép những việc, những câu
nói đời xưa, dưới mỗi bài có những chứng dẫn mấy câu thơ của Hàn Anh làm. Hàn
Anh là người đời nhà Hán làm bác sĩ đời vua Văn Ðế lấy những ý trong thơ của
người ta mà làm Nội, Ngoại truyện gọi là Hàn Thi, bây giờ chỉ còn Ngoại truyện
mà thôi.
LỜI BÀN
Muốn cho người tâm phục, không phải lấy tiền tài hay quyền thế
mà khiến được, tất phải biết cách cư xử với người cho phải đạo thì mới được.
Bài này chính tóm tắt mấy câu về cái đạo ấy. Ðoạn trên cốt ngăn ngừa mấy câu,
cái ác tính thường kẻ hơn người hay mắc phải. Ðoạn dưới nói cách ăn ở với mọi bậc
người trong xã hội. Nói tóm lại khiêm nhã kính ái là một phương pháp rất hay để
ở đời.
27. LÒNG CƯƠNG TRỰC
Thôi Trữ là quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn
hội họp sĩ phu lại ăn thề. Ai nấy đều sợ hãi, răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử
nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề.
Thôi Trữ bảo Án Tử: "Ngươi nghe ta. Ta lấy được nước thì
ta cho một nửa. Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức."
Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm những muốn đưa gươm giáo ra
đâm chém Án Tử. Chết đến nơi, mà Án Tử vẫn không biến sắc mặt, ung dung nói rằng:
"Lấy lợi nhử người ta, mà bảo người ta phản bội quân thượng
là bất nhân, lấy binh khí hiếp người ta mà làm người ta mất chí khí là bất
dũng. Giết thì giết, ta đây không theo việc nhà ngươi làm."
99
Thôi Trữ nghe nói, không dám làm gì Án Tử. Án Tử đứng dậy ung
dung bước ra.
Tả Truyện
GIẢI NGHĨA
Tả Truyện: sách của Tả Khưu Minh nhà Chu làm, kể những sự
tích về lịch sử thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tả Truyện ở Phụ Lục D).
Tả Khưu Minh: Quan Thái Sư nước Lỗ theo chí của Khổng Tử mà
làm ra chuyện kinh Xuân Thu gọi là Tả Thị Xuân Thu cho nên người ta thường xưng
Khổng Tử là Tố Vương, Khưu Minh là Tố Thần.
Thôi Trữ (?-546 TCN): là tướng quốc nước Tề thời Xuân Thu
trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã thao túng chính sự nước Tề một thời gian và cuối
cùng bị diệt cả gia tộc. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục C; xem
thêm Thôi Trữ trong Phụ Lục C).
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa
phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Án Tử: tức là Án Anh, làm tướng đời vua Cảnh Công, ông là người
trung thành, tiết kiệm có tiếng thời bấy giờ.
Tề Trang công: xin xem Tề Trang Công ở Phụ Lục C.
Cương trực: cứng rắn, ngay thẳng. (2)
Quyền thần: người bầy tôi chiếm hết cả quyền của vua chúa.
(2)
Sĩ: quan nhỏ. (2)
Phu: quan to. (2)
Ăn thề: giết một con vật lấy máu cùng uống mà thề ước với
nhau làm một việc gì. (2) LỜI BÀN
Cường quyền thường muốn át công lý, tuy vậy công lý vẫn hay uốn
được cường quyền. Thôi Trữ mạnh biết bao nhiêu, mà chỉ một câu nói của Án Tử
cũng đủ làm cho phải lùi. Thế mới hay cái lòng người, cái lẽ phải có sức hơn là
mũi gươm, ngọn giáo. Những người có lòng trung nghĩa, cá tính cương quyết như
Án Tử, cứng như sắt, đỏ tựa son, dù nguy cấp thế nào cũng không đổi đại tiết
chính là những người giữ được công lý để đối phó với cường quyền.
28. TRÍ, TRUNG, DŨNG.
Nước Trần bị nước Sở đánh, phá tan mất cửa thành bên Tây. Sau
người Sở bắt dân nước Trần ra tu bổ lại cửa thành ấy.
Một hôm đức Khổng Tử đi xe qua đấy, không cúi đầu vào miếng gỗ
trước xe. Thầy Tử Cống dừng cương lại, hỏi:
"Cứ theo lễ, đi xe qua chỗ ba người thì phải xuống, qua
chỗ hai người thì phải cúi đầu vào miếng gỗ trước xe để tỏ lòng kính trọng. Nay
quan, dân nước Trần sửa sang cửa thành biết bao nhiêu là người, thế mà thầy đi
qua, không có lòng kính trọng, là cớ làm sao?
Đức Khổng Tử nói:
"Nước mất, mà không biết, là bất trí; biết, mà không lo
liệu, là bất trung; lo liệu, mà không liều chết là bất dũng. Số người nước Trần
tuy đông, mà ba điều ấy không biết được một, thì bảo ta kính làm sao được!
Hàn Phi Tử
GIẢI NGHĨA
Hàn Phi Tử: công tử nước Hàn, học trò Tuân Tử chuyên về bình
danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau
bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà
Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ
Lục C).
100
Trần: tên một nước nhỏ thời Xuân Thu ở vào một phần đất phủ
Khai Phong (Hà Nam) và Bạc Châu (An Huy) ngày nay.
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ
Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
Tử Cống: học trò Đức Khổng Tử giỏi về khoa ngôn ngữ.
Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
Tu bổ: sữa sang chữa lại. (2)
Bất trí: ngu dại không biết phải trái. (2)
Bất trung: chểnh mảng không hết lòng với vua, với nước. (2)
LỜI BÀN
Cứ theo cổ lễ rất phiền (ba người xuống xe) nhưng đức Khổng tử
vốn là người hay giữ lễ nên thầy Tử Cống mới hỏi. Đức Khổng Tử đáp thế, ý hẳn
quan dân nước Trần bấy giờ ai nấy đều ra dáng vui vẻ, hình như không còn ai biết
đến nước là gì. Nếu quả vậy thì có người cũng như không, ngài không kính rất là
phải, vì rằng: "Ngu dân bách vạn vị chi vô dân", nghĩa là nhân dân
ngu dại thì tuy dân số nhiều đến trăm vạn, cũng đáng bảo là không có người dân
nào.
29. BIẾT LẼ NGƯỢC, XUÔI
Việc đời có lắm cái hình như ngược, mà thật thì xuôi, có lắm
cái hình như xuôi, mà thật ra lại ngược. Ai biết rõ việc thật ngược, xuôi thế
nào, người ấy mới là người tinh đời. Phàm cái gì đã đến cùng cực thì tất nhiên
phải quay trở lại; dài quá thì tất phải ngắn dần đi; ngắn quá thì tất lại dài dần
ra. Đó là cái lẽ tự nhiên như thế.
Vua Trang Vương nước Kinh muốn đánh nước Trần, sai người sang
dò. Người ấy về nói: “Nước Trần không nên đánh."
Trang vương hỏi: “Tại làm sao?
Người ấy thưa rằng: "Nước Trần thành cao, hào sâu, kho
tàng súc tích nhiều."
Triều thần có người Ninh Quốc nói: “Như thế thì nước Trần nên
đánh lắm. Nước Trần vốn là nước nhỏ, mà kho tàng súc tích nhiều thì chắc là thuế
má nặng. Thuế má nặng thì tất dân oán vua. Thành cao, hào sâu thì phục dịch nhiều.
Phục dịch nhiều, thì tất dân kiệt sức. Nếu ta đem quân sang đánh, tất lấy được
Trần.”
Vua Trang Vương nghe lời, cất quân đánh, quả lấy được nước Trần.
Lã Thị Xuân Thu
GIẢI NGHĨA
Lã Thị Xuân Thu: sách của Lã Bất Vi làm. Lã Bất Vi người đời
nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của
Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lã Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm
Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, thì thưởng cho ngàn
vàng". (Xin xem thêm Lã Bất Vi ở Phụ Lục C).
Kinh: cũng là tên nước Sở, một nước lớn thời Xuân Thu ở vào
vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ. (Xin xem thêm nước Sở ở Phụ Lục A).
Trần: tên một nước nhỏ thời Xuân Thu ở vào một phần đất phủ
Khai Phong (Hà Nam) và Bạc Châu (An Huy) ngày nay.
Dài quá thì...: câu này ý nói đầy, vơi, tròn, khuyết, dài, ngắn,
thường hay đắp đổi cho nhau. Thí dụ như ngày hạ chí là ngày dài nhất trong một
năm, thì những ngày sau ngày hạ chí tất cứ mỗi ngày mỗi ngắn dần, lại ngày đông
chí là ngày ngắn nhất thì những ngày sau ngày đông chí lại dài dần mãi ra. (2)
Súc tích: chứa chất để dành. (2)
LỜI BÀN
Bài này có hai đoạn: Đoạn trên nói cái lẽ ngược, xuôi, đoạn
dưới dẫn một câu thí dụ. Ở đời có lắm cái tưởng là xuôi, mà thực là ngược, có lắm
cái cho là ngược, mà thực
101
là xuôi. Ngược, xuôi điên đảo rất là khó phân. Chỉ có người
nào không chịu xét bề ngoài, biết cái đầy, vơi, tròn, khuyết, dài, ngắn, đắp đổi
cho nhau là mới đóan trúng được. Như người sứ đây, đến tận nơi, mắt trông thấy
thế nào chỉ biết có thế thôi, chớ Ninh Quốc vẫn ở nhà, lấy cái lý đoán mà biết
rõ được cái tình hình ở bên trong thực là người cao đoán vậy.
30. TÀI NGHỆ CON LỪA
Đất Kiểm xưa nay vốn không có lừa. Có người hiếu sự, tải một
ít lừa đến đấy nuôi. Lừa thả ở dưới chân núi. Buổi đầu, hổ trong núi ra, trông
thấy lừa, cao lớn, lực lưỡng tưởng là loài thần vật mới giáng sinh. Lại thấy lừa
kêu to, hổ sợ quá, cong đuôi chạy. Dần dần về sau hổ nghe quen tiếng, thấy lúc
nào lừa kêu cũng thế, lấy làm khinh thường. Một hôm, hổ thử vờn, nhảy xông vào
đầu lừa. Lừa giận quá, giơ chân đá, đá đi đá lại, quanh quẩn chỉ có một ngón đá
mà thôi. Hổ thấy vậy, mừng bụng bảo dạ rằng: “Tài nghệ con lừa ra chỉ có thế mà
thôi!” Rồi hổ gầm thét chồm lên, vồ lừa, cấu lừa, cắn lừa, ăn thịt lừa đoạn rồi
đi.
Liễu Tôn Nguyên
GIẢI NGHĨA
Liễu Tôn Nguyên: tên tự là Tử Hậu, người Hà Đông, tinh lanh
tuyệt đời, văn chương nổi tiếng, đỗ Tiến sĩ làm quan Thứ Sử, là một bậc danh
nhân đời nhà Đường.
Kiểm: nước Sở thời Chiến Quốc, tức là huyện Nguyên Lăng, tỉnh
Hồ Nam ngày nay. (Xin xem thêm nước Sở ở Phụ Lục A).
LỜI BÀN
Bài này có ý nói: Ở đời có lắm người, lắm sự, lúc mới biết
cho là lạ, thì còn ưa, còn sợ, đến lúc đã biết rõ rồi thì lại khinh thường, chẳng
coi vào đâu nữa. Nhác trông ngỡ tượng tô vàng, nhìn ra mới biết là chẫu chàng
ngày mưa. Nhưng bài này lại có ý chê người khờ dại không biết giữ thân cho kín
đáo, để đến nổi người ta dòm được tâm thuật của mình mà làm hại mình, như con lừa
bị con hổ hại vậy. Những nhà làm văn bây giờ vẫn thường hay dùng hai chữ “kiềm
lô” (lừa đất Kiểm) để chỉ những người tài nghề kém cỏi, không có gì lạ.
Reply With Quote
06-08-2011 09:36 PM #22 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
31. ĐÁNH ĐÀN
Vua nước Tề thích nghe sáo. Có kẻ muốn cầu chút công danh,
đem đàn đến đứng trước cửa Nhà vua mà đánh. Đánh luôn ba năm, mà vua không hỏi
tới. Anh ta giận lắm, gắt mà nói rằng:
“Ta đánh đàn đến cả quỷ thần cũng phải say mê, thế mà vua
không biết cho ta!”
Có người nghe nói, cười mỉa, bảo rằng: "Vua thích nghe
tiếng sáo, mà bác đánh đàn, cho đàn bác hay đến đâu, nhưng vua không thích thì
làm thế nào được? Thế là bác chỉ giỏi ngón đàn, chớ không khéo cầu danh ở nước
Tề này vậy!”
102
GIẢI NGHĨA
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa
phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Công danh: công là khó nhọc mà được việc, danh là tiếng tăm;
công danh là đem sự khó nhọc ra để được danh giá. (2)
LỜI BÀN
Đem đàn ra đánh cho người thích nghe sáo, mà cầu cho người ta
ưa mình, thì chẳng là khờ vụng lắm ư! Cho nên mình tuy có tài, muốn thi thố cái
tài, thì phải dò trước xem người dùng mình có ưa cái tài ấy không. Bằng không,
mà mình cũng cứ phô tài, thì chẳng những việc muốn cầu không được, mà lại để
thiên hạ người ta chê cười cho nữa.
32. THỔI SÁO
Vua Tuyên Vương nước Tề thích nghe sáo, và lúc nào muốn nghe,
bắt ba trăm người cùng thổi một loạt. Trong bọn ba trăm người ấy, có Đông Quách
tiên sinh không biết thổi sáo, nhưng cũng lạm dự vào đây để kiếm lương ăn.
Đến khi vua Tuyên Vương mất, vua Mẫn Vương nối ngôi, cũng
thích nghe sáo. Nhưng chỉ muốn nghe riêng từng người một mà thôi. Đông Quách
tiên sinh thấy thế, tìm đường trốn trước.
Hàn Phi Tử
GIẢI NGHĨA
Hàn Phi Tử: công tử nước Hàn, học trò Tuân Tử chuyên về bình
danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau
bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà
Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ
Lục C).
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở
vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Đông Quách tiên sinh: bấy giờ các nhà làm văn thường dùng bốn
chữ này để chế nhạo những người vô tài mà lạm dự vào một địa vị nào. Chính
nghĩa bốn chữ ấy là nhà thầy (tiên sinh) họ Đông Quách hay ở ngoài thành bên
phía đông (Đông Quách). Lạm dự: ăn may mà được hưởng một phần quyền lợi quá tài
đức mình. (2)
LỜI BÀN
Những kẻ vô tài, gặp may nhờ dịp, mà được làm quan, có khác
gì Đông quách tiên sinh nói trong chuyện này? Những khi ồ ạt, gọi là có mặt cho
đủ số, thì còn giữ được địa vị, chứ đến khi khảo sát từng người một thì tài nào
mà không bị thải.
33. NGƯỜI NƯỚC LỖ SANG NƯỚC VIỆT
Hai vợ chồng người nước Lỗ, chồng khéo đóng giày, vợ khéo đan
mũ, muốn đem nhau sang kiếm ăn ở nước Việt.
Có người đến bảo rằng: “Vợ chồng nhà bác đi chuyến này thế
nào cũng cùng khổ. Người nước Lỗ hỏi: Sao bác lại nói thế?
Người kia bảo: Giày dùng để đi, mà người Việt đi chân không,
không thích đi giày; mũ dùng để đội, mà người Việt để đầu không, không cần đội
mũ. Vợ chồng nhà bác làm giày, đan mũ giỏi thật, song đến ở nước người ta, người
ta không dùng đến tài nghề của mình, thì làm thế naò mà không khốn cùng?”
Hai vợ chồng người nước Lỗ nghe nói, không sang nước Việt nữa.
Hàn Phi Tử
GIẢI NGHĨA
Hàn Phi Tử: công tử nước Hàn, học trò Tuân Tử chuyên về bình
danh pháp luật,
103
nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng
sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử.
Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở
Phụ Lục C).
Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt
mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
Việt: tên nước thời Xuân Thu ở vào tỉnh Chiết Giang, Giang Tô
và một phần Sơn Đông bây giờ.
LỜI BÀN
Đến chỗ đi đầu không, mà bán mũ, đến chỗ đi chân không mà bán
giày thì cũng giống như mùa rét mà bán quạt, mùa nực mà bán chăn bông, tuy trái
nơi và trái thời khác nhau, nhưng cũng là trái, không được việc cho mình, mà lại
còn để tiếng cười cho thiên hạ nữa. Cho nên người có tài phải tìm nơi đáng ở mà
ở chớ đem đàn mà gảy ta trâu thì có ích chi.
34. GIỮ LẤY NGHỀ MÌNH
Nước Trịnh có người học nghề làm dù che mưa ba năm mới thành
nghề. Trời đại hạn, không ai dùng đến dù, anh ta bèn bỏ nghề làm dù, đi học nghề
làm gầu tát nước. Lại học ba năm mới thành nghề làm gầu, thì trời mưa luôn mãi
không ai dùng đến gầu. Bây giờ anh ta lại quay về nghề làm dù như trước. Không
bao lâu, trong nước có giặc, dân gian nhiều người phải đi lính, mặc đồ nhung phục,
không ai cần đến dù, anh ta xoay ra nghề đúc binh khí thì đã già quách rồi.
Úc Ly Tử thấy anh ta, thương tình, nói rằng:
-Than ôi, ngươi chẳng đã già đời mất rồi ư! Già hay trẻ không
phải là tự người, là tự trời, điều ấy đã cố nhiên. Nhưng nghề nghiệp thành hay
bại dù lỡ thời không gặp dịp, cũng không nên đổ cả cho trời, tất có mình ở
trong. Ngày xưa nước Việt có một người làm ruộng, cấy lúa chiêm ba năm đều hại
vì lụt cả. Có người bảo anh ta nên tháo nước mà cấy mùa, anh ta không nghe, cứ
cấy chiêm như trước. Năm ấy nắng to, mà nắng luôn ba năm, vụ chiêm nào cũng được,
thành ra anh ta kéo lại hoà cả mấy năm mất mùa trước. Cho nên có câu rằng:
"Trời đại hạn nghĩ đến sắm thuyền, trời nóng nực nghĩ đến
sắm áo bông", đó là một câu thiên hạ nói rất phải.
Lưu Cơ
GIẢI NGHĨA
Lưu Cơ: người đời Minh tên tự là Bá Ôn có công giúp vua Thái
Tổ gây dựng lên nhà Minh, giỏi văn chương lại kiêm cả thiên văn binh pháp.
Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần
đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
Việt: tên nước thời Xuân Thu ở vào tỉnh Chiết Giang, Giang Tô
và một phần Sơn Đông bây giờ.
Nhung phục: y phục nhà binh.
Úc Ly Tử: tên một bộ sách của Lưu cơ thác danh làm Úc Ly Tử
mà nói trong bài này. Đại hạn: nắng to và nắng lâu ngày. (2)
Đại nạn sắm thuyền...: ý nói người ta cứ phòng xa là hơn, ở đời
thường có cái sức đang đi thế này, tất có lúc đi ngược hẳn lại, như nắng lâu
quá tất có lúc mưa lụt, nóng nực quá tất có lúc giá rét, nên người khôn lúc nắng
lâu nghĩ sắm thuyền trước để phòng khi ngập lụt, lúc nóng nực nghĩ sắm áo bông
trước để phòng khi giá rét. (2) LỜI BÀN
Người ta làm nghề gì, ai chẳng muốn cho nghề ấy được phát đạt,
thịnh vượng. Song gặp thời, thì hay, lỡ thời, hoá dở. Như thế thì cái thời cũng
là quan hệ với nghề của mình lắm. Khốn cái thời là tự ở đâu đâu chớ không tự
mình gây lấy được, cho nên
104
có lắm người làm nghề, không thành nghề, thường nói rằng:
"Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên" nghĩa là người chỉ mưu tính
công việc, còn công việc nên hay không nên, là do tại trời. Song người có gan,
dù cho lỡ thời cũng cứ vững dạ mà giữ lấy nghề, vì nghề chắc đã thành, thì tất
cũng có chốn dụng, chẳng chóng thì chầy, chẳng nhiều thì ít. Chớ cứ nay làm nghề
này, mai xoay nghề khác, như hòn đá lăn mài không bao giờ mọc rêu, thì chỉ nhọc
xác, già người mà vẫn không ăn thua gì cả.
35. CHUYỆN A LƯU
A Lưu là một tên tiểu đồng nhà ông Chu Nguyên Tố. Nó thực là
ngây ngô, không được việc gì cả, mà ông Nguyên Tố vẫn nuôi nó suốt đời.
Lúc ông bảo nó quét nhà, nó cầm chổi quanh quẩn suốt buổi mà
không sạch được một cái buồng con. Ông giận mắng, thì nó quăng chổi xuống đất,
lẩm bẩm nói: "Ông quét giỏi, thì ông phiền tôi làm gì!"
Khi ông đi đâu vắng, sai nó chực ngoài cửa, dù khách quen đến,
nó cũng không nhớ được tên ai. Có hỏi, thì nó nói: "Người ấy lùn mà béo.
Người ấy gầy mà lắm râu. Người ấy xinh đẹp. Người ấy tuổi tác và chống gậy..."
Ðến lúc nó liệu chừng không nhớ xuể, thì nó đóng cửa lại, không cho ai vào nữa.
Trong nhà có chứa một ít đồ cổ như chén, lọ, đỉnh, đôn. Khách
đến chơi, nó đem bầy ra cho xem. Lúc khách về, nó lén đến gõ các thứ ấy, mà
nói: "Những cái này có khi bằng đồng mà sao nó đen xì lại như thế
này!" Rồi nó chạy đi lấy cát, lấy đá, lấy nước để đánh.
Nhà có cái ghế gãy chân, ông sai đi chặt cành cây có chạc, để
chữa lại thì nó cầm búa, cầm cưa đi khắp vườn. Hết ngày, về, nó chìa hai ngón
tay làm hiệu mà nói: "Cành cây có chạc đều chỉa trở lên cả, không có cành
nào mọc chúc xuống đất." Cả nhà ai cũng phải phì cười.
Trước sân có vài cây liễu mới trồng. Ông sợ trẻ láng giềng đến
nghịch hỏng, sai nó trông nom giữ gìn, đến lúc nó vào ăn cơm, thì nó nhổ cả cây
lên mà cất đi một chỗ. Công việc nó làm, nhiều chuyện đáng bật cười như thế cả.
Ông Nguyên Tố là một người viết chữ chân tốt mà vẽ lại giỏi lắm.
Một hôm, ông hòa phấn với mực để vẽ, thấy A Lưu đấy, nói đùa với nó rằng:
"Mày có vẽ được không?" A Lưu đáp: "Khó gì mà không vẽ
đươc." Ông bảo vẽ thì A Lư vẽ nét đậm, nét nhạt, nét xa, nét gần, như người
xưa nay vốn đã biết vẽ. Ông thấy vậy thử luôn mấy lần, lần nào A Lưu vẽ cũng được
như ý cả.
Tự bấy giờ, ông dùng dến A Lưu luôn không lúc nào là rời ra nữa.
Sau A Lưu nổi tiếng là một nhà danh họa.
GIẢI NGHĨA
Tiểu đồng: thằng nhỏ giúp việc. (2)
Chữ chân: lối chữ nho viết phân minh từng nét. (2)
LỜI BÀN
Quét nhà suốt buổi không sạch được một cái buồng con; trồng
cây, lúc ăn cơm nhổ cả cây đem vào, người mà ngốc như thế, thì bảo còn dụng làm
được gì nữa! Tuy vậy, không nhớ tên người, chỉ nhớ hình người, thấy cành mọc
lên, không thấy cành chúc xuống, xem đồ vật biết phân biệt đồng hay đất, thế đủ
hay A Lưu có cái trí khuynh hướng về nghề vẽ, đã như có một cái khả năng về nghề
vẽ vậy. Ôi! gỗ mục vứt đi người kiếm củi vẫn nhặt, đá cuội là xấu, thợ ngọc vẫn
dung. Trong trời đất thì không có vật gì là vật bỏ đi, huống chi là người ta
tinh khôn hơn vạn vật, lại không được một điều gì khả thủ ư? A Lưu ngây dại, tưởng
là người bỏ đi, thế mà được nổi tiếng về nghề họa, cũng là nhờ ông Nguyên Tố có
lượng bao dung, biết dụng nhân như dụng mộc. Xem bài này thì cha mẹ dạy con, thầy
dạy học trò chẳng nên tìm rõ
105
cái sở trường của mỗi đứa mà dẫn dụ, mà luyện tập nó mặt ấy,
ngay tự lúc còn trẻ tuổi, để cho nó may có cơ thành tài được ru! Ðã đành: Thiên
địa vô khí vật, thánh nhân vô khí nhân, nhưng cốt phải biết: nhân tài nhi đốc,
(tùy theo cái tài mà bồi bổ khải phát cho nẩy nở ra) thì tài mới thành được.
36. MẤT BÚA
Có người đánh mất cái búa, ngờ cho đứa con nhà láng giềng lấy
trộm. Anh ta trông dáng nó đi, rõ ra đứa ăn trộm búa, nhìn vẻ mặt nó, rõ ra đứa
ăn trộm búa, thấy nó cất nhắc, hành động không một tí gì là không rõ ra một đứa
ăn trộm búa cả.
Ðược một lúc, người ấy bới trong hố, lại thấy cái búa. Thì
hôm sau, trông đứa con nhà láng giềng ngôn ngữ cử chỉ không một tí gì giống đứa
ăn trộm búa nữa.
Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của
Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư
Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
LỜi BÀN
Người ta, khi mất một cái gì, thì một mất mười ngờ. Mà khi
trong bụng đã ngờ vực thì các ngoại vật cũng theo đấy mà biến đổi đi cả. Phàm
tâm trí mình đã cảm giác làm sao, thì tự mình lại tưởng tượng một cái cảnh sắc
hợp như thế. Người mình vui, thì mình thấy sự vật ngoài hình như cũng vui; người
mình buồn, thì mình thấy sự vật ngoài cũng buồn. Chẳng qua là tại tự mình in
trí như vậy, chớ ngoại vật hồ dễ đã có mối liên lạc mật thiết với mình mà thật
thay đổi như thế đâu! Cái tâm chuyển thời hết thảy muôn pháp đều chuyển theo.
Cho nên tâm cần phải chính. Tâm có chính thì tư tưởng hành vi mới thoát khỏi tà
khúc được.
37. TƯỜNG ÐỔ
Nước Tống có người nhà giàu. Một hôm trời mưa, tường nhà anh
ta đổ.
Ðứa con nói: "Thưa cha, không đắp ngay tường lại, e có
trộm vào."
Người láng giềng thấy tường đổ, cũng nói: "Này bác,
không đắp ngay tường lại, e có trộm vào."
Tường chưa kịp đắp, tối hôm ấy, nhà anh ta quả nhiên mất trộm
thật.
Anh ta khen đứa con là khôn ngoan biết trước, mà người láng
giềng là gian giảo làm xằng.
Cùng một câu nói, con nói thì khen là tinh khôn, láng giềng
nói thì ngờ là trộm cắp, bởi tại cớ làm sao? Tại con thì tình thân, cho nên
không có bụng ngờ, láng giềng là tình sơ, cho nên sinh ra ngờ vực. Thế cho nên,
phận sơ mà câu nói thân, thì thế nào cũng làm cho người nghe mình đem lòng nghi
ngờ.
Hàn Phi Tử
GIẢI NGHĨA
Hàn Phi Tử: công tử nước Hàn, học trò Tuân Tử chuyên về bình
danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau
bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà
Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ
Lục C).
Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất,
ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
LỜI BÀN
Bài này cốt dạy ta phải thận trọng câu nói. Người láng giềng
đây sở dĩ mà để người nhà giàu ngờ vực, là vì không được thân với người ta, mà
nói một câu ra chừng thân lắm, muốn lo việc của người như việc của mình, coi việc
thiết đến người cũng như
106
thiết đến mình vậy. Cho nên: gặp người đáng nói mà không nói
là bỏ hoài mất một người, thì gặp người không đáng nói mà lại nói, chẳng những
làm phí mất lời nói, mà lại để cho người ta sinh nghi tình ra nữa!
38. NGƯỜI CON CÓ HIẾU
Thầy Tử Lộ vào hầu đức Khổng Tử, nói rằng: -“Đội nặng đi đường
xa thì tiện đâu nghỉ đấy, không đợi chọn chỗ, rồi mới nghỉ. Nhà nghèo, cha mẹ
già, thì con làm nên thế nào, hay thế ấy, không đợi có quyền cao, chức trọng, mới
chịu làm. Ngày trước Do này, lúc song thân còn, cơm thường đưa dưa muối, đường
xa trăm dặm, phải đội gạo về nuôi song thân. Lúc song thân mất, làm quan ở nước
Sở, xe ngựa hàng trăm, lương bổng hàng vạn, ăn những miếng ngon, mặc những của
tốt, mỗi khi nhớ đến song thân, lại muốn dưa muối, đội gạo để nuôi người như
trước, thì không sao được nữa! Cha mẹ già như bóng qua cửa sổ. Cây muốn lặng mà
gió chẳng dừng, con muốn nuôi, mà cha mẹ không còn sống.
Đức Khổng Tử nói: “Do, nhà ngươi phụng sự song thân như thế rất
là phải. Lúc người còn thì hết lòng phụng dưỡng, lúc người mất, thì hết lòng
thương tiếc.”
Gia Ngữ
GIẢI NGHĨA
Tử Lộ: người thời Xuân Thu, học trò đức Khổng Tử, tính hiếu
thảo, hùng dũng có tài chính sự.
Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ
Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
Bóng qua cửa sổ: bóng đây là bóng mặt trời, ý nói thời giờ
chóng qua cũng như câu ngựa phi qua khe cửa. (2)
LỜI BÀN
Khi cha mẹ còn, hết lòng nuôi nấng, khi cha mẹ mất, hết lòng
thương nhớ, đó thực là cái đạo hiếu của con đối với cha mẹ vậy. Làm trái lại hẳn
như thế là bất hiếu, mang một cái tội rất to! Làm trái lại một nửa như thế,
“nghĩa là lúc cha mẹ còn, thì thờ ơ chểnh mảng, lúc cha mẹ mất thì nấu một mâm
cao cỗ đầy, làm văn tế ruồi”, như thế cũng là bất hiếu. Cho nên người con có hiếu
còn cha mẹ ngày nào, nên mừng ngày ấy, kíp ăn ở cho trọn đạo, chớ để đến lúc
cha mẹ mất rồi, có hối lại cũng không sao được. Vì rằng làm con mà được còn có
cha mẹ để báo đáp là một việc sung sướng ở đời, mà cũng là có duyên có phúc nữa.
39. THẦY TĂNG SÂM
Thầy Tăng Sâm bừa cỏ ruộng dưa, lỡ tay làm đứt mất ít rễ. Cha
là Tăng Tích giận, cầm gậy đánh vào lưng. Tâng Sâm đau quá, ngã gục xuống điếng
đi một lúc mới hồi lại.
Khi về nhà, liền đến thưa với cha rằng: “Lúc nãy con có tội,
để đến nỗi cha phải đánh, làm đau tay cha, thực là con lỗi đạo”.
Nói xong, lùi xuống vừa gẩy đàn vừa hát, có ý để cha nghe tiếng,
biết cho rằng mình không còn đau đớn gì nữa.
Đức Khổng Tử nghe thấy chuyện, bảo học trò cấm cửa không cho
Tăng Sâm vào. Tăng Sâm tự nghĩ mình vô tội, mượn bạn lại hỏi vì cớ gì mà Ngài
giận.
Đức Khổng Tử nói: “Ngày trước ông Thuấn phụng sự cha là Cổ Tẩu,
lúc cha sai khiến gì, thì ở luôn bên cạnh; lúc cha giận dữ muốn giết thì lánh
xa; cha đánh bằng roi vọt thì cam chịu; đánh bằng gậy gộc thì chạy trốn. Thế
cho nên ông Cổ Tẩu không mang tiếng là bất từ. Nay Sâm thờ cha liều mình để chiều
cơn giận đến nỗi ngất đi. Giá như cha đánh quá tay mà chết mất, thì có phải là
làm cho cha mắc tội
107
không? Tội bất hiếu còn gì to hơn nữa.”
Tăng Sâm nghe lại chuyện, biết là lầm lỗi, đến tạ tội đức Khổng
Tử.
Thuyết Uyển
GIẢI NGHĨA
Thuyết Uyển: bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi
chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
Tăng Sâm: tên thật của Tăng Tử (505 TCN - 435 TCN), tự Tử Dư,
người Nam Vũ thành, nước Lỗ (nay là huyện Bình Ấp, tỉnh Sơn Đông), là học trò
xuất sắc của Khổng Tử; Tăng Sâm nhỏ hơn Khổng Tử 46 tuổi. (Xin xem thêm Tăng Tử
ở Phụ Lục C).
Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
Cổ Tẩu: cha vua Thuấn.
Thuấn: xin xem Thuấn ở Phụ Lục C.
Bất từ: không có lòng thương yêu con. (2)
LỜI BÀN
Người làm con có hiếu thì dẫu vì cha mà phải hy sinh tính mạng
cũng không có gì là quá tạm. Song, liều mình mà cứu cha mẹ trong khi nguy cấp
là chí hiếu, thì để cha mẹ nhân cơn giận dữ đánh đập, lỡ hại đến tính mạng, thì
chẳng những là bất hiếu mà còn mang tiếng là hãm cha mẹ vào tiếng bất từ nữa.
Ông Sâm rất hiếu nhưng chưa phải cách, Ông Thuấn cũng hiếu nhưng biết phải
trái. Kẻ làm con, khi thấy cha mẹ làm trái còn có chức trách phải liệu đường trốn
tránh hay ủy khúc can ngăn mà vẫn không mắc tiếng bất hiếu.
40. ÔNG QUAN THANH BẠCH
Dương Chấn được bổ đi làm thái thú quận Đông Lai. Lúc đi phó
nhậm qua đất Xương Ấp, quan huyện ở đấy là Vương Mật, trước được nhờ ông đề bạt
cho, vào yến kiến. Rồi đợi đêm khuya, đem vàng đến lễ.
Dương Chấn bảo: “Trước tôi biết ông là người khá, mới cử ông
lên, thế mà ông vẫn chưa biết bụng tôi, còn đem vàng tới cho tôi ư.”
Vương Mật cố nài, thưa rằng: “Xin ngài cứ nhận cho, bây giờ
đêm khuya không ai biết.”
Dương Chấn nói: “Trời biết, đất biết, ông biết, tôi biết, sao
lại bảo là không ai biết.” Vương Mật nghe nói, xấu hổ, lùi ra.
Dương Chấn thật là một ông quan thanh liêm, chỉ chăm việc dân
việc nước, không tham nhũng, không làm giàu cho mình, ông thường nói: “Làm quan
mà để được cái tiếng thanh bạch cho con cháu, chẳng quý hơn tiền của ruộng
nương lại cho chúng ư?”
Hậu Hán Thư
GIẢI NGHĨA
Hậu Hán Thư: là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của
Trung Quốc do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử
và văn bản trước đó làm nguồn thông tin. Nó bao quát giai đoạn lịch sử Đông Hán
từ năm 25 đến năm 220. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem
thêm Hậu Hán Thư trong Phụ Lục D).
LỜI BÀN
Làm quan như ông Dương Chấn, đối với người mình đã đề bạt,
không cần ơn, đối với người dân mình cai trị không ăn lễ lúc đêm khuya, tấm
lòng cũng rõ rệt như lúc thanh thiên bạch nhật, chẳng cũng là một ông quan
thanh liêm, làm gương cho bọn quan gian tham, lại nhũng muôn đời ư!
Làm quan mà vơ vét cho nhiều, chính mình có chắc đâu sẽ giữ
được, huống chi còn
108
mong để lại cho con cháu. Như thế, để lại cho chúng cái tiếng
thanh bạch, thơm tho muôn thuở, chả hơn là cái của phi nghĩa, chỉ tổ làm cho
chúng kiêu sa, dâm dật, rồi đi đến bại vong ư!
Reply With Quote
07-08-2011 10:22 PM #23 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
41. KHÔNG NHẬN CÁ
Công Nghi Hưu làm tướng nước Lỗ, tính hay thích ăn cá. Một
hôm có người đem cá biếu, ông lại không nhận. Em ông lấy làm lạ hỏi: “Anh sở
thích ăn cá, người ta đem cá cho, sao anh lại không nhận?”
Công Nghi Hưu nói: Người ta đem cá cho chắc có ý cầu ta việc
gì. Nếu ta nhận, tất ta phải giúp việc người. Giúp việc người, lỡ làm trái phép
thì đến mất quan. Mà mất quan, thì chẳng nhưng không có cá biếu, mà đến cá mua
lấy cũng không có nữa. Cho nên ta không nhận cá, chính là ta muốn được có cá ăn
lâu dài mãi mãi đó.
Ông Lão Tử xưa có câu rằng: Để thân mình lại sau, thế mà thân
mình đứng trước; gác thân mình ra ngoài, thế mà thân mình vẫn còn”. Thế chẳng
phải là bởi mình không có lòng riêng mà được thoả lòng riêng của mình ư?
Hàn Thi Ngoại Truyện
GIẢI NGHĨA
Hàn Thi Ngoại Truyện: là bộ sách chép những câu nói đời xưa,
dưới mỗi bài có những chứng dẫn mấy câu thơ của Hàn Anh làm. Hàn Anh là người đời
nhà Hán làm bác sĩ đời vua Văn Ðế lấy những ý trong thơ của người ta mà làm Nội,
Ngoại truyện gọi là Hàn Thi, bây giờ chỉ còn ngoại truyện mà thôi.
Công Nghi Hưu: làm tướng cho Mục Công nước Lỗ đời Chiến Quốc.
Ông là người tính khí điềm đạm, công minh giữ phép, không cùng dân tranh lợi.
Lão Tử: xem Lão Tử trong Phụ Lục C.
Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt
mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
LỜI BÀN
Làm quan như Công Nghi Hưu thật là thanh liêm. Dù đến con cá
(trong sách không nói rõ cá gì), là vật nhỏ mọn mà ông cũng còn cân nhắc không
chịu nhận. Ông hiểu cái lẽ rằng: Người ta vị mình mà chiều mình, chỉ được có 1
thời, sao cho bằng chính mình trọng lấy mình, mới là kế lâu dài mãi mãi. Thiên
hạ chưa lo đến mà mình đã lo trước cho thiên hạ; thiên hạ đã vui rồi, mà mình mới
vui sau thiên hạ, thế là mình gác thân mình ra ngoài để thân mình lại sau, mà
không có điều gì riêng tư vậy. Khi thân mình lại được trước, lại vẫn còn, thì
lòng riêng gì của mình mà không thoả. Nếu làm quan mà chỉ chăm chăm hại người để
cầu lợi riêng cho mình, thì người còn, bụng chết tự cho là sướng, mà kỳ thật có
gì sung sướng đâu?
42. CỦA BÁU
109
Nước Tống có người được hòn ngọc, đem biếu quan Tư thành là Tử
Hãn. Tử Hãn không nhận. Người biếu ngọc thưa rằng:
"Ngọc này tôi đã đem cho thợ ngọc xem, quả là một thứ ngọc
rất báu, mới dám đem dâng quan lớn, xin quan lớn nhận cho tôi được vui
lòng."
Tử Hãn nói: "Người cho ngọc là của báu, ta cho tính
không tham là của báu. Ngươi đem ngọc cho ta, nếu ta nhận, thì hai bên cùng mất
cả của báu. Âu là ngươi cứ đem về. Ai giữ lấy của báu của người ấy, như thế của
báu của hai người đều còn cả thì chẳng là hơn ư!"
Người biếu ngọc, cúi đầu thưa: "Chúng tôi là thường dân
mà lại có ngọc này, chỉ sợ bị trộm cướp mà có khi hại đến thân."
Tử Hãn thấy thế, lưu người ấy lại, gọi thợ ngọc đến giũa ngọc,
bán được tiền rồi, bèn đưa cho người ấy để làm giàu.
Tả Truyện
GIẢI NGHĨA
Tả Truyện: sách của Tả Khưu Minh nhà Chu làm, kể những sự về
lịch sử thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tả Truyện ở Phụ Lục D).
Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất,
ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
Tả Khưu Minh: Quan Thái Sư nước Lỗ theo chí của Khổng Tử mà
làm ra chuyện kinh Xuân Thu gọi là Tả Thị Xuân Thu cho nên người ta thường xưng
Khổng Tử là Tố Vương, Khưu Minh là Tố Thần.
Tư thành: quan coi thành. (2)
LỜI BÀN
Đã là người, ai cũng có hiếu thượng, cái hiếu thượng ấy tức là
của báu của mình. Nhưng hiếu thượng, không ai giống ai. Người kiến thức thô bỉ,
thì hiếu thượng thô bỉ, người kiến thức cao minh, thì hiếu thượng cao minh. Kẻ
dâng ngọc, chỉ biết ngọc là báu, nhưng người không nhận ngọc, lại cho thanh
liêm mới là báu. Làm quan mà ai cũng có tính nhất quyết không nhận lễ vật của
dân như Tử Hãn, lại có trí hiểu rõ được nguyện vọng của dân như Tử Hãn, có bụng
che chở gây dựng cho dân như Tử Hãn nói trong truyện này, thì dân nào chẳng
kính, chẳng trọng, chẳng yêu quan như cha mẹ, sợ quan như thần minh!
43. BIẾT RÕ CHỮ "NGHĨA"
Hoa Hâm chạy loạn, cùng đi với một bọn sáu bảy người. Giữa đường
gặp một người lại cũng chạy loạn, đến kêu nài, xin nhập bọn. Chúng lấy làm ái
ngại, thuận cho. Một mình Hoa Hâm nói: "Không nên. Ðang bước nguy hiểm;
sinh, tử, họa, phúc có nhau, ta đi bấy nhiêu người cũng như một người vậy. Bây
giờ, vô cớ nhận một người lạ, lỡ khi xảy ra việc gì, thì có bỏ được người ta
không?"
Chúng bất nhẫn, cố nói với Hoa Hâm cho người kia cùng đi. Hoa
Hâm bằng lòng. Người kia đi được một quãng đường, chẳng may sa chân ngã xuống
giếng. Cả bọn muốn bỏ mặc, để đi cho rảnh thân. Một mình Hoa Hâm nói:
"Không nên. Người ta cùng đi với mình là người bọn mình. Người ta gặp sự
chẳng may như vậy, mà mình bỏ người ta sao cho đành."
Nói rồi, bảo bấy nhiêu người cùng ở lại vớt người kia lên.
Sau cứu mãi không được, Hoa Hâm lại bảo phải ở lại mai táng chu tất rồi mới đi.
GIẢI NGHĨA
Hoa Hâm: Người cuối đời nhà Ðông Hán, học giỏi, làm quan đến
chức Thượng thư lệnh.
Chúng: Nhiều, đây chỉ bọn người cùng đi với Hoa Hâm. (2)
110
Bất nhẫn: Không nỡ, không đành để như thế. (2)
LỜI BÀN
Vô cớ cho một người lạ nhập bọn, nghĩa cũng không nên, một là
e xẩy ra sự gì hại đến thân mình, hai là sợ không được thủy chung với người ta
- Ðã nhận người ta đi với mình một bọn, giữa đường người ta gặp sự chẳng may mà
bỏ mặc người ta, nghĩa lại càng không nên lắm, vì như thế là bạc ác bất nhân,
chỉ biết nhau trong lúc vô sự, đến khi nguy hiểm rồi lại bỏ nhau. Biết được cái
đạo không nên nhận và cái đạo đã nhận như Hoa Hâm đây mới thực là người hiểu rõ
chữ "Nghĩa" tức là hiểu việc nên làm thế nào mới là phải vậy.
44. TRI KỶ
Bảo Thúc chết, Quản Trọng thương tiếc, khóc như mưa, ướt đầm
cả vạt áo.
Có người hỏi: "Ông với Bảo Thúc không phải là họ hàng
thân thích gì, mà sao ông thương khóc quá như vậy?"
Quản Trọng nói: "Ngươi không rõ, để ta nói cho mà nghe.
Ta lúc nhỏ khốn khổ, thường buôn chung với Bảo Thúc, lúc chia lãi, bao giờ ta
cũng lấy phần hơn, mà Bảo Thúc không cho ta là tham, biết ta gặp cảnh quẫn bách
bất đắc dĩ phải lấy thế. Ta ở chỗ chợ búa thường bị lắm kẻ nạt dọa, Bảo Thúc
không cho ta là hèn nhát, biết ta có lượng bao dung. Ta bàn việc với Bảo Thúc,
nhiều khi việc hỏng, Bảo Thúc không cho ta là ngu, biết có lúc may, lúc không
may, cho nên công việc thành hay bại. Ta ba lần ra làm quan, bao lần bị bãi, Bảo
Thúc không cho ta là bất tiếu biết ta chưa gặp thời, chưa tìm được vua giỏi. Ta
ra trận ba lần, đánh thua cả ba, Bảo Thúc không cho ta là bất tài, biết ta còn
có mẹ già phải phụng dưỡng.
Ta nhẫn nhục thờ vua Hoàn Công, Bảo Thúc không cho ta là vô sỉ,
biết ta không giữ tiểu tiết, có chí làm ích lợi cho cả thiên hạ... Sinh ra ta
là cha mẹ, biết ta là Bảo Thúc. Mà đối với người biết mình, mình đem cả tính mệnh
ra hiến còn chưa cho là quá, huống chi thương khóc thế này đã thấm vào
đâu!"
Thuyết Uyển
GIẢI NGHĨA
Thuyết Uyển: Bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi
chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
Bảo Thúc: Tức Bảo Thúc Nha thường còn gọi là Bảo Tứ, người giỏi
nước Tề, tiến Quản Trọng cho Hoàn Công dùng.
Hoàn Công: vua nước Tề, đứng đầu Ngũ Bá thời Xuân Thu. (Xin
xem thêm Tề Hoàn Công ở Phụ Lục C).
Quản Trọng: Tên là Di Ngô, người nước Tề, làm tướng giúp Hoàn
Công giỏi có tiếng. (Xin xem thêm Quản Trọng ở Phụ Lục C).
Bất tiếu: Người không ra gì. (2)
LỜI BÀN
Khó thật! Ở đời mình giao thiệp với nhiều người, bè bạn tưởng
vô số, nhưng hồ dễ đã được mấy người thực gọi là tri kỷ. Thế nào là tri kỷ? Tri
kỷ là người biết mình, nghĩa là đồng thanh, đồng khí, đồng chí, đồng tâm với
mình, chơi với mình rất thân thiết, bao bọc che chở cho mình, lúc sống cùng hưởng,
họa cùng đau, lúc chết, tưởng có chết với nhau cũng không hối. Quí thật! Người
tri kỷ! cho nên cổ nhân có câu nói: "Ðắc nhất tri kỷ, khả dĩ bất hận"
nghĩa là ở đời có được một người tri kỷ cũng không còn ân hận gì nữa; lúc sống,
có được một người biết mình, thì mình chết cũng không lấy làm uổng đời.
45. CẢM TÌNH
Có một người nước Yên lúc sinh, thì sinh ở nước Yên; lúc lớn
lên, thì sang ở nước
111
Sở; lúc già lại trở về cố quốc. Khi đi ngang qua nước Tấn (gần
nước Yên), bạn cùng đi đường, chỉ vào cái thành mà nói dối anh ta: "Ðây là
thành nước Yên". Anh ta buồn rầu, khác hẳn sắc mặt. - Chỉ vào nền xã, nói:
"Ðây là nền xã làng anh". Anh ta ngậm ngùi than thở. - Chỉ vào cái
nhà, nói: "Ðây là nhà của ông cha anh". Anh ta rũ rượi rơm rớm nước mắt.
- Chỉ vào cái gò, nói: "Ðây là mồ mả ông cha anh". Anh ta òa lên
khóc.
Bọn cùng đi, ai nấy phì cười, nói: "Chúng tôi nói đùa đấy.
Ðây mới là nước Tấn, chưa phải là nước Yên". Anh ta nghe nói lấy làm bẽn lẽn.
Kịp khi về đến nước Yên, anh ta trông thấy thật là thành, là
xã nước Yên, thật là nhà cửa mồ mả của ông cha, thì lòng cảm thương lại hờ hững
không còn được như trước nữa.
Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của
Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư
Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Yên: Một nước mạnh trong bảy nước thời Chiến Quốc, tức là Phụng
Thiên (Liêu Ninh), Trực Lệ (Hà Bắc) và một phần phía bắc nước Triều Tiên (Cao
Ly bây giờ). Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc,
Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
Tấn: Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ
Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực
Lệ bây giờ.
LỜI BÀN
Thường con người ta, ai cũng sẵn mối cảm tình, khi gặp thời gặp
cảnh xúc động đến thì mối cảm tình ấy tất chứa chan, đầy dẫy hiện ra ngoài. Tuy
vậy, mối cảm tình đã dùng lầm, thì sau nầy không còn được như trước. Một người
đã đem bụng trung thành thờ kẻ vô đạo, một người đã để lòng ân ái thương gái bất
trinh, dù về sau, gặp được bậc anh quân hay người thục nữ, thì mối cảm tình
cũng không còn được đằm thắm như xưa. Chẳng khác nào như người nước Yên nầy, đã
đem hết nước mắt khóc chỗ giả dối mà không biết, đến khi gặp sự thực, thì lại
hình như cạn hết nước mắt rồi. Cho nên đối với tính tình, người ta có biết, lấy
học thuật mà di dưỡng, lấy lễ nghĩa mà tiết chế, thì tính tình dùng mới chính
đáng và thuần túy được. Xưa nay thánh hiền hào kiệt đều là người biết lý hội
tính tình cả.
46. VÌ NGHĨA CÔNG, QUÊN THÙ RIÊNG
Ðời nhà Ðường, Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật cùng làm phó tướng
của An Tử Thuận. Tính hai người vốn không ưa nhau; nhiều khi, tuy cùng đi với
nhau một xe, ngồi với nhau một tiệc, mà vẫn như cừu địch, không ai đàm đạo với
ai cả.
Sau Tử Nghi được lên làm tướng thay Tử Thuận, Quang Bật sợ Tử
Nghi hại mình, quả cảm đến nói rằng:
"Phần tôi chết cũng cam tâm, nhưng xin rộng lượng đừng hại
đến vợ con tôi là kẻ vô tội."
Tử Nghi thấy nói chạy ngay lại, cầm tay Quang Bật thưa rằng:
"Tôi đâu dám đem lòng oán hận riêng mà nỡ hại ông. Hiện
nay trong nước loạn lạc, vua tôi lo và nhục, không ông thì không ai gánh vác nổi
việc thiên hạ."
Nói xong nước mắt ràn rụa, rồi lại lấy những điều trung nghĩa
khuyên răn, và lập tức cất Quang Bật lên làm chức Tiết độ sứ.
Từ đó hai người tuyệt nhiên không chút nào ghen ghét, ngờ vực
nhau, chỉ cùng nhau một lòng đánh giặc, yêu dân, giúp vua trị nước.
112
GIẢI NGHĨA
Ðường: Một nhà thống trị nước Tàu 618-901 sau CN.
LỜI BÀN
Thù riêng cá nhân là việc nhỏ mọn, nghĩa công đối với cả nước
là việc rất trọng. Biết quên thù riêng để làm nghĩa công như Quách Tử Nghi, Lý
Quang Bật, thực là đáng khen vậy. Nghĩ đến thân, đến nhà trước, đến quốc gia
sau cũng là nghĩa, song nghĩa hẹp mà gọi là tư. Nghĩ đến quốc gia trước, đến
thân, đến nhà sau cùng là nghĩa song nghĩa rộng mà gọi là công. Quốc gia hay,
hay dở, một kẻ bình dân cũng có trách nhiệm, huống chi là người gánh vác được
việc quốc gia như Tử Nghi và Quang Bật. Ôi! Nước là cái thành để giữ thân, giữ
nhà, không biết trọng nước tức là khinh thân, khinh nhà vậy. Tiếc thay cho những
kẻ chức trọng, quyền cao, đối với thân, với nhà, thì việc nhỏ mọn cũng lấy làm
lo lắng quan tâm, mà đối quốc gia thì việc dù to lớn đến đâu cũng xem thường, xem
khinh, chỉ thù hằn nhau, khuynh loát nhau, không biết đồng tâm hiệp lực lo liệu
việc dân việc nước, thật là lầm to vậy.
47. DONG NGƯỜI ĐƯỢC BÁO
Vua Trang Vương nước Sở cho các quan uống rượu. Trời đã tối,
đang lúc rượu say, đèn nến bỗng gió tắt cả. Trong lúc ấy, có một viên quan thừa
cơ kéo áo cung nữ. Người cung nữ nắm lấy, giật đứt giải mũ, rồi tâu với vua rằng:
"Có kẻ kéo áo ghẹo thiếp. Thiếp giật được giải mũ. Xin
cho thắp đèn ngay để khám xem ai đứt giải mũ, thì chính là kẻ ghẹo thiếp..."
Vua gạt đi nói:
"Thôi! Không làm gì! cho người ta uống rượu, để người ta
say, quên cả lễ phép, lại nỡ nào vì câu chuyện đàn bà mà làm sỉ nhục người
ta!"
Rồi lập tức ra lệnh rằng: "Ai uống rượu với quả nhân hôm
nay mà không say đến bứt đứt giải mũ là chưa được vui".
Các quan theo lệnh, đều dứt giải mũ cả. Nên suốt tiệc hôm ấy,
được vui vầy ổn thỏa. Hai năm sau nước Sở đánh nhau với nước Tấn. Ðánh luôn năm
trận, mà trận nào cũng thấy một viên quan võ, liều sống, liều chết xông ra trước
và đánh rất hăng, làm cho quân Tấn phải lùi. Vì thế mà quân Sở được. Trang
Vương lấy làm lạ cho đòi viên quan ấy lại hỏi:
"Quả nhân đãi nhà người cũng như mọi người khác, cớ sao
nhà ngươi lại hết lòng giúp quả nhân khác người như vậy?"
Viên quan thưa rằng:
"Thần rắp tâm muốn đem tính mệnh để hiến nhà vua đã lâu.
Mãi đến bây giờ mới gặp dịp báo đền nghĩa xưa, thực là may cho thần lắm... Thần
là Tưởng Hùng, chính là người trước bị đứt giải mũ mà nhà vua không nỡ làm tội
đấy".
Ðào Ngột (Sở Sử)
GIẢI NGHĨA
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ
Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
Tấn: Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ
Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực
Lệ bây giờ.
Dong (dung) người được báo: Rộng lượng tha lỗi cho người, được
người tìm cách báo đền. (2)
Quả nhân: Tiếng vua tự xưng với thần hạ và lấy ý khiêm tốn là
người ít đức. (2)
LỜI BÀN
Ông vua không làm tội người công thần ghẹo cung nữ thực là có
độ lượng, bao dung được lỗi của người. Người ghẹo cung nữ không quên cái ơn đã
chịu, tìm cách để báo đáp, thực là có nghĩa, tỏ được cái bụng trung thành với
người gia ơn. Có vua ấy
113
tất có tôi ấy, vua tôi như thế thì nước đời nào mất được.
48. NÓI THÍ DỤ
Có người bảo vua nước Lương rằng: "Huệ Tử nói việc gì
cũng hay thí dụ. Nếu nhà vua không cho thí dụ, thì Huệ Tử chắc không nói gì được
nữa".
Vua bảo: "Ừ, để rồi ta xem".
Hôm sau, vua đến thăm Huệ Tử, bảo rằng:
"Xin tiên sinh nói gì cứ nói thẳng đừng thí dụ nữa".
Huệ Tử nói: "Nay có một người ở đây không biết nỏ là cái
gì, mới hỏi tình trạng cái nỏ thế nào. Nếu tôi đáp rằng: Hình trạng cái nỏ giống
như cái nỏ, thì người ấy có hiểu được không?"
Vua nói: "Hiểu làm gì được".
"Thế nếu tôi bảo người ấy: Hình trạng cái nỏ giống như
cái cung có cán, có lẫy, thì người ấy có biết được không?"
Vua nói: "Biết được".
Huệ Tử nói: "Ôi! Khi nói với ai là đem cái người ta đã
biết làm thí dụ với cái người ta chưa biết, để khiến người ta biết. Nay nhà vua
bảo tôi đừng thí dụ nữa thì tôi không sao nói được."
Huệ Tử
GIẢI NGHĨA
Huệ Tử: tức là Huệ Thi người thời Chiến Quốc, có tài khéo
nói, là bạn thân của Trang Tử. Huệ Tử cũng là tên một thiên sách của Huệ Thi.
Lương: một nước chư hầu mạnh đời Chiến Quốc, tức là nước Ngụy
ở vào địa phận Hà Nam và Sơn Tây bây giờ.
Tiên sinh: Bực có tuổi, có tài, đạo đức, đáng dạy được mình.
Hay dùng chỉ thầy dạy học hay người đáng quý. (2)
LỜI BÀN
Cái cung, cái nỏ khác nhau nhiều, nhưng lấy cái cung nói với
người đã biết cung để khiến cho biết được cái nỏ, thì may người ấy ý hội cũng
được ít nhiều. Phàm dạy bảo người ta điều gì, là cốt ý làm cho người ta hiểu được
điều ấy, mà muốn cho người ta dễ hiểu, không gì bằng thí dụ, nghĩa là nhân cái
người ta đã biết mà đưa dạy vào cái người ta chưa biết. Cái phương pháp giáo dục
tối tân bây giờ "qui nạp" hay "phu diễn" cũng lấy thí dụ
làm cốt. Người ta đã nói: "Một quyển sách không có thí dụ chỉ là một bộ
xương mà thôi". Câu Huệ Tử nói: "Ðem cái người ta đã biết làm thí dụ
với cái người ta chưa biết để khiến người ta biết", thực là ám hợp với cái
lối học tối tân đời nay.
49. CON CÚ MÈO VÀ CON CHIM GÁY
Con cú mèo gặp con chim gáy.
Chim gáy hỏi: “Bác sắp đi đâu đấy?”
Cú mèo nói: “Tôi sắp sang ở bên phương đông” “Tại làm sao lại
đi như thế”
“Ở đây người ta nghe tôi kêu người ta ghét, cho nên tôi phải
đi chỗ khác”
Chim gáy nói: “Bác có thế nào đổi tiếng kêu đi mới được. Chứ
không đổi tiếng kêu, thì sang phương đông, người ta nghe tiếng, cũng lại ghét
bác thôi, vì nhân tình đâu mà chả thế. Cứ như ý tôi, thì không gì bằng bác phải
rụt cổ, thu cánh suốt đời không kêu nữa là hơn”.
GIẢI NGHĨA
114
Cú mèo: loài chim dữ, mắt như mắt mèo đêm đi bắt các chim nhỏ
và chuột để ăn. Chim gáy: chính chữ là cưu, loài chim gáy, đầu nhỏ đuôi ngắn mà
cánh dài
Reply With Quote
07-08-2011 10:23 PM #24 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
50. CON CÒ VÀ CON TRAI
Nước Triệu toan đánh nước Yên, Tô Tần, vì nước Yên, sang nói
với vua nước Triệu là Huệ Vương rằng:
“Vừa rồi tôi đi qua bên bờ sông Dịch Thủy, tôi trông thấy con
trai đang há miệng phơi mình trên bãi, có con cò đâu đến, mổ ngay vào thịt
trai. Trai liền ngậm miệng, cắp chặt lấy mỏ cò.
Cò nói: “Hôm nay không mưa, ngày mai không mưa, thế nào trai
cũng phải chết”. Trai nói: “Hôm nay không rút được mỏ, ngày mai không rút được
mỏ, thế nào cò cũng phải chết”.
Hai bên găng nhau, chẳng ai chịu ai. Bỗng đâu có người đánh
cá đi qua, trông thấy thộp được cả trai lẫn cò...
Nay mà nước Triệu đem quân sang đánh nước Yên, nước Yên tất
phải chống lại. Hai bên đánh nhau lâu, hại người tốn của, chắc là suy yếu cả.
Tôi e nước Tần thừa cơ ấy, đem quân chụp cả hai nước như người đánh cá chụp cả
trai lẫn cò, thì lúc bấy giờ hối cũng không kịp. Dám xin vua thử nghĩ kỹ lại
xem”.
Huệ Vương cho là nói phải, bèn đình việc đánh Yên.
Chiến Quốc Sách
GIẢI NGHĨA
Chiến Quốc sách: bộ sách này còn được gọi là Trường Đoản Như
của Lưu Hướng đời Hán làm ghi chép những việc về đời Chiến Quốc.
Tô Tần: người thời Chiến Quốc, là một nhà du thuyết giỏi, có
công đi liên hợp được sáu nước để chống lại nước Tần. Mạnh Thường Quân thấy Tô
Tần đến, đột ngột đem chuyện quỷ thần hỏi, cố ý làm cho khó khăn Tôn Tần không
nói ra làm sao được nữa. Không ngờ Tô Tần ứng biến lanh, lấy ngay chuyện quỷ thần
làm thí dụ mà nói đến mình. (Xin xem thêm Tô Tần ở Phụ Lục C).
Mạnh Thường Quân: con vua nước Tề thời Chiến Quốc, họ Điền
tên Văn làm Tướng Quốc nước Tề có tiếng là người hào hiệp, trong nhà lúc nào
cũng tiếp đãi đến vài nghìn người khách.
Triệu: tên một nước lớn thời Chiến Quốc, ở vào phía nam tỉnh
Trực Lệ, phía bắc Tỉnh Sơn Tây bây giờ.
Yên: Một nước mạnh trong bảy nước thời Chiến Quốc, tức là Phụng
Thiên (Liêu Ninh), Trực Lệ (Hà Bắc) và một phần phía bắc nước Triều Tiên (Cao
Ly bây giờ). Dịch Thủy: tên một con sông qua Trực Lệ.
Tần: tên nước mạnh nhất thời Xuân Thu-Chiến Quốc (ở vào tỉnh
Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất
thống thiên hạ.
115
LỜI BÀN
Trai, cò vì găng nhau mà cả hai con cùng bị hại trong tay người
đánh cá. Cái bài: "Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi” này cũng như nhiều
bài trong các sách tây: “Con cò và hai người tranh nhau”, “Con khỉ chia phó mát
cho hai con mèo”...đều có ý khuyên người ta không nên tranh giành chọi lẫn
nhau. Hai nước tranh nhau, thì hao người, tốn của tai hại đã đành. Hai người
tranh nhau thì tất sinh kiện cáo. Mà “vô phúc đáo tụng đình”, thua được chưa biết
thế nào, hãy biết có bao nhiêu thầy kiện, thầy cò, những phường tham nhũng ở giữa
thời cơ dòm dỏ để cầu lợi, rất thiệt hại cho cả hai bên. Vậy ta chẳng nên găng
nhau, chống nhau làm gì. Nhỏ thì tốn tiền. Lớn thì hại nhà, lớn nữa thì hại nước.
Ta phải lấy câu “Dĩ hòa vi quý” mà cư xử nhún nhường nhau là hơn.
Reply With Quote
08-08-2011 08:57 PM #25 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
51. HỒ MƯỢN OAI HỔ
Vua Tuyên Vương làm vua cả nước Sở. Chiêu Hề Tuất chỉ là một
người bầy tôi vua Tuyên Vương. Thế mà người phương Bắc ai nghe thấy nói đến
Chiêu Hề Tuất cũng phải kinh sợ. Vua lấy làm lạ, một hôm hỏi quần thần là vì cớ
làm sao. Không ai trả lời nổi, chỉ có Giang Nhất thưa được rằng:
“Con hổ hay bắt các giống thú để ăn thịt. Một hôm bắt được
con Hồ, Hồ bảo: “Liệu đó! Chớ có động chạm đến ta mà chết ngay bây giờ. Ta là
Trời sai xuống, cầm quyền hết cả bách thú. Ngươi mà ăn thịt ta là ngươi trái mệnh
Trời, hại đến thân ngay lập tức. Không tin để ta đi trước, ngươi theo hầu sau,
xem có con thú nào trông thấy ta mà không sợ hãi, tìm đường bỏ trốn cho mau
không!” Hổ cho là Hồ nói thật bèn theo Hồ đi. Quả nhiên bách thú trông thấy đều
sợ mà chạy cả. Hổ không biết rằng bách thú đều sợ mình mà chạy, cứ tưởng là sợ
Hồ. Nay nhà vua nước mạnh, quân nhiều mà vua giao cả quyền thế cho Chiêu Hề Tuất,
người phương bắc sợ Hề Tuất mà kỳ thực là sợ vua như bách thú sợ hổ vậy.
Chiến Quốc Sách
GIẢI NGHĨA
Chiến Quốc sách: bộ sách này còn được gọi là Trường Đoản Như
của Lưu Hướng đời Hán làm ghi chép những việc về đời Chiến Quốc.
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ
Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
52. MẠNH THƯỜNG QUÂN VÀO NƯỚC TẦN
Mạnh Thường Quân là một nhà nghĩa hiệp nước Tề, muốn sang nước
Tần để du thuyết. Có hàng nghìn người can ngăn mà không được. Sau Tô Tần đến
can, Mạnh Thường Quân bảo rằng:
“Việc người thì ta đây không còn sót gì nữa, chỉ có việc quỷ
thần là ta chưa được rõ
116
mà thôi.”
Tô Tần nói: Ấy chính tôi lại đây không phải là để nói việc
người, tôi cốt định đem việc quỷ thần nói để ông nghe.
Mạnh Thường Quân nói: Ừ nói để ta nghe.
Tô Tần nói: Vừa rồi tôi lại đây, đi ngang qua con sông, tôi
thấy một pho tượng đất nói chuyện với một pho tượng gỗ. Tượng gỗ bảo tượng đất:
Ngươi là đất nặn thành hình, đến mùa mưa, nước sông lên ngập lụt cả thì ngươi bở
tan ra mất. Tượng đất nói: Ta có tan ra nữa, ta vốn là đất, thì đất lại hoàn đất
mà thôi. Chớ như ngươi là gỗ tạc thành hình, nước tràn lên thì chưa biết ngươi
trôi giạt vào đâu mà rồi ra thế nào...Nay nước Tần là nước hiểm trở, vua Tần là
vua bạo ngược, nếu ông vào đấy thì chửa biết có ra thoát được không.
Mạnh Thường Quân nghe nói, bèn thôi không sang nước Tần nữa.
GIẢI NGHĨA
Mạnh Thường Quân: con vua nước Tề thời Chiến Quốc, họ Điền
tên Văn làm Tướng Quốc nước Tề có tiếng là người hào hiệp, trong nhà lúc nào
cũng tiếp đãi đến vài nghìn người khách.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa
phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Nghĩa hiệp: người thẳng tính, thích điều phải, hay giúp người
hèn yếu, chống lại kẻ cường quyền.
Tần: tên nước mạnh nhất thời Xuân Thu-Chiến Quốc (ở vào tỉnh
Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất
thống thiên hạ. Du thuyết: nhà ngôn luận giỏi thời Chiến Quốc thường dùng lời
biện bác mà làm cho người ta xiêu lòng phải nghe.
Tô Tần: người thời Chiến Quốc, là một nhà du thuyết giỏi, có
công đi liên hợp được sáu nước để chống lại nước Tần. Mạnh Thường Quân thấy Tô
Tần đến, đột ngột đem chuyện quỷ thần hỏi, cố ý làm cho khó khăn Tôn Tần không
nói ra làm sao được nữa. Không ngờ Tô Tần ứng biến lanh, lấy ngay chuyện quỷ thần
làm thí dụ mà nói đến mình. (Xin xem thêm Tô Tần ở Phụ Lục C).
53. THẬP BÌ NÓI CHUYỆN VỚI HUỆ VƯƠNG
Vua Huệ Vương nước Ngụy hỏi Thập Bì rằng: Ngươi nghe người ta
cho quả nhân là người thế nào?
Thập Bì thưa: Thần nghe người ta cho nhà vua là người nhân từ
và hay gia ơn lắm. Vua vui mừng hớn hở nói rằng: Như thế thì cái công đức của
quả nhân được đến thế nào?
Thập Bì nói: Cái công đức ấy rồi đến mất nước.
Vua ngạc nhiên hỏi: Nhân từ và hay gia ơn là làm việc thiện
mà làm việc thiện đến nỗi mất nước là nghĩa thế nào?
Thập Bì thưa: Vua mà nhân từ thì bất nhẫn trừng phạt, vua hay
gia ơn thì chỉ thích ban thưởng. Tính đã bất nhẫn thì kẻ có tội cũng không trị;
tính hay ban ơn thì kẻ vô công cũng được thưởng. Đến kẻ có tội không phải phạt,
kẻ vô công cũng được thưởng, thì mất nước cũng không có gì là lạ.
Hàn Phi Tử
GIẢI NGHĨA
Hàn Phi Tử: công tử nước Hàn, học trò Tuân Tử chuyên về bình
danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau
bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà
Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ
Lục C).
117
Ngụy: tên một nước về thời Chiến Quốc ở về phía bắc tỉnh Hà
Nam và phía tây nam tỉnh Sơn Tây ngày nay.
54. THAM LỢI TRƯỚC MẮT, QUÊN HẠI SAU LƯNG
Vua nước Ngô muốn đem quân đi đánh nước Kinh. Đã nhiều người
ngăn cản, vua nhất định không nghe. Sau lại hạ lệnh rằng: “Ai can ta đánh nước
Kinh thì phải xử tử.”
Có một viên quan trẻ tuổi muốn can ngăn nhà vua mà không giám
nói, luôn ba ngày, cứ sáng sớm cầm cung, tên đến đứng vườn sau nhà vua, sương
xuống ướt đầm cả áo.
Hôm thứ ba, vua gặp mới hỏi rằng:
“Ngươi đến đây làm gì mà để sương xuống ướt đầm cả áo như thế?”
Viên quan thưa rằng:
“Trong vườn có một cây cổ thụ. Chót vót trên ngọn cây có con
ve sầu hút gió uống sương, rả rích kêu cả ngày, tưởng đã được yên thân lắm. Biết
đâu đằng sau có con bọ ngựa, đang giơ hai càng chực bắt. Chính con bọ ngựa muốn
bắt con ve sầu lại biết đâu đằng sau có con chim sẻ nghển cổ chực mổ. Chính con
chim sẻ muốn bắt con bọ ngựa lại biết đâu dưới gốc cây có tôi cầm cung tên chực
bắn. Chính tôi đây muốn bắn con chim sẻ mà không biết sương xuống ướt cả
áo...Như thế đều là chỉ vì cái lợi trước mắt mà quên hẳn cái hại ngay say lưng
vậy”.
Vua nghe nói tỉnh ngộ bèn thôi không đánh nước Kinh nữa.
Thanh Lê Tử
GIẢI NGHĨA
Thanh Lê Tử: tức là Lưu Hướng, người nhà Hán làm quan Gián
Nghị đại phu, giỏi về văn chương lại kiêm cả kinh thuật và thiên văn.
Ngô: Tên nước thời Xuân Thu bây giờ vào địa phận phía Nam
sông Hoài, sông Tử cho đến tỉnh Triết Giang bây giờ.
Kinh: cũng là tên nước Sở, một nước lớn thời Xuân Thu ở vào
vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ. (Xin xem thêm nước Sở ở Phụ Lục A).
55. TRƯỚC KHI ĐÁNH NGƯỜI PHẢI BIẾT GIỮ MÌNH
Vua Công nước Tấn đem quân sang đánh nước Vệ. Giữa đường gặp
một ông lão đang bừa ruộng, cứ ngẩng mặt lên trời cười khanh khách mãi. Văn
Công cho đòi lại, hỏi: “Ngươi cười gì thế?”
Ông lão trả lời: “Tôi cười người láng giềng nhà tôi. Anh ta
đưa vợ đi chơi nhà bà con. Giữa đường gặp người con gái hái dâu, anh ta thích
quá lén vợ rẽ xuống ruộng dâu, nói chuyện với người con gái. Một chốc ngoảnh
lên xem vợ đi đến đâu, thì thấy một chàng đang vẫy vợ anh ta đi. Ấy câu chuyện
chỉ có thế, tôi nghĩ mà không nhịn cười được”.
Văn Công nghe nói tự nhiên tỉnh ngộ, kéo quân về. Về chưa đến
nơi, thì đã thấy báo có giặc ở ngoài vào xâm phạm trên mạn bắc trong nước.
Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của
Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư
Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Tấn: Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ
Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực
Lệ bây giờ.
Văn Công: vua giỏi nước chư hầu thời Xuân Thu, đứng vào bậc
ngũ bá. (Xin xem
118
thêm Văn Công ở Phụ Lục C).
Vệ: Tên một nước thời Xuân Thu ở vào vùng tỉnh Trực Lệ và Hà
Nam bây giờ.
56. KHÔNG NÊN SÁT PHẠT LẪN NHAU
Văn Quân đất Lỗ Dương sắp đem quân sang đánh nước Trịnh. Mặc
Tử nghe thấy đến can nói rằng:
Ví như bây giờ trong đất Lỗ Dương này, tỉnh lớn đánh tỉnh nhỏ,
nhà lớn đánh nhà nhỏ giết người lấy của lẫn nhau thì nhà vua nghĩ như thế nào?
Văn Quân nói:
Bao nhiêu người ở Lỗ Dương đều là tôi con của ta cả. Vì tỉnh
lớn đánh tỉnh nhỏ, nhà lớn đánh nhà nhỏ, để cướp lẫn nhau thì ta tất đem trị tội
thật nặng.
Mặc Tử nói:
Bao nhiêu người trong thiên hạ đều là tôi con của trời cũng
như bao nhiêu người trong đất Lỗ Dương là tôi con của nhà vua, nay nhà vua đem
quân đánh Trịnh thì há tránh khỏi được vạ trời hay sao!
Văn Quân nói:
Sao tiên sinh lại ngăn ta đánh Trịnh. Ta muốn đánh Trịnh là
thuận cái chí của trời. Vua nước Trịnh ba đời giết cha, trời đã ra tai, làm mất
mùa ba năm. Nay ta phải giúp trời mà giết Trịnh.
Mặc Tử nói:
Vua nước Trịnh ba đời giết cha, trời đã ra tai, làm mất mùa
ba năm, trời phạt như thế cũng là đủ. Nay nhà vua lại còn đem quân đánh Trịnh
mà nói rằng:”Ta đánh Trịnh là thuận ý trời” thì là nghĩa thế nào? Ví như ngay
đây có một đứa con ngang ngạnh, cha nó đã cầm roi đánh nó, người cha bên láng
giềng lại còn vác gậy ra đánh hôi, bảo rằng:”Ta đánh nó là thuận cái chí của
cha nó”. Nói như thế có nghe được không?
Mặc Tử
GIẢI NGHĨA
Mặc Tử: tên sách của Mặc Địch soạn, chủ nghĩa là kiêm ái yêu
người như yêu mình cũng gần giống chủ nghĩa của đạo Cơ Đốc và đạo Thích Ca.
(Xin xem thêm Mặc Tử ở Phụ Lục C).
Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần
đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
Lỗ Dương: tên một ấp lớn của nước Sở về thời Xuân Thu, tức là
huyện Lỗ Sơn tỉnh Hà Nam bây giờ.
Can: nói để ngăn ai đừng làm việc gì.
LỜI BÀN
Khi mình cậy sức, cậy nhiều, cậy khôn, cậy tài mà hà hiếp kẻ
kém mình, thường mình cứ hay viện lẽ nọ, cớ kia, để như cho mình là phải mà che
mắt thế gian, lấp miệng thiên hạ. Nhưng dù viện lẽ gì cớ gì cũng vẫn không được
chính đáng. Danh bất chính thì ngôn bất thuận. Mình đã rắp tâm đè nén người ta,
tham lấy của người ta, là mình làm điều phi nghĩa rồi, không bao giờ rửa sạch
được cái ô danh nữa. Làm việc bậy mà lấy câu nói phải để tế toái đi có khác gì
lấy vóc gấm phủ ngoài cành khô hay tượng đất mà bảo người ta là thánh thần đấy.
57. DIỀU GỖ
Mặc Tử làm cái diều gỗ, ba năm mới xong. Lúc thả cho bay, được
một hôm thì diều hỏng.
Học trò khen rằng: Thầy làm diều gỗ mà bay được thật là khéo!
Mặc tử nói:
119
Ta làm cái diều ba năm mới xong, diều bay mới được một ngày
đã hỏng, cho là khéo thế nào được. Sao bằng người làm cái xe gỗ chỉ tốn một ít
công không hết một buổi, mà chở được nặng, đi được xa, dùng được lâu năm. Có thế
mới gọi là khéo.
Huệ Tử nghe câu chuyện, bảo:
Mặc Tử nói thế thật là người khéo.
Mặc Tử
GIẢI NGHĨA
Mặc Tử: tên sách của Mặc Địch soạn, chủ nghĩa là kiêm ái yêu
người như yêu mình cũng gần giống chủ nghĩa của đạo Cơ Đốc và đạo Thích Ca.
(Xin xem thêm Mặc Tử ở Phụ Lục C).
Huệ Tử: tức là Huệ Thi người thời Chiến Quốc, có tài khéo
nói, là bạn thân của Trang Tử. Huệ Tử cũng là tên một thiên sách của Huệ Thi.
LỜI BÀN
Diều gỗ mà bay được, ai không chịu là khéo? Nhưng công làm mất
ba năm, dụng chỉ được một ngày, thì cái dụng tưởng như không bổ với cái công.
Cho nên Mặc Tử, vốn là người tiết kiệm, chỉ vụ sự làm ăn thiết thực, không cần
sự văn hoa vô dụng, ý cho một vật gì sở dĩ gọi là khéo, không phải chỉ là việc
làm tinh xảo hơn người, nhưng cốt phải lợi dụng được việc cho người trước. Huệ
Tử khen Mặc Tử là cũng theo một cái lý thuyết ấy. Tuy vậy, xét ra ở đời cái
khéo và cái dùng không cần gì cứ phải đi đôi với nhau. Thường cái khéo, cái đẹp
không cần là hữu dụng hay vô dụng: miếng gỗ, chạm cái tranh vẽ, giọng hát bài
đàn chỉ có cho khéo, không thiết dụng mà thực là có ích cho người lắm.
58. LÁ DÓ
Nước Tống có người lấy ngọc, tỉa làm một cái lá dó ba năm mới
xong. Cái lá làm rất khéo, sống, cuống, cạnh sắc, lông tơ, màu mỡ giống như hệt,
đem trộn với lá dó thật, không ai phân biệt được nữa.
Người ấy đem cái lá dâng vua Tống. Vua khen là khéo, cấp
lương bổng cho.
Liệt Tử nghe thấy chuyện, nói rằng:
Giá bây giờ những cây cối trong khoảng trời đất ba năm mới mọc
được cái lá, thời dễ không có mấy cây có lá nữa.
Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của
Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư
Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất,
ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
LỜI BÀN
Bài này cũng gần một ý như bài trên, nói sự khéo chỉ làm trò
chơi được một lúc, không đáng chuộng bằng sự thực dụng làm lợi cho mọi người được
lâu dài. Song tay người làm ra mà giống được như tạo hóa thì thật là khôn khéo.
Mỹ thuật xưa nay thường lấy sự bắt chước hệt được như hóa công làm mục đích. Liệt
Tử vốn là nhà Lão học, thì lại cho cái cảnh đẹp tự nhiên là đẹp hơn cả, chỉ một
cái cảnh ấy cũng làm cho con người đủ được hưởng thụ vui sướng.
59. CHỮ TÍN
I.Cái đỉnh
Nước Lỗ có một cái đỉnh rất quý. Nước Tề bắt phải đem dâng.
Vua Lỗ tiếc lắm, cho làm một cái đỉnh giả đưa sang.
120
Vua Tề bảo:
Phải có Nhạc Chính Tử đem đỉnh sang nói, thì ta mới tin.
Vua Lỗ cho gọi Nhạc Chính Tử đến, bảo đi.
Nhạc Chính Tử hỏi: Sao không đưa đỉnh thật?
Vua Lỗ nói: Ta quý cái đỉnh ấy lắm.
Nhạc Chính Tử thưa: Nhà vua quý cái đỉnh ấy thế nào thì tôi
quý cái đức “Tín” của tôi như thế.
Sau đó vua Lỗ phải đưa đỉnh thật Nhạc Chính Tử mới chịu đi.
II. Thanh gươm
Quý Trát là con vua nước Ngô đi du lịch các nước. Khi qua nước
Từ vào thăm vua Từ. Vua Từ thấy Quý Trát có thanh gươm báu, muốn xin, mà chưa
dám nói. Quý Trát trong bụng cũng định cho, mà chưa dâng được, vì cuộc du lịch
chưa xong. Khi ở nước Tần về, thì vua Từ đã mất rồi. Quý Trát không biết làm thế
nào, đành phải đem gươm đến treo chỗ gốc cây bên mộ vua Từ, rồi trở về.
Sử Ký
GIẢI NGHĨA
Sử Ký: còn được gọi bằng tên "Sách của ông Thái sử"
là cuốn sử của Tư Mã Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, ghi lại lịch sử
Trung Quốc từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông sống. (Chú thích này được
trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Sử Ký trong Phụ Lục D, Tư Mã Thiên trong
Phụ Lục C).
Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt
mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở
vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Ngô: Tên nước thời Xuân Thu bây giờ vào địa phận phía Nam
sông Hoài, sông Tử cho đến tỉnh Triết Giang bây giờ.
Từ: tức quận Đông Hải ngày nay.
Nhạc Chính Tử: người nước Lỗ thời Xuân Thu học trò giỏi thầy
Tăng Tử.
Quý Trát: con út vua Ngô, một bậc danh nhân thời Xuân Thu.
Tần: tên nước mạnh nhất thời Xuân Thu-Chiến Quốc (ở vào tỉnh
Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất
thống thiên hạ. LỜI BÀN
Nhạc Chính Tử không chịu đem cái đỉnh giả. Quý Trát không chịu
về không cho gươm, đều là những người biết trọng chữ “Tín” cả. Giá không nói là
thật đã quý, mới hứa trong bụng mà cố làm cho được lại quý hơn nữa. Ôi! Xưa nay
chữ tín có giá biết ngần nào! Chữ tín liệt rõ trong ngũ thường, người ở đời
giao thiệp cốt lấy chữ tín làm chủ. Cho nên cổ nhân có những câu như: “Nhân vô
tín bất lập”(Khổng Tử) nghĩa là không có tín thì không đứng được ở đời.
“Tín vi quốc chi bảo”(Tấn Văn Công) nghĩa là tín là cái báu của
cả nước.
60. TỰ LẤY LÀM KHOAN KHOÁI
Đức Khổng Tử đi chơi núi Thái Sơn, gặp ông Vinh Khải Kỳ giao
du ở ngoài đồng, mặc áo cừu thắt lưng dây, tay gảy đàn cầm, vừa đi vừa hát.
Đức Khổng Tử hỏi:
“Tiên sinh” làm thế nào mà thường vui vẻ thế?
Ông Vinh Khải Kỳ nói:
Trời sinh muôn vật, loài người quý nhất, mà ta được làm người,
đó là một điều đáng vui – Trong loài người, đàn ông quý hơn đàn bà, mà ta được
làm đàn ông, đó là hai điều đáng vui – Người ta sinh ra có người đui què, có
người non yểu mà ta hoàn toàn khỏe mạnh nay đã chín mươi tuổi; thế là ba điều
đáng vui...Còn cái nghèo là sự
121
thường của thế gian, cái chết là sự chết của đời người. Ta
nay xử cảnh thường, đợi lúc hết, thì có gì là lo buồn?
Đức Khổng Tử nói:
Phải lắm! Tiên sinh thế là biết cách tự làm cho khoan khoái
mà hưởng sự vui thú ở đời.
Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của
Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư
Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
Thái Sơn: tên một dải núi cao ở tỉnh Sơn Đông.
Reply With Quote
09-08-2011 09:15 PM #26 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
61. NGƯỜI KHÔN SỐNG LÂU
Vua Ai Công nước Lỗ hỏi Đức Khổng Tử:
Người khôn có sống lâu không?
Đức Khổng Tử đáp:
Có. Khôn thì sống lâu, chớ dại thì sống lâu sao được! Người
ta có ba thứ chết, tự mình làm cho mình chết, chớ không phải số mệnh đáng chết
mà chết.
-Ăn uống không có chừng mực, thức ngủ không có điều độ, làm lụng
khó nhọc quá, lười biếng chơi bời quá, người như thế phải chết về bệnh tật.
-Phận làm ngưới dưới mà can phạm người trên, lòng tham muốn
không chứng, tính yêu không chán, người như thế thì chết về hình pháp.
-Mình ngu, mà kình địch khôn, mình yếu, mà khinh bỉ người mạnh,
không biết tự lượng sức mình mà cứ giận dữ làm liều, người như thế chêt vì binh
đao
Ba thứ chết ấy, thực không phải là số mệnh, chỉ tự mình giết
mình mà thôi.
Hàn thi ngoại truyện
GIẢI NGHĨA
Hàn Thi Ngoại Truyện: là bộ sách chép những câu nói đời xưa,
dưới mỗi bài có những chứng dẫn mấy câu thơ của Hàn Anh làm. Hàn Anh là người đời
nhà Hán làm bác sĩ đời vua Văn Ðế lấy những ý trong thơ của người ta mà làm Nội,
Ngoại truyện gọi là Hàn Thi, bây giờ chỉ còn ngoại truyện mà thôi.
Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt
mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
LỜI BÀN
Xưa nay ta vẫn cho khôn ngoan thì chóng già, ngu xuẩn thì sống
lâu, là lấy lý rằng: người khôn dùng trí, dùng sức nhiều, thì chóng suy; người
ngu chỉ ăn no ngủ kỹ,
122
không lo lắng gì, thì sống lâu. Nhưng xét một mặt khác thì
trái hẳn lại. Khôn thì sống, dại thì chết, khôn ăn người, dại người ăn. Như Đức
Khổng Tử đáp vua Ai Công đây chính là ngụ cái ý đó. Ôi! Sống chết tùy tại mệnh
trời, nhưng thường khi người cũng có phần vào đấy, lắm người chỉ ngu xuẩn,
không biết giữ vệ sinh, không hiểu pháp luật, không biết tự lượng mà thành
không đáng chết cũng phải chết. Chết như thế cũng là chết uổng nên thương,
thương vì ngu dại.
62. VỢ RĂN CHỒNG
Án Tử làm tướng nước Tề, một hôm đi việc quan, có tên đánh xe
theo hầu.
Vợ tên đánh xe dòm qua khe cửa, thấy chồng tay cầm cái dù,
tay cầm cương, mặt vác lên trời, dương dương tự đắc.
Lúc chồng về nhà, nàng xin bỏ nhà ra đi. Chồng hỏi: Tại làm
sao? Nàng nói:
“Án Tử, người gầy thấp bé nhỏ làm đến Tướng nước Tề, danh tiếng
lừng lẫy khắp thiên hạ, thế mà thiếp thấy ông ấy vẫn có ý trầm trọng, khiêm nhường,
như chửa bằng ai. Chớ như chàng, cao lớn đẫy đà chỉ mới làm được một tên đánh
xe tầm thường hèn hạ thế mà thiếp xem chàng đã ra dáng lấy làm vinh hạnh, tưởng
không ai bằng nữa, nên thiếp xin bỏ chàng, thiếp đi”.
Từ hôm ấy, tến đánh xe bỏ được cái bộ vênh váo, chữa được cái
tính nông nổi. Án Tử thấy thế làm lạ, hỏi. Tên đánh xe đem việc nhà kể lại. Án
Tử bèn cất cho làm đại phu.
Án Tử Xuân Thu
GIẢI NGHĨA
Án Tử Xuân Thu: bộ sách ghi chép những công việc cùng lời nói
của Án Tử. Án Tử tức Án Anh, tên tự là Bình Trọng, người nước Tề thời Xuân Thu,
làm tướng ba đời vua Linh Công, Trang Công, Cảnh Công, có tính cần kiệm, một bụng
trung thành nổi tiếng thời bấy giờ.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa
phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
LỜI BÀN
Tên đánh xe của Án Tử thực là sang vì vợ, nhờ được người vợ
giỏi, biết lấy cái địa vị hèn hạ, cái dáng bộ ngông nghênh của chồng làm xấu hổ,
mà sửa được cái tâm tính chồng và thành được thân danh cho chồng. Tiếc thay ở đời
bây giờ, có biết bao nhiêu kẻ chỉ làm môn hạ người ta, đã vênh váo lên mặt,
ngênh ngang tự đắc như tên đánh xe, mà lại không có được những người vợ, như vợ
tên đánh xe để khuyên răn lấy chồng, làm cho chồng biết tự sỉ mà phấn chí tu tỉnh
cho ra người.
63. BÀ HUYỆN CAN ĐẢM
Đời nhà Đường, giặc Lý Hy Liệt đã đánh được Châu Biện, kéo đến
đánh huyện Hạng Thành. Quan huyện Hạng Thành là Lý Khản muốn chạy trốn. Bà Huyện
người họ Dương nói:
“Giặc đến cướp thành thì phải hết sức giữ thành, giữ mà không
được thì phải liều chết với thành, nay ông lại chực trốn, nghĩa là làm sao? Bây
giờ cứ mộ quân cho nhiều, khao thưởng cho to, thiếp tưởng còn giữ được thành.”
Nói rồi, chính Bà huyện hội họp cả nha lệ, sĩ dân lại hiểu dụ
rằng:
“Quan huyện là chủ các ngươi thật, song chẳng qua chỉ ở đây độ
năm, ba năm rồi cũng thiên đi nơi khác, không liên can lắm bằng các ngươi sinh
trưởng ở đất này, gây dựng cơ nghiệp ở đất này, mồ mả ông cha cũng ở đất này. Vậy
sống, chết, các người cũng phải hết sức mà giữ lấy thành thì mới được.”
Ai nấy nghe đều cảm động, rơm rớm nước mắt và đoạn xin liều
chết để cố giữ thành. Bà huyện hạ lệnh rằng:
123
“Ai lấy gạch đá đánh được giặc, thưởng tiền một nghìn, ai lấy
gươm giáo giữ được giặc thưởng liền một muôn.”
Tất cả được hơn một trăm người kéo nhau ra giữ thành, chống lại
với giặc. Bà huyện thân đi trông nom lương thực cho quân lính. Khi giao chiến,
quan huyện phải một mũi tên, lùi về, ý không muốn đánh nữa. Bà huyện giận nói:
“Ông không ở đấy thì ai chịu liều chết? Cho ông giữ thành mà
có chết nữa lại chẳng hơn chết ở xó giường ư?”
Ông huyện nghe cảm kích, hăng hái hơn trước, lại chạy lên
thành, liều đánh một trận nữa, quân giặc túng thế phải kéo đi. Huyện Hạng Thành
nhờ thế được an toàn. Đường Thư Liệt Nữ Truyện
GIẢI NGHĨA
Đường thư: nay gọi là Cựu Đường thư, là tác phẩm viết về lịch
sử Trung Quốc thời kỳ nhà Đường. Đường thư bao gồm 200 quyển, trong đó bản kỉ
20 quyển, chí 30 quyển và liệt truyện 150 quyển, bao quát một số sự kiện chính
từ năm Vũ Đức thứ nhất (năm 618) đời Đường Cao Tổ tới năm Thiên Hữu thứ tư (năm
907) đời Đường Ai Đế. Đường thư do tể tướng Lưu Hu giám sát việc tu sửa, xuất bản
nên người ta coi sách này là do Lưu Hu chủ biên. (Chú thích này được trích một
phần từ Phụ Lục D; xem thêm Đường thư trong Phụ Lục D).
LỜI BÀN
Làm quan không che chở cho dân lúc giặc đến, lại sợ chết, muốn
trốn tránh, thì chẳng là nhút nhát không hiểu cái nghĩa tận tâm với chức vụ là
gì ư! Một ông huyện như thế đáng khinh bao nhiêu, thì một bà huyện như vợ ông
huyện ấy lại đáng trọng bấy nhiêu. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Chỉ nhờ cái
lòng can đảm của bà mà dân phải quả quyết, chồng phải cảm kích, mà huyện được
an toàn. Quý nhất câu bà nói: “Giữ thành mà chết còn hơn chết ở xó giường” thì
cái chí khí có kém gì những bậc tu mi vừa anh hùng vừa khí phách.
64. THẾ NÀO LÀ TRUNG THẦN
Vua Quân đất Lỗ Dương bảo Mặc Tử: “Có kẻ nói với ta rằng:
Trung thần là người bắt cúi, thì cúi, bắt ngửng thì ngửng, để thì im, gọi thì
thưa, như thế có cho là trung thần được không?”
Mặc Tử nói: “Bắt cúi thì cúi, bắt ngửng thì ngửng, như thế
khác gì cái bóng? Để thì im, gọi thì thưa, như thế khác nào tiếng vang? Quan
liêu mà dùng đến những kẻ như bóng, như vang, thì còn được ích gì? Cứ như tôi
đây, mà gọi là trung thần, thì khi vua có lầm lỗi, phải liệu cách can ngăn mà
đưa vào điều thiện; khi mình có điều hay, phải tìm đường bày tỏ, mà không lộ ra
ngoài; trên thì thành thực một lòng, một dạ với vua; dưới thì không a dua vào bè,
kết đảng với ai; những sự tốt lành yên vui thì để phần vua hưởng, những điều
oán thù lo lắng thì mình hứng đựng. Có được như thế, thì tôi mới cho là trung
thần.”
Mặc Tử
GIẢI NGHĨA
Mặc Tử: tên sách của Mặc Địch soạn, chủ nghĩa là kiêm ái yêu
người như yêu mình cũng gần giống chủ nghĩa của đạo Cơ Đốc và đạo Thích Ca.
(Xin xem thêm Mặc Tử ở Phụ Lục C).
65. BÁO THÙ
Nước Ngô, nước Việt đánh nhau.
Vua Ngô là Hạp Lư thua trận, phải quân Việt đâm chết. Con Hạp
Lư là Phù Sai nối ngôi làm vua, thề thế nào cũng phục thù được cho cha mới
nghe. Phù Sai bèn cho người đứng ở sân, mỗi khi mình ra vào, người ấy phải nói
to lên rằng:
124
“Phù Sai kia! Nước Việt nó giết chết cha mày mà mày quên ư?”
Phù Sai thưa rằng: “Dạ không dám quên.”
Ba năm sau, quả nhiên Phù Sai đánh được nước Việt, báo thù
cho cha.
Lúc nước Việt thua, vua Việt là Câu Tiễn sang cầu hòa. Tuy rằng
được hòa; nhưng đêm ngày âu sầu, lo nghĩ nát gan, tan ruột. Chất củi làm giường
nằm, treo cái mật trước chỗ ngồi. Khi nằm thì trông cái mật, khi ăn thì nếm cái
mật. Chính thân thì cày cuốc, vợ thì dệt vải, làm ăn lao khổ như thường dân. Ai
là bậc hiền tài thì trọng dụng, ai là kẻ khốn khó thì cứu giúp. Hơn hai mươi
năm trời, lúc nào cũng như vậy. Sau Câu tiễn xem chừng lòng dân đã khiến được,
bấy giờ mới đem quân sang đánh Ngô, quả nhiên Ngô lại thua mà Việt được.
Chu Thư
GIẢI NGHĨA
Chu Thư: hay còn gọi là Bắc Chu thư hoặc Hậu Chu thư là một
sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (Nhị thập tứ sử)
do Lệnh Hồ Đức Phân đời Đường làm chủ biên, cùng Sầm Văn Bản và Thôi Nhân Sư
tham gia viết và biên soạn chung vào năm Trinh Quán thứ 3 (năm 629), đến năm
Trinh Quán thứ 10 (năm 636) thì hoàn thành. Lệnh Hồ Đức Phân (583–666) người
huyện Hoa Nguyên Nghi Châu (nay thuộc huyện Diệu tỉnh Thiểm Tây), là nhà sử học
thời Đường của Trung Quốc. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem
thêm Chu thư trong Phụ Lục D).
Ngô: tên nước thời Xuân Thu bây giờ vào địa phận phía Nam sông
Hoài, sông Tử cho đến tỉnh Triết Giang bây giờ.
Việt: tên nước thời Xuân Thu ở vào tỉnh Chiết Giang, Giang Tô
và một phần Sơn Đông bây giờ.
LỜI BÀN
Một bên vì cha mà báo thù, một bên vì nước mà báo thù, hai
cái thù không đội trời chung, mà dụng tâm theo đuổi đến báo kì được mới nghe thực
là chính đáng, khiến ai nghe thấy cũng phải kính phục. Nếu Phù Sai, Câu Tiến gặp
cái cảnh đau đớn như thế, mà cứ mặt dày mày dạn điềm nhiên như không, thì chẳng
là đất đá, không biết nhục là cái gì ư! Có biết nhục, thì sau mới rửa được nhục.
Khi đã rửa được nhục lại cần phải tu tỉnh luôn luôn và quí nhất là cảm hóa,
nâng đỡ kẻ thù đã chịu lui bước hay đầu hàng để cho họ đỡ đau khổ, có địa vị,
thì mới được yên lâu. Nếu rửa nhục xong mà kiêu căng đại nọa, quên cả phòng bị thì
lại chuốc lấy nhục mà oan oan tương báo, chỉ những tàn hại nhau hoài mà thôi.
66. CÁCH DÙNG PHÁP LUẬT
Qúi Cao làm quan sĩ sư nước Vệ có làm án chặt chân một người.
Sau nước Vệ loạn, Quí Cao chạy trốn, ra đến cửa thành, gặp
người giữ cửa thành, lại chính là người mình chặt chân ngày trước.
Người ấy bảo: “Kia có chỗ tường đổ”.
Quí Cao nói: “Người quân tử không trèo tường”.
Lại bảo: “Ở đây có lỗ hổng”.
Quí Cao nói: “Người quân tử không chui lỗ hổng”.
Lại bảo: “Ở đây có cái nhà”.
Quí Cao mới chạy vào nhà ẩn. Bởi vậy mà quân đuổi theo không
thể bắt được. Lúc Quí Cao sắp đi, bảo người giữ thành rằng:
“Trước ta theo phép nước mà chặt chân người, nay ta gặp nạn
chính là cái dịp để người báo thù mà người ba lần chỉ lối cho ta trốn, thương
ta như thế nghĩa là làm sao?”
Người giữ thành nói:
125
“Tội tôi đáng chặt chân, tránh sao cho khỏi. Lúc ông luận tội,
xoay xở pháp luật, ý muốn nới tay, tôi cũng biết. Lúc án đã định, đem ra hành
hình, nét mặt ông buồn rầu, tôi lại biết lắm. Ông làm như thế, há có vị riêng
gì tôi, đó là tâm địa quân tử tự nhiên như vậy...Thế cho nên tôi muốn cứu ông”.
Đức Khổng Tử nghe chuyện này, nói rằng: “Cũng là một cách
dùng pháp luật, mà có lòng nhân từ thì gây nên ơn, dùng mà ra dáng tàn bạo thì
gây nên oán. Như Quí Cao là người làm quan biết dùng pháp luật vậy.”
Gia Ngữ
GIẢI NGHĨA
Sĩ sư: tên một chức quan đời nhà Chu; coi xét việc hành ngục.
Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
Vệ: Tên một nước thời Xuân Thu ở vào vùng tỉnh Trực Lệ và Hà
Nam bây giờ.
67. THẬT GIẢ KHÓ PHÂN
Ở gò Lê Khưu có giống quỉ lạ. Nó bắt chước làm con cháu, anh
em nhà người ta thật là giống.
Có một ông trưởng giả gần vùng đấy, một hôm ở chợ về chén say
khướt. Lúc đi qua gò Lê Khưu, con quỉ hiện hình lên làm con ông ta, tay ôm đỡ
dìu dắt, nhưng miệng cứ lẩm bẩm nhiếc móc, kêu say sưa là xấu.
Trưởng giả về nhà, lúc tỉnh rượu gọi con ra mắng: “Tao là cha
mầy, tao có điều gì là ác nghiệt mà lúc tao say, mầy lại nỡ mỉa mai tao như vậy!”
Người con khóc, lạy cha và thưa rằng: “Oan quá! Thật con
không dám như thế bao giờ. Con nghe đâu ở gò Lê Khưu có giống quỷ khéo bắt chước
hiện lên làm người, có lẽ là đây chăng”.
Trưởng giả hỏi dò, thì quả nhiên ai cũng bảo có như thế thật,
ông mới định bụng hễ gặp giống quỷ ấy là đâm chết.
Hôm sau, ông lại đi chợ, lại chén say khướt mới về. Người con
sợ cha lại gặp quỷ nó quấy nhiễu gì, bèn săm săm đi đón. Trưởng giả trông rõ
con mình, nhưng cho là quỷ, liền rút gươm đâm chết.
Lã Tử
GIẢI NGHĨA
Lê Khưu: tên một cái gò cao, ở về địa phân huyện Ngu Thành, tỉnh
Hà Nam bây giờ. Trưởng giả: người đứng tuổi, thường chỉ những bậc có trí, có
tài, có oai, có chức hay có của.
LỜI BÀN
Khó thật! Làm thế nào cho rõ giả thực mà phân biệt được. Cái
trò đời, đã gian thì lại ngoan, kẻ gian phi đã rắp tâm lừa ai, thì dùng thiên
phương bách kế, làm cho phải mắc lừa mà vẫn có bụng tin. Cho nên khi ta ngờ điều
gì, ta phải để cái trí sáng suốt mà dò xét cho đến nơi. Chớ có vội hành động, lấy
giả làm thực, cho thực là giả, nhận quỷ làm con, giết con tưởng quỷ như trưởng
giả nói trong chuyện này, sau có hối lại cũng không kịp. Đời này biết bao nhiêu
chuyện vợ chồng, chuyện phe cánh, ngờ nhau tàn hại nhau, một khi sự thực hiện
rõ ra chỉ còn có ôm hận suốt đời, lúc nào cũng băn khoăn thương đến người đã
khuất.
68. TRUYỆN ĐƯỜI ƯƠI
Ở núi Phong Khê đất Thục có giống Đười Ươi, mặt như mặt người,
biết cười, biết nói. Máu nó dùng để nhuộm mùi, không bao giờ phai, nên người ta
lừa bắt nó. Tính đười ươi thích uống rượu, thích đi guốc. Người ta biết thế,
đem rượu và guốc ra bày la liệt ở quãng đồng không, rồi đi nấp một chỗ. Đười
Ươi ngửi hơi rượu, kéo nhau ra thấy rượu, thấy guốc, biết rằng dử mình bèn chửi
rủa người lập đánh bẫy,
126
và nói thậm tệ đến cả ông cha người ấy. Đoạn bảo nhau đi, lẩm
nhẩm nói chớ có mắc mưu cái loài khốn nạn chực hại mình... Song đã đi mà vẫn
ngoảnh lại, rồi bảo nhau:
"Ta thử nếm xem tưởng không hại gì"
Tay chấm miệng mút, bén mùi làm mãi, thành say sưa mờ mịt,
quên cả lời khôn, lẽ phải bấy lâu giữ gìn, chếnh choáng nghiêng ngả, nói nói,
cười cười, chân đưa vào guốc thất thểu đi...
Người nấp bấy giờ đổ ra thì Đười Ươi lảo đảo chạy, con ngả
nghiêng, con ngã ngửa, người ta bắt sạch không sót con nào.
Than ôi! Biết rõ người ta lừa gạt mình mà cứ tham lam mê muội
để đến nỗi mắc lừa người ta mà mất mạng. Ngu lắm thay! Thật là ngu lắm thay!
Diêu Dung
GIẢI NGHĨA
Thục: tức là Thục Quân ở về đất Tứ Xuyên bây giờ.
LỜI BÀN
Rượu chè, thuốc phiện, cờ bạc, trai gái... ở đời có bao nhiêu
sự đam mê, tuy vẫn biết là tai hại mà khốn cái tính ngây, cái máu mê, nó như có
ma lực vẫn xui giục run rủi ta rủ nhau đua nhau mà tìm đến, mà say đắm, có khi
tai hại cũng không chừa.Than ôi! Còn ở trên bờ vực sâu, mà không biết giữ, thì
đến lúc lăn xuống, ăn năn sao cho kịp! Cổ nhân đã có câu: “Nhất thất túc, thành
thiên cổ hận: tái hồi đầu, thị bách niên thân” nghĩa là: Lỡ bước một phen nghìn
đời ôm hận; quay đầu nhìn lại chín suối ngậm ngùi. Thật đáng ghê thay, cho nên
người ta phải cẩn thận giữ mình, khi đã biết sự đam mê có thể tai hại mình được
thì cố tự chủ, tự trị, mà hãm mình lại ngay, chớ để cho nhân dục thắng được
thiên lý thì phí cả đời người
69. THUẬT XEM TƯỚNG
Nước Kinh có người giỏi xem tướng, nói câu nào trúng câu ấy.
Trong nước xa gần đâu cũng biết tiếng.
Vua Trang Vương thấy thế, vời lại hỏi:
"Nhà ngươi dùng thuật gì mà xem tướng giỏi như thế?"
Người xem tướng thưa rằng:
"Thần không có thuật gì lạ cả. Thần chỉ xem bạn người ta
mà biết được người ta hay, hay dở. Như thần xem cho thường dân, mà thấy chơi với
những người bạn hiếu, đễ, thuần, cẩn biết giữ phép người, thì thần đoán người
dân ấy là người hay, thân tất một ngày một vẻ vang, nhà tất một ngày một thịnh
vượng. Như thần xem cho quan lại mà thấy chơi với những bạn thành, tín, có phẩm
hạnh, thích điều phải thì thần đoán cho ông quan ấy là người tốt, làm quan tất
mỗi ngày một thăng cao, giúp vua mỗi ngày một ích lợi. Như thần xem cho vua
chúa, mà thấy quan gần lắm người hiền, quan xa có lắm người trung, lúc có lỗi,
nhiều người can ngăn, thì thần đoán là ông vua giỏi, vua tất mỗi ngày một tôn
trọng, nước tất mỗi ngày một trì yên, thiên hạ tất mỗi ngày một quy phục... Thần
quả không có thuật gì lạ, chỉ xem người mà biết được người hay, hay dở."
Vua Trang Vương cho nói là phải. Bấy giờ kíp thu dùng những
người tài giỏi, sau nước Sở thành cường thịnh nhất thời Chiến quốc.
Lã Thị Xuân Thu
GIẢI NGHĨA
Lã Thị Xuân Thu: sách của Lã Bất Vi làm. Lã Bất Vi người đời
nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của
Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lã Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm
Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, thì thưởng cho ngàn
vàng". (Xin xem thêm Lã
127
Bất Vi ở Phụ Lục C).
Chiến quốc: thời đại về cuối đời nhà Chu 475-249 TCN, các nước
hay đánh (chiến) nhau. Có bảy nước mạnh là: Tần, Sở, Yên, Tề, Hàn, Triệu, Ngụy.
(Xin xem thêm Chiến quốc ở Phụ Lục A).
Kinh: cũng là tên nước Sở, một nước lớn thời Xuân Thu ở vào
vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ. (Xin xem thêm nước Sở ở Phụ Lục A).
70. THEO AI PHẢI CẨN THẬN
Đức Khổng Tử thấy kẻ đánh lưới chim sẻ chỉ đánh được thuần sẻ
non vàng mép. Ngài bèn hỏi rằng:
"Không đánh được sẻ già là tại làm sao!"
Kẻ đánh lưới nói:
"Sẻ già biết sợ, cho nên khó được, sẻ non tham ăn, cho
nên dễ bắt. Nếu sẻ non mà theo sẻ già thì bắt sẻ non cũng khó nhưng nếu sẻ già
theo sẻ non thì bắt sẻ già cũng dễ."
Đức Khổng Tử nghe đoạn quay lại bảo học trò rằng:
"Biết sợ để tránh tai hại, tham ăn mà quên nguy vong, đó
đều là tính tự nhiên vậy. Song phúc hay họa lại do ở cái theo khôn hay theo dại.
Cho nên người quân tử trước khi theo ai phải cẩn thận. Theo ai mà biết phòng xa
như người lão luyện, thì được toàn thân, theo ai mà hay nông nổi như kẻ trẻ dại
thì bại hoại."
GIẢI NGHĨA
Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
Last edited by Truc Vo; 10-08-2011 at 08:59 PM.
Reply With Quote
10-08-2011 09:06 PM #27 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
71. SAY, TỈNH, ĐỤC, TRONG
Khuất Nguyên làm quan đại phu cho đời Hoài Vương nước Sở, bị
kẻ sàm báng mà phải phóng khí. Mặt mũi tiều tụy, hình dung khô héo, Khuất
Nguyên vừa đi, vừa hát trên bờ đầm.
Có ông lão đánh cá trông thấy hỏi rằng:
Ông có phải là Tam Lưu đại phu đó không? Sao mà đến nỗi khốn
khổ như vậy? Khuất Nguyên nói
Cả đời đục cả, một mình ta trong, mọi người say cả một mình
ta tỉnh. Bởi vậy cho nên ta phải phóng khí.
Ông lão đánh cá nói:
Thánh nhân không câu nệ việc gì, lại hay tùy thời. Có phải cả
đời đục cả, sao không khuấy thêm bùn, vỗ thêm sóng cho đục một thể; loài người
say cả, sao ông không ăn cả men, húp cả bã cho say một thể? Việc gì mà phải lo
xa, nghĩ sâu, để cho đến nỗi
128
phải phóng khí?
Khuất Nguyên nói:
Tôi nghe mới gội đầu tất phải chải mũ, mới tắm ra phải thay
áo, có đâu lại chịu đem cái thân trong sạch mà để cho vật dơ bẩn dính vào mình
được? Chẳng thà ta nhảy xuống sông Tương, vùi xác vào bụng cá, chớ sao đang trắng
lôm lốp, lại chịu để dây phải bụi dơ.
Ông lão đánh cá nghe nói tủm tỉm cười, quay bơi chèo đi, rồi
hát rằng:
Sông Thương nước chảy trong veo
Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta
Sông Thương nước đục phù sa
Thì ta lội xuống để mà rửa chân.
Hát xong, đi thẳng không nói gì nữa.
Khuất Nguyên
GIẢI NGHĨA
Khuất Nguyên: xin xem Khuất Nguyên ở Phụ Lục C.
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ
Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
Đại phu: chức quan đời cổ dưới quan Khanh, trên quan Sĩ.
Tam Lư đại phu: quan đại phu Tam Lư, Tam Lư họ của Khuất
Nguyên.
Câu nệ: bo bo chỉ giữ một bề.
Tương: tức sông Tương Giang, một sông lớn chảy qua tỉnh Hồ
Nam rồi nhập vào Động Đình hồ.
Lèo: dải mũ, mũ thường có hai dải để buộc cho chặt (mũ thời cổ).
LỜI BÀN
Bài này tác giả chính là Khuất Nguyên, mượn lời lão đánh cá
mà đặt lối vấn đáp. Mấy câu hát của lão đánh cá thì có ý khuyên Khuất Nguyên
hòa quang đồng trần với đời, mấy câu Khuất Nguyên nói thì lại phản đối lại, chết
thời thôi chứ không chịu theo thời, không chịu dày dạn, sống đục, không bằng
thác trong. Ôi! Không nỡ bỏ nước nhà mà lẩn lút đi ở nơi khác lại cũng không chịu
cùng tiểu nhân mà cẩu thả sống, cho qua đời, sau này quả nhiên vùi xác vào bụng
cá trong sông Mịch La, lấy nước sông Mịch mà tẩy uế sự nhơ, bẩn, thật là nghìn
thu trung nghĩa, dòng nước trong xanh, khiến cho ai xem truyện Khuất Nguyên
cũng ngậm ngùi thương nhớ và sinh lòng phấn khởi.
72. NHAN SÚC NÓI CHUYỆN VỚI TỀ VƯƠNG
Vua Tuyên Vương nước Tề đến chơi nhà Nhan Súc, bảo:
“Súc lại đây.”
Nhan Súc cũng bảo:
“Vua lại đây.”
Các quan thấy vậy, nói:
“Vua là bậc chí tôn, Súc là kẻ thần hạ. Vua bảo: “Súc lại
đây”; Súc cũng bảo: “vua lại đây”; như thế nghe có được hay không?”
Nhan Súc nói:
“ Vua gọi Súc mà Súc lại, thì Súc là người hâm mộ thần thế.
Súc gọi vua mà vua lại, thì vua là người quý trọng hiền sĩ. Nếu để Súc này mang
tiếng hâm mộ quyền thế, thì sao bằng để nhà vua được tiếng quý trọng hiền tài.
Vua nghe nói giận lắm, gắt lên rằng:
“ Vua quý hay kẻ sĩ quý?”
Nhan Súc đáp:
Sĩ quý, vua không quý.
129
Vua hỏi:
Có sách nào nói thế không?
Nhan Súc thưa:
Có. Ngày trước, nước Tần sang đánh nước Tề. Có hạ lệnh: “Ai
dám đến gần mộ ông Liễu Hạ Quí mà kiếm củi, thì phải xử tử”. Lại có lệnh: “Ai lấy
được đầu vua Tề thì được phong hầu và thưởng nghìn lạng vàng”. Xem thế đủ biết
cái đầu ông vua sống thực không bằng cái mả kẻ sĩ chết.
Vua Tuyên Vương nói:
Than ôi! Ngưởi quân tử ai mà dám khinh! Quả nhân cam chịu lỗi!
Nay quả nhân xin làm đệ tử để tiên sinh dạy bảo cho. Tiên sinh mà về ở với quả
nhân, thì được ăn sung, mặc sướng, lên xe, xuống ngựa, vợ con được quần áo xênh
xang tha hồ đẹp. Nhan Súc từ chối, nói:
Ngọc vốn ở núi, lấy ra mà giũa, chế làm đồ vật, tuy đem bày
biện có phần quý báu nhưng cũng là hỏng, vì vóc ngọc không còn. Kẻ sĩ sinh nơi
thôn dã, bỏ ra làm quan tuy vinh hiển thật, song hình thần không còn được toàn.
Súc xin ở nhà, lúc đói mới ăn, thì cũng ngon miệng như ăn cơm thịt, lúc đi, cứ
bước khoan thai thì cũng nhẹ nhàng như lên xe xuống ngựa, suốt đời không tội lỗi
cùng ai, thì cũng sung sướng như quan cao chức trọng. Hình thần lúc nào cũng được
trong sạch chính đính, thế là đủ khoan khoái cho Súc rồi.
Nói đoạn, Nhan Súc tạ vua Tuyên Vương mà lui vào.
GIẢI NGHĨA
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở
vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Tần: tên nước mạnh nhất thời Xuân Thu-Chiến Quốc (ở vào tỉnh
Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất
thống thiên hạ. LỜI BÀN
Xem lời Nhan Súc đối đáp với vua Tuyên Vương thì đủ biết phẩm
giá con người ta thực quý hơn vua chúa. Thế mà ở đời, nhiều kể ham mê phú quý,
đến nỗi mất cả nhân cách, chôn cả lương tâm, thì thật là khờ dại, đem một sự
quý mà đổi lấy những sự hảo quyền ở bề ngoài rất đáng khinh. Người ta có vô cầu
mà giữ được thiên chức, không mất bản tính thì suốt đời mới không nhục và nhân
phẩm mới cao.
73. KHẤU CHUẨN THƯƠNG NHỚ MẸ
Ông Khấu Chuẩn thuở nhỏ, tính hay du đãng, không giữ lễ phép,
lại thích chơi chim, chơi chó. Bà mẹ ông vốn là người nghiêm khắc, thấy con thế
quở phạt luôn, mà vẫn không chừa.
Một hôm, ông bỏ học đi chơi, bà mẹ giận lắm, cầm cái quả cân
ném ông, trúng phải chân, máu chảy đầm đìa... Ông bị đau, ít lâu mới khỏi. Tự bấy
giớ ông không dám lêu lổng, phóng túng, chỉ chuyên cần học tập. Về sau, thi đỗ,
làm quan đến Tể tướng. Lúc ông quy hiển thì mẹ ông đã tạ thế rồi. Mỗi khi ông sờ
đến vết thương ở chân, thì ông lại nức nở khóc lóc và nói rằng:
“ Chính cái vết thương này làm cho ta nên người đây”.
Nhân Phả
GIẢI NGHĨA
Khấu Chuẩn: người đời Tống đỗ Tiến sĩ làm quan đời vua Chân
Tôn đến chức Tể tướng, có công đánh giặc Khiết Đan.
74. TÌNH MẸ CON, CON VƯỢN
Ở đất Vũ Bình, có giống vượn lông đỏ như vang, nõn như tơ,
trông xa lấp lánh rất
130
ngoạn mục. Có hai mẹ con con vượn, mẹ thì khôn ngoan, tai
quái, con thì ngây ngô, nhẹ dạ, nhưng lúc nào cũng đi liền bên vượn mẹ. Người
đi săn không thể nào nhử mồi, đánh bẫy được, mới lấy thuốc độc xác mũi tên,
rình lúc vượn mẹ vô ý thì bắn. Vượn mẹ biết mình không thể sống được, vắt sữa
ra dùng cho con uống, xong rồi lăn ra chết. Người đi săn quay về phía vượn con,
cầm roi quật vào xác vượn mẹ. Vượn con thấy, kêu gào thương xót, chạy ngay lại
gần, người đi săn bắt sống được. Lúc về nhà, cứ đêm đêm, vượn con nằm phục bên
xác mẹ, thì mới yên; một đôi khi lại ôm lấy kêu gào, vật vã rất thảm thiết.
Không được mấy hôm vượn con cũng chết. Than ôi! Vượn là giống vật còn biết
thương mẹ, liều chết với mẹ, huống chi là giống người lại nỡ nhẫn tâm quên mẹ,
phụ lòng mẹ ư!
Tống Liêm
GIẢI NGHĨA
Vũ Bình: tên đất ở vào địa phận phủ Định Châu tỉnh Phúc Kiến
bây giờ.
Tống Liêm: người đời nhà Minh học giỏi, nhờ người từ lúc trẻ
đến lúc già không có hôm nào rời quyển sách, văn chương dồi dào làm Sử nhà
Nguyên 210 quyển. (Xin xem thêm Tống Liêm ở Phụ Lục C).
75. HỌC TRÒ BIẾT HỌC
Công Minh Tuyên đến học thầy Tăng Tử. Ở nhà thầy đã ba năm mà
không mấy khi đọc sách.
Thầy Tăng Tử hỏi:
“Ngươi đến đây học đã ba năm nay, ta xem ý người không mấy
khi học tập sách vở như các anh em, là tại làm sao?”
Công Minh Tuyên nói:
“Thưa thầy, con vẫn học. Còn thầy: thầy ở trong nhà, trước mặt
song thân, lúc nào cũng hiều thuận, hòa nhã, cho đến giống vật như chó, mèo, thầy
cũng không quở mắng bao giờ. Thầy ứng tiếp bạn bè cung kính ung dung, rất có lễ
độ, kẻ dở người hay, ai nấy đều thiếp phục. Thầy ở triều đình, đối với kẻ dưới
bề ngoài rất là nghiêm trọng mà trong bụng rất là nhân từ, không có ý hại ai
bao giờ cả. Ba điều ấy con lấy làm vui lòng mà mãi làm chưa được. Con đâu dám
không học mà cứ ở cửa nhà thầy.”
Thầy Tăng Tử nghe đoạn, tạ Công Minh Tuyên và nói rằng:
“Ta nay không bằng nhà ngươi.”
Thuyết Uyển
GIẢI NGHĨA
Thuyết Uyển: Bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi
chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
Công Minh Tuyên: người nước Lỗ về đời Xuân Thu, học trò thầy
Tăng Tử.
Tăng Tử: tức là Tăng Sâm, người thành thực và rất có hiếu, học
trò giỏi của Đức Khổng Tử truyền được đạo đức Khổng Tử có thuật sách Hiếu Kinh
và sách Đại Học. (Xin xem thêm Tăng Tử ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Học trò như Công Minh Tuyên, thầy dạy như Tăng Tử, mới thực
là học trò biết học, ông thầy biết dạy, xứng đáng thầy trò vậy. Làm ông thầy,
không những lấy tri thức mà truyền thụ, lại cần lấy đức tính mà làm gương giáo
hóa cho kẻ đi học nữa. Sách có câu: “Dĩ ngôn vi giáo, dĩ thân vi giáo”, cũng là
lấy nghĩa ấy. Làm học trò nhưng không những bo bo ở việc học tập văn bài, lại
phải học cả động, tĩnh, ngữ, mặc, thái độ hình dung của thầy để bắt chước cho
được được thầy nữa. Học như thế mới là học được cái tinh hoa. Công Minh Tuyên
chỉ học trong ba điều kể trong bài này, mà tức là học được đủ bồn phận của người
đối với gia tộc và xã hội vậy. Đây là học ở
131
trường học thường mà biết học còn hay như thế, huống chi học
trường tự nhiên là trường thế giới mà biết học thì hay còn biết chừng nào.
76. PHÚC ĐẤY, HOẠ ĐẤY
Một người nhà quê rải cỏ phơi ở chân giậu. Hôm sau ra vơ cỏ,
nghe thấy tiếng kêu “tích tích” lật lên xem, thì bắt ngay được một con trĩ.
Anh ta thấy thế, lại cứ để cỏ đấy, có ý mong ngày mai lại được
con trĩ nữa. Mai ra, lắng tai nghe lại thấy tiếng kêu “tích tích” như hôm trước,
trong bụng mừng thầm. Nhưng vừa bới cỏ lên, thì ra một con rắn, nó cắn ngay vào
tay, anh ta bị thương rồi chết. Úc Ly Tử nói rằng:
“Một việc nhỏ ấy đủ làm gương cho ta. Trong thiên hạ có cái
phúc không tưởng được thế, mà may được thế cũng có cái họa không ngờ đến thế,
mà xảy ra thế!”
Úc Ly Tử
LỜI BÀN
Sự may, sự rủi người ta không thể lường trước được. Trong cái
may, biết đâu mà chẳng có cái không may, trong cái chẳng may, biết đâu rằng
không có cái may? Cũng một việc, bận trước là chẳng may, bận sau lại may, như
người trước gặp trĩ có lợi, sau gặp rắn bị chết, nói trong chuyện này! Chúng ta
nên nhớ rằng: tham thì thâm, đã đắc ý một lần, không nên lại đến lần nữa. Đến
không những không được như lần trước, mà lại còn bị khinh bỉ khổ nhục nữa.
77. HOẠ PHÚC KHÔNG LƯỜNG
Một ông lão ở gần cửa ải có con ngựa tự nhiên đi sang nước Hồ
mất. Người quen kẻ thuộc đều đến hỏi thăm. Ông lão nói:
“Mất ngựa thế mà phúc cho tôi đấy biết đâu.”
Cách mấy tháng con ngựa về lại quyến thêm được một con ngựa
hay nữa. Người quen kẻ thuộc đều đến mừng rỡ. Ông lão nói:
“Được ngựa thế mà họa cho tôi biết đâu.”
Từ khi được ngựa hay, con ông lão thích cưỡi, chẳng may ngã
què chân. Người quen kẻ thuộc đều đến hỏi thăm. Ông lão nói:
“Con què thế mà phúc cho tôi đấy biết đâu.”
Cách một năm, có giặc Hồ. Nhà vua bắt lính đi đánh giặc. Quân
lính mười người chết đến chín. Chỉ con ông lão, vì què không phải đi lính, mà
cha con vẫn có nhau. Hoài Nam Tử
GIẢI NGHĨA
Hồ: tức là Hung nô ở phía bắc nước Tàu hay vào nhiễu loạn nước
Tàu.
Hoài Nam Tử: tên là Lưu An, tôn thất nhà Tây Hán, tức Hoài
Nam Vương, làm sách nói về đạo đức. (Xin xem thêm Hoài Nam Tử ở Phụ Lục D).
LỜI BÀN
Họa phúc xoay vần, khó lòng biết được. Trong cái phúc thường
có cái họa nấp sẵn ở đấy, trong cái họa, thường khi lại có cái phúc nấp sẵn ở
đây. Cho nên, đối với sự họa phúc, ta không nên vội lấy việc chỉ có một thời mà
quyết định cho là hay mãi, hay dở mãi được. Ta chỉ nên, khi gặp phúc, thì thao
thủ cẩn thận, đừng có kiêu xa phóng túng, may mà giữ được phúc lâu dài; khi gặp
họa, thì tu tỉnh lấy thân, đừng có ngã lòng, đừng có oán trách, may mà qua được
họa lại gặp phúc chăng.
78. VẼ GÌ KHÓ
Có người thợ vẽ, vẽ cho vua nước Tề mấy bức tranh. Vua hỏi:
-Vẽ cái gì khó?
132
Thưa: Vẽ chó, vẽ ngựa khó. -Vẽ gì dễ?
-Vẽ ma vẽ quỷ dễ.
-Sao lại thế?
-Chó ngựa ai cũng trông thấy, vẽ mà không giống, thì người ta
chê cười, cho nên khó vẽ. Ma quỷ là giống vô hình, không ai trông thấy, tùy ý
muốn vẽ thế nào cũng được, không sợ ai bẻ, cho nên dễ vẽ.
Người nào bỏ những công việc nhật dụng thường hành, chỉ chăm
làm những việc kì dị quái gở để lòe thiên hạ, thì cũng chẳng khác nào như người
thợ chỉ vẽ ma, vẽ quỷ, nghĩa là tránh cái khó mà làm cái dễ vậy.
GIẢI NGHĨA
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa
phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
79. CÁCH ĐÂM HỔ
Hai con hổ đang ăn thịt một con trâu. Biện Trang muốn ra đâm
hổ. Có thằng trẻ con bảo rằng:
“Hãy lượm đã, ông ạ. Hổ là giống tàn bạo, trâu là mồi ngon ngọt.
Bây giờ hai con hổ đang cùng ăn một con trâu, thấy thịt trâu ngon, tất tranh
nhau, đánh nhau. Đánh nhau, thì hổ nhỏ chết mất mà hổ lớn cũng bị thương. Ông đợi
đến bấy giờ hãy ra, thì không phải chỉ đâm được một con, mà rồi được cả hai con
không? Như thế, thì chẳng phải là công dùng ít mà lợi được nhiều ư?”
Biện Trang cho lời nói ấy là phải, làm theo y như thế, quả
nhiên bắt được cả hai con hổ.
GIẢI NGHĨA
Biện Trang: Người nước Lỗ, thời Xuân Thu, làm quan Đại phu ở ấp
Biện, là người khỏe có tiếng, thường hay đâm được hổ.
LỜI BÀN
Bài này cốt ý dạy ta làm việc gì biết thừa cơ mà làm, thì ít
khó nhọc, mà lại dễ thành công. Như Biện Trang đây, bắt hai con hổ ngay, công
phu nhiều mà chưa chắc đã được. Đợi nó đánh nhau, một con chết một con bị
thương, thì ra chỉ mất công bắt một con hổ yếu (vì mới bị thương) mà rồi được cả
hai con hổ vậy. Ý bài này cũng giống câu nói của Mạnh Tử: “Tuy hữu trí tuệ, bất
thừa thời thế; tuy hữu ti cơ, bất như đãi thời”. Nghĩa là tuy có khôn ngoan
sáng suốt, chẳng bằng thừa được cái thế, lại dễ làm hơn, tuy có điền khí sẵn
sàng, chẳng bằng đợi đến thời đáng làm mới làm thì lại được việc.
80. ÂM NHẠC
Âm là tự lòng người ta mà sinh ra. Lòng người có cảm giác, mới
phát động ra âm. Âm tuy thành ở ngoài miệng, mà thực phát ra tự trong lòng.
Cho nên nghe âm thanh mà biết được phong tục, xét phong tục
mà biết được chí hướng, xem chí hướng mà biết được đạo đức, thịnh, suy, khôn, dại,
hay dở đều hện ra âm nhạc không giấu được ai. Bởi vậy, cứ lấy âm nhạc mà nghiệm
được một nước ra thế nào.
Đất xấu, thì cây cối khẳng khiu, nước đục thì tôm cá gầy còm.
Đời suy thì lễ nghĩa phiền mà âm nhạc dâm. Những âm dâm đãng, tà khúc, những âm
trên bộc trong dâu mà dưới dân gian lấy làm thích là nước loạn, mà trên vua chúa
lấy làm vui, là đức suy.
133
Âm nhạc đã không có tiết tấu, không được trang nghiêm, thuần
một màu dâm đãng đã xuất ra thời chỉ cảm được cái lòng dâm đãng tà khúc mà rồi
sinh ra bao nhiêu việc tà khúc gian nguy vậy.
Cho nên người quân tử để tâm vào đạo mà sửa lấy đức, chỉnh lại
đức để làm âm nhạc, hòa nhạc để cho thành thuận, mà nhạc có hòa, thì mới chỉnh
đốn được mọi việc.
Tuân tử
GIẢI NGHĨA
Tuân Tử: tên thật là Huống, tên tự là Khanh, người nước Triệu,
sinh ra sau Mạnh Tử độ 50 năm, thấy đời bấy giờ cứ loạn luôn mãi và phong hóa
suy đồi, làm sách nói về lễ nghĩa, lễ nhạc, cốt ý để chỉnh đức và hành đạo.
(Xin xem thêm Tuân Tử ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Nếu xem âm nhạc một nước, mà biết được nước ấy là thế nào,
thì đủ biết âm nhạc có một cái quan hệ mật thiết với sự tồn vong, thịnh suy của
một nước. Ôi! Âm nhạc của nước ta hiện nay thế nào! Có nhiều người, nếu không
chê rằng là ai oán chi âm, Trịnh Vệ chi thanh, thì cũng không cho được rằng có
vẻ hùng dũng, cái khí cao xa ở trong ấy. Tiếc rằng người đánh đàn, kẻ kéo nhị
thì nhiều, nhưng quanh đi quẩn lại chỉ có lưu thủy với nam ai, còn người thực
am hiểu âm luật, có thể cải lương được âm nhạc chưa có mấy. Ước gì những bậc có
tài nghệ âm nhạc hằng lưu tâm đến, làm cho cái âm nhạc sầu não, ẻo lả kia được
chỉnh đốn mà phấn chấn lên, thì thực là bậc “cứu quốc” có công to với cả nước vậy.
Reply With Quote
11-08-2011 09:26 PM #28 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
81. TRÍ VÀ NHÂN
Thầy Tử Lộ yết kiến đức Khổng Tử.
Đức Khổng Tử hỏi: Thế nào là người trí? Thế nào là người
nhân?
Thầy Tử Lộ thưa: Người trí là người làm thế nào để cho người
ta biết mình; người nhân là người làm thế nào để cho người ta yêu mình.
Đức Khổng Tử bảo: Nhà ngươi nói vậy cũng khá gọi là người có
học vấn.
Thầy Tử Lộ ra, thầy Tử Cống vào, đức Khổng Tử lại hỏi người
trí, người nhân là thế nào?
Thầy Tử Cống thưa: Người trí là người biết người; người nhân
là người yêu người. Đức Khổng Tử bảo: Nhà ngươi nói vậy cũng khá gọi là người
có học vấn
Thầy Tử Cống ra, thầy Nhan Hồi vào, đức Khổng Tử lại đem trí,
nhân ra hỏi.
Thầy Nhan Hồi thưa: Người trí là người tự biết mình; người
nhân là người tự yêu mình.
Đức Khổng Tử bảo: Nhà ngươi nói như vậy đáng gọi là bậc sĩ
quân tử.
Gia Ngữ
134
GIẢI NGHĨA
Tử Lộ: người thời Xuân Thu, học trò đức Khổng Tử, tính hiếu
thảo, hùng dũng có tài chính sự.
Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là
Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
Tử Cống: học trò giỏi của đức Khổng Tử, có tiếng về khoa ngôn
ngữ.
Nhan Hồi: học trò giỏi nhất của đức Khổng Tử, có tiếng về
khoa đức hạnh. (Xin xem thêm Nhan Uyên ở Phụ Lục C).
Sĩ quân tử: bậc người thượng lưu trong xã hội, có đức hạnh,
có học vấn, có kiến thức.
LỜI BÀN
Cũng một chữ Trí, một chữ Nhân mà ba người đáp mỗi người một
khác. Không phải là trí với nhân có lắm nghĩa, thay đổi khác nhau, đó là tùy
theo cái trình độ học vấn, kiến thức của mỗi người, mà tư tưởng thuyết minh có
phần hơn kém nhau. Thầy Tử Lộ đáp như thế là người vụ ngoại, chỉ cần cho người
ta biết mình, yêu mình mà thôi. Thầy Tử Cống đáp như thế là người quên mình, chỉ
biết người, yêu người mà thôi. So với thầy Tử Lộ thì cao hơn một bậc. Song chưa
bằng thầy Nhan Hồi, học như thế mới là học vị kỷ; nghĩa là học để tự biết mình,
yêu mình trước, rồi suy rộng ra đến biết người, yêu người. Biết mình, yêu mình
không phải là có lòng tự kỷ hẹp hòi. Có biết mình, thì mới tu tỉnh được tâm
thân, cải quá thiên thiện mà nên người hay, người khá, cũng như câu: “Connais
toi toi même” của người Tô Lạp Thị. Có yêu mình, thì mới biết trọng tư cách của
mình, quí phẩm giá của mình rồi mới ra đến thân nhân dân, ái vật, tức cũng như
câu tục ngữ Pháp: “Charité bien ordonée commence par soimême”.
82. HẾT LÒNG VÌ NƯỚC
Vua Bình Vương nước Sở nghe lời gièm pha, giết chết đại tướng
là Ngũ Xa. Ngũ Thượng là con cả Ngũ Xa cũng bị hại. Người con thứ ba là Ngũ
Viên bèn bỏ nước Sở, sang làm tướng nước Ngô. Trước khi đi, có đến từ giã một
người bạn đang làm quan đại phu tên là Thân Bao Tư mà bảo rằng:
“Ba năm nữa nước Sở không mất, thời tôi không trông thấy bác
nữa.”
Thân Bao Tư nói: “Bác làm mất nước Sở, thì tôi tất phải giữ
cho nước Sở còn.”
Ba năm sau, Ngũ Viên đem quân Ngô về đánh Sở, vua Chiêu Vương
nối ngôi cho Bình Vương thua chạy, phải trốn vào trong núi.
Thân Bao Tư đang ở trong núi, nghe nói Ngũ Viên cường bạo bèn
sang cầu cứu nước Tần, tâu cùng vua rằng:
“Nước Ngô vô đạo, quân khỏe người nhiều, sắp đánh cả thiên hạ,
bây giờ mới đánh một nước Sở tôi trước. Vua nước tôi phải chạy trốn, hiện đang ở
Vân Mộng, sai tôi đến cấp báo với thượng quốc.”
Vua nước Tần là Ai Công bảo: Ừ! Để rồi ta liệu. Nhà ngươi hãy
ra nghỉ ngoài sứ quán.
Thân Bao Tư nói: “Vua nước tôi bây giờ đang khốn đốn, phận
làm bầy tôi đâu dám ăn nằm yên một chỗ”.
Nói đoạn cứ đứng giữa sân khóc lóc thảm thiết suốt bảy ngày
đêm.
Ai Công thấy vậy, nói rằng: “Một nước có người bầy tôi như thế,
ta không cứu cũng không đành”. Rồi đem quân sang cứu nước Sở.
Quân Ngô nghe thấy tin, vội phải rút quân về.
Nước Sở nhờ thế mà không mất, vua Chiêu Vương lại lên ngôi,
tìm Thân Bao Tư để thưởng công thì không thấy đâu cả. Thân Bao Tư đã lánh lâu rồi.
Trước khi đi lánh, Thân Bao Tư có nói rằng:
135
“Mượn quân, yêu nước không phải là vị thân, cứu cấp, trừ hại
không phải là vị danh. Bây giờ nước đã định rồi, thì ta còn cầu gì nữa?”
Thuyết Uyển
GIẢI NGHĨA
Thuyết Uyển: bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi
chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ
Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
Ngô: tên nước thời Xuân Thu bây giờ vào địa phận phía Nam
sông Hoài, sông Tử cho đến tỉnh Triết Giang bây giờ.
Tần: tên nước mạnh nhất thời Xuân Thu-Chiến Quốc (ở vào tỉnh
Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất
thống thiên hạ. Đại tướng: một chức quan to nhất.
Ngũ Xa: người nước Sở thời Xuân Thu, thờ vua Bình Vương vì
can vua mà phải giết.
Ngũ Thượng: con cả Ngũ Xa, cha bị nạn, đi theo cha rồi cũng bị
hại.
Ngũ Viên: tức là Ngũ Tử Tư, có thứ Ngũ Xa, trốn sang Ngô để
mưu phục thù cho cha.
Thân Bao Tư: người thời Xuân Thu làm quan đại phu thờ vua
Bình Vương nước Sở và chơi thân với Ngũ Viên.
LỜI BÀN
Ngũ Viên vì cha bị giết oan mà quyết chí muốn haị vua, làm
cho vua mất nước là trọng chữ Hiếu hơn chữ Trung, có phần đáng khen, cũng có phần
nên chê. Thân Bao Tư muốn cứu nước chỉ lấy nước mắt, tiếng khóc mà nên công, thực
là người quá nhẫn nhục trong lúc kế cùng lực kiệt, để chuyển được người không
có ý giúp cũng phải giúp, thế là có bụng rất trung, yêu vua, cứu nước vậy. Lại
đáng khen hơn nữa là công to mà không lấy thưởng. Việc nghĩa làm là làm cho cả
nước, làm được là hả, là sướng, chớ có cầu cạnh gì riêng cho thân mình?
83. BỌ NGỰA CHỐNG XE
Một hôm Trang Công nước Tề xa giá đi săn. Xe ra khỏi thành,
đi trên đường cái, có con bọ ngựa cứ đứng giữ đường, giương càng chực chống lại
cái xe. Tả hữu thấy thế, kêu lên rằng: “Chết! Chết!”. Trang Công nghe tiếng tưởng
sự gì nguy hiểm, vội vàng bắt dừng xe lại hỏi. Tả hữu thưa:
“Có con bọ ngựa thấy xe sắp đến, không tránh lại giơ càng lên
muốn chống lại. Giống bọ ngựa quái lạ, chỉ biết tiến lên chứ không lùi, không
chịu lượng sức mình khỏe hay yếu, hễ gặp cừu địch thì xem thường xem khinh, cứ
lập tức xông vào đánh. Xin cứ để cho xe đi, xem bọ ngựa sống hay chết thế nào”.
Trang Công nói: “Hãy khoan. Giống bọ ngựa thế mà đáng kính.
Giả sử bây giờ có một người bị kẻ tàn bạo hà hiếp không ngại gian nan, không sợ
nguy hiểm, nhất quyết chỉ tiến lên chọi với cường địch, chết cũng không thoát tị
thì chẳng nên đáng tôn kính lắm ư!”
Nói đoạn, Trang Công bảo tránh xe đi sang một bên.
Từ hôm đó, bọn tướng sĩ Trang Công nghe thấy câu chuyện, khi
phải đi đánh giặc đâu là liều chết tiến lên, chớ không chịu không bằng con bọ
ngựa.
Hàn Thi Ngoại Truyện
GIẢI NGHĨA
Hàn Thi Ngoại Truyện: là bộ sách chép những câu nói đời xưa,
dưới mỗi bài có những chứng dẫn mấy câu thơ của Hàn Anh làm. Hàn Anh là người đời
nhà Hán làm bác sĩ đời vua Văn Ðế lấy những ý trong thơ của người ta mà làm Nội,
Ngoại
136
truyện gọi là Hàn Thi, bây giờ chỉ còn ngoại truyện mà thôi.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở
vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Tề Trang Công: xin xem Tề Trang Công ở Phụ Lục C.
LỜI BÀN
Có kẻ cừu địch trước mặt, không biết lượng sức người ta yếu
hay khỏe thế nào, cứ liều xông vào chọi, có khi như trứng chọi đá, nồi đất chọi
với nồi đồng, thì cũng là khờ dại đáng tiếc. Tuy vậy, có kẻ hà hiếp mình thậm tệ.
mà mình còn đủ chí khí chống lại, thế là mình hiểu được cái lẽ tự vệ, chết cũng
không chịu nhục. Nhất là mình lại quả quyết, phấn chấn tiến lên, không chịu nhẫn
nhục lùi lại, thế là có dũng khí đáng khen. Ôi! Giống bọ ngựa là giống sâu bọ
còn biết thế, huống chi là giống người ta là bậc tinh anh lại chịu kém bọ ngựa
hay sao! Trang Công thật là khéo biết dạy, mà tướng sĩ Trang Công thực là biết
nghe vậy.
84. ỨNG ĐỐI LINH LỢI
Thiệu là con vua Nguyên Đế nhà Tấn, lúc nhỏ đã cực kỳ thông
tuệ.
Một hôm có sứ thần ở Trường An lại, vua Nguyên Đế hỏi thử rằng:
“Trường An gần hay mặt trời gần hơn?”
Thiệu đáp: Trường An gần hơn.
- Tại làm sao?
- Tôi chỉ thấy nói có người ở Trường An lại, chứ chưa từng thấy
nói có người ở mặt trời lại đây bao giờ.
Vua nghe câu nói lấy làm lạ.
Cách mấy hôm, vua đem câu chuyện kể lại cho quần thần nghe.
Nhân Thiệu đứng hầu bên lại hỏi đùa rằng:
- Trường An gần hay mặt trời gần hơn?
Thiệu đáp: Mặt trời gần hơn.
Vua ngạc nhiên hỏi: Sao hôm nay lại trả lời khác hôm nọ như
thế?
- Tôi ngửng đầu lên, tôi trông thấy ngay mặt trời, chớ không
trông thấy Trường An đâu cả.
Vua nghe lại càng lấy làm lạ.
Tấn Sử
GIẢI NGHĨA
Tấn: một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ
Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực
Lệ bây giờ.
Thiệu: sau nối ngôi Nguyên Đế, gọi là vua Minh Đế.
Trường An: tên một thành cũ bên Tàu, tức là bắc huyện Trường
An, tỉnh Thiểm Tây bây giờ.
85. THỬA GIÀY
Nước Trịnh có kẻ định thửa giày, đo chân làm no, rồi để cái
no bên chỗ ngồi. Lúc đi chợ, quên không cầm no đi. Đến hàng giày mới sực nhớ ra
nói rằng: “Thôi quên! Không cầm no đi rồi!”. Rồi, mãi vội chạy về nhà lấy no.
Khi trở lại thì chợ đã tan, không thửa được giày nữa. Có người thấy thế bảo rằng:
“Sao không đưa chân ra người ta đo có được không?”
Anh ta cãi: “Tôi chỉ tin cái no thôi, chớ tôi không tin chân
tôi được.”
Ôi! Thửa giày cốt chỉ đi vừa chân là được mà không tin chân,
chỉ tin cái no đo chân, chẳng là câu nệ quá lắm ư! Ở đời kẻ làm công việc cứ bo
bo giữ lề lối cổ hủ, không biết thế nào là hợp thời thích nghi thì có khác gì
người đi thử giày chỉ tin no đo chân, mà không tin chính chân mình hay chăng?
137
Hàn Phi Tử
GIẢI NGHĨA
Hàn Phi Tử: công tử nước Hàn, học trò Tuân Tử chuyên về bình
danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau
bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà
Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ
Lục C).
Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần
đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
No: các mẫu đo cá, chiều dài, ngắn của đồ vật gì.
86. CỨU NGƯỜI LÚC NGUY CẤP
Trang Chu nghèo túng sang hỏi vay thóc Ngụy Văn Hầu. Ngụy Văn
Hầu nói:
“Tôi có cái ấp, người ta sắp nộp tiền thóc, tôi sẽ cho ông
vay ba trăm lạng, ông có bằng lòng không?”
Trang Chu giận nói: “Khi Chu đến đây, đi giữa đường nghe có
tiếng gọi, ngoảnh lại thấy một con cá đang ngắc ngải trong cái vết bánh xe. Chu
này hỏi: Cá ở đây làm gì thế? -Cá đáp: Tôi là thủy thần ở bên bể Đông mắc nạn tại
đây, ông có thể cho tôi bát nước để cứu tôi lúc nguy cấp này không? -Chu này bảo:
Để tôi qua chơi nước Ngô, nước Việt rồi lấy nước sông Tây Giang về đón ngươi,
ngươi có bằng lòng không? Cá giận nói: Tôi đang cần đến nước, ông chỉ cho tôi
được một ít là tôi sống. Nay ông nói như thế; đợi đến lúc ông về, thì có khi
ông đến chỗ hàng cá khô đã thấy tôi đấy rồi.”
Thuyết Uyển
GIẢI NGHĨA
Thuyết Uyển: bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi
chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
Ngô: tên nước thời Xuân Thu bây giờ vào địa phận phía Nam
sông Hoài, sông Tử cho đến tỉnh Triết Giang bây giờ.
Việt: tên nước thời Xuân Thu ở vào tỉnh Chiết Giang, Giang Tô
và một phần Sơn Đông bây giờ.
Ngụy Văn Hầu: Văn Hầu nước Ngụy, cứ theo sách Trang Tử tuyết
thi là Giám Hà Hầu.
87. NGHÈO MÀ KHÔNG OÁN
Tử Dư làm bạn với Tử Tang. Tử Tang rất nghèo. Gặp khi trời
mưa luôn mười hôm, Tử Dư nhớ đến bạn, nghĩ bụng rằng: “Tử Tang đến khốn mất!”.
Mới bọc gạo đem lại cho.
Lúc đến trước cửa, thấy Tử Tang đang đánh đàn, nửa như khóc,
nửa như hát, tiếng không ra hơi, giọng thì líu nhíu, lắng tai nghe như có câu rằng:
“Cha ư! Mẹ ư! Người ư!”
Tử Dư bước vào hỏi: “Bác đàn hát như thế là làm sao vậy?”
Tử Tang nói: “Tôi nghĩ mãi mà không biết tự đâu đến nông nỗi
cùng cực như thế này? Nào có phải cha mẹ tôi muốn cho tôi nghèo khổ đâu! Nào có
phải trời đất để cho tôi nghèo riêng một mình đâu? Trời không riêng che, đất
không riêng chở một ai...Thực tôi muốn tìm cho biết tự đâu tôi phải chịu cùng cực
như thế này, mà không ra. Vậy thì chẳng phải là cái mệnh nó xui khiến ra như thế
ư!”
Trang Tử Tuyết
GIẢI NGHĨA
Tử Dư, Tử Tang: hai người đời Xuân Thu tính khoáng đạt, chơi
thân với nhau.
LỜI BÀN
138
Tử Tang nghèo mà cho là số mệnh thì ý giống câu ngạn ngữ của
ta: “Số giàu của đến dửng dưng, số nghèo con mắt cháo chưng vẫn nghèo”. Phàm
yên phận nghèo, hay không lo nghèo, hay quên cả cảnh nghèo, đó là nết cao quý của
hiền triết, không để cho cảnh làm lụy được tâm, làm tổn được chí. Nhưng chúng
ta chớ quên rằng những bậc hiền triết thường cần lao, hoặc cầy ruộng hay câu
cá, hoặc kiếm củi hay chăn nuôi cho có đủ sống, rồi các ngài mới sống cho ra sống.
Cần lao để mưu sinh, đó là sự thường, nhưng cần, chúng ta phải có trước đã, để
cho thoát khỏi nhục ký sinh, cái hại cơ hàn thiết thân bất cố liêm sỉ. Khi
chúng ta tự lập được, đã biết trọng liêm sỉ, thì chúng ta mới có thể trở nên
người không lo nghèo được.
88. THÂN TRỌNG HƠN LÀM VUA
Người nước Việt giết ba đời vua. Con vua đời thứ ba tên là
Sưu lo sợ, phải trốn vào ở trong hang.
Nước Việt thành ra không có vua. Người Việt đi tìm con vua
mãi không thấy. Đến lúc tìm thấy ở trong hang thì con vua không chịu ra. Người
Việt một mặt lấy lá ngải hun vào hang, một mặt đem xe đón. Con vua bất đắc dĩ
phải ra. Lúc lên xe, ngửa mặt lên trời kêu to rằng:
“Ôi làm vua! Ôi làm vua! Ta không muốn làm vua, cũng không được
hay sao!”
Con vua lo như thế không phải là ghét làm vua, ghét là ghét
cái họa làm vua. Không muốn làm vua, tức là không chịu lấy cả một nước mà phiền
lụy đến thân mình. Thân mình không muốn phiền lụy, thì khi làm vua, tất không nỡ
làm phiền lụy khổ hại ai. Mà chỉ bởi cái lẽ ấy, người Việt mới cố tôn lên làm
vua cho được.
Trang Tử
GIẢI NGHĨA
Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam
Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lão Tử, sau người ta vẫn xưng Lão Tử với Trang
Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
Việt: tên nước thời Xuân Thu ở vào tỉnh Chiết Giang, Giang Tô
và một phần Sơn Đông bây giờ.
LỜI BÀN
Làm vua thường tình ai chả muốn. Thế mà có người đến làm vua
cũng không muốn! Không phải là ghét gì làm vua, nhưng ghét rằng làm vua, thường
có khi không giữ được toàn tính mệnh. Bài này cốt ý cảnh tỉnh những kẻ ham
danh, ham lợi để hại đến thân. Cứ theo ý tác giả, thì chỉ những người nào không
có chút gì phiền lụy đến tấm thân, mới là không “thương sinh” nghĩa là hại đến
đời mình, mà giữ được “toàn sinh” nghĩa là giữ được đời mình cho trọn vẹn. Còn
như đây không muốn làm vua mà cứ bị tôn lên làm vua, là vì rằng ông thông minh
nhân hậu, lại có đức độ cùng biết người và thương dân thì dân chúng nào chả muốn
tôn lên làm quân trưởng.
89. THÂN TRỌNG HƠN THIÊN HẠ
Nước Hàn, nước Ngụy muốn lấn đất của nhau, Tử Hoa Tử đến ra mắt
vua Chiêu Nghi nước Ngụy, thấy vua có dáng lo buồn, mới hỏi rằng:
“Giá bây giờ cả bao nhiêu nước họp nhau, đính ước một câu và
khắc câu ấy trước mặt vua rằng: “Tay trái lấy được thiên hạ thì hỏng mất tay phải;
tay phải lấy được thiên hạ thì hỏng mất tay trái”. Hỏng mất một tay mới lấy được
thiên hạ, thế thì nhà vua có bằng lòng lấy thiên hạ không?”
Vua Chiêu Hi nói: “Như thế ta chẳng lấy thiên hạ làm gì”.
Tử Hoa Tử thưa: “Nhà vua nói phải lắm. Cứ xem như thế thì hai
cánh tay trọng hơn cả thiên hạ, thì cái thân ta trọng hơn hai cánh tay ta lại
đáng trọng hơn biết là bao! Nước Hàn so với cả thiên hạ bé nhỏ thấm vào đâu! Miếng
đất tranh nhau so với cả
139
nước Hàn bé nhỏ thấm vào đâu! Thế mà sao chỉ vì lo không
tranh được miếng đất nhỏ ấy, mà nhà vua đến nỗi ủ dột, buồn rầu, mất ăn, mất ngủ,
thương sinh quá như vậy?”
Vua Chiêu Hi nói: “Phải lắm. Người dạy bảo quả nhân cũng nhiều,
nhưng chưa từng thấy ai dạy bảo quả nhân được những lời như thế.”
Tử Hoa Tử bàn như thế mới thực là người biết điều khinh, điều
trọng ở đời vậy.
GIẢI NGHĨA
Hàn: một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc ở vào trung
bộ Hà Nam bây giờ. Ngụy: tên một nước về thời Chiến Quốc ở về phía bắc tỉnh Hà
Nam và phía tây nam tỉnh Sơn Tây ngày nay.
Tử Hoa Tử: một nhà học thuyết giỏi nước Ngụy đời vua Chiêu
Hi.
LỜI BÀN
Mất một cánh tay mà được cả thiên hạ còn không muốn, huống
chi hại cả cái thân mà được một miếng đất cỏn con lại còn muốn hay sao! Thế mới
hay, tất cả mọi người, trên tự vua chúa dưới đến thường dân ai ai cũng biết trọng
cái thân mình, quí thân mình hơn cả ngoại vật, nhưng tiếc thay những kẻ có quyền
thế trong tay thường chỉ biết mến một cái thân mình, còn cái thân của người, của
bao nhiêu người lại nỡ đem ra sát hại để thỏa chút lòng tham muốn, cầu lợi rất
đáng khinh bỉ. Nếu ai cũng biết thương sinh là hại, sát sinh là bất nghĩa, thì
còn đâu là những sự chiến tranh hại kể có đến muôn, triệu tính mệnh sinh linh!
90. CHÚC MỪNG
Vua Nghiêu đến chơi đất Hoa. Viên quan giữ cõi đất Hoa chúc rằng:
- Xin chúc nhà vua sống lâu.
Vua Nghiêu nói: Đừng chúc thế.
Viên quan lại chúc: Xin chúc nhà vua giàu có.
Vua Nghiêu nói: Đừng chúc thế.
Viên quan lại chúc: Xin chúc nhà vua lắm con trai.
Vua Nghiêu nói: Đừng chúc thế.
Viên quan lấy làm lạ, hỏi: Sống lâu, giàu có, lắm con trai,
người ta ai cũng muốn, một mình nhà vua không muốn là cớ làm sao?
Vua Nghiêu nói: Lắm con trai thì sợ nhiều; giàu có thì công
việc nhiều; sống lâu thì nhục nhã nhiều. Ba điều ấy không phải là những điều
gây nên đức hay cho mình nên ta từ chối.
Viên quan nói: Nhà vua như thế thực là một bậc quân tử. Nhưng
trời sinh ra người, mỗi đứa cho làm một việc thì có lo sợ gì. Giàu có mà biết
đem của chia với người ta, thì còn công việc gì? Ăn uống có chừng, thức ngủ có
độ, trong bụng lúc nào cũng thư thái tự nhiên, thiên hạ hay ra, thì cũng hay với
thiên hạ, thiên hạ mà dở thì làm cho thiên hạ hay, trăm tuổi thì nhắm mắt về
cõi rất vui, một đời không có tai họa gì, thì còn nhục nhã làm sao được.
Viên quan nói xong lùi ngay. Vua Nghiêu còn muốn nói nữa thì
cho theo không kịp.
GIẢI NGHĨA
Nghiêu: vua đời Đường; vua Nghiêu (2337 TCN–2258 TCN). (Xin
xem thêm Nghiêu ở Phụ Lục C).
Hoa: chỗ vua Nghiêu đóng kinh đô.
Reply With Quote
12-08-2011 08:22 PM #29
140
Truc Vo
View Profile
View Forum Posts Thành Viên
Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
91. NGƯỜI BÁN THỊT DÊ
Vua Chiêu Vương nước Sở mất nước, phải bỏ chạy. Có người hàng
thịt dê tên là Duyệt, cũng chạy theo vua.
Sau vua Chiêu Vương lại trở về, lấy lại được nước. Vua bèn
thưởng những người chạy theo khi trước, có cả anh hàng thịt dê nữa. Ai ai cũng
nhận thưởng, chỉ có anh hàng thịt dê từ chối, nói rằng:
- Trước nhà vua mất nước, tôi mất nghề bán thịt dê, nay nhà
vua còn nước, tôi còn nghề bán thịt dê. Thế là tôi giữ được nghiệp cũ đủ ăn rồi,
còn đâu dám mong thưởng gì nữa.
Vua cố ép. Người hàng thịt dê thưa rằng:
- Nhà vua mất nước không phải là tội tôi, nên tôi không dám
liều chết; nhà vua lấy lại được nước không phải công tôi, nên tôi không dám
lĩnh thưởng.
Vua bảo để rồi ta đến nhà ngươi chơi vậy.
Người hàng thịt dê nói: Theo phép nước Sở, phàm người nào có
công to, được trọng thưởng thì vua mới đến nhà. Nay tôi xét mình tôi trí mưu
không đủ giữ được nước, dũng cảm không đủ giết được giặc. Quân giặc vào trong
nước, tôi lánh nạn, phải theo nhà vua, chớ có phải là cốt ý theo nhà vua đâu!
Nay nhà vua lại muốn bỏ phép nước mà đến chơi nhà tôi, tôi e thiên hạ nghe thấy
lại chê cười chăng.
Chiêu Vương thấy nói, ngoảnh lại bảo Tư Mã Tử Kỳ rằng: Người
hàng thịt dê này tuy làm nghề vi tiện mà giãi bày nghĩa lý rất cao xa. Nhà
ngươi làm thế nào mời được người ấy ra giữ chức tam công cho ta.
Người hàng thịt dê nói: Tôi biết chức tam công là quí hơn cửa
hàng bán thịt dê, bổng lộc nghìn vạn, giàu hơn tiền lãi bán thịt dê. Nhưng tôi
đâu dám tham tước lộc mà để nhà vua mang tiếng là gia ơn không phải nghĩa. Tôi
thực không dám nhận. Xin cho về giữ lấy nghề bán thịt dê.
Nói đoạn, lui ra ngay.
Trang Tử
GIẢI NGHĨA
Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam
Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lão Tử, sau người ta vẫn xưng Lão Tử với Trang
Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ
Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
Tam công: ba chức quan to, đời nhà Chu thì là Thái Sư, Thái
Phó, Thái Bảo, đời nhà Tây Hán thì là Đại Tư Mã, Đại Tư Đồ, Đại Tư Không, đời
nhà Đông Hán thì là Thái Úy, Tư Đồ, Tư Không.
LỜI BÀN
Vua Chiêu Vương muốn thưởng là lấy cái ý khi mình gặp bước
lưu vong mà người ta đi theo mình, là người ta có lòng trung thành với mình.
Người hàng thịt dê không nhận thưởng, là lấy cái nghĩa không đáng nhận vì không
có công cán gì. Nếu ai cũng
141
biết an phận thủ thường, quí trọng nghề nghiệp như người bán
thịt dê, thì còn ai là kẻ ham mê phú quí, quyền thế và sự thưởng phạt ở đời chẳng
là công minh lắm ư! Thực đáng làm gương cho những kẻ không biết liêm sỉ, tài
năng công đức chẳng có gì, mà cũng cố cày cục, chạy chọt lấy chút phẩm hàm chức
vị để lòe đời vậy.
92. THÀNH THỰC
Vợ thầy Tăng Tử đi chợ. Con khóc đòi đi theo. Mẹ bảo: “Con ở
nhà rồi mẹ về mẹ làm thịt con lợn cho ăn.”
Lúc vợ về, thầy Tăng Tử bắt lợn đi làm thịt.
Vợ nói: Tôi nói đùa nó đấy mà.
Thầy Tăng Tử bảo: Nói đùa là thế nào? Đứng khinh trẻ thơ là
không biết gì. Cha mẹ làm gì, nó thường hay bắt trước. Nay mình nói dối nó, chẳng
là mình dạy nó nói dối ư!
Tăng Tử nói xong, làm thịt lợn cho con ăn thực.
GIẢI NGHĨA
Tăng Tử: tức là Tăng Sâm, người thành thực và rất có hiếu, học
trò giỏi của Đức Khổng Tử truyền được đạo đức Khổng Tử có thuật sách Hiếu Kinh
và sách Đại Học. (Xin xem thêm Tăng Tử ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
“Ấu tử thường thi vô cuồng”; câu kinh Lễ đã dạy, ta không nên
nói dối trẻ. Thầy Tăng Tử nhà nghèo, phải giết lợn, mẹ thầy Mạnh Tử cũng có mua
miếng thịt lợn nhà láng giềng cho con ăn, đều là đã trót nói đùa với trẻ cho ăn
thịt lợn, thì không muốn dối trá nó, để giữ lấy lòng thực của nó. Phàm cha mẹ,
ai là không muốn cho con thành thực. Nhưng muốn như vậy, tất phải giữ gìn, chớ
có nói dối nó bao giờ. Lục Chí có câu nói rằng: “ Nều mình không hết lòng thành
mà mong người ta hết lòng thành, chắc người ta chán mình mà không theo mình nữa.
Lần này mình không có lòng thành mà bảo lần sau rồi có lòng thành, chắc người
ta ngờ vực mà không tin nữa”. Cũng một ý với thầy Tăng Tử dạy con vậy.
93. MẸ HIỀN DẠY CON
Thầy Mạnh Tử, thuở nhỏ, nhà ở gần nghĩa địa, thấy người ta
đào, chôn, lăn khóc, về nhà cũng bắt chước đào, chon, lăn khóc. Bà mẹ thấy thế
nói: “Chỗ này không phải chỗ con ta ở được”. Rồi dọn nhà ra gần chợ.
Thầy Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn bán điên đảo, về nhà
cũng bắt chước nô nghịch một cách buôn bán điên đảo. Bà mẹ thấy thế lại nói:
“Chỗ này cũng không phải là chỗ con ta ở được”. Bèn dọn nhà đến ở cạnh trường học.
Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau học tập lễ
phép, cắp sách vở, về nhà cũng bắt chước học tập lễ phép, cắp sách vở. Bấy giờ
bà mẹ mới vui lòng nói: “Chỗ này là chỗ con ta ở được đây”.
Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm giết lợn, về hỏi mẹ:
“Người ta giết lợn làm gì thế”?
Bà mẹ nói đùa: “Để cho con ăn đấy”. Nói xong, bà nghĩ lại hối
rằng: “Ta nói lỡ mồm rồi. Con ta thơ ấu, trí thức mới mở mang mà ta nói dối nó,
thì chẳng ra ta dạy nó nói dối hay sao”? Rồi bà đi mua thịt lợn về cho con ăn
thật.
Lại một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học, bỏ học về nhà chơi. Bà
mẹ đang ngồi dệt cửi, trông thấy, liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên
khung, mà nói rằng: “Con đi học mà bỏ học thì cũng như ta đang dệt tấm vải này
mà cắt đứt đi vậy”.
Từ hôm đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần rồi về sau
thành một bậc đại hiền. Thế chẳng là nhờ có cái công giáo dục quý báu của bà mẹ
hay sao?
142
Liệt Nữ Truyện
GIẢI NGHĨA
Liệt nữ truyện: 1 trong 120 quyển trong Hậu Hán Thư. Hậu Hán
Thư là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của Trung Quốc do Phạm Diệp
biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử và văn bản trước đó làm
nguồn thông tin. Nó bao quát giai đoạn lịch sử Đông Hán từ năm 25 đến năm 220.
Liệt nữ truyện là sách thuật truyện các nhân vật nữ tài giỏi hay ghi chép tiểu
sử các nữ nhân vật lịch sử. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D;
xem thêm Liệt Nữ Truyện trong Phụ Lục D).
Mạnh Tử: tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ hiền dạy bảo, lúc lớn
theo học thầy Tử Tư, lúc học hành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau biết đạo
thông hành, cùng làm sách với học trò là Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn
Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học trò và vua các nước Chư
hầu làm quyển Mạnh Tử, bảy thiên. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Mẹ thầy Mạnh Từ thực là biết dạy con. Mấy lần dọn nhà, thế là
hiểu cái lẽ: gần mực thì đen gần đèn thì rạng. Nói lỡ lời phải mua thịt cho con
ăn, thế là hiểu cái lẽ: chớ nên nói dối trẻ. Thấy con bỏ học mà cầm dao cắt đứt
tấm vải làm thí dụ, thế là hiểu cái lẽ: học hành cốt phải chuyên cần. Người ta
đã nói: người mẹ là thầy giáo thứ nhất của trẻ, nên người mẹ phải biết cách dạy
trẻ mới được. Dạy con từ thuở còn thơ, cái buổi đầu là cái buổi khó, mà cái buổi
ấy là ở trong tay người mẹ, người mẹ tức là người có cái trách nhiệm gia đình
giáo dục rất to, không kém gì người cha, mà có lẽ hơn.
94. NGỌC BÍCH HỌ HOÀ
Nước Sở có người họ Hòa, được một hòn ngọc ở trong núi, đem
dâng vua Lê Vương. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói: “Đá không phải ngọc”.
Vua cho người họ Hòa là nói dối, sai chặt chân trái.
Đến khi vua Vũ Vương nối ngôi, người họ Hòa lại đem ngọc đên
dâng. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói: “Đá không phải ngọc”. Vua lại cho người
họ Hòa là nói dối, sai chặt chân phải.
Đến khi vua Văn Vương lên ngôi, người họ Hòa ôm hòn ngọc,
khóc ở chân núi Sở Sơn suốt ba ngày ba đêm đến chảy máu mắt ra. Vua thấy thế,
sai người đến hỏi. Người họ Hòa thưa: “ Tôi khóc không phải là thương hai chân
tôi bị chặt, chỉ thương về nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho là nói dối”.
Vua bèn sai người xem lại cho rõ kỹ, thì quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên gọi
là “Ngọc bích họ Hòa”.
Hàn Phi Tử
GIẢI NGHĨA
Hàn Phi Tử: Công tử nước Hàn, học trò Tuân Tử chuyên về bình
danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau
bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà
Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ
Lục C).
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ
Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
Lê Vương, Vũ Vương, Văn Vương: ba vua kế tiếp nước Sở.
Ngọc bích: thứ ngọc rất đẹp, rất quý hiếm.
LỜI BÀN
Người ta ở đời thường mờ mịt của thật cho là của giả, sự phải
ngờ là sự trái. Hoặc có ai biết lẽ phải, muốn đem ra bày tỏ, mà thiên hạ không
biết cho, lại còn mỉa mai, thì thực là khổ tâm. Người họ Hòa không đau vì nỗi
hai chân bị chặt, chỉ đau vì nỗi
143
ngọc mà cho là đá, nói thực mà cho là nói dối, quả là một người
vì yêu cái thực, cái phải, cố làm cho sự thực, sự phải phá đổ được sự u mê của
người đời.
95. NUÔI GÀ CHỌI
Vua Tuyên Vương sai Kỷ Sảnh nuôi một con gà chọi.
Được mười hôm, vua hỏi: “Gà đã đem chọi được chưa”?
Kỷ Sảnh thưa: “Chưa được, gà hăng lắm, chưa thấy gà khác đã
muốn chọi rồi”. Cách mười hôm, vua hỏi: “Gà đã đem chọi được chưa”?
Kỷ Sảnh thưa: “Chưa được, gà còn hăng, mới thấy bóng gà khác
đã muốn chọi rồi”. Cách mười hôm, vua lại hỏi: “Gà đã chọi được chưa”?
Kỷ Sảnh thưa: “Chưa được, gà còn hơi hăng, trông thấy gà khác
đã muốn chọi rồi”. Mười hôm sau, vua lại hỏi: “Gà đã đem chọi được chưa”?
Kỷ Sảnh thưa: “Được rồi. Gà bây giờ cho nghe thấy tiếng gà
khác cũng không cho vào đâu. Trông thì tựa như gà gỗ, mà thực thì đủ các ngón
hay. Gà khác coi thấy cũng đủ sợ, phải lùi chạy”.
Trang Tử
GIẢI NGHĨA
Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam
Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lão Tử, sau người ta vẫn xưng Lão Tử với Trang
Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
Tuyên Vương: đây là Tuyên Vương nước Tề.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở
vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Gà gỗ: chữ là Mộc Kê. Các nhà làm văn hay dùng hai chữ ấy để
khen những bậc học tập, tu dưỡng được hoàn toàn, không có gì bộc lộ ra ngoài.
LỜI BÀN
1. Chưa trông thấy gà khác, đã muốn chọi, thế là tức khí hão,
chớ vị tất chọi mà đã được.
2. Trông thấy bóng gà khác, đã muốn chọi, thế là cậy khỏe, chớ
vị tất chọi mà đã được.
3. Trông thực thấy gà khác đã muốn chọi, thế là còn hiều thắng,
chớ vị tất chọi mà đã được.
Chỉ đến lúc mất hết tất cả tức khí, cậy khỏe, hiếu thắng, luyện
đã được hình toàn thần toàn đủ hết cả ngón hay, mà trông bề ngoài trơ ra như gỗ,
là lúc ấy mới chọi được, có khi không phải đợi chọi, gà khác ngó thấy cũng đủ sợ
mà trốn chạy rồi. Thế mới hay những bậc thánh hiền chỉ thu cái tài vào khuôn
phép, nén cái khí vào tâm thần, chỉ cốt trong mình cho đầy đủ, không có ý gì
tranh cạnh với ai, mà thiên hạ hồ dễ đã ai cạnh tranh nổi. Chớ những kẻ chỉ vụ
bề ngoài, chăm chăm danh lợi, có tranh giành mới lấy làm vui lòng, có tham lam
mới lấy làm mãn nguyện, còn là những hạng tầm thường, có khi hại đến thân mà vẫn
tự đắc cho là phải.
96. DÙNG CHÓ BẮT CHUỘT
Nước Tề có người xem tướng chó giỏi. Nhà láng giềng nhờ mua một
con chó hay bắt chuột. Một năm trời anh ta mới mua được, bảo nhà láng giếng:
“Con chó này tốt đấy”
Nhà láng giềng nuôi chó mấy năm mà không thấy nó bắt chuột, mới
nói chuyện với anh ta. Anh ta bảo: “Con chó tốt lắm đấy. Nhưng cái chí nó chăm
bắt hươu, nai, cầy, cáo, chớ không muốn bắt chuột. Bây giờ muốn nó bắt chuột
thì phải cùm chân sau nó lại.”
Nhà láng giềng làm theo như thế, quả sau con chó hay bắt chuột.
144
Lã Thị Xuân Thu
GIẢI NGHĨA
Lã Thị Xuân Thu: Sách của Lã Bất Vi làm. Lã Bất Vi người đời
nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của
Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lã Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm
Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, thì thưởng cho ngàn
vàng". (Xin xem thêm Lã Bất Vi ở Phụ Lục C).
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở
vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
LỜI BÀN
Con chó trước không bắt chuột, là vì nó có tài bắt những hươu
nai, không thèm bắt chuột. Sau nó bắt chuột, là vì người ta đã cùm chân, hãm
cái tài nó lại, không cho chạy nhanh quá. – Cốt ý bài ngụ ngôn này nói kẻ có đại
tài mà đem dùng vào việc nhỏ thì không được việc. Muốn cho được việc, thì người
dùng tất phải biết chế hạn cái tài ấy lại. Nên người có tài mà làm được việc
hay không làm được việc, là cốt ở người biết dùng hay không biết dùng mà thôi.
Nhưng muốn cho người có cái tài to làm việc nhỏ thì phải làm cho mất cái tài to
đi đã, thì chẳng đáng tiếc cho người có tài mà chẳng gặp được tri kỷ lắm ru!
97. LỜI NÓI NGƯỜI BÁN CAM
Ở Hàng Châu có người bán các thứ quả, khéo để dành cam, lâu
mà không úng, vỏ vẫn đỏ hồng, trông đẹp như vàng, như ngọc, đem ra chợ bán giá
đắt, mà người ta tranh nhau mua. Ta cũng mua một quả. Đem về, bóc ra, hơi xông
lên mũi, múi xác như bông nát. Ta liền đem ra chợ, hỏi người bán cam:
“Anh bán cam cho người ta để làm của cúng lễ, đãi tân khách
hay là chỉ làm cho choáng bề ngoài để đánh lừa người ta? Tệ thật! Anh giả dối lắm”!
Người bán cam cười nói:
Tôi làm nghề này đã lâu năm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán,
người ta mua, chẳng ai nói gì, chỉ có ông là kêu ca. Thiên hạ giả dối nhiều, chẳng
phải gì một mình tôi? Ông thật không chịu nghĩ đến nơi.. Này thử xem, người đeo
hổ phù, ngồi da hổ, hùng dũng trông ra dáng quan võ lắm, kỳ thực không biết có
giỏi được như Tôn Tẫn, Ngô Khởi hay không? Người đội mũ cao, đóng đai dải, đường
hoàng trông ra dáng quan văn lắm, kỳ thực không biết có giỏi như Y Doãn, Cao
Dao không? Giặc nổi không biết dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại tham nhũng
không biết trừng trị, pháp độ hỏng nát không biết sửa đổi, ngồi không ăn lương,
không biết xấu hổ. Thế mà lúc ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn của
quý, oai vệ, hách dịch vô cùng!.. Đó bề ngoài chẳng như vàng, như ngọc, mà bên
trong chẳng như bông nát là gì? Ông không chịu xét những hạng người ấy mà đi
xét quả cam của tôi!
Ta nghe nói thế, nín lặng, không trả lời được ra làm sao. Ta
nghĩ người ấy nói có giọng khôi hài. Dễ chừng người ấy ghét kẻ gian tà, giận
phường thế tục mới thác ra chuyện bán cam để dạy người đời chăng?
Lưu Cơ
GIẢI NGHĨA
Lưu Cơ: Người đời Minh tên tự là Bá Ôn có công giúp vua Thái
Tổ gây dựng lên nhà Minh, giỏi văn chương lại kiêm cả thiên văn binh pháp.
Hàng Châu: tên một phủ tức tỉnh lỵ Chiết Giang bây giờ.
Tôn Tẩn, Ngô Khởi: hai người làm tướng võ giỏi thời Chiến quốc.
Y Doãn: tướng giỏi đời vua Thang nhà Thương.
Cao Dao: tướng giỏi thời vua Nghiêu vua Thuấn.
LỜI BÀN
145
Người bán cam đây chẳng qua chính là tác giả. Mà cốt ý của
tác giả là muốn lấy quả cam đẹp vỏ, thúi ruột mà bóc cả cái hách dịch oai vệ bề
ngoài của những bậc quan lớn một đời suy đốn, để phơi bày cái thực tình bất
tài, bất trí, bất dũng ở bên trong. Nói rộng ra, bài này có ý dạy ta không nên
tin bề ngoài, cũng như những bài ngụ ngôn nói: cái thùng không, bông lúa lép
hay những câu ca dao:
Trông em, anh ngỡ sao mai, biết rằng trong có như ngoài hay
không. Nhác trông ngỡ tượng tô vàng, nhìn ra mời biết chẫu chàng ngày mưa. Thật
là có ý vị.
98. VỢ CHỒNG NGƯỜI NƯỚC TỀ
Người nước Tề có hai vợ, vợ cả và vợ lẽ. Ngày ngày, chồng cứ
sáng ra đi, tối đến mới về, mà hôm nào về cũng no say phè phỡn. Hai vợ thường hỏi:
“Đi ăn với ai mà đi luôn thế?”
Anh ta nói: “Ta đi ăn với toàn những bậc giàu có, sang trọng
cả”.
Một hôm, vợ cả bảo vợ bé: “Chồng ta chơi bời toàn những bậc
giàu sang, mà sao không thấy một người nào giàu sang đến chơi nhà nhỉ? Ta thử
dò xem chồng ta đi những đâu và chơi với những ai”.
Hôm sau, vợ cả dậy sớm, lẻn đi theo chồng. Đi cùng làng này,
xóm khác, chẳng thấy một người nào dừng lại nói chuyện với chồng mình cả. Khi
đi đến phía đông ngoại thành, thấy có đám cất mả, người ta đang tế lễ, ăn uống,
đã thấy chồng lật đật lại đấy, xin những cơm thừa canh cặn, ăn lấy ăn để. Ăn
xong, lại ngong ngóng đi chỗ khác.
Bấy giờ chị ta mỡi rõ cái cách chồng ngày ngày ăn uống no say
là thế, tủi thẹn vô cùng, ngậm ngùi trở về; kể chuyện cho vợ bé nghe, rồi than
rằng: “Chồng là người trông cậy suốt đời, ai ngờ chị em ta lại gặp phải một người
chồng đê mạt quá đến như thế!”. Nói đoạn, hai người ngồi trông nhau giữa sân sụt
sùi khóc. Ngay lúc đấy anh chồng ngất ngưởng ở đâu về, vẫn ra bộ làm kiêu với
hai vợ như những hôm trước.
Ôi! Đem con mắt tinh đời mà coi, thì ngày nay những kẻ cầu
công danh phú quí hồ dễ không mấy kẻ mà ở nhà vợ cả vợ lẽ không thẹn không tủi,
không ngấm ngầm khóc với nhau như hai vợ người nước Tề này!
Mạnh Tử
GIẢI NGHĨA
Mạnh Tử: tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ hiền dạy bảo, lúc lớn
theo học thầy Tử Tư, lúc học hành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau biết đạo
thông hành, cùng làm sách với học trò là Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn
Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học trò và vua các nước Chư
hầu làm quyển Mạnh Tử, bảy thiên. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở
vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
LỜI BÀN
Lấy đức, lấy tài, lấy học thức đường đường chính chính mà được
công danh phú quí thì còn gì bằng. Nhưng nịnh nọt, luồn cúi, làm những việc đê
hạ, mất cả phẩm giá con người, để chen chúc vào đám công danh để cầu lấy chút
phú quí, thì tưởng không còn gì đáng khinh hơn nữa! Thế mà đến lúc được công
danh phú quí, lại còn vác mặt làm cao, ra dáng hách dịch, thiên hạ người ta biết
ta, thì còn ai cho vào đâu nữa! Tưởng rằng khuất một người để đè muôn nghìn người,
nhưng dù người ta có e lệ bề ngoài, trong bụng người ta cũng không sao trọng được.
Thầy Mạnh Tử đặt ra câu chuyện người nước Tề này thật là phơi bày được cái xấu
xa của những kẻ quen thói cầu công danh phú quí “hôn dạ khất ai, kiêu nhân bạch
nhật” (đêm khuya van
146
lạy, ban ngày vênh váo khinh người) vào những thời buổi mạc tục
vậy.
99. ĐẦY THÌ ĐỔ
Đức Khổng Tử vào xem miếu Hoàn Công nước Lỗ, có một cái lọ dựng
nghiêng. Ngài hỏi người coi miếu. Người này nói rằng:
“Đó là một vật quí của nhà vua thường để bên chỗ ngồi chơi để
làm gương.”
Đức Khổng Tử nói: “Ta nghe nói nhà vua có vật quí để làm
gương, vật đó bỏ không thì đứng nghiêng, đổ nước vừa vặn thì đứng ngay, mà đầy
quá thì lại đổ, có lẽ vật này chăng.”
Ngài bèn sai học trò đổ nước vào. Quả nhiên nước đổ vừa, thì
lọ đứng ngay; nước đổ đầy, thì lọ đổ; bỏ không thì lọ lại đứng nghiêng. Ngài
chép miệng than rằng: Hỡi ôi! Ở đời chẳng có cái gì đầy mà không đổ!
Thầy Tăng Tử nói: Dám hỏi có cách gì giữ cho đầy mà không đổ
không?
Ngài nói: Thông minh thánh trí nên giữ bằng cách ngu độn,
công lao to lớn thiên hạ nên giữ bằng cách khiêm cung; sức khỏe hơn đời nên giữ
bằng tính nhút nhát; giàu có bốn bể nên giữ bằng thói nhún nhường. Đó là cách đổ
bớt đi để giữ cho khỏi quá đầy mà đổ.
Tuân Tử
GIẢI NGHĨA
Tuân Tử: tên thật là Huống, tên tự là Khanh, người nước Triệu,
sinh ra sau Mạnh Tử độ 50 năm, thấy đời bấy giờ cứ loạn luôn mãi và phong hóa
suy đồi, làm sách nói về lễ nghĩa, lễ nhạc, cốt ý để chỉnh đức và hành đạo.
(Xin xem thêm Tuân Tử ở Phụ Lục C).
Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là
Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt
mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
Tăng Tử: tức là Tăng Sâm, người thành thực và rất có hiếu, học
trò giỏi của Đức Khổng Tử truyền được đạo đức Khổng Tử có thuật sách Hiếu Kinh
và sách Đại Học. (Xin xem thêm Tăng Tử ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Mặt trời đứng bóng rồi xế, mặt trăng tròn rồi lại khuyết;
nhân sự cũng vậy, thăng rồi trầm, thịnh rồi suy, đó là luật tự nhiên khó mà
tránh khỏi. Tuy vậy cứ theo lời dạy của Khổng Tử đây thì cũng có cách giữ được
lâu dài mà không suy đổ. Cách ấy là “Hữu nhược vô, thực nhược hư” nghĩa là có
mà như không, đầy đặc mà như trống rỗng.
Reply With Quote
12-08-2011 08:22 PM #30 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
100. ÔNG LÃO BÁN DẦU
Ông Trần Nghiêu Tư làm quan đời nhà Tống, bắn cung giỏi có tiếng
ở đời bấy giờ
147
không ai bằng. Ông cũng lấy thế là kiêu căng.
Ông thường bắn trong vườn nhà. Một hôm có ông lão bán dầu đi
qua, thấy ông đang bắn, đặt gánh xuống, ngấp nghé xem mãi. Ông lão thấy ông
Nghiêu Tư bắn mười phát trúng được tám chín thì hơi gật gù mỉm cười. Nghiêu Tư
gọi vào hỏi:
“Nhà ngươi cũng biết bắn à? Ta bắn chưa được giỏi hay sao?”
Ông lão nói: Chẳng phải giỏi gì cả. Chẳng qua là quen tay
thôi.
Nghiên Tư giận lắm, bảo: À nhà ngươi giám khinh ta bắn không
giỏi à?
Ông lão nói: Cứ xem tôi rót dầu thì đủ biết.
Nói đoạn bèn lấy một cái bầu đặt xuống đất, để đồng tiền lên
miệng, lấy cái môi từ từ rót dầu qua lỗ đồng tiền, mà không dây một tí dầu nào
ra đồng tiền cả.
Rồi nói: Tôi cũng chẳng phải giỏi gì, chỉ quen tay mà thôi.
Nghiêu Tư cười, chịu là phải.
Âu Dương Tu
GIẢI NGHĨA
Âu Dương Tu: Người đời nhà Tống thi đỗ tiến sĩ làm quan Hiếu
sư, là một nhà văn chương có tiếng. (Xin xem Âu Dương Tu ở Phụ Lục C).
Trần Nghiêu Tư: người đời nhà Tống, làm quan Tiết độ sứ là
người có chí khí, viết tốt và bắn giỏi.
Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất,
ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
148
101. GẶP QUỈ
Hoàn Công nước Tề đi săn ngoài đầm có Quản Trọng theo hầu.
Hoàn Công trông thấy quỉ, nắm tay Quản Trọng hỏi rằng:
-Trọng phụ có thấy gì không?
Quản Trọng thưa: Thần không thấy gì cả.
Hoàn Công về nghe trong người khó chịu, như là mất vía, rồi
sinh ốm, mấy hôm không ra chầu.
Có người học trò tên Cáo Ngao vào ra mắt nói rằng:
- Nhà vua đau, là tự mình làm ra cả, chớ ma quỉ nào làm được!
Phàm chưng khí tán mà không thu lại được, thì tinh thần suy yếu; cái khí ấy bốc
lên trên không xuống được, thì làm cho người ta hay giận dữ, cái khí ấy tụ ở dưới
không vận lên được thì làm cho người ta hay mê lú, chóng quên, cái khí ấy không
lên không xuống, kết ở giữa bụng, thì sinh ra hoảng hốt.
Hoàn Công hỏi: Thế nhưng có quỷ thực không?
Cáo Ngao thưa: Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá, núi có Sơn Thần,
bể có Long Vương, đầm có thứ quỷ gọi là Uy Di.
Hoàn Công hỏi hình dạng Uy Di thế nào?
Cáo Ngao thưa: Quỷ Uy Di to như cái cối xe, dài như cái càng
xe, mặc áo tía, đội mũ đỏ, tính hay sợ tiếng sấm, tiếng xe, hễ nghe thấy thì đứng
sững, hai tay ôm lấy đầu. Ai trông thấy, thì...rồi làm nên đến nghiệp Bá.
Hoàn Công vẫn có chí muốn làm Bá, nghe nói hớn hở cười rằng:
“Ấy ta trông thấy cũng như thế đấy”.
Nói đoạn, sửa mũ, mặc áo, ngồi dậy chưa hết một ngày, bệnh đã
khỏi tự bao giờ không biết.
Trần Tử Tuyết
GIẢI NGHĨA
Hoàn Công: vua nước Tề, đứng đầu Ngũ Bá thời Xuân Thu. (Xin
xem thêm Tề Hoàn Công ở Phụ Lục C).
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở
vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Quản Trọng: tên là Di Ngô, người nước Tề, làm tướng giúp Hoàn
Công giỏi có tiếng. Trọng phụ: trọng tôn Quản Trọng; phụ: cha, gọi như thế có ý
tôn Quản Trọng như cha.
LỜI BÀN
Hoàn Công thấy quỷ, sinh lo ngờ mà sinh bệnh, sau có người
nói thấy quỉ mà làm được nghiệp bá thì khỏi bệnh ngay. Thế mới biết có quỷ hay
không có quỷ, quỷ hại mình hay lợi cho mình, cũng là tự tâm mình tưởng tượng ra
cả, rồi yên trí như thế mà thôi. “Đau là tại mình chớ quỷ nào làm?” Câu Cáo
Ngao nói thật là xác lý, Cáo Ngao lại khéo biết trước, lấy lẽ thuốc thang làm như
ông lang rõ bệnh của người ốm, khiến người ốm để tai nghe, sau lấy chuyện vu vơ
đâu đâu mà xử được chuyện mơ hoảng khiến người mới phá được cái lòng lo ngờ mà
hóa nên vui vẻ. Tiếc thay đời bây giờ người mê như Hoàn Công thật lắm, mà người
biết giải mê được như Cáo Ngao lại không được mấy người.
102. MUA NGHĨA
Mạnh Thường Quân nhà giàu cho vay mượn nhiều. Một hôm sai
Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi: “Tiền nợ thu được
có định mua gì về không? – Mạnh Thường Quân nói: Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu
thứ gì, thì mua”.
Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân lại bảo rằng: “Các
ngươi công nợ bao
149
nhiêu Thường Quân đều cho cả”. Nói rồi đem văn tự ra đốt sạch.
Lúc về, Phùng Huyên thưa với Mạnh Thường Quân rằng: Nhà Tướng
Công châu báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, người đẹp đầy nhà, không còn thiếu
gì nữa. Chỉ có thiếu một cái “nghĩa” tôi trộm phép vì tướng công đã mua về.
Mạnh Thường Quân nghe thấy nói thế, cũng không hỏi gì đến tiền
nữa.
Sau Mạnh Thường Quân phải bãi quan về ở đất Tiết, dân đất Tiết
nhớ đến ơn xưa, ra đón rước đầy đường, Mạnh Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh lại
bảo Phùng Huyên rằng: “Trước tiên sinh vì tôi mua “nghĩa”, nghĩa ấy ngày nay
tôi mới trông thấy”.
Quốc Sách
GIẢI NGHĨA
Mạnh Thường Quân: con vua nước Tề thời Chiến Quốc, họ Điền
tên Văn làm Tướng Quốc nước Tề có tiếng là người hào hiệp, trong nhà lúc nào
cũng tiếp đãi đến vài nghìn người khách.
Phùng Huyên: người khách lúc ở nhà Mạnh Thường Quân, muốn gì
được nấy, nên giúp Thường Quân được nhiều việc, khi Thường Quân bị bãi về, cũng
nhờ có Phùng Huyên mà được phục chức.
Tiết: tên một nước nhỏ thời Chiến Quốc, sau bị nước Hồ lấy mất,
nay là huyện Đằng, tỉnh Sơn Đông.
103. ỨNG ĐỐI GIỎI
Án Tử sắp sang nước Sở, vua Sở nghe thấy bảo cận thần rằng:
- Án Tử là một tay ăn nói giỏi nước Tề, nay sắp sang đây, ta
muốn làm nhục, có cách gì không?
Cận thần thưa: Đợi bao giờ Án Tử sang, chúng tôi xin trói một
người, dẫn đến trước mặt nhà vua.
- Để làm gì?
- Để giả làm người nước Tề.
- Cho là phạm tội gì?
- Tội ăn trộm
Lúc Án Tử đến nơi, vua Sở làm tiệc thiết đãi tử tế. Rượu uống
ngà ngà, bỗng thấy hai tên lính điệu một người bị trói vào.
Vua hỏi: Tên kia tội gì mà phải trói thế?
Lính thưa: Tên ấy là người nước Tề phải tội ăn trộm.
Vua đưa mắt nhìn Án Tử hỏi rằng:
- Người nước Tề hay trộm cắp lắm nhỉ?
Án Tử đứng dậy thưa rằng: Chúng tôi trộm nghe cây quất mọc ở
đất Hoài Nam, thì là quất ngọt, đem sang trồng ở đất Hoài Bắc, thì hóa quất
chua. Cành lá giống nhau mà quả chua, quả ngọt khác nhau là tại làm sao? Tại thủy
thổ khác nhau vậy. Nay dân sinh trưởng ở nước Tề thì không ăn trộm, sang ở nước
Sở thì sinh trộm cắp. Có lẽ cũng tại vì cái thủy thổ khác nhau nó khiến ra như
thế chăng!
Vua Sở cười nói: Ta muốn nói đùa thành phải chịu nhục. Thế mới
hay kẻ cả không nên nói đùa bao giờ.
Án Tử Xuân Thu
GIẢI NGHĨA
Án Tử Xuân Thu: bộ sách ghi chép những công việc cùng lời nói
của Án Tử. Án Tử tức Án Anh, tên tự là Bình Trọng, người nước Tề thời Xuân Thu,
làm tướng ba đời vua Linh Công, Trang Công, Cảnh Công, có tính cần kiệm, một bụng
trung thành nổi tiếng thời bấy giờ.
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ
Bắc, Giang Tô,
150
Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở
vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Hoài Nam, Hoài Bắc: hai đất ở về phía Nam, phía bắc sông Hoài
ở vùng Giang Tô, An Huy bây giờ.
104. HÀ CHÍNH MÃNH Ư HỔ
Đức Khổng Tử khi sang nước Tề, đi qua núi Thái Sơn, thấy một
ngưới đàn bà khóc ở ngoài đồng, nghe thê thảm lắm. Ngài nói rằng:
“Người đàn bà này xem như trong nhà có trùng tang”.
Rồi sai thầy Tử Cống đến hỏi. Người đàn bà thưa rằng:
“Ở đây lắm hổ, bố chồng tôi đã chết vì hổ, chồng tôi đã chết
vì hổ, bây giờ con tôi lại chết vì hổ nữa. Thảm lắm ông ạ”!
Thầy Tử Cống bảo:
“Thế sao không bỏ chỗ này đi ở chỗ khác”?
Người đàn bà nói:
“Tuy vậy nhưng ở đây chính sách quan trên không đến nỗi hà khắc
tàn bạo như các nơi khác”.
Thầy Tử Cống đem câu chuyện thưa lại với Đức Khổng Tử.
Đức Khổng Tử nói:
Các ngươi nhớ đấy: Chính sách hà khắc khốc hại hơn là hổ.
Lễ ký
GIẢI NGHĨA
Lễ ký: hay còn gọi là Kinh Lễ là một quyển trong bộ Ngũ Kinh
của Khổng Tử, tương truyền do các môn đệ của Khổng Tử thời Chiến quốc viết, ghi
chép các lễ nghi thời trước. Ngũ Kinh gồm có: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh
Dịch và Kinh Xuân Thu. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem
thêm Lễ ký trong Phụ Lục D). Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là
Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở
vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Tử Cống: học trò Đức Khổng Tử giỏi về khoa ngôn ngữ.
LỜI BÀN
Người đàn bà ở một nơi lắm hổ, hổ ăn thịt mất bố chồng, mất
chồng lại mất con, đáng lẽ phải bỏ nơi ấy mà đi nơi khác. Nhưng không là tại
làm sao? Tại người đàn bà cho chính sách các nơi khác là hà khắc dữ hơn là hổ.
Ôi! Hổ có hại chỉ một số ít người, chớ hà chính hại cả muôn dân; hổ có hại chỉ
hại một phương, chớ hà chính hại cả toàn quốc. Hổ hại còn có cạm bẫy, cạm trừ bỏ
được, chớ hà chính hại, trừ bỏ rất khó lòng. Thật vậy, kẻ dùng hà chính hại dân
đã dữ quá hổ, lại còn bao nhiêu thần tử bè cánh, họ a dua phụ họa, phần làm cho
hổ có thêm cánh, phần mượn oai hổ đi ăn thịt người. Hà chính một khi trừ bỏ được
thì dân cũng đã điêu tàn và nước cũng đã bao kiệt. Vậy ai là người có chút quyền
chính trong tay, mà chẳng nên lấy câu “Hà chính mãnh ư hổ” để làm câu cảnh giới
thống thiết cho dân được nhờ ư.
105. HANG NGU CÔNG
Vua Hoàn Công nước Tề đi săn, đuổi con hươu chạy vào trong một
cái hang, thấy có một ông lão, bèn hỏi rằng:
-Hang này tên gọi là hang gì?
Ông lão thưa:
-Tên là hang Ngu Công
151
-Tại làm sao mà đặt tên như thế?
-Tại kẻ hạ thần đây mới thành có tên ấy.
-Coi hình dáng lão, không phải người ngu cớ gì lại đặt cái
tên như thế?
Để hạ thần xin nói:
- Nguyên hạ thần có con bò cái đẻ được một con. Khi bò con đã
lớn, hạ thần đem đi bán, rồi lấy tiền mua một con ngựa con đem về cùng nuôi với
bò cái. Một hôm, có một chàng thiếu niên đến lấy lý “bò không đẻ được ra ngựa”
bèn bắt con ngựa con đem đi. Tôi chịu mất, không cãi được. Vì thế xa gần đâu
cũng cho tôi là ngu, mới gọi hang tôi ở đây là hang Ngu Công.
Hoàn Công nói:
- Lão thế thì ngu thật!
Buổi chiều hôm sau, Hoàn Công đem câu chuyện kể lại cho Quản
Trọng nghe.
Quản Trọng nói:
-Đó chính là cái ngu của Di Ngô này. Nếu được vua giỏi như
vua Nghiêu, bầy tôi minh như Cao Dao, thì khi nào lại có kẻ dám ngỗ ngược, lấy
không ngựa của người ta như vậy. Ngu Công mà đành để mất ngựa, chắc biết rõ
hình pháp ngày nay không ra gì. Xin nhà vua kíp chỉnh đốn các chính sự lại.
Đức Khổng Tử nghe thấy nói:
-Đệ tử đâu, ghi lấy việc ấy! Hoàn Công là bá quân, Quản Trọng
là hiền thần. Tuy đã vào bậc khôn ngoan, mà còn tự cho là ngu dại.
Khổng Tử tập ngữ
GIẢI NGHĨA
Khổng Tử Tập Ngữ: sách chép những lời nói, những truyện về đức
Khổng Tử. - Khổng Tử tên là Khâu, tên tự là Trọng Ni, người nước Lỗ, thời Xuân
Thu nhà Chu, học về Lễ, Nhạc, Văn chương đời cỗ, đi nhiều nước chư hầu không được
dụng bỏ về làm kinh Xuân Thu, san định các kinh Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc và dạy
học trò được ba nghìn người, có bảy mươi hai người giỏi. Nước Tàu xưng làm Tổ đạo
Nho. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
Hoàn Công: vua nước Tề, đứng đầu Ngũ Bá thời Xuân Thu. (Xin
xem thêm Tề Hoàn Công ở Phụ Lục C).
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở
vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Cao Dao: tướng giỏi thời vua Nghiêu vua Thuấn.
Ngu Công: ông ngu dại.
Di Ngô: tên của Quản Trọng.
Quản Trọng: Tên là Di Ngô, người nước Tề, làm tướng giúp Hoàn
Công giỏi có tiếng.
LỜI BÀN
Ông lão cam tâm mất ngựa lại chịu cả tiếng “ngu” là ý lão
nghĩ gặp phải thời buổi người trên tham nhũng, kẻ dưới hung nghịch, đành chịu để
êm chuyện đi, còn hơn dở khôn đi kiện, chẳng những mất ngựa, mà có khi lại mất
cả bò và bao tiền của, thời giờ vào đấy nữa. Hoàn Công thấy chuyện mà lưu tâm đến,
thế là ông vua có bụng với dân. Quản Trọng nghe chuyện mà biết nhận ngay cái lỗi
ấy tại mính, thế là cũng là hai bậc minh quân, lương tướng hiểu rõ cái trách
nhiệm chăm dân của mình, nên Đức Khổng Tử có lời khen thực là đáng lắm. Vì rằng
giữ vận mệnh một dân tộc mà không hiểu thấu ẩn tình của dân, thì tuy có lòng
thương dân, dân vẫn khổ và nước vẫn không yên được.
106. TRUNG HIẾU LƯỠNG TOÀN
Đời vua Chiêu Vương nước Kinh, có người Thạch Chử làm quan rất
công bình chính
152
trực.
Một hôm, đang đi tuần trong hạt, thấy ở ngoài đường có kẻ giết
người. Thạch Chử đuổi bắt, thì ra chính cha mình, bèn quay xe trở lại. Rồi chạy
đến trước sân rồng, nói rằng:
Kẻ giết người là cha tôi. Bắt cha mà làm tội thì tình không nỡ,
vì cha mà bỏ phép nước thì lý không xuôi. Làm quan đã không giữ phép thì phải
chịu tội. Vừa nói vừa kề gươm vào cổ, xin vua cho hành hình.
Vua nói:
Nhà ngươi đuổi mà không bắt được đã là biết giữ phép, còn có
tội gì. Cứ yên tâm làm chức vụ.
Thạch Chử thưa:
Làm con không biết ủy khúc thờ cha, không gọi là người con có
hiếu, làm tôi không công bằng giữ phép nước, không gọi là bầy tôi trung. Bao
dung mà xá tội là ơn của quân thượng; trái phép mà chịu tội là phận của tôi
con.
Nói đoạn cầm gươm tự sát.
Không giữ phép nước thì chết, cha phạm tội không nỡ bắt, vua
tha tội không chịu nhận. Người Thạch Chử làm quan như thế, thật là người trung
hiếu lưỡng toàn.
Lã Thị Xuân Thu
GIẢI NGHĨA
Lã Thị Xuân Thu: Sách của Lã Bất Vi làm. Lã Bất Vi người đời
nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của
Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lã Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm
Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, thì thưởng cho ngàn
vàng". (Xin xem thêm Lã Bất Vi ở Phụ Lục C).
Kinh: cũng là tên nước Sở, một nước lớn thời Xuân Thu ở vào
vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ. (Xin xem thêm nước Sở).
Thạch Chử: tức Thạch Xa, tướng giỏi của vua Chiêu Vương, người
thanh liêm chính trực.
LỜI BÀN
Đồng thời bấy giờ có kẻ, vì thù cha mà quật mả vua lên mà
đánh vào xác, thật là người có hiếu nhưng không có trung. Lại có kẻ, vì phép nước
mà làm chứng nói thẳng cha ăn trộm dê thật là người có trung nhưng không có hiếu.
Sao bằng Thạch Chử đây, giết cha đã không nỡ, dối vua lại không đành, cam chịu
trái phép để cứu cha, thí thân để giữ phép. Thực mới là trọn được cả đôi niềm
trung hiếu vậy. Ta cũng nên biết khổ tâm của Thạch Chử có khi là: được vua tha
cho mà cứ cẩu thả sống, sống chỉ càng làm to cái hung ác của cha, giết người
không tội vạ, kết cục liệu cha có thoát án tử hình không. Sống chỉ tăng cái tư
tình của vua để cho vua khinh nhờn phép nước, biết đâu sau này không gây ra cuộc
rối loạn trị an, thì thà một chết còn hơn đối với gia đình đủ làm cho cha hối hận
mà tuyệt được mầm ác; đối với tổ quốc đủ làm cho vua tỉnh ngộ mà tự mình giữ
phép để trọng tính mệnh dân. Thạch Chử không những trung hiếu mà còn là nhân nữa.
107. MONG LÀM ĐIỀU PHẢI
Nước Lỗ có người ở một mình một nhà. Bên láng giềng có người
đàn bà góa cũng ở một mình một nhà.
Một đêm, mưa to, gió lớn, nhà người đàn bà đổ, người đàn bà
sang xin ngủ nhờ nhà người láng giềng. Người láng giềng đóng cửa không cho vào.
Người đàn bà đứng trước cửa sổ nói rằng: “Ngươi sao bất nhân thế! Không cho ta
vào ư”?
Người láng giềng đáp: “Ta nghe đàn ông, đàn bà sáu mươi tuổi
trở lên, mới ở chung được, nay người còn trẻ mà ta cũng còn trẻ cho nên ta
không cho người vào ngủ
153
nhờ được”.
Người đàn bà nói: “Ngươi sao không làm như ông Liễu Hạ Huệ ủ
người con gái ngồi vào lòng mà không tai tiếng gì”?
- “Ông Liễu Hạ Huệ thì thế được, ta đây thật chưa thể được.
Ví ta cho ngươi vào, mà ta không được như ông Liễu Hạ Huệ, thì thà rằng, ta
không cho ngươi vào mà ta cũng giữ không tai tiếng gì được như ông Liễu Hạ Huệ.
Thế chẳng là ta không làm theo như Liễu Hạ Huệ mà cũng được như Liễu Hạ Huệ ư”?
Đức Khổng Tử nghe chuyện, nói: “Phải lắm! Kẻ muốn học ông Liễu
Hạ Huệ, chưa ai giống được như người nước Lỗ này: mong làm điều rất phải, không
bắt chước cách làm, rồi mà làm được, thế mới thật khôn”.
Lã Thị Xuân Thu
GIẢI NGHĨA
Lã Thị Xuân Thu: Sách của Lã Bất Vi làm. Lã Bất Vi người đời
nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của
Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lã Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm
Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, thì thưởng cho ngàn
vàng". (Xin xem thêm Lã Bất Vi ở Phụ Lục C).
Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt
mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là
Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
Liễu Hạ Huệ (720 TCN- 621 TCN): tên thật là Triển Cầm, tự là
Quý, người đất Liễu Hạ, nước Lỗ, thời Xuân Thu, nổi tiếng là một chính nhân
quân tử. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục C; xem thêm Liễu Hạ Huệ
trong Phụ Lục C).
108. KẺ BẤT CHÍNH
Nước Sở có người có hai vợ. Vợ cả và vợ lẽ cùng đẹp, cùng
xinh.
Anh láng giềng ghẹo người vợ cả. Người vợ cả giận và mắng thậm
tệ. Anh láng giềng lại ghẹo người vợ lẽ, người vợ lẽ bằng lòng đi lại.
Không bao lâu, người hai vợ ấy chết. Anh láng giềng muốn tính
cuộc vuông tròn lại dạm hỏi người vợ cả.
Có kẻ hỏi rằng: “Người vợ cả trước đã mắng anh, người vợ lẽ vẫn
có tình với anh, sao bây giờ anh lại định lấy người vợ cả?”
Anh ta đáp: “Lúc người ta còn là vợ người, thì thích kẻ tư
tình với mình, lúc người ta đã là vợ mình thì thích kẻ không tư tính với ai. Kẻ
trước đã tư tình với tôi, thì rồi ai nó cũng tư tình được, thiên hạ ai cũng là
chồng nó được. Cho nên bây giờ tôi không lấy nó”.
Thế mới hay con người bất chính đi làm tôi tớ người ta, dù
làm cho người ta bằng lòng đến đâu, người ta vẫn rẻ rúng khinh bỉ.
GIẢI NGHĨA
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ
Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
LỜI BÀN
Ở đời những kẻ dễ đổi lòng như người vợ lẽ nói trong chuyện
này là những kẻ bất chính. Đã bất chính thường hay phản trắc, rất nên khinh bỉ.
Còn những kẻ chính trực như người vợ cả nói trong chuyện này, thì lúc nào cũng
thuần thục thẳng băng dù chẳng may gặp sự khó khăn, thiên hạ như có phần không
ưa, mà thực trong bụng vẫn kính phục vô cùng. Ta có hiểu rõ cái tâm lý ấy như
người lấy vợ đây thì mới gần được người quân tử mà xa được kẻ tiểu nhân.
154
109. NHÂN TRUNG DÀI SỐNG LÂU
Một hôm vua Vũ Đế nhà Hán nói với các quan rằng:
Ta xem trong sách tướng có nói: người ta nhân trung dài một tấc
thì sống lâu đến một trăm tuổi.
Đông Phương Sóc đứng bên, phì cười. Các quan hặc là vô phép.
Đông Phương Sóc cất mũ, tạ rằng:
“Muôn tâu Bệ hạ, kẻ hạ thần không dám cười bệ hạ, chỉ cười
ông Bành Tổ mặt dài thôi”.
Vua hỏi: “Sao lại cười ông Bành Tổ?”
Đông Phương Sóc nói: “Tục truyền ông Bành Tổ sống tám trăm tuổi,
nếu quả thực như câu trong sách tướng Bệ hạ vừa nói, thì nhân trung ông dài tám
tấc, mà nhân trung ông dài tám tấc thì mặt ông dễ dài đến một trượng”.
Vua Vũ Đế nghe nói, bật cười, tha tội cho.
Sử Ký
GIẢI NGHĨA
Sử Ký: còn được gọi bằng tên "Sách của ông Thái sử"
là cuốn sử của Tư Mã Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, ghi lại lịch sử
Trung Quốc từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông sống. (Chú thích này được
trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Sử Ký trong Phụ Lục D, Tư Mã Thiên trong
Phụ Lục C).
Vũ Đế: vua nhà Hán trị vì bên Tàu (140 TCN - 88 TCN)
Đông Phương Sóc: bầy tôi vua Vũ Đế nhà Hán là người ăn nói giỏi,
tính hay khôi hài. (Xin xem thêm Đông Phương Sóc ở Phụ Lục C).
Bành tổ: Tên ông lão đới cổ cho là sống lâu lắm.
LỜI BÀN
Vua Vũ Đế nhắc câu trong sách tướng là có lòng mê tín tướng
thuật. Đông Phương Sóc cười, rồi nói như thế, tuy là khôi hài, nhưng thực có ý
làm cho phá được sự quá tin của vua. Nhân trung cho có phải là thước đo sự thọ,
yểu của người ta, người ta cũng trước hết phải ăn ở cho nhân từ, làm việc cho
chăm chỉ, ăn uống có tiết độ và biết quả dục, thì mới có cơ sống lâu được.
110. THUỐC BẤT TỬ
Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất
tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, có viên quan canh cửa hỏi rằng:
“Vị thuốc này có ăn được không?”
Người đáp: “Ăn được”.
Tức thì, viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn.
Chuyện nói đến tai vua. Vua phán bắt viên quan đem giết.
Viên quan kêu rằng:
“Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng: “Ăn được”,
nên thần mới dám ăn. Thế là thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc. Vả chăng người
đem dâng nói là “bất tử”, nghĩa là ăn vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới
ăn, đã sắp phải chết, vậy là thuốc tử chứ sao gọi là bất tử được? Nhà vua giết
thần, thực là bắt tội một người vô tội mà tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà
nhà vua vẫn tin.”
Vua nghe nói có lý, bèn tha cho viên quan ấy không giết nữa.
GIẢI NGHĨA
Chiến quốc: thời đại về cuối đời nhà Chu 475-249 TCN, các nước
hay đánh (chiến) nhau. Có bảy nước mạnh là: Tần, Sở, Yên, Tề, Hàn, Triệu, Ngụy.
(Xin xem thêm Chiến quốc ở Phụ Lục A).
155
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ
Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
LỜI BÀN
Có sinh thì phải có tử. Không vật nào có sinh mà lại ra ngoài
vòng tử. Kẻ dâng thuốc bất tử, vua Sở có lòng mê tín, không hiểu thấu cái lẽ
đó. Viên quan canh cửa làm ra thế, là có ý lấp cái lối lừa đảo của kẻ nịnh, phá
cái bụng mê hoặc của vua, khiến cho vua phải tỉnh ngộ. Lời nói tựa giọng khôi
hài, nhưng thật là có lý thú.
Reply With Quote
14-08-2011 07:58 PM #32 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
111. CÁI LẼ SỐNG CHẾT
Mạnh Tôn Dương hỏi Dương Tử: Có kẻ mến đời, yêu thân, cầu cho
không chết có nên không?
Dương Tử nói: Có sống thì phải có chết, lẽ nào mà không chết
được?
- Thế cầu sống lâu có nên không?
- Lẽ nào sống lâu được? Người ta không phải thích sống mà sống
mãi được, yêu thân mà thân còn mãi được. Vả chăng sống lâu để làm gì? Thế tình
hay dở, xưa cũng như nay; thân thể an nguy xưa cũng như nay; việc đời vui khổ,
xưa cũng như nay; biến đổi trị loạn, xưa cũng như nay; cái gì cũng đã nghe thấy,
đã trông thấy, đã từng trải cả rồi, thì sống trong khoảng trăm năm cũng đủ lấy
làm chán, huống còn cầu lấy sống lâu để cho khổ làm gì?
Mạnh Tôn Dương nói: Nếu như thế thì chóng chết còn hơn là sống
lâu. Ta nên xông vào gươm giáo, nhẩy vào nước lửa để chết ngay đi có thỏa
không?
Dương Tử nói: Không phải thế. Đã sinh ra đời, thì lúc sống cứ
tự nhiên mặc, muốn làm gì thì làm, cho đến lúc chết. Lúc sắp chết, cũng tự
nhiên mặc, muốn hóa ra gì thì hóa cho đến lúc cùng. Lúc sống, lúc chêt, lúc nào
cũng tự nhiên như không, hà tất phải quan tâm sống lâu hay chóng chết làm gì?
Dương Tử
GIẢI NGHĨA
Dương Tử: người thời Chiến quốc, tên tự là Tử Cư, tôn chỉ học
thuyết là: “Mất một cái lông mà lợi thiên hạ cũng không cho, được cả thiên hạ
phụng sự một mình cũng không làm, người nào cũng không chịu thiệt, người nào
cũng không ham lợi thì thiên hạ tự nhiên thái bình”. Học thuyết ấy rất thịnh
hành thời Chiến quốc và người đời bây giờ cho là học thuyết “Vị ngã”.
LỜI BÀN
Người ta ở đời, kẻ thì mến đời không muốn chết, hoặc có kẻ
chán đời không muốn sống. Như thế đều lầm cả. Sự sống chết không phải tự mình
có chủ quyền được, thì mình đem tâm lo nghĩ, cầu khẩn về việc sống chết mà có
ích gì! Thà rằng: tự lúc sống đến lúc chết, việc mình mình làm, ngoại giả phó mặc
ở sự tự nhiên cho gọi là Số, là Mệnh, là Tạo hóa cũng không cần. Thói đời, thường
tình vẫn tham sống, sợ
156
chết. Nhưng chết, vị tất đã là khổ hẳn. Mà sống, cũng không
ai bảo là toàn sướng được! Như xưa có kẻ sống hơn trăm tuổi, ai chẳng cho sống
lâu là quí. Thế mà người ấy vẫn thường ca thán rằng: “Sống làm chi cho nhục!”.
Sống lâu vô ích cho đời mà chỉ trông nhiều cảnh tang thương thì có hay gì.
112. NÓI VỀ SỐNG CHẾT
Người thì cho sống là sướng, chết là khổ, như thế là phái mến
đời. Người lại cho rằng chết là sướng, sống là khổ, như thế là phái chán đời.
Cứ theo ý ta, thì ta tưởng ai tuy còn sống, thân thể khỏe mạnh,
mà ý chí suy đồi, thì sống cũng như chết; ai thân thể tuy chết, mà chí khí vẫn
còn ở tâm não tai mắt người ta, thì chết cũng như sống. Cho nên bậc quân tử đối
với sự sống chết, không bằng ở phần xác có hay không, bằng ở phần hồn còn hay mất.
Kẻ tiểu nhân thì không thế: đương lúc còn sống, mê muội về tài lợi, nhọc nhằn về
bôn tẩu, đến lúc người ta thóa mạ, thì lại nói rằng:
“Đã sinh ra làm người, chẳng để được tiếng hay trăm đời, thì
cũng để lại tiếng dở muôn năm”. Than ôi! Kẻ nói như thế thì biết làm sao được
cái lẽ sống chết!
Khuyết Danh
LỜI BÀN
Người ta tuy chia hai phần: xác thịt và linh hồn, nhưng hai
phần thật có liên lạc với nhau là một, xác có khỏe hồn mới còn; hồn còn mạnh
xác mới có giá. Vậy ta không bảo khinh hẳn một bên nào, mà chỉ trọng một bên
nào được. Nhưng bài này không chủ ý nói về tâm lý hay vệ sinh. Bài này chỉ cốt
nói rõ thế nào là sống, thế nào là chết mà thôi. Những kẻ sống không ai biết,
chết chẳng ai hay thì tuy sống cũng là vô ích. Còn những bậc ích Quốc lợi Dân
thì dẫu chết đi nữa nhưng thiên hạ vẫn còn nhớ đến, vẫn còn sùng bái thì cũng kể
như là còn sống. Ngoài ra còn hạng người đê mạt di xú, thì nói mà làm chi! Nếu ở
đởi chẳng để tiếng hay lại được, thà không để tiếng gì nữa, còn hơn là để tiếng
xấu, chỉ làm cái bia cho thế gian chê cười mà thôi.
113. BIẾT DỞ SỬA NGAY
Đái Doanh Chi làm quan đại phu nước Tống, nói chuyện với thầy
Mạnh Tử rằng:
“Cứ như cổ chế, thì ruộng đánh thuế theo phép tỉnh điền, chợ
và cửa ải, chỉ xét hỏi không mà thôi. Như thế thực là hay, song ta chưa làm
ngay được. Bây giờ ta hãy đánh nhẹ bớt thuế đi, đợi đến sang năm mới bãi hẳn,
thì nhà thầy nghĩ thế nào?” Thầy Mạnh Tử nói: Nay có người mỗi ngày ăn trộm một
con gà của hàng xóm. Có kẻ bảo anh ta:
“Làm thế không phải là cách của con người lương thiện. -Anh
ta đáp: Ông nói phải lắm, nhưng tôi chưa thể chừa ngay được. Xin để chừa dần, từ
nay mỗi tháng, tôi ăn trộm một con thôi, đợi đến sang năm tôi sẽ chừa hẳn”. Phỏng
nói như thế thì có nghe được không?
Phàm làm việc gì cũng vậy, chưa biết là phi nghĩa thì thôi,
chớ đã biết là phi nghĩa thì phải bỏ cho mau cho chóng, sao lại còn đợi đến
sang năm?
Mạnh Tử
GIẢI NGHĨA
Mạnh Tử: tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ hiền dạy bảo, lúc lớn
theo học thầy Tử Tư, lúc học hành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau biết đạo
thông hành, cùng làm sách với học trò là Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn
Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học trò và vua các nước Chư
hầu làm quyển Mạnh Tử, bảy thiên. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).
Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất,
ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
157
LỜI BÀN
Phàm nghĩa với lợi không cùng đi được với nhau. Nếu làm nghĩa
mà còn tính lợi, cứ tìm cách trì hoãn mãi lại, thì biết đến bao giờ mới nên?
Cho nên việc đã trót làm, biết là dở, có thể sửa lại được, thì phải sửa ngay. Đừng
có nấn ná do dự, mà có khi cái dở chẳng những không sửa được, lại còn e mỗi
ngày một to thêm mãi ra, nhỏ thì hại việc tu thân, tề gia, lớn thì hại đến việc
trị quốc, bình thiên hạ. Câu nói: “Cái gì làm được hôm nay, chớ để đến ngày
mai”, ta nên ghi nhớ lấy.
114. TÀI VÀ BẤT TÀI
Một hôm Trang Tử cùng với học trò đi chơi ở trong núi. Thấy một
cây to, cành lá rườm rà, có người đốn gỗ chống búa đứng bên, mà không chặt.
Trang Tử hỏi: “Sao không chặt cây này thế?”
Người đốn gỗ đáp: “Cây này tuy thế mà gỗ xấu không dùng được
việc”.
Trang Tử nói: “Cây này chỉ vì không ra gì mà sống lâu được
mãi”.
Ra khỏi núi, Trang Tử vào chơi nhà một người quen. Chủ nhà
vui mừng, bảo người nhà đem chim nhạn làm thịt.
Người nhà hỏi: “Một con gáy được, một con không gáy được, thì
làm thịt con nào?” Chủ bảo: “Làm con không gáy”.
Hôm sau, học trò hỏi Trang Tử rằng:
“Cái cây ở núi vì bất tài mà được sống lâu, con nhạn ở nhà chủ
vì bất tài mà phải giết chết. Giá như tiên sinh thì xử vào địa vị tài hay bất
tài?”
Trang Tử cười, rồi nói: “Ta xử vào trong cái khoảng giữa tài
và bất tài. Như vậy, thì tránh khỏi được tai nạn song chưa phải là kế vẹn toàn.
Chỉ những bậc đạo đức cao siêu, không quản khen chê, lúc như rồng, lúc như rắn,
không hẳn rõ ra tài hay bất tài, lúc lên, lúc xuống, chỉ cốt lấy đức hòa làm mực,
siêu việt cả muôn vật, tuy là người mà lại khác người... Những bậc như thế, thì
còn gì lụy đến thân được! Còn thói đời thường tình nào có thế? Hợp với người,
thì có lúc lìa tan; làm nên việc, thì có người nghị luận; ngay thẳng thì bị đè
nén; tôn trọng thì bị chê bai; làm thì có kẻ phá; giỏi thì có người ghen; không
ra gì, thì thiên hạ lại khinh bỉ... Nhân tình như thế thì làm thế nào được?
Thương ôi! Các người nên ghi lấy: chỉ có đạo đức mới khỏi lụy mà thôi”.
Trang Tử Tuyết
GIẢI NGHĨA
Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam
Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lão Tử, sau người ta vẫn xưng Lão Tử với Trang
Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Tài cũng khổ: quân tử đa nạn, tài liền với tai. Bất tài cũng
khổ: khôn sống dại mái, dại để người ăn. Vậy con người ta phải làm thế nào cho ở
vào cái khoảng giữa tài và bất tài thì mới gọi là khôn khéo nghĩa là thông minh
thánh trí mà như ngu thì mới sinh tồn được. Tuy vậy, vẫn chưa bằng người có đạo
đức, nghĩa là người chỉ lấy một cái bụng ăn ở theo thiên lương mà ra ngoài vòng
được cái tài, bao bọc được hết cả thiên hạ mà không gì lụy đến thân. Thế mới
hay: chữ “tâm” kia mới thực là thu liễm được cái tài mà bổ cứu được cái bất tài
vậy.
115. QUÊN CẢ CÁI THÂN
Vua Ai Công hỏi Đức Khổng Tử:
- Quả nhân nghe nói có người tính hay quên, lúc dọn nhà, quên
mất vợ có thật không?
Đức Khổng Tử thưa rằng:
158
- Có người quên như thế cũng chưa lấy gì làm tệ. Có người còn
tệ hơn nữa, quên cả đến cái thân của mình.
Vua Ai Công hỏi:
- Thế nào mà lại đến quên cả cái thân của mình nữa?
Đức Khổng Tử nói:
- Ngày xưa vua Kiệt nhà Hạ giàu có cả bốn bể, song làm đến
thiên tử, chỉ vì sao nhãng cơ đồ của tổ tiên, hủy điểm phát của nước nhà, tin
dùng kẻ xiểm nịnh, ghét bỏ kẻ trung lương, ngày ngày say đắm sắc dục, săn bắn
rượu chè, hoang du vô độ, sau đến nỗi bị ông Thang giết chết mà mất... Thế chẳng
phải là có thân mà quên cả thân là gì?
Khổng Tử Tập Ngữ
GIẢI NGHĨA
Khổng Tử Tập Ngữ: sách chép những lời nói, những truyện về đức
Khổng Tử. - Khổng Tử tên là Khâu, tên tự là Trọng Ni, người nước Lỗ, thời Xuân
Thu nhà Chu, học về Lễ, Nhạc, Văn chương đời cỗ, đi nhiều nước chư hầu không được
dụng bỏ về làm kinh Xuân Thu, san định các kinh Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc và dạy
học trò được ba nghìn người, có bảy mươi hai người giỏi. Nước Tàu xưng làm Tổ đạo
Nho. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
Ai Công: vua nước Lỗ.
Lỗ: một nước chư hầu nhỏ, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa
phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Kiệt: vua cuối đời nhà Hạ, tàn dân, hại vật đến nỗi mất nước.
(Xin xem thêm Kiệt ở Phụ Lục C).
Hạ: một nhà làm vua bên Tàu đến hơn bốn trăm năm (2205-1818
TCN).
Thang: vua đầu nhà Thương giết vua Kiệt nhà Hạ. (Xin xem thêm
Thành Thang ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Dọn nhà không ai dọn vợ. Nhưng thí dụ có kẻ dọn nhà, hoặc
quên mất vợ, thì thiên hạ tất lấy làm lạ lùng và buồn cười lắm. Thế mà những kẻ
quên than, rất nhiều và đáng sỉ tiếu, thì lại không mấy người nghĩ đến. Phàm
chưng ai đã có một sự ham mê gì, rượu chè, thuốc phiện, trai gái, cờ bạc đến
quên cả tính mạng, cửa nhà, xã hội đều là quên thân rất đáng tiếc. Nhất là những
bậc thông minh tài trí có quyền thế trong tay, mà quên than, thì lại đáng tiếc
hơn nữa. Nên Đức Khổng Tử kể chuyện vua Kiệt mà có ý cảm hóa Ai Công vậy.
116. ĐẠI ĐỒNG
Đường lối chính trị rất cao cả mà thực hành thì thiên hạ phải
là của chung của cả thiên hạ, không một người nào hay một nước nào được nhận
thiên hạ làm của riêng mình. Kén chọn người có đức vọng để làm lãnh đạo, tuyển
cử người có tài năng để ra gánh vác. Giao thiệp đi lại với nhau cho có chữ
“tín” lỡ có hiểu lầm nhau phải phân trần ngay... Ăn ở đối đãi với nhau cần phải
“hòa” lỡ có chênh lệch phải sửa đổi ngay. Có thế, tự khắc ai ai cũng đều tôn
quý cha mẹ người như cha mẹ mình, ai ai cũng thân yêu con cái người như con cái
mình...
Của ở trên mặt đất hay ở dưới mặt đất, đáng ghét nhất là ngu
dại bỏ phí bỏ hoài, không biết tăng gia, không biết khai thác, không biết lợi dụng.
Có biết mà làm được, cần phải cùng hưởng, cùng dùng, chớ có vơ cả làm của
riêng.
Đã là người thời chẳng nhiều thì ít, ai cũng có sức lực và
năng lực, đáng ghét nhất là lười biếng, chỉ thích ỷ lại hay thích đài đệ, không
chịu dùng sức mình để cung cấp, không chịu đem năng lực để đảm nhiệm công việc
chung. Như việc dùng sức lực hay năng lực, cần phải cống hiến cho quần chúng,
chớ có làm hay riêng cho bản
159
thân là cá nhân...
Có thế thời cơ mưu gian trá mới không nẩy ra và trộm cướp tự
nhiên tiêu diệt
Đại khái như thế mới gọi là “ đại đồng”.
Lễ ký
GIẢI NGHĨA
Lễ ký: hay còn gọi là Kinh Lễ là một quyển trong bộ Ngũ Kinh
của Khổng Tử, tương truyền do các môn đệ của Khổng Tử thời Chiến quốc viết, ghi
chép các lễ nghi thời trước. Ngũ Kinh gồm có: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh
Dịch và Kinh Xuân Thu. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem
thêm Lễ ký trong Phụ Lục D). LỜI BÀN
Thuyết đại đồng nêu ra tự đời Xuân Thu mấy nghìn năm về trước
nghe cũng đã lấy làm vui sướng, huống chi đến đời chúng ta ngày nay, cái đời
tranh sống chết kịch liệt, ta được nghe thì lấy làm vui sướng và ao ước biết chừng
nào! Lý tưởng đại đồng sống chung với nhau đấy tín nghĩa thân ái, người với ta
như một, sung sướng hưởng chung, chỉ những hòa thuận và hòa bình bồng lai và
nát bàn thật. Lý tưởng quý báu cao cả ấy có thực hiện được không? Ai ai cũng có
chân tâm mà làm thực sự, sao lại không thực hiện được. Khốn nỗi, người sẵn chân
tâm mà làm thực sự, có, nhưng rất hiếm; kẻ giả danh giả nghĩa, khéo lợi dụng
thì lại quá nhiều. Vả lại, nhân loại truy nguyên ra thì trong đầu óc vẫn rớt lại
những thú tính, thâm dâm hung tàn. Đa số chỉ có nghĩ lành, nói lành, ước ao
lành, cầu người lành, bắt người làm lành, mà chính thân thì ác. Thậm chí người
ta phải nói: “Người là giống rất tàn ác hơn các loài mãnh thú”. Người lúc nào
cũng làm khổ người, thì đại đồng bao giờ mới thực hiện được. Than ôi!
117. CẦU Ở MÌNH HƠN CẦU Ở NGƯỜI Ngụy Văn Hầu hỏi Hồ Quyển Tử:
- Cha hiền có đủ nhờ cậy không?
Hồ Quyển Tử thưa:
- Không đủ.
- Con hiền có đủ nhờ cậy không?
- Không đủ.
- Anh hiền có đủ nhờ cậy không?
- Không đủ.
- Em hiền có đủ nhờ cậy không?
- Không đủ.
- Bầy tôi hiền có đủ nhờ cậy không?
- Không đủ.
Văn Hầu đổi sắc mặt, gắt rằng:
- Quả nhân hỏi nhà ngươi năm điều mà điều nào ngươi cũng cho
là không đủ tại cớ làm sao?
Hồ Quyển Tử nói:
- Cha hiền không ai hơn vua Nghiêu, mà con là Đan Chu phải bị
đuổi. Con hiền không ai hơn vua Thuấn, mà cha là Cổ Tẩu thực ngang ngạnh. Anh
hiền không ai hơn vua Thuấn, mà em là Tượng rất ngạo mạn. Em hiền không ai hơn
là ông Chu Công mà Quản Thúc bị giết. Bầy tôi hiền không ai hơn ông Thang, ông
Vũ mà vua Kiệt, vua Trụ mất nước... Mong người không được như ý, cậy người
không được bền lâu. Nhà vua muốn cho nước được bình trị, thì phải cậy ở mình
trước, hơn là mong nhờ người.
Hàn thi ngoại truyện
160
GIẢI NGHĨA
Hàn Thi Ngoại Truyện: là bộ sách chép những câu nói đời xưa,
dưới mỗi bài có những chứng dẫn mấy câu thơ của Hàn Anh làm. Hàn Anh là người đời
nhà Hán làm bác sĩ đời vua Văn Ðế lấy những ý trong thơ của người ta mà làm Nội,
Ngoại truyện gọi là Hàn Thi, bây giờ chỉ còn ngoại truyện mà thôi.
Ngụy Văn Hầu: vua nước Ngụy.
Hồ Quyển Tử: người nước Ngụy.
Ngụy: Một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc, ở vào bắc
bộ Hà Nam và phía nam Sơn Tây bây giờ.
Hiền: người có phẩm hạnh có học thức tài năng.
Đan Chu: con vua Nghiêu tên là Chu, phong cho ở đất Đan nên gọi
là Đan Chu. Vua Nghiêu phải phóng (bỏ) Đan Chu vì Đan Chu là đứa con bất hiếu.
Thuấn: tên Đào họ Diệu, nối vua Nghiêu mà trị thiên hạ (nhà
Ngu). (Xem thêm Thuấn trong Phụ Lục C).
Cổ Tẩu: cha vua Thuấn.
Tượng: em vua Thuấn nhưng khác mẹ, là người ngạo mạn vô lễ.
Chu Công: tên Đán em của Vũ Vương, phong ở nước Lỗ lúc vua Vũ
Vương mất, vua Thành Vương còn bé lên ngôi giúp việc nên thiên hạ đại trị.
Lỗ: một nước chư hầu nhỏ, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa
phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Quản Thúc: tên là Tiên, anh Chu Công được phong ở đất Quản, về
bè dư đảng nhà Ân, phản nhà Chu nên bị Chu Công giết.
Thang: họ Tự tên Lý, trước là chư hầu vua Kiệt nhà Hạ, nhưng
vì vua Kiệt vô đạo nên mới nổi dậy đánh lấy nước mà lập ra nhà Thương. (Xin xem
thêm Thành Thang ở Phụ Lục C).
Vũ: tên là Phát, con vua Văn Vương bầy tôi vua Trụ nhà
Thương, nhưng vì vua Trụ bạo ngược, Vũ Vương đánh lấy nước lên ngôi Thiên tử đặt
ra nhà Chu. (Xin xem thêm Chu Vũ Vương ở Phụ Lục C).
Kiệt, Trụ: hai vua tàn bạo, độc ác say mê tửu sắc, bỏ cả
chính sự đến nỗi mất nước. (Xin xem thêm Kiệt, Trụ ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Cốt ý Văn Hầu nước Ngụy là chỉ muốn hỏi có thể nhờ cậy được bầy
tôi không, nhưng lúc đầu có mượn mấy câu hỏi đến cha con, anh em rồi mới dẫn đến
vua tôi. Hồ Quyển Tử đáp như thế là rất phải. Cha tuy từ với con, con tuy hiếu
với cha, anh tuy yêu em, em tuy kính anh, bầy tôi tuy trung với vua, nhưng mỗi
người vị tất đã là hay được đủ mọi vẻ. Nếu mình không cần chịu ở mình, chỉ biết
cầu những bậc ấy để đến nỗi thất đức, thì chẳng những không lợi gì mà còn hại đến
thân mình nữa. Ta mong người, nhưng người ai cũng có thân, không ai bỏ cái thân
mình để giúp cho ta; ta cậy người, nhưng người cũng có lúc cùng, không thể suốt
đời mà đỡ đần ta được. Vậy ta ở đời, chẳng nên chỉ biết mong cậy vào người. Ta
phải biết tự chủ tự lập, chớ có bỏ mình mà cầu người. Câu “Quân tử cầu chư kỷ”
trong Luận ngữ và câu “ Aide toi, le Ciel t’aidera” của Âu học, thực đáng làm
phương châm cho cách lập chí ở đời vậy.
118. HOÀ THUẬN VỚI MỌI NGƯỜI
Lưu Ngưng Chi đang đi giày, có người đến nhận, ông đưa ngay.
Sau người ấy tìm thấy giày, đem giày ông trả lại. Ông nhất định không nhận nữa.
Thẩm Lân Sĩ đang đi giày. Cũng có người đến nhận. Ông cười hỏi:
“ Giày của bác à?”. Rồi ông đưa ngay. Sau, người láng giềng tìm thấy giày đem
giày ông trả lại. Ông nói: “ Không phải của bác à?” Ông cười rồi nhận.
161
Việc này tuy nhỏ mọn. Song ở đời, ta nên cư xử như ông Lân
Sĩ, không nên như ông Ngưng Chi.
Tô Thức
GIẢI NGHĨA
Tô Thức: tức Tô Đông Pha là một nhà đại thi sĩ nước Tàu làm
quan đời nhà Tống, văn hay chữ tốt, sách làm kể có hàng vài trăm quyển lưu truyền
ở đời. (Xin xem thêm Tô Thức ở Phụ Lục C).
Lưu Ngưng Chi: người đời Tống (Nam triều) tính khẳng khái, phần
gia tài của mình nhường cả cho anh em mà tự thực kỳ lực. Vua triệu ra làm quan
không chiu ra chỉ thích ngao du sơn thủy.
Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất,
ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa
phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Thẩm Lân Sĩ: người đời Nam Tề, học thức rộng, không chịu ra
làm quan, chỉ thích dạy học và trước thuật.
LỜI BÀN
Giày của mình, mình đang đi, có người đến nhận mà mình cũng
đưa, không thèm cãi “của tao của mày” như Ngưng Chi và Lân Sĩ thực ở đời cũng
là hiếm có vậy. Kịp khi người ta tìm thấy giày của người ta, đem giày mình lại
trả là người ta đã biết lỗi lầm. Nếu mình khăng khăng không chịu nhận, là mình
quá ư nghiêm khắc mà làm ngăn trở cái lòng hối quá của người ta. Sao bằng nhận
mới tỏ rõ tấm lòng bao dung được người, cả lúc người lầm, cả lúc người biết lầm.
Như thế mới thực là người đầy hòa khí để cư xử với quần chúng vậy.
119. MẤT CUNG
Vua Cung Vương nước Sở đi săn, giữa đường đánh mất cung. Các
quan theo hầu cố xin tìm cho được. Vua Cung Vương nói:
Thôi tìm làm gì nữa! Người nước Sở đánh mất cung, lại người
nước Sở bắt được cung, đi đâu mà thiệt.
Đức Khổng Tử nghe thấy chuyện bảo:
Đáng tiếc cho cái chí vua nước Sở không làm to hơn được nữa!
Hà tất phải nói: “ Người nước Sở? ” Giá nói: “ người đánh mất cung, lại người
nhặt được cung, thì chẳng hơn ư?”
Thuyết Uyển
GIẢI NGHĨA
Thuyết Uyển: Bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi
chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là
Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ
Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
LỜI BÀN
Vua đánh mất cung, không nghe lời các quan bắt tìm cung, thế
là có lòng thương dân, không muốn làm phiền đến dân. Vua lại nói một người nước
Sở mất cung chịu thiệt, thì có một người nước Sở được cung có lợi, thế là đã có
lòng muốn lợi cho dân cả một nước. Tuy vậy, Đức Khổng Tử chê là hẹp, là vì vua
Sở chỉ biết có người nước Sở lấy bờ cõi nước Sở mà làm giới hạn cho cái lòng
nhân ái của mình. Cứ như ngài nói, mời thực rõ cái nghĩa bác ái, tức là cái
lòng rộng yêu hết cả nhân loại, không phân dị chủng hay ngoại quốc gì nữa. Cũng
một ý với câu thầy Hạ Tử nhắc
162
lời ngài mà đáp Tư Mã Ngưu lo không có anh em rằng: “Người bốn
bể đều là anh em cả”. Nói rộng ra: chỉ có lý vô phân biệt, trí vô phân biệt, vật
ngã nhất thể thì mới hết sạch chướng ngại mà hoan hỉ vô cùng!
120. MUÔN VẬT MỘT LOÀI
Người họ Điền nước Tề sắp phải đi xa, làm tiệc để cáo biệt
anh em. Khách mời kể có cả nghìn người. Cỗ bàn đủ thứ sơn hào, hải vị. Lúc ăn đến
món chim, món cá, ngưới họ Điền trông thấy, nói rằng: “Trời đãi người hậu thật!
Sinh ra thóc lúa, sinh ra chim cá, không thiếu thứ gì để con người dùng”. Bao
nhiêu khách ăn đồng thanh khen câu nói ấy là phải. Duy có đứa con họ Bão, tuổi
mới mười hai, đứng dậy nói rằng:
Cứ như ý tôi thì câu nói ấy là không phải. Muôn vật trong trời
đất là cùng sinh ra với ta, cùng một loài như ta, không có gì là sang hay hèn cả.
Sang hèn mà phân biệt chẳng qua là các loại chế lẫn nhau, lớn nuốt nhỏ, khôn đè
dại, khỏe lấn yếu mà thôi. Chớ nào có phải trời vì loài này mà sinh ra loài
khác đâu. Người ta có cái gì ăn được thì lấy mà ăn, chớ trời nào lại vị người
mà sinh ra thứ nọ thứ kia? Cứ theo cái lý ấy, ruồi muỗi hút máu người, hổ lang
ăn thịt người, thì có nói được trời vì những giống ấy mà sinh ra người không?”
Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của
Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư
Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa
phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
LỜI BÀN
Người ta ở trong khoảng trời đất thường hay tự phụ mình làm
chủ trương cho cả muôn vật: vì mình mà muôn vật phải sinh, vì mình mà cây thóc
mọc, mà con lợn béo, mà con tằm nhả tơ, con ong gây mật, cho đến cả mặt trời
sáng ban ngày, ngôi sao lóng lành ban đêm. Nhưng xét lại, thì loài người chẳng
qua cũng chỉ là một loài cùng sinh, cùng sống như muôn loài trong trời đất.
Loài người sở dĩ hơn vật là chỉ hơn có chút trí khôn mà thôi. Nên như câu nói
như đứa bé họ Bão mới thực là cao, rộng, hiểu được cái vạn vật, tịnh sinh ở đời
vậy.
Reply With Quote
15-08-2011 08:29 PM #33 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
121. LÚC NÀO ĐƯỢC NGHỈ
Thầy Tử Cống hỏi Đức Khổng Tử:
-Tử nay mệt về học, khốn về đạo, bây giờ muốn nghỉ để thờ vua
có nên không? Đức Khổng Tử nói:
163
-Phàm làm tôi thờ vua, sớm tối kính cẩn, mà cho trọn được chức
trách cũng là việc khó, nghỉ thế nào được!
-Vậy xin nghỉ để thờ song than.
-Lòng con hiếu thờ cha mẹ thật vô cùng lại có thể lấy sự hiếu
thảo của mình cảm hóa được lòng người cũng là việc khó, nghỉ thế nào được!
-Vậy xin nghỉ để vui chơi với vợ con.
-Đạo làm chồng phải làm gương cho vợ, lại để cho anh em và
thiên hạ trông vào mà bắt chước cũng là việc khó, nghỉ thế nào được!
-Vậy xin nghỉ để chơi với bầu bạn.
-Nghĩa bầu bạn phải giúp đỡ nhau, hết lòng hết sức với nhau,
cũng là việc khó, nghỉ thế nào được!
-Vậy xin nghỉ để làm ruộng.
-Công việc nhà nông phải cấy cày gặt hái hai sương một nắng,
chân lấm tay bùn, cũng là việc khó, nghỉ thế nào được!
-Như thế thì Tử này không lúc nào được nghỉ ư?
-Có chứ. Lúc nào ngắm thấy cái huyệt đào nhẵn nhụi, trông thấy
cái mồ đắp chắc chắn, ngó thấy người đi đưa cách biệt hẳn mình, ấy lúc bấy giờ
mới là lúc nghỉ được đó.
Thầy Tử Cống nói:
-Như thế cái chết chẳng là cái hay à! Người quân tử đến bấy
giờ được nghỉ; kẻ tiểu nhân đến bấy giờ mới chịu thôi; cái chết thật là hay vậy!
Gia ngữ
GIẢI NGHĨA
Tử Cống: học trò giỏi của Đức Khổng Tử.
Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là
Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
Tử: tên thầy Tử Cống. Theo lễ tục, khi hầu chuyện những người
bề trên như cha, như vua, như thầy, thì phải xưng tên.
LỜI BÀN
Học tập một môn học, nghiên cứu một đạo, lý, càng đi càng thấy
dài, càng lên càng thấy cao. Lập chí không bền thấy khó mà thôi (nghỉ) thì chẳng
bán đồ nhi phế ngay lập tức.
Thần hạ đối với quân trưởng, con cái đối với cha mẹ, vợ chồng
bầu bạn ăn ở với nhau đều có bổn phận phải làm sao cho đầy đủ không tận tâm tận
lực (nghỉ) thì thiếu bổn phận và rối loạn ngay lập tức.
Canh nông hay thương mại, thuyền thợ hay quân nhân... ai nấy
có một chức nghiệp, chểnh mảng không chu đáo (nghỉ) thì thiếu lương tâm nhà nghề
ngay lập tức.
Làm cho đầy đủ, phần ấm cho thân, phần ích cho người, tất cả
phải lao tâm lao lực. Thế thì muốn nghỉ sao được. Vì nghỉ là đứng lại thì muôn
sự đình trệ ngay. Người ta hay ở tiến lên cố tiến lên, tiến lên mãi mãi, tiến
lên đến hơi thở cuối cùng, rồi ta trở về cái nhà đại tạo mà nghỉ ngơi yên tĩnh,
lại chả hoan hỷ lắm ru!.
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét