Thứ Hai, 23 tháng 8, 2021

Cổ học tinh hoa 5

Cổ học tinh hoa 5

195. TRỌNG NGHĨA KHINH TÀI
Ông Phạm Trọng Yêm, người nhà Tống, làm quan đến Tể Tường mà vẫn nghèo suốt đời, tính ông trọng nghĩa, khinh tài, thích làm việc bố thí nhất là đối với người trong họ, lại càng hậu lắm. Ông để dành lương bổng, mua được một thửa đất làm nghĩa trang để lấy hoa lợi cứu người nghèo khó trong họ. Phàm việc tang tóc, cưới xin của chúng, ông đều lo liệu giúp đỡ cho hết.
Con ông là Thuần Nhân, đức tính cũng như ông. Lúc ông làm quan ở Khai Phong, để dành được năm trăm thùng thóc, sai Thuần Nhân đem về quê. Thuần Nhân đi đến Đan Dương gặp người bạn cũ của cha là Thạch Man Khanh, nhà đã cùng quẫn, chẳng may gặp ba cái tang một lúc, Thuần Nhân giúp cho cả năm trăm thùng thóc. Hai con gái Man Khanh lớn tuổi mà chưa gả bán xây dựng, không chỗ nương tựa. Nhân Thuần cho nốt cả cái thuyền.
Đến lúc về nhà cha hỏi:
- Con đi có gặp ai không?
Thuần Nhân thưa: - Con đi đến Đan Dương có gặp Thạch Man Khanh nhà nghèo khổ, lại gặp lúc liền ba cái tang, hai con gái lớn không có gì để gây dựng, con có tự tiện cho cả năm trăm thùng thóc mà còn chưa đủ.
Ông bảo: - Thế sao con không cho nốt cả cái thuyền?
Thuần Nhân thưa: - Con cũng đã cho cả cái thuyền rồi.
Ông khen phải, rồi nói: - Cứ như thế mới đáng là con ta.
Phạm Trọng Yêm Truyện
GIẢI NGHĨA
Phạm Trọng Yêm: bực danh thần nhà Tống, có chí to gánh vác việc đời, lo thì lo trước khi thiên hạ lo, vui thì sau khi thiên hạ vui. (Xin xem thêm Phạm Trọng Yêm trong Phụ Lục C).
Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
Trọng nghĩa: lấy điều phải làm trọng mà hết sức làm.
Khinh tài: cho của cải là thường, không để cho của lấn được nghĩa.
LỜI BÀN
Làm quan đến bậc tể tướng mà nhà vẫn nghèo, thế là thanh liêm đáng trọng. Để dành được đồng nào lại đem bố thí cho kẻ nghèo khổ, thế là nhân đức, đáng trọng hơn nữa. Có năm trăm hộc thóc cho cả thế là thương người, đáng phục. Còn chiếc thuyền mình đi cũng cho nốt, thế là quên mình đáng phục hơn nữa. Rõ ràng cha nào, con nấy; hai cha con ông Phạm Trọng Yêm thật là có lòng nhân ái, hiểu thấu cái nghĩa cứu kẻ khốn cùng, giúp người tai nạn là việc vui lòng nhất ở đời. Cho nên ta có câu:
Sướng gì hơn sướng làm lành,
Cho bao nhiêu của để dành bấy nhiêu.
217
196. MUA XƯƠNG NGỰA
Người nước Tề đánh nước Yên giết được vua Yên.
Người Yên lập thái tử tên là Bình lên làm vua tức là vua Chiêu Vương.
Chiêu Vương lên ngôi, thương dân lo việc nước, cầu người hiền tài. Một hôm, bảo Quách Ngỗi rằng:
- Nước Tề nhân dịp nước ta loạn, sang đánh lấy nước ta. Ta biết rõ ràng nước ta nhỏ, dân ta yếu, thực khó lòng mà báo thù. Song nếu được những người giỏi cùng lo toan việc nước may mà rửa sạch sự sĩ nhục của tiên vương được chăng. Chí nguyện quả nhân như vậy tiên sinh xem ai là người giỏi để cùng ta lo toan việc nước thì hay.
Ngỗi nói: Xưa có ông vua đưa nghìn vàng cho người nội thị đi mua con ngựa chạy ngày nghìn dặm. Khi đến, ngựa đã chết, anh ta mua bộ xương ngựa năm trăm nén vàng đem về. Vua thấy thế giận lắm. Anh ta thưa: “Ngựa chết còn quý mà mua như vậy huống chi là ngựa sống. Tôi chắc thế nào nay mai người ta cũng đem ngựa hay đến bán cho nhà vua”. Quả nhiên, không đầy một năm mà người ta đem ngựa hay đến bán đã ba bận. Nay nhà vua muốn được người giỏi thì trước hãy dùng tôi. Người giỏi hơn tôi thấy thế há có ngại xa mà không lại ư?
Vua Chiêu Vương lập tức dùng Quách Ngỗi, kính trọng Quách Ngỗi như thầy. Quả nhiên không bao lâu, những người giỏi các nơi tranh nhau sang nước Yên.
Vua Chiêu Vương uỷ thác việc nước cho những người ấy. Sau nước Yên thành một nước cường thịnh thật.
Chu Sử
GIẢI NGHĨA
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Yên: Một nước mạnh trong bảy nước thời Chiến Quốc, tức là Phụng Thiên (Liêu Ninh), Trực Lệ (Hà Bắc) và một phần phía bắc nước Triều Tiên (Cao Ly bây giờ). LỜI BÀN
Có bỏ năm trăm nén vàng ra mua bộ xương ngựa, sau mới có ngựa hay mà dùng; có dùng Quách Ngỗi là người tài vừa và ở gần trước, sau mới có người thật hiền tài ở xa cầu đến. Cái lối ấy là lối quyền mưu trí thuật của bá giả đời bấy giờ, để quyến dẫn lấy nhân tài trong thiên hạ.
Đọc bài này, ta đáng khen Quách Ngỗi, đã tìm được câu thí dụ hay để tự tiến lấy mình mà nhất là khi được tin dùng lại hết lòng báo đáp, không phụ sự ủy thác của Chiêu Vương.
Ta lại đáng phục Chiêu Vương là biết nghe Quách Ngỗi mà nhất là biết cố ý lo toan báo thù cho tiên vương, và dụng tâm làm cho cố quốc được cường thịnh.
197. LỜI NÓI KẺ BẮT RẮN
Ở Vĩnh Châu có giống rắn lạ, thân đen, vằn trắng, chạm vào cây cỏ thì cây cỏ chết, cắn phải người, thì không thuốc gì chữa nổi. Song mà bắt được giống rắn ấy dùng làm thuốc để chữa những bệnh như bệnh trúng phong, bệnh co quắp chân tay, lại sát được cả trùng.
Cho nên nhà vua có lệ bắt dân gian mỗi năm phải hiến hai con rắn ấy để dành. Ai bắt được rắn thì được trừ thuế ruộng.
Người châu Vĩnh tranh nhau mà làm nghề bắt rắn. Có nhà họ Tương cũng làm nghề ấy đã được ba đời. Hỏi ra thì họ nhà Tương nói:
- Ông tôi chết về nghề bắt rắn, cha tôi cũng chết về nghề bắt rắn. Tôi nối nghề ông cha tôi mới có mười hai năm, cũng mấy lần suýt chết.
218
Người ấy nói, vẻ mặt buồn rầu.
Ta thương và hỏi rằng:
- Nhà ngươi có thật cho nghề bắt rắn là khổ không? Ta sẽ nói với quan trên cho nhà ngươi bỏ nghề ấy mà cứ nộp thuế ruộng như thường. Nhà người tính thế nào? Người họ Tương vừa khóc, vừa nói:
- Ông thương tôi, muốn cho tôi sống, thì ông để cho tôi làm nghề bắt rắn còn hơn. Nếu tôi không làm nghề này thì tôi khốn khổ lâu rồi. Nhà tôi ba đời ở làng này kể đã hơn sáu mươi năm, cách sinh nhai trong làng mỗi ngày một quẫn bách. Người làng phải rút hết cả lợi hoa màu, vét hết cả của cải trong nhà để mà nộp thuế hết, thậm chí bỏ làng, bỏ xóm, đói khát, trôi giạt, chết đường, chết chợ kể bao nhiêu người. Những người vào trạc tuổi ông tôi mười nhà không còn một. Những người vào trạc tuổi cha tôi, mười nhà còn độ hai, ba. Những người vào trạc tuổi tôi, mười nhà còn độ bốn, năm. Không chết chóc thì lưu lạc cả... Tôi nhờ nghề bắt rắn mà còn đến bây giờ. Những quan lại tàn ác về làm thuế làng tôi, xúc hết đầu làng cuối xóm, vơ vét đến cả con gà con chó, dân gian phải hãi hùng kính sợ. Những lúc ấy về phần tôi, tôi được yên lặng, trông trong giỏ con rắn vẫn còn là tôi được ăn no, ngủ yên. Tôi làm nghề bắt rắn một năm sợ chết chỉ có hai lần, ngoài ra là vui vẻ, không phải lo thuế má, không đến nỗi như người làng xóm tôi hết ngày này, sang tháng khác khốn khổ về quan lại tàn ác. Giá tôi có chết về nghề bắt rắn, ví với người làng xóm tôi cũng đã là chậm, đâu dám cho là rắn độc mà xin thôi.
Ta nghe câu chuyện, lại càng thương lắm. Xưa Đức Khổng lắm: “Chính sách hà khắc độc hơn hổ dữ” ta vẫn ngờ, bây giờ xem chuyện họ Tương mới cho là thật. Than ôi! Cái độc quan lại tàn ác làm thuế ở dân gian dữ hơn con rắn độc, cho nên nói ra đây để người xem xét phong tục thấu được tình cảnh đau khổ của dân!
Liễu Tôn Nguyên
GIẢI NGHĨA
Liễu Tôn Nguyên: tên tự là Tử Hậu, người Hà Đông, tinh anh tuyệt vời, văn chương nổi tiếng ở nước Tàu, đỗ Tiến sĩ làm quan Thứ Sử, là một bậc danh nhân đời nhà Đường.
Vĩnh Châu: tên phủ, thuộc về tỉnh Hồ Nam ngày nay.
Trúng phong: phải gió độc, ngất người đi.
LỜI BÀN
Ta đọc bài này thật lấy làm ghê tởm cái chính sách hà khắc, người cầm quyền đã ác một phần, thì những kẻ dưới thừa hành ác tăng lên trăm phầm. Cái cảnh khổ của dân thường thường vẫn như thế. Liễu Tôn Nguyên có bụng thương dân mất hết cả quyền, sống cũng như chết, đem chuyện thật viết ra bài này, là có ý mong cho người trên hiểu thấu cái tình của dân gian, cái tệ của quan lại mà phần thì đánh thuế cho dân vừa phải, phần thì tìm cách trừng trị những phường tham nhũng, ngõ hầu dân mới đỡ được khổ chăng.
198. HÒA VI QUÝ
Đời cổ những người lo toan việc quốc gia, trước hết phải dạy dỗ dân, thân yên dân. Phép trị dân có bốn điều “bất hòa” cần phải biết.
1) Trong nước mà bất hòa, thì chẳng nên đem quân đi đánh đâu;
2) Trong quân mà bất hòa, thì chẳng nên đem quân ra trận;
3) Quân ở trận mà bất hòa, thì chẳng nên tiến lên đánh;
4) Tiến lên đánh mà bất hòa, thì chẳng nên quyết đánh.
Bởi vậy ông vua hữu đạo khi định dùng dân, trước hết có hòa sau mới gây dựng việc lớn mà chẳng dám tin cái mưu riêng của ai. Không những thế mà thôi, lại còn phải xem cái thời có đáng cử sự sau mới cử sự.
219
Khi dân trong nước ai nấy đều biết vua đã chịu suy nghĩ đắn đo cẩn thận, quí cái mạng của dân, tiếc cái chết của dân, thì bấy giờ dù có phải ra chỗ nguy nan, ai nấy mới cùng lấy việc tiến lên mà liều chết là vinh, lùi về mà sống thừa là nhục vậy. Ngô Tử
GIẢI NGHĨA
Ngô Tử: tức là Ngô Khởi, người nước Vệ về thời Chiến Quốc, làm tướng nước Ngụy là một nhà dùng binh giỏi có tiếng. (Xin xem thêm Ngô Khởi trong Phụ Lục C).
Ngụy: Một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc, ở vào bắc bộ Hà Nam và phía nam Sơn Tây bây giờ.
LỜI BÀN
Còn ai không biết trong nước đã bất hòa thì dân chúng dễ ngờ vực nhau, dễ tàn hại nhau, quên hết nghĩa công, chỉ biết thù riêng, thậm chí chia rẽ theo cả địch quốc và đi đến diệt vong nữa. Nên trong bài này tác giả nói phép dùng dân rút lại chỉ có một sự cốt yếu là “Hòa”. Dân có hòa và lại nhờ thêm cái thời thuận, tức là cơ hội tốt, nhiên hậu mới khả dĩ khiến dân hết lòng với nước, vì nước mà liều chết được. Bài này nói rộng là phép dụng dân, nhưng nói hẹp mà đúng hơn, thì chỉ là cách dụng binh mà thôi, tác giả là một nhà binh hơn là một nhà chính trị.
199. CÁCH TRỊ DÂN
Tử Sản làm tướng nước Trịnh đã lâu năm, có lòng thương dân, lấy đạo khoan mà trị dân.
Khi Tử Sản bệnh nặng, gọi Tử Thái Thúc đến bảo rằng:
- Ta chết, tất nhà ngươi làm tướng nước Trịnh. Người phải biết người có đức mới lấy đạo “khoan” mà phục được dân, còn người thường phải lấy sách “nghiêm” mà trị mới được. Nay ví như lửa nóng, dân trông thấy mà sợ, cho nên chết vì lừa ít; nước mát dân khinh mà lờn, cho nên chết vì nước nhiều. Thế mới biết dùng khoan là khó. Mấy tháng sau, Tử Sản mất, Tử Thái Thúc thay làm tướng, không nỡ dùng nghiêm, e có mãnh liệt cứ lấy đạo khoan mà trị dân.
Không được bao lâu, trong nước sinh ra nhiều trộm cắp, thường núp náu ở các đồng lầy mà lấy của giết người nhũng nhiều lương dân.
Tử Thái Thúc hối lại, nói rằng:
- Giá ta biết sớm theo lời Tử Sản thì đâu đến thế này!
Rồi liền đem quân đi đánh bắt bọn cướp ở đồng lầy mà giết hết. Từ đấy nước Trịnh mới bớt trộm cướp.
Đức Khổng Tử nói rằng: Được lắm! Chính sách khoan thì dân lờn, dân lờn thì lại phải dùng chính sách nghiêm, nghiêm tức là mãnh: mãnh thì dân tan, tan lại phải dùng khoan; khoan giúp cho mãnh, mãnh giúp cho khoan, có thế thì chính sách mới hòa được.
Tả Khưu Minh
GIẢI NGHĨA
Tả Khưu Minh: quan Thái Sư nước Lỗ theo chí của Khổng Tử mà làm ra chuyện kinh Xuân Thu gọi là Tả Thị Xuân Thu cho nên người ta thường xưng Khổng Tử là Tố Vương, Khưu Minh là Tố Thần.
Lỗ: một nước chư hầu nhỏ, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
Tử Sản: tên tự là Công Tôn Kiều làm quan đại phu nước Trịnh thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tử Sản ở Phụ Lục C).
Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho
220
học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
Tướng: quan đứng đầu cả bách quan giúp vua để hành chính.
LỜI BÀN
Tử Sản vốn là một người học rộng chính trị giỏi, làm tướng nước Trịnh hơn 40 năm, đối với trong thì dân bình trị, đối với ngoài thì các nước e nể ông là một bậc quân tử có bốn điều hay; đối với mình thì tự trọng (cung), đối với người mà mình phụng sự thì thành kính, nuôi dân thì có ơn huệ, khiến dân thì có nghĩa lý.
Câu ông dặn Tử Thái Thúc đây thực có ý lắm. Mãnh mà khiến cho dân sợ dễ bao nhiêu, thì khoan mà cũng khiến cho dân sợ khó bấy nhiêu. Tuy cũng gọi là sợ, nhưng cái sợ trước không có giá, vì sợ bất đắc dĩ, sợ miễn cưỡng, sợ bề ngoài mà khinh trong bụng, cái sợ sau mới là cái sợ quí, vừa sợ, vừa yêu, sợ mà kính phục, sợ như vui lòng mà sợ vậy. Nhưng muốn được cái sợ sau, tất cái đức phải to làm sao mới cảm hóa được nhân tâm đến bực ấy.
Còn thường thường, phép trị dân không thể cứ khoan mãi được, vì khoan thì dân lờn. Lại cũng không thể cứ mãnh mãi được, vì mãnh thì dân oán. Dân oán hay dân lờn cũng đều có trở ngại đến việc nước cả. Cho nên phải có khoan, lại phải có mảnh đắp đổi đỡ đần cho nhau thì mới được. Bốn chữ “Khoan mãnh tương tế” thực đáng làm cái phương châm cho cả những người cầm quyền trị dân vậy.
221
200. CAN GÌ MÀ PHÁ ĐI
Dân nước Trịnh thường hay đến trường học thôn quê để nghị luận những chính sách hay dở của quan liêu.
Nhiên Minh bảo Tử Sản rằng:
-Tôi định phá hết cả các trường thôn quê, ông tính sao?
Tử Sản nói: Để chứ. Phá đi làm gì? Dân sự người ta sớm tối đến chơi trường học để nghị luận điều phải, điều trái của quan liêu làm. Cái gì người ta cho là phải, ta cứ thế mà làm. Cái gì người ta cho là dở, ta liệu mà đổi đi. Những kẻ nghị luận ấy tức là những ông thầy của ta. Can gì mà phá trường học.
Vả chăng, tôi nghe nói: “ Hết lòng làm điều phải, thì mới đỡ được người ta oán trách mình”. Tôi chưa từng nghe nói: “Chỉ nạt nộ ra oai, mà tuyệt được hết sự oán trách của người.” Cũng như phải đắp đê mà giữ nước, chớ bỏ đê đi, thì nước vỡ tứ tung, bao nhiêu người chết, không thể cứu lại được. Nay ta hẳn cứ để trường học, khiến thường được nghe những câu chê bai để làm thuốc chữa cho ta thì hơn.
Nhiên Minh nghe Tử Sản xong, nói rằng:
-Nay tôi mới biết ông là ông quan thầy đáng tôn vậy. Tôi thật là kẻ bất tài. Ông làm được như lời, thì chẳng những một đám chúng tôi được trông cậy mà cả nước cũng được nhờ vậy.
Tả Truyện
GIẢI NGHĨA
Tả Truyện: sách của Tả Khưu Minh nhà Chu làm, kể những sự về lịch sử thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tả Truyện ở Phụ Lục D).
Tả Khưu Minh: quan Thái Sư nước Lỗ theo chí của Khổng Tử mà làm ra chuyện kinh Xuân Thu gọi là Tả Thị Xuân Thu cho nên người ta thường xưng Khổng Tử là Tố Vương, Khưu Minh là Tố Thần.
Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
Tử Sản: tên tự là Công Tôn Kiều làm quan đại phu nước Trịnh thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tử Sản ở Phụ Lục C).
Nhiên Minh: người đời Xuân Thu, cùng quan ở nước Trịnh với Tử Sản.
LỜI BÀN
Người ta càng cao xa, càng tôn quý bao nhiêu, thì càng xa sự thực bấy nhiêu. Sự thực hay thì hay thực, song lại hay làm cho mất lòng, nên những người đã có địa vị cao, ít khi được nghe sự thực. Thiên hạ không ai muốn mất lòng mình, thì ai dám nói sự thực cho mình biết.
Nhiên Minh đây bảo phá nhà trường là vì nghe sự thực mà mất lòng. Tử Sản đây bảo giữ nhà trường là vì yêu sự thực, được nghe sự thực lấy làm vui sướng. Các nhà trường nước Trịnh bấy giờ có phải như các tờ báo ngày nay, là những cơ quan để cho dân chúng được tự do mà đàm luận về chính sách hay dở hay không? Nếu như vậy, thì ra xưa nay dân sự vẫn có cách là cho những điều nguyện vọng của mình đạt được tới chính phủ, mà chính phủ khôn khéo, tưởng cũng nên lợi dụng cái cách ấy, không nên tuyệt đi vậy. Những câu Tử Sản nói ví như giữ đê cho nước chảy để phòng sự lụt ngập tràn trụa rất nguy, hết lòng làm phải chớ không phải ra oai nạt nộ mới tuyệt được sự oán trách của dân, thực là những câu nói rất đúng với chân lý. Ôi! Một chính phủ mà vững bền hay hư hỏng có thể nghiệm ở lòng dân yêu hay ghét. Nếu dân chúng đã ghét những chính sách không ra gì, chúng dám nói ra miệng, mà lại chỉ thị oai như muốn bưng miệng chúng, chớ không muốn sửa đỗi lỗi mình, thì có khác gì thấy nồi nước sôi trào ra ngoài không biết rút củi ra, lại cứ cầm que mà khuấy vào nước cho đỡ sôi không.
Reply With Quote
222
23-08-2011 08:42 PM #42 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
201. HAY DỞ ĐỀU DO MÌNH CẢ
Người làm quận trưởng một Quốc gia nếu mà bất nhân thì không thể nào nói phải với họ được nữa! Quốc gia suy yếu, ngoại biến đến nơi, họ vẫn cho là yên, thiên tai nhân họa xảy ra luôn luôn, họ không biết là hại, xa xỉ ăn chơi bạo ngược tàn ác đi đến con đường diệt vong, họ vẫn lấy làm vui sướng. Hạng bất nhân ấy, nếu còn nói phải được với họ thì đã chả đến nỗi có những chuyện mất nước tan nhà.
Ngày trước có đứa trẻ hát câu:
“Thương Lang chi thủy thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh.
Thương Lang chi thủy trạc hề, khả dĩ trạc ngã túc”.
Nghĩa là: nước sông Thương nếu mà trong thì ta dùng để giặt dải mũ ta. Nước sông Thương mà đục thì ta dùng để rửa chân ta.
Đức Không Tử nghe thấy, bảo học trò rằng:
-Chúng con nghe đấy: Nước trong thì tự khắc người ta mới giặt dải mũ, đục thì tự khắc người ta chỉ để rửa chân. Đó đều là do nước tự thủ cả.
Ôi! Việc thiên hạ cái gì mà chẳng do tự thủ! Người ta tất tự khinh mình trước, rồi người ngoài mới khinh sau, nhà mình tất tự hủy nhà mình trước, rồi người ngoài mới hủy sau, nước mình tất tự phạt nước mình trước, rồi người ngoài mới phạt sau. Cũng tức như câu ở thiên Thái giáp: “Thiên tác nghiệt, do khả vi. Tự tác nghiệt, bất khả hoặc”. Nghĩa là trời làm tai vạ còn tu tỉnh để mà tránh được, nếu mình gây ra tai vạ thì mình làm mình chịu, chẳng có thể trốn tránh mà thoái chết được.
Mạnh Tử
GIẢI NGHĨA
Mạnh Tử: tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ hiền dạy bảo, lúc lớn theo học thầy Tử Tư, lúc học hành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau biết đạo thông hành, cùng làm sách với học trò là Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học trò và vua các nước Chư hầu làm quyển Mạnh Tử, bảy thiên. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Kẻ có quốc gia mà đã bất nhân thì tâm thần mê muội, công việc đảo điên, không còn biết phải trái là gì nữa, nguy cũng mặc, tai cũng mặc, đến mất đức cũng mặc. Kịp khi đã bại hoại, diệt vong rồi thì lại đổ cho mệnh trời, quy tội cho người, có biết đâu là tự chính mình gây nên mối họa cho chính mình cả. Có thân không biết tu, có nhà không biết trị, có nước không biết giữ, thế là khiến cho người ta khinh mình, bảo cho người ta phá mình, mời cho người ta đánh mình. Ôi! Sự biến cố mấy khi tự dưng mọc ra đâu, muôn sự do tự mình gây nên hết cả. Nếu người có trách nhiệm giữ quốc gia nên nhớ lấy cái nghĩa “tự thủ” để tránh lấy cái tai vạ “tự tác”.
202. NGỤY BIỆN
223
Nước Tề có kẻ thờ vua, thân được vinh hiển, nhà được sung sướng. Khi vua có hoạn nạn, anh ta không chịu liều chết để cứu giúp vua.
Một hôm, anh gặp bạn cũ ở đường, người bạn cũ lấy làm ngạc nhiên, hỏi:
-Tôi cứ tưởng bác chết rồi, mà ra bác vẫn còn sống kia đấy ư?
Anh ta thưa:
-Phải, tôi còn sống chứ. Phàm đi làm tôi tớ người ta chỉ cốt có lợi, mà chết theo người ta thì có lợi gì, cho nên tôi chả chết theo.
-Bác ăn ở như thế thì còn mặt mũi nào mà trông thấy người ta dưới chín suối nữa? -À, thế cứ như ông nói thì ra ông cho khi chết, mắt đã nhắm rồi, mà vẫn còn trông thấy người ta được ư?
Ôi! Những người đời chịu ơn vua, mà chẳng tuẫn nạn vua đều là kẻ đại bất nghĩa. Thế mà khi có ai nói đến, lại biện bác cái lẽ, tự cho mình là phải.
Thói thường ở một nước loạn, ý nghĩ có câu nói thường hay trái nhau.
Lã thị Xuân thu
GIẢI NGHĨA
Lã Thị Xuân Thu: sách của Lã Bất Vi làm. Lã Bất Vi người đời nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lã Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, thì thưởng cho ngàn vàng". (Xin xem thêm Lã Bất Vi ở Phụ Lục C).
Tần: tên nước thời Xuân Thu (tức là tỉnh Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất thống thiên hạ.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
LỜI BÀN
Bài này tác giả nói trung với vua đã kết luận rõ ràng ở dưới rồi. Nhưng ta còn có thể nhân đó bàn rộng ra mà nói được rằng: cái trò ở đời người chỉ vụ lợi, thì không còn biết nghĩa là gì nữa. Hoặc khi có ai giảng giải cho, thì lại tìm câu khéo nói, viện lý sự cùn để tế toái đi cho xong, vẫn tự cho mình là phải, là có lẽ.

203. KHÔNG CHỊU THEO KẺ PHẢN NGHỊCH
Trần Hằng lúc giết vua xong, sai sáu người dũng sĩ đến bắt Tử Uyên Thê phải theo mình.
Tử Uyên Thê nói:
-Nhà ngươi muốn cho ta vào đảng, ý hẳn cho ta là “ trí” chăng, nhưng bầy tôi giết vua mà không cản được, ta chẳng phải là trí; cho ta là “nhân” chăng, nếu ta thấy lợi mà phản nước, ta chẳng phải là nhân; cho ta là “dũng” chăng, nhưng đem binh đến ăn hiếp ta, ta sợ mà theo ngươi, ta cũng chẳng phải là dũng.
Ví bằng ta không có ba điều ấy, ta về phe với ngươi thì có bổ ích gì cho ngươi. Ví bằng ta có ba điều ấy, thì đời nào ta theo ngươi mà ngươi dỗ.
Trần Hằng bèn tha Tử Uyên Thê.
Tân Tự
GIẢI NGHĨA
Tân Tự: sách của Lưu Hướng, người đời nhà Hán soạn.
Trần Hằng: người quyền thế thời Xuân Thu giết vua Giản Công nước Tề, lập vua Bình Công.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
LỜI BÀN
Trần Hằng mà dụ Tử Uyên Thê vào đảng là có ý mong cậy Tử Uyên Thê về sau này
224
nhiều lắm. Không ngờ Tử Uyên Thê đáp hắn mà thực là người đủ trí, nhân, dũng thì bao giờ dỗ được, mà nếu hắn là người trí, nhân, dũng đều không có thì dỗ hắn về làm chi! Câu đáp thật khéo, thật có ý nghĩa đủ làm cho Trần Hằng suy nghĩ cả đôi đường mà phải thôi dỗ ngay không con do dự gì nữa.
204. CÁCH CƯ XỬ Ở ĐỜI
Cư xử với người mà góc gách, nghiêm ngặt quá là cái đại bệnh ở đời.
Bậc thánh hiền xử với người đời không có giây phút nào là rời bỏ được cách ôn hòa, trung hậu, nên mới có những câu:
Phiếm ái chúng, nghĩa là rộng yêu tất cả loài người;
Hòa nhi bất đồng, nghĩa là xử với người hòa hợp mà không a dua phe đảng;
Hòa nhi bất lưu, nghĩa là xử với người hòa nhã mà không đua theo quá trớn;
Quần nhi bất đảng, nghĩa là liên hợp với mọi người cho có nhân quần mà không vào bè kết đảng với ai cả;
Chu nhi bất tị, nghĩa là công bình mà chẳng thiên tư;
Từ tường khải dị, nghĩa là nhân đức, êm ái, vui vẻ, dễ dàng;
Ái nhân, nghĩa là yêu loài người;
Thân nhân, nghĩa là gần gụi dân và đi sát với dân, coi dân như anh em con cái;
Vạn vật nhất thể, nghĩa là coi muôn loài với mình như là một thể;
Thiên hạ nhất gia, trung quốc nhất nhân, nghĩa là coi cả thiên hạ như một nhà, coi cả nước như một người.
Nếu làm người cứ vò võ một mình, tính nết khe khắt, lạnh nhạt, chẳng thân với ai thì thật là một hạng chướng ngại cho xã hội. Dù cho người phương chính, tính nết độc lập, cũng không phải là hạng ứng dụng với đời, chẳng qua là người nhất tiết quyến giới mà thôi.
Lã Khôn
GIẢI NGHĨA
Phương chính: góc gách ngay thẳng.
Nhất tiết quyến giới: chỉ khẳng khái giỏi được một bề, một mặt.
LỜI BÀN
Mùa xuân khí trời có đầm ấm ôn hòa thì muôn loài mới sinh tươi nảy nở và phồn thịnh được. Người đối với người cũng vậy, trong thì gia đình, ngoài thì xã hội, có “hòa khí” mới có thể sống chung với nhau mà an cư lạc nghiệp được. Ta dù có được là người tốt chăng nữa mà cứ một mực góc gách, nghiêm ngặt với người, thì người lấy làm khó chịu mà không thể nào thân với ta được. Không chịu được nhau, tất nhiên hay khích vắc nhau, thành cả đôi bên không được yên vui sung sướng, mà công việc ở giữa vì thế mà hỏng cả. Cho nên thánh hiền ở đời không bao giờ thế. Bao giờ cũng giữ được cái thái độ ôn hòa, không a dua, xu phụ ai, cũng không ghét ai để cho người đau đớn mà sinh biến. Những câu tác giả lược ra mà liệt vào bài đây thực là những vị thuốc rất hay để chữa cho người có tính khắt khe, quá thẳng với đời mà hay ghét đời, chán đời vậy.
205. TỰ XÉT LẠI MÌNH
Người quân tử sở dĩ khác người là vì lúc nào cũng để tâm đến việc “Nhân”, để tâm đến việc “Lễ”.
Đã là người có nhân, thì yêu người; đã là người có lễ, thì kính người. Mà theo lẽ thường, yêu người thì người tất yêu lại, kính người thì người tất kính lại.
Người quân tử ăn ở như vậy, mà gián hoặc còn có kẻ đem thói ngang ngược đối đãi lại, thì tất nhiên tự xét ngay mình lại, chắc mình còn bất nhân, chắc mình còn vô lễ, thì họ mới xử với mình như thế, chớ tự dưng thì có khi nào họ lại ngang ngược với
225
mình được.
Người quân tử xét lại thật mình có nhân, thật mình có lễ, mà người ta đối đãi với mình vẫn ngang ngược như trước, thì tất xét lại mình ta tuy nhân, tuy lễ thật, nhưng ta chưa được hết lòng chăng.
Nếu người quân tử xét rằng thật đã hết lòng mà thói người ngang ngược vẫn như trước, thì bấy giờ người quân tử nói:
-Hạng này thật là hạng càn dỡ. Người mà đến như vậy thì khác gì loài vật. Đối với loài vật thì ta còn so kể làm chi!
Mạnh Tử
GIẢI NGHĨA
Mạnh Tử: tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ hiền dạy bảo, lúc lớn theo học thầy Tử Tư, lúc học hành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau biết đạo thông hành, cùng làm sách với học trò là Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học trò và vua các nước Chư hầu làm quyển Mạnh Tử, bảy thiên. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Ai cũng đều là người cả. Nhưng người quân tử chỉ khác người vì cái tâm không tàn ác, không bỉ bạc. Tâm đã như thế thì thường yêu người, quý người. Yêu quý người, mà người yêu quý lại, là lý chí thường. Song ở đời có nhiều việc bất ngờ, đã không đem điều phải ăn ở lại với việc phải, lại còn giở lối cuờng bạo vô lý. Thế mà người quân tử xử với bọn ngu ngoan ấy vẫn ân cần tự xét mình đến ba lần thật là vẫn sẵn lòng thuơng xót, biết cách chu toàn không có ý gì tự cho mình là phải mà tuyệt bỏ người đời cả. Cái học trách kỷ, trong làm cho mình hay thêm, ngoài làm cho người dễ theo điều phải, thật là hay lắm vậy.
206. KHÔNG NÊN CÂU NỆ
Trời không có thể làm cho hoa mùa nọ nở vào mùa kia, cho nên thánh nhân không trái thời.
Đất không có thể làm cho khí hậu xứ kia đổi thành xứ nọ, cho nên thánh nhân không trái tục.
Thánh nhân không có thể làm cho tay biết đi chân biết cầm, cho nên thánh nhân không làm cho trái cái tài riêng.
Thánh nhân lại không có thể làm cho cá biết bay trên không, chim biết bơi dưới nước, cho nên thánh nhân cũng không dùng cái tài riêng của người.
Vì vậy, lúc nên động, lúc nên tĩnh, lúc nên tối, lúc nên sáng, ta không nên câu nệ một đường nào thì mới là hợp đạo.
Quan Doãn Tử
LỜI BÀN
Hết thảy động vật, thực vật cả đến người ta, mỗi loài mỗi giống thường có những đặc tính riêng của loài ấy, giống ấy, cách trí dù có tinh xảo cũng không thể bắt cho cả mọi loài, mọi giống cùng y như nhau cả. Suy như thế, thì bất cứ về mặt gì tính tình, phong tục cho đến cả tôn giáo, học thuật, ta không nên câu nệ chấp nhất một đường nào mà chỉ biết cái phải của ta, không rõ cái phải của người. Ta phải có lượng rộng dong được cả mọi cái, bao quát được cả mọi việc, thì ngõ hầu mới là người thông hiểu và sáng suốt vậy.
207. TRI KỶ
Thạch Phủ người nước Tề thời Xuân Thu, có tiếng là người giỏi. Anh ta phải tội oan, bị giam trói. Án Tử đi chơi, gặp ở đường, tháo một con ngựa đang đóng xe ra bán, để chuộc tội cho anh ta, rồi đưa lên xe đem ra về.
226
Về đến nhà, Án Tử chẳng hỏi han gì đến, vào ngay nhà trong, rồi ở mãi không ra. Thạch Phủ tức giận bỏ đi và nói rằng từ rày không bước đến nhà Án Tử nữa.
Án Tử nghe tiếng, ngạc nhiên, sửa khăn áo chạy ra, tạ rằng:
- Tôi tuy chẳng ra gì, song cũng vừa gỡ được tội cho ông, sao ông lại vội cự tuyệt tôi thế.
Thạch Phủ nói:
- Không phải. Tôi nghe người quân tử gặp phải kẻ bất tri kỉ thì phải cực thân, gặp được người tri kỷ thì được hả dạ. Tôi đã phải giam trói oan là tôi gặp phải kẻ bất tri kỷ. Tôi nay gặp được ông, ông đã biết tôi mà chuộc cho tôi khỏi tội oan, thì ông là tri kỷ của tôi. Nếu tôi lại gặp phải người tri kỷ mà vô lễ, thì thà rằng tôi cứ ngồi trong chỗ giam trói còn hơn.
Án Tử nghe ra bèn kính trọng Thạch Phủ, rồi sau tôn Thạch Phủ làm thượng khách. Sử ký
GIẢI NGHĨA
Sử Ký: còn được gọi bằng tên "Sách của ông Thái sử" là cuốn sử của Tư Mã Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, ghi lại lịch sử Trung Quốc từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông sống. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Sử Ký trong Phụ Lục D, Tư Mã Thiên trong Phụ Lục C).
Án Tử: tức là Án Anh, làm tướng đời vua Cảnh Công, ông là người trung thành, tiết kiệm có tiếng thời bấy giờ.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
LỜI BÀN
Xem chuyện này, ta trọng Thạch Phủ là người tinh đời và lại có tài, có khí, ngang nhiên nói thẳng băng mà không mất lòng ân nhân, lại còn nhân đó làm cho ân nhân biết giá trị của mình nữa. Ông vừa biết mình vừa biết người và giỏi cả khoa ngôn ngữ. Còn như Án Tử thì là người biết người mà lại có đức, có lượng. Bán ngựa để chuộc tội cho Thạch Phủ, thế là biết được anh hùng trong lúc còn trần ai và thương người như thể thương thân vậy. Phải Thạch Phủ nặng lời oán trách, mà ông xử lại kính trọng bội phần, thật là ái tài như mạnh (yêu quí người hiền tài như yêu quí mạng mình). Đáng phục lắm thay! Án Tử làm tướng nước Tề, suốt đời tận tụy quên cả bản thân; nhất là với việc bồi thực nhân tài để cho có người giúp dân giúp nước, ông lại càng hết lòng lắm.
208. TRỒNG KHÓ, NHỔ DỄ
Điền Nhu được vua nước Ngụy tin dùng.
Huệ Tử bảo Điền Nhu:
- Ngươi phải khéo ăn ở với cận thần nhà vua mới được. Này xem như cây dương, trồng ngang cũng mọc, trồng ngược cũng mọc, bẻ cành mà trồng cũng mọc. Giả sử mười người trồng cây dương, một người nhổ lên thì không cây dương nào sống được. Thế cho nên nhiều đến mười người trồng giống thứ cây dễ mọc cũng không lại được với một người nhổ là tại làm sao? - Là tại trồng thì khó mà nhổ thì dễ. Nay ngươi muốn được vua tin dùng lâu dài, nhưng có nhiều người muốn bỏ ngươi, thì ngươi nguy mất.
Bách Tử Toàn Thư
GIẢI NGHĨA
Ngụy: một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc, ở vào bắc bộ Hà Nam và phía nam Sơn Tây bây giờ.
Huệ Tử: tức là Huệ Thi người thời Chiến Quốc, có tài khéo nói, là bạn thân của Trang Tử. Huệ Tử cũng là tên một thiên sách của Huệ Thi.
227
LỜI BÀN
Được vua tin dùng thế là vua đã có lòng yêu, mà vua đã có lòng yêu thì lại còn lo chi không giữ được địa vị vững chắc. Thế mà vị tất. Vua yêu, tuy vua là chủ nữa, nhưng cũng chỉ là một người, còn bao nhiêu người bên cạnh vua, nếu ai ai cũng ghét mình cả, thì mình không thể sao đứng lại được. Nên cái lẽ trồng khó, nhổ dễ của Huệ Tử nói với Điền Nhu rất là phải. Bài này có ý lo xa trừ bỏ cái hại dèm pha.
209. NGƯỜI KIẾM CỦI ĐƯỢC CON HƯƠU
Người nước Trịnh kiếm củi ngoài đồng, thấy con hươu lạc, đón đánh chết được ngay. Anh ta sợ người ngoài trông thấy, vội giấu xác con hươu vào trong cái hào cạn, lấy lá chuối phủ lên. Trong bụng mừng rỡ không biết thế nào mà kể.
Chợt một cái, anh ta lú ngay chỗ giấu hươu, bèn cho ngay là chuyện chiêm bao. Lúc gánh củi về, anh ta đi đường, thẫn thờ thở than và cứ một mình lẩm bẩm kể câu chuyện ấy.
Có một người đi cạnh, nghe thấy cứ theo lời kể mà tìm được hươu, đưa về, bảo vợ rằng:
- Lúc nãy anh kiếm củi mộng bắt được hươu mà không biết ở chỗ nào, bây giờ ta tìm được, thế thì hẳn là kẻ mộng thật.
Vợ nói:
- Hay là chính anh mộng thấy người kiếm củi bắt được hươu. Chớ làm gì có người kiếm củi thật. Bây giờ anh ta bắt được hươu thật, thế là mộng anh thật chăng. Chồng bảo:
- Đây ta cứ biết được hươu là được hươu, cần gì phải biết rằng ta mộng hay hắn mộng nữa.
Anh kiếm củi về nhà, trong bụng tấm tức băn khoăn về việc mất hươu. Đêm hôm ấy nằm mộng thấy chỗ mình giấu hươu và cả người đến lấy hươu ấy. Sáng ra, cứ theo như mộng rồi tìm ra được, mới đem lên quan sĩ sư kiện để đòi lại hươu.
Quan xử rằng:
- Mày trước thật là bắt được hươu lại hoảng lên cho là mộng, sau mày mộng tìm thấy hươu lại hoảng lên cho là thật. Còn thằng kia thật là lấy hươu mà tranh nhau với mày thì vợ nó lại tưởng là mộng được hươu của người ta chớ không ai bắt được hươu thật. Bây giờ rõ ràng có con hươu đây, thời chia đôi cho mỗi bên nửa.
Cái án ấy tâu lên vua nước Trịnh.
Vua nói rằng:
- Hừ! Quan án cũng lấy mộng mà xử cái kiện con hươu ư! Rồi cho đòi thủ tướng đến hỏi.
Thủ tướng tâu rằng:
- Mộng cùng chẳng mộng, tôi không thể phân biện được. Muốn phân biện mộng hay giác thì chỉ có ông Hoàng Đế, ông Khổng Tử mà thôi. Bây giờ không có hai bực ấy, thì ai phân biện ra được?
Thôi, xin cứ y như lời xử đoán của quan sĩ sư là xong.
Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
Sĩ sư: chức quan tra xét việc ngục tụng.
Hoàng Đế: một bậc thánh đế thời cổ, thay vua Thần Nông cai trị nước Tàu.
228
Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Đánh chết được con hươu thật lại đem giấu cẩn thận, vì quên mất chỗ giấu mà cho là mộng. Thế là thực mà hóa ra mộng. Nghe lỏm rồi tranh lấy hươu của người đem về tận nhà khoe với vợ. Thế là mộng hóa ra thực! Ôi! Như thế thì chẳng ra sự mộng và sự thực không có gì để phân biệt tách bạch hẳn ra ư. Hay ở đời có lắm cái như thực mà là mộng cả, lại có lắm cái tưởng mộng mà thực cả. Tác giả chính có ý muốn bày tỏ sự mộng, sự thực ở đời là như thế. Nhà Phật còn cho cả cuộc đời là một giấc mộng, nữa là những việc vụn vặt hàng ngày.
Còn câu cuối bài, tác giả có ý bác ông Hoàng Đế và ông Khổng Tử cứ như muốn giáo hóa người đời, cho ở đời cái gì cũng là thực cả.
Tự xưa đến nay, ở đâu mà chẳng là thật, việc gì mà chẳng là chiêm bao, chẳng qua như chuyện được hươu mất hươu, tìm thấy hươu, kiện nhau hươu. Nghĩ cho cùng, tưởng cũng buồn cười.
210. HỎI THĂM DÂN
Vua nước Tề sai sứ đem thư sang hỏi thăm bà Uy Hậu nước Triệu.
Sang đến nơi, bà Uy Hậu chưa xem thư, đã hỏi sứ giả rằng:
- Năm nay không mất mùa chứ? Dân bình yên chứ? Vua cũng mạnh khỏe chứ?
Sứ giả nghe hỏi không bằng lòng, nói rằng:
- Tôi vâng mệnh vua nước tôi sang sứ bên này, thái hậu không hỏi đến vua tôi, lại hỏi thăm mùa màng với dân sự trước, thế chẳng ra tôn trọng kẻ hèn hơn người sang ư?
Uy Hậu bảo:
- Không phải. Nếu không có mùa màng thì lấy đâu có dân, không có dân thì lấy đâu có vua. Cho nên ta hỏi mùa màng và nhân dân trước. Ai lại bỏ gốc mà hỏi ngọn bao giờ!
Nói xong, Thái hậu lại hỏi luôn rằng:
- Chung Li Tử là xử sĩ bên ấy vẫn được bình yên đấy chứ? Người ấy có lương ăn cũng thế, không có lương ăn cũng thế, có áo mặc cũng thế, không có áo mặc cũng thế, ấy là người giúp vua mà nuôi dân đấy, sao đến bây giờ chưa triệu ra làm quan? Cả Nghiệp Dương Tử bên ấy vẫn bình yên đấy chứ? Người ấy thương xót kẻ quan quả chu tuất, kẻ cô độc, chuẩn tế kẻ khốn cùng, giúp đỡ kẻ túng bấn, thế là người ta giúp vua để sinh tức cho dân, sao đến bây giờ còn chưa triệu ra làm quan? Người con gái Bắc cung tên là Anh Nhi Tử vẫn bình yên đấy chứ? Người ấy bỏ cả đồ trang sức đến già không lấy chồng để nuôi cha mẹ. Ấy là người ta làm gương cho dân bắt chước ăn ở với cha mẹ cho có hiếu, sao đến bây giờ vẫn chưa cho người ấy vào chầu? Nếu hai người xử sĩ ấy không được làm quan, người con gái ấy không được vào chầu, thì làm vua nước Tề sao trị vạn dân được! À mà thằng Tử Trọng ở Ô Lăng vẫn còn đấy chứ? Người ấy trên không làm tôi vua, dưới không trị việc nhà, giữa không kết giao với ai. Thế là người ấy dạy dân làm điều vô dụng, sao đến bây giờ vẫn còn chưa giết đi?
Thái hậu hỏi hết mấy câu chuyện xong rồi mới xem đến thư.
Triệu Văn
GIẢI NGHĨA
Tề: tên nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Uy Hậu: mẹ vua Uy Vương, bấy giờ bà có dự triều chính.
Triệu: tên một nước lớn thời Chiến Quốc, ở vào phía nam tỉnh Trực Lệ, phía bắc
229
Tỉnh Sơn Tây bây giờ.
Thái hậu: mẹ vua.
Xử sĩ: người hiền tài ẩn cư một chỗ.
Quan quả: quan: người góa vợ, quả:người góa chồng.
Chẩn tế: cứu giúp kẻ đói khổ.
LỜI BÀN
Nước lấy dân làm gốc. Dân không đủ ăn thì nước nguy cho nên dân sinh là việc trọng. Dân không an cư thì nước loạn, cho nên trị an là việc cần. Bà Uy Hậu hỏi hai việc này trước, rồi hỏi thăm vua sau là có ý quí dân lắm. Rồi bà hỏi đến hai người xử sĩ, một người hiếu nữ, là mong cho dân có được nhân tài để lãnh đạo. Bà hỏi đến một tên tiểu nhân là ngại cho dân lỡ phải quân gian ác cổ hoặc làm càn, thủy chung câu nào bà hỏi cũng chú trọng về dân, còn vua thì hỏi qua, thật là một tay thấu hiểu việc trị nước, ám hợp với cái ý tưởng của ông Mạnh là: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” vậy.
Reply With Quote
24-08-2011 08:25 PM #43 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
211. DÂN QUÍ NHẤT
Nước mà trông cậy để vững bền được là nhờ ở ba thứ:
Một là dân; hai là xã tắc; ba là vua.
Đem ba điều ấy so sánh với nhau, dân tuy không có thế đáng tôn, nhưng có hình đáng sợ, đáng trọng, thật là dân quí nhất.
Xã tắc là thổ thần và cốc thần tí hộ cho dân được yên, được sống nhưng cũng vì dân mới đặt ra, thì chẳng có thể bì với dân được. Vậy xã tắc còn là đáng quý thứ hai. Vua tuy chúa tể cả thần, cả dân nhưng kỳ thực cũng phải nhờ lòng dân có yêu mến, xã tắc có yên ổn thì vua mới lâu dài được. Thế thì vua ví với dân, với xã tắc, vua không trọng lắm, nghĩa là đáng quý thứ ba.
Mạnh Tử
GIẢI NGHĨA
Mạnh Tử: tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ hiền dạy bảo, lúc lớn theo học thầy Tử Tư, lúc học hành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau biết đạo thông hành, cùng làm sách với học trò là Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học trò và vua các nước Chư hầu làm quyển Mạnh Tử, bảy thiên. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).
Xã tắc: xã: nơi thờ thổ thần tức là thần giữ đất; tắc: nơi thờ cốc thần, tức là thần cho được mùa.
Tí hộ: che chỡ, đỡ đần cho được bình yên.
LỜI BÀN
Nước có quân chủ, thì còn ai trọng bằng vua chúa. Tục chuộng Thần quyền, thì còn ai sợ bằng thần thánh. Một đàn dân ngu, tha hồ mà giày xéo, bóc lột! Nhưng có biết
230
đâu dân chính là gốc của nước, có dân mới có xã tắc, có dân mới có vua, nên đem so dân với vua thì dân là quý nhất, không thể khinh thường được. Ông Mạnh sinh vào đời cổ, quân chủ áp chế, mà thực đã hiểu rõ cái lẽ tối tân của đời bây giờ là đời dân chủ. Dù có quân chủ chăng nữa, nhưng cũng là tượng trưng cho toàn dân, mà phải thực hành trọng dân quyền thì mới hợp trào lưu tiến hóa vậy. Còn dân, cố nhiên là dân vi quý, nhưng dân trí không mở mang thì dân chủ cũng nguy hại lắm.
212. NHUỘM TƠ
Mặc Tử thấy người ta nhuộm tơ, ngẫm nghĩ than rằng:
Nhuộm vào màu xanh thì hóa xanh, nhuộm vào màu vàng thì hóa vàng. Nhúng vào màu nào thì biến ra màu ấy. Năm lần nhuộm, hóa ra năm sắc, cho nên nhuộm phải cẩn thận.
Không những tơ nhuộm như vậy. Người ta tiêm nhiễm nhau cũng thế, bạn với người hay thì hóa hay, bạn với kẻ dở thì hóa dở. Vinh hay nhục quan hệ ở những người bạn mình hay giao du.
Mặc Tử
GIẢI NGHĨA
Mặc Tử: tên sách của Mặc Địch soạn, chủ nghĩa là “Kiêm ái” yêu người như yêu mình cũng gần giống chủ nghĩa của đạo Cơ Đốc và đạo Thích Ca. (Xin xem thêm Mặc Tử ở Phụ Lục C).
Lỗ: một nước chư hầu nhỏ, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
LỜI BÀN
Bài này ý tưởng không có gì là cao lạ, chẳng qua cũng chỉ nói đến sự giao du làm cho người ta chóng giống tính những người mình hằng đi lại với nhau. Nào “Gần mực thì đen gần đèn thì rạng” (hoặc: gần son thì đỏ), nào: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, nào: “ Mày bảo tao biết mày chơi với ai, tao sẽ bảo mày là hạng người thế nào”. “Vợ bắt tựa chồng, người ăn người ở giống tông chúa nhà”. “Ở nhà hàng mắm thì thối, ở nhà hàng hương thì thơm”, có biết bao nhiêu câu do cái khôn ngoan của loài người đều công nhận một chân lý ấy cả. Sự chơi bời ở đời, gần người hay thì được hay, gần kẻ dở hóa dở cần là như thế, thánh hiền còn phải nghĩ đến, huống chi là ta, lúc muốn kết bạn bè với ai, chẳng nên cẩn thận mà kén chọn trước ru? Nói tóm, bài này khuyên người ta “ chọn bạn mà chơi”.

213. KÉO LÊ ĐUÔI MÀ ĐI
Trang Tử đang câu cá ở trên sông Bộc.
Vua Sở sai hai quan đại phu đến ngỏ ý rằng, ý vua muốn đem việc nước lại phiền. Trang Tử không nhìn hai quan đại phu, cứ cầm cần câu cá mà nói rằng:
-Ta nghe nước Sở có con thần qui chết đã ba nghìn năm mà vua còn quý, lấy khăn bọc cất vào hòm để trên miếu đường. Như con thần qui ấy chết mà để xương lại cho người ta quý hơn hay là sống mà kéo lê đuôi đi ở giữa đường quý hơn?
Hai quan đại phu nói: -Thà rằng sống mà kéo lê đuôi đi ở giữa đường còn hơn. Trang Tử nói: -Vậy xin mời hai ngài cứ về. Ta đây cũng sắp kéo lê đuôi mà đi ở giữa đường.
Trang Tử
231
GIẢI NGHĨA
Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lão Tử, sau người ta vẫn xưng Lão Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
Bộc: một ngành của con sông chảy qua địa phận tỉnh Hà Nam.
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
Thần qui: con rùa thiêng. Rùa sở dĩ cho là con vật thiêng là vì xưa người ta dùng để bói.
Miếu đường: nơi thờ phụng tổ tiên của nhà vua.
LỜI BÀN
Hiền như Trang Tử đã đi câu trên sông Bộc là muốn an nhàn không còn để thân bó buộc vào trong vòng danh lợi nữa. Sở Vương không hay còn cho người đến cầu. Trang Tử hỏi chuyện con thần qui mà tức là để tỏ ý kiến rằng từ chối. Ôi! Bây giờ nhân đời Chiến quốc, người ta đã có câu: “ Chiến quốc chi sĩ tiện” nghĩa là kẻ sĩ đời Chiến quốc hèn hạ, và đáng khinh bỉ, cho nên Trang Tử không chịu ra cũng có lẽ vậy. Lúc đời đang sôi nổi, đắm đuối về danh lợi, xâu xé tranh cướp nhau, xác người tuy còn, lòng người đã chết, thì ra đua với đời chỉ ô uế đến thân. Có đâu cao thượng bằng cầm cần câu câu trên sông Bộc làm lão ngư ông sống gần tạo hóa, xa đời ô trọc lại chả nhẹ nhàng cái thân ư!
214. PHẢI BIẾT PHÒNG XA
Ông Biển Thước đến yết kiến Hoàn Hầu nước Tề, đứng ngắm một lát, tâu rằng: -Vua có bệnh ở trong bì phu, không chữa sợ sau nặng.
Hoàn Hầu bảo: Ta vô bệnh.
Biển thước đi ra.
Hoàn Hầu nói: Thầy thuốc này lý tài lắm! Muốn chữa người khỏe để lấy công.
Mười hôm sau, Biển Thước vào yết kiến Hoàn Hầu lại nói:
-Vua có bệnh ở gan ruột, không chữa mau sau khó lòng.
Hoàn Hầu không trả lời, còn lấy làm không bằng lòng.
Biển Thước đi ra.
Cách mười hôm nữa, Biển Thước lại vào yết kiến Hoàn Hầu, vừa trông thấy, lùi chạy ra ngay.
Hoàn Hầu cho người gọi lại hỏi, vì cớ gì mà ra ngay như vậy.
Biển Thước tâu:
-Bệnh ở bì phu còn châm trích được, bệnh ở gan ruột còn thuốc thang được, bệnh đã vào xương tủy, thì không tài nào chữa được nữa. Bây giờ bệnh nhà vua đã vào đến xương tủy cho nên tôi không dám nói mà phải ra ngay.
Năm hôm sau, Hoàn Hầu phát bệnh, cho tìm Biển Thước, thì Biển Thước đã sang nước Tần rồi. Quả nhiên bệnh Hoàn Hầu không thầy nào chữa được nữa, Hoàn Hầu mất.
Thanh Lê Tử
GIẢI NGHĨA
Thanh Lê Tử: tức là Lưu Hướng, người nhà Hán làm quan Gián Nghị đại phu, giỏi về văn chương lại kiêm cả kinh thuật và thiên văn.
Biển Thước: thầy thuốc hay có tiếng đời Xuân Thu. (Xin xem thêm Biển Thước ở Phụ Lục C).
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Tần: tên nước mạnh nhất thời Xuân Thu-Chiến Quốc (ở vào tỉnh Thiểm Tây bây giờ)
232
đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất thống thiên hạ. Lý tài: lập cách kiếm tiền.
Châm trích: châm: kim lể, trích: lửa đốt.
LỜI BÀN
Theo y học phương đông thì đối với bệnh nhân: vọng, văn, vấn, thiết là bốn việc cần. Biển Thước là bậc danh y vọng ( trông) mà biết bệnh nhẹ rồi nặng có chi là lạ.
Phàm bệnh gì cũng vậy, lúc mới phát ra, biết mà chữa ngay còn dễ, chớ để lâu ngày, thì rất khó hơn hoặc có khi nguy, không sao chữa được nữa.
Suy rộng ý bài này ra, ta lại có thể lấy việc bệnh tật mà so với việc thân, việc nhà, việc nước, đại khái đều như thế cả. Nghĩa là bất kỳ việc gì, nếu đã gọi là hư hỏng, thì phải sớm biết lo xa ngay đi, hoặc còn chữa chạy được, chớ để lâu ngày quá, đợi khi nước đến chân thì dù có muốn cũng không sao kịp được nữa, vì trễ quá rồi.
215. MỘT CÂU ĐOÁN ĐÚNG
Ông Tử Sản nước Trịnh sang nước Trần, có việc minh ước.
Khi về, ông tâu mọi việc với vua xong, ông đem chuyện nước Trần nói với các quan rằng:
-Nước Trần thế nào rồi cũng mất, chẳng nên giao hiếu với nước ấy làm gì. Nay họ chứa nhiều lương thực, họ sửa sang thành quách, họ chỉ cứ cậy hai điều ấy đủ làm yên nước mà chẳng thương gì đến nhân dân. Vua thì không có chí gì là độc lập, thái tử thì hèn yếu, các nhà đại gia thì xa xỉ dâm dật, các quan thì kiêu ngạo, tham tàn, chính quyền thì chia xé, không ai chịu trách nhiệm. Như thế mà ở chen vào giữa các nước lớn, thì tài nào mà còn được. Bất quá mười năm nữa, nước Trần thế nào cũng mất.
Sau quả nhiên nước Trần mất thật.
Tả Truyện
GIẢI NGHĨA
Tả Truyện: sách của Tả Khưu Minh nhà Chu làm, kể những sự về lịch sử thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tả Truyện ở Phụ Lục D).
Tả Khưu Minh: quan Thái Sư nước Lỗ theo chí của Khổng Tử mà làm ra chuyện kinh Xuân Thu gọi là Tả Thị Xuân Thu cho nên người ta thường xưng Khổng Tử là Tố Vương, Khưu Minh là Tố Thần.
Tử Sản: tên tự là Công Tôn Kiều làm quan đại phu nước Trịnh thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tử Sản ở Phụ Lục C).
Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
Trần: tên một nước nhỏ thời Xuân Thu ở vào một phần đất phủ Khai Phong (Hà Nam) và Bạc Châu (An Huy) ngày nay.
LỜI BÀN
Một nước mà vua chẳng ra vua, ươn hèn ngu muội, quan chẳng ra quan, tham tàn kiêu xa, để đến nỗi dân khốn cùng, tài khánh kiệt, quân đội liệt nhược, chính sự mục nát, mà chỉ cậy vào cái kho lương đầy, cái thành đắp cao cùng những tờ minh ước của các lân lang thì tài nào nước không mất.
Một nước như Trần đây, thật là tự mình làm cho mình diệt vong trước, rồi nước ngoài mới đến xâm lăng mà diệt đi sau vậy.
216. CÙNG, ĐẠT BỞI SỐ
Bắc Cung Tử hỏi Tây Môn Tử rằng:
-Tôi với bác cùng một thời mà người ta quý bác, cùng một họ mà người ta kính bác, cùng làm quan mà bác sang hơn tôi, cùng làm ruộng mà bác giàu hơn tôi, cùng đi
233
buôn mà bác lắm lời hơn tôi. Tôi mặc, phải mặc áo cộc; ăn, phải ăn gạo hẩm; ở thì một túp nhà tranh, đi thì đi chân không. Bác thì mặc những gấm vóc, ăn những thịt, cá, ở thì gác tía lầu hồng, đi thì đi xe xe ngựa ngựa. Ở nhà, thì coi bác ra bộ lạt lẽo có bụng khinh tôi, trong triều thì coi bác ra bộ hơn hớn có dáng khinh tôi. Bác với tôi chẳng hỏi han đến nhau, chẳng chơi bời với nhau đã mấy năm nay rồi, vậy thì bác tự cho là bác tài đức hơn tôi chăng?
Tây Môn Tử đáp:
-Tôi cũng không rõ thật tôi hơn được bác không. Nhưng bác làm việc gì cũng vấp váp, tôi làm việc gì cũng hanh thản. Đó có phải là cái trưng nghiệm tài đức hơn, kém nhau chăng? Bác lại nói điều gì cũng bằng tôi, chằng đáng thẹn lằm ư!
Bắc Cung Tử không biết nói sao nữa, ngậm ngùi ra về. Giữa đường gặp Đông Quách tiên sinh, tiên sinh hỏi:
-Anh này đi đâu về? Coi mặt sao buồn thế?
Bắc Cung Tử thuật lại câu chuyện kia.
Tiên sinh bảo:
-Được, để ta gỡ khỏi xấu hổ cho.
Rồi tiên sinh cùng đi với Bắc Môn Tử đến nhà Tây Môn Tử, hỏi rằng:
-Sao anh nói nhục Bắc Cung Tử tệ thế? Anh nói gì, kể lại tôi nghe.
Tây Môn Tử đáp:
Hắn nói kể về họ hàng, đi làm quan, đi buôn làm ruộng thì hắn cũng bằng như tôi mà sao giàu, nghèo sang hèn thì lại khác hẳn tôi. Tôi bảo rằng: tôi cũng không chắc tôi tài đức hơn gì hắn, nhưng cứ so cái việc của hắn làm hay vấp váp, cái việc của tôi làm được hanh thản, thì tức là cái trưng nghiệm hơn kém nhau mà hắn lại cứ nói việc gì cũng như tôi chẳng là xấu hổ lắm ru?
Đông Quách tiên sinh nói:
-Anh nói hơn với kém chẳng qua chỉ nói hơn kém bề ngoài, chớ ta mà nói hơn với kém thì lại khác. Bắc Cung Tử hơn anh về cái đức mà kém anh về cái số phận, còn anh thì số phận hơn Bắc Cung Tử nhưng đức lại kém. Anh gặp may mà đạt không phải anh có khôn gì. Bắc Cung Tử bị rủi mà cùng cũng không phải có dại gì. Sự may rủi đó đều bởi trời cả không phải bởi người. Vậy mà anh dám hợm mình về số phận của anh, còn Bắc Cung Tử thì lại tủi về tài đức của mình, hai anh đều là không biết cái lẽ tự nhiên cả.
Tây Môn Tử nghe nói, chịu là phải bảo rằng:
-Thôi, xin lỗi tiên sinh, từ rày tôi không dám nói vậy nữa.
Bắc Cung Tử cũng tỉnh ngộ ra. Khi về nhà, mặc cái áo vải cộc mà coi ấm áp như áo lông cừu, ăn cơm gạo hẩm mà coi ngon như gạo tám thơm, ở nhà tranh mà coi rộng như nhà ba tần, đi dép cỏ mà coi sung sướng như ngồi xe ngựa. Trọn đời lúc nào cũng vui sướng trong lòng, không biết cái vinh cái nhục là gì nữa.
Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Đông Quách tiên sinh: một nhà ẩn sĩ đời Xuân Thu.
Hanh thản: thông suốt bằng phẳng, không có gì trở ngại.
Trưng nghiệm: việc có chứng cứ đủ rõ ràng thật.
Đạt: làm nên, vẻ vang sung sướng.
Cùng: không làm nên gì, khốn khó nghèo khổ.
Tỉnh ngộ: đương mê muội mà hiểu rõ, rồi tự biết đã lầm.
LỜI BÀN
234
Bắc Cung Tử hỏi Tây Môn Tử là có ý không phục Tây Môn Tử. Nghĩ đáng giận thật: cái gì mình cũng bằng người ta mà sao lại kém người ta? Còn Tây Môn Tử đáp Bắc Cung Tử thế là lên mặt hơn người ta, tất là có cớ làm sao chứ? Thành ra một người cậy tài đức hơn mà bực mình, một người cậy vận mệnh hơn người mà lên mặt. Ấy ở đời tài đức và mệnh vận thường vẫn không đi đôi với nhau: có tài đức mà phải kém người không tài đức mà được số hơn người. Ai giải cho ra cái lẽ ấy? Đông Quách Tiên sinh, mà tức là tác giả cho rằng: Chẳng qua là do ở số phận, mà số phận là do ở trời định, người ta không thể sao cãi được. Thực hợp với câu cổ ngữ “May hơn khôn” của ta đó. Vậy ở đời hơn kém nhau là tại số phận cả. Nếu ta đã biết thế, thì ta hơn người, ta cũng chẳng nên khinh người vì ta hơn là hơn về cái may, chớ vị tất đã hơn về cái tài đức. Còn ta cảnh ngộ mà kém người, ta cũng chẳng nên phàn nàn, vì phàn nàn vô ích mà tâm ta lại phải cái cảnh ngoài làm cho lụy mà thôi.
217. THƯ VIẾT RĂN CON
“... Việc làm của người quân tử: tĩnh để tu tỉnh lấy thân, kiệm để bồi dưỡng lấy đức. Nếu không đạm bạc thì không thể nào nào sáng được cái chí. Nếu không ninh tĩnh thì không thể nào đi đến được xa.
Lấy lý mà nói: muốn học cần phải tĩnh, có tài cần phải học. Không học, thì không rộng được tài; không tĩnh thì không thành được học. Lười biếng khinh mạn thì chẳng thể biết được tường. Hiểm hóc táo bạo thì chẳng thể sửa được tính.
Một năm một tuổi, mỗi tuổi mỗi kém, rồi thành ra con người khô héo, dài thở vắn than trong chỗ xó nhà, bấy giờ mới hối còn sao kịp nữa...”
Gia Cát Lượng
GIẢI NGHĨA
Gia Cát Lượng: người đời Tam Quốc, tự là Khổng Minh, trước ẩn ở Nam Dương, sau giúp Lưu Huyền Đức làm tướng trị nước Thục. Ông là người trí mưu trung nghĩa có tiếng ở nước Tàu. (Xin xem thêm Gia Cát Lượng ở Phụ Lục C).
Thục: tức là Thục Quân ở vào vùng Thành Đô về đất Tứ Xuyên bây giờ.
LỜI BÀN
Có những thói xấu như nông nổi, nóng nảy, thô thiển, khinh bạc, người thường còn hại vừa, người thông minh hại mới càng nặng. Hại nặng nghĩa là thiệt đời tài hoa như không. Cho nên Khổng Minh dạy con phải theo gương quân tử ngay từ thưở còn ít tuổi cho thành thói quen. Quân Tử dùng cách gì để tu thân, để dưỡng đức, để có tài năng, để thành học nghiệp, để rộng được trí thức, để gánh vác được công việc trọng đại ở đời. Ông nói tóm tắt mà rất phân minh. Câu “ Một năm một tuổi...” lại càng thống thiết. Ý ông lại còn mong cho con làm thế nào để cho tư tưởng cùng ăn nhịp với thời đại mà một ngày một tiến bộ mãi lên, chớ đừng để tư tưởng cứ cùng theo tuổi lão đại mà cằn cỗi dần thì ươn hèn lắm. Nói tóm: ông chú ý mong con sao cho thành người đừng để sau hối mà lỡ hóa ra con người sống thừa ở đời vậy.
218. VIẾT THƯ KHUYÊN BẠN
“...Hồn nhiên, không thiện, không ác là tính trời bẩm sinh.
Thích thiện, ghét ác là tính người muốn thế.
Bỏ thiện, theo ác là tập nhiễm thói xấu một ngày một dở.
Đổi ác, làm thiện là công phu tu tỉnh một ngày một hay.
Hay, dở tự mình xét lấy mình, chớ tự mình dối mình.
Đó là con đường tắt thánh hiền dạy ta mà tức là cái sổ ghi công, chép tội trong chốn u minh vậy.
Ta nên cố sức. Ta nên hết sức...”
Trần Kế Nho
235
GIẢI NGHĨA
Trần Kế Nho: người đời nhà Minh tức là Trần Mị Công tài cao, học rộng trước thuật rất nhiều. Ông ẩn cư dạy học, mấy lần vua triệu ra làm quan cũng không chịu ra. LỜI BÀN
Cứ theo như ý tác giả, thì người ta sinh ra vốn không thiện, không ác nhưng ai cũng muốn thích thiện ghét ác. Tuy nhiên, cái trò tập giữ tính thành bỏ thiện theo ác hay đổi ác ra thiện, cái tính nó bắt vào rồi thành quen đi, không sửa đổi được. Cho nên tác giả khuyên ta phải gắng công tu tỉnh cho mỗi ngày một hay, mà muốn tu tỉnh, không gì bằng tự mình phải rất nghiêm với mình để hàng ngày tự trị cho trở nên con người ra người.
219. THƯ VIẾT CHO BẠN
Trong thiên hạ có hai cái khó: lên trời khó, mà cầu cậy nhờ vả người càng khó hơn. Trong thiên hạ có hai cái đắng: hoàng liên đắng, mà nghèo kiết khốn cùng càng đắng hơn.
Nhân gian có hai cái mỏng: giá mùa xuân mỏng mà thói đời càng mỏng hơn.
Nhân gian có hai cái hiểm: núi sông hiểm mà lòng người càng hiểm hơn.
Biết được cái khó, chịu được cái đắng, quen được cái mỏng, dò được cái hiểm mới có thể ở đời được.
Tiền Hạc Than
LỜI BÀN
Biết được cái khó, là người có chí tự lập không làm phiền ai; chịu được cái đắng, là người có tâm kiên nhẫn, cố làm nên việc; quen được cái mỏng, là người có bụng đại độ bao dung được đời; dò được cái hiểm, là người có trí tinh khôn thấu được nhân tình thế thái. Ở đời mà có được bốn điều ấy, thì giao thiệp với ai mà chẳng được, làm công việc gì mà chẳng nên.
220. THAM THÌ CHẾT
Ngu Thúc có viên ngọc. Ngu Công nghe tiếng muốn lấy, sai người đến cầu.
Ngu Thúc trước không chịu cho. Sau hối lại nói rằng:
- Tục ngữ có câu: “Kẻ thường dân vốn không có tội, chỉ vì có ngọc bích mà thành có tội”. Ta giữ làm gì hòn ngọc này? Thật là mua tai vạ vào mình.
Rồi liền đem ngọc dâng cho Ngu Công.
Ngu Công đã lấy được ngọc, nghe Ngu Thúc còn thanh gươm báu, muốn lấy nốt, lại cho người đến cầu thanh gươm ấy.
Ngu Thúc giận quá, nói:
- Ngu Công trưng cầu hết cái này, lại đến cái khác. Thật là người vô yêm! Đã là vô yêm, thì tất có ngày hại cả đến thân ta nữa.
Nói rồi, đem quân đi đánh Ngu Công.
Ngu Công thua, chạy ra đất Cung Trì.
Tả truyện
GIẢI NGHĨA
Tả Truyện: sách của Tả Khưu Minh nhà Chu làm, kể những sự về lịch sử thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tả Truyện ở Phụ Lục D).
Tả Khưu Minh: quan Thái Sư nước Lỗ theo chí của Khổng Tử mà làm ra chuyện kinh Xuân Thu gọi là Tả Thị Xuân Thu cho nên người ta thường xưng Khổng Tử là Tố Vương, Khưu Minh là Tố Thần.
Câu tục ngữ: “Kẻ thường dân...” chính chữ Hán là: “Thất phu vô tội, hoài bích kỳ tội”. Ngọc bích: thứ ngọc quý, hình tròn và có lỗ.
Vô yêm: muốn lấy cho nhiều, không biết thế nào là vừa là chán.
236
Reply With Quote
25-08-2011 08:26 PM #44 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
221. VÌ THAM BỊ HẠI
Vua nước Thục có tính tham lam.
Vua Huệ Vương nước Tần muốn đánh, nhưng ngặt vì khe núi hiểm trở, khó đem quân đi lắm.
Huệ Vương bèn sai lấy đá tạc hình con trâu đem để gần địa giới nước Thục, mỗi ngày bỏ vàng vào chỗ sau đuôi trâu và bảo người nói phao lên rằng: “Trâu vãi ra vàng”.
Tiếng đồn ấy đến tai vua Thục. Vua Thục liền sai xẻ núi, lấy khe và cho năm người lực sĩ vào rừng kéo con trâu về.
Huệ Vương sẵn lối đi, đem quân tiến đến cướp được nước Thục.
Vua Thục vừa mất nước, vừa hại cả mình để lại trò cười cho thiên hạ. Thế chẳng tại vì tham chút lợi nhỏ mà mất cái lợi to ư?
Lưu Tử
GIẢI NGHĨA
Thục: tên nước thời Chiến Quốc, sau nhà Tần diệt mất, tức là Tứ Xuyên ngày nay. Tần: tên nước mạnh nhất thời Xuân Thu-Chiến Quốc (ở vào tỉnh Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất thống thiên hạ. LỜI BÀN
Tạc hình trâu đá, bỏ vàng vào chỗ sau đuôi trâu để bảo rằng trâu đá vãi ra vàng, cái mưu của Tần Vương rất là sâu. Tin rằng trâu đã vãi ra vàng, thật cái trí của Thục Vương rất là khờ, lại sai người đánh đường để lấy trộm trâu đá, cái bụng của Thục Vương quả là tham. Đã khờ, đã tham mà lại gặp nhiều sâu xa hiểm hóc bày mưu để đánh lừa, thì chẳng mất nước, chẳng hại mình sao được. Than ôi! “Điểu tham thực nhi vong, nhân tham tài nhi tử” cái lẽ xưa nay bao giờ cũng thế.
222. PHÂN TÍCH KHÔNG RÕ
Nay có kẻ vào vườn người ta hái trộm đào, mận thì ai nghe cũng chê cười, quan bắt được tất trừng phạt. Tại sao vậy? – Tại người ấy làm điều bất nghĩa, lấy của người để làm lợi cho mình.
Kẻ vào nhà người ta bắt trộm gà, vịt, chó, lợn so với kẻ vào vườn nhà người ta hái trộm đào mận, thì lại là bất nghĩa hơn nữa. Tại sao vậy? – Tại lấy của người càng nhiều thì bất nhân càng to, tội càng nặng.
Kẻ vào chuồng người ta bắt trộm trâu, dê, ngựa so với kẻ vào nhà người ta bắt trộm gà vịt, chó lợn thì lại là bất nghĩa hơn nữa. Tại sao vậy? – Tại lấy của người càng nhiều, thì bất nhân càng lắm, tội càng nặng.
Kẻ giết người lương thiện, ăn cướp của cải đồ đạc của người ta, so với kẻ vào chuồng ăn trộm trâu bò, dê ngựa thì lại là kẻ bất nghĩa hơn nữa. Tại sao vậy? – Tại
237
giết người lấy của, bất nhân to lắm, tội càng nặng lắm.
Giết một người là làm một điều bất nghĩa, tất phải chịu một tử tội. Cứ lẽ ấy mà nói rộng ra: giết mười người, tất phải chịu mười tử tội, giết trăm người tất phải chịu trăm tử tội...
Nay, những kẻ làm điều bất nghĩa nhỏ mọn, tầm thường như nói trên thì biết chê cười. Đến như những việc bất nghĩa thậm tệ như cướp nước người, tàn sát sinh linh hàng ức vạn...thường khi thiên hạ không biết chê cười lại còn hùa theo và khen ngợi cho là “nghĩa” và ca tụng ghi chép công đức; như thế thì có gọi được là biết phân biệt “nghĩa” với “bất nghĩa” hay không?
Kẻ nào mà lúc thấy đen ít bảo là đen, lúc thấy đen nhiều lại bảo là trắng, thì ta cho kẻ ấy là người không biết đen với trắng.
Kẻ nào nếm đắng ít cho là đắng, lúc nếm đằng nhiều cho là ngọt, thì ta cho kẻ ấy là người không biết phân biệt đắng và ngọt.
Thiên hạ bây giờ phân biệt phải trái hay lầm lẫn lắm!
Mặc Tử
GIẢI NGHĨA
Mặc Tử: tên sách của Mặc Địch soạn, chủ nghĩa là “Kiêm ái” yêu người như yêu mình cũng gần giống chủ nghĩa của đạo Cơ Đốc và đạo Thích Ca. (Xin xem thêm Mặc Tử ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Tác giả vốn là một nhà kiêm ái nên cốt ý muốn công kích sự tranh đoạt mà khuyến khích người ta không nên hại lẫn nhau, vì đã có ý hại nhau tất chiếm đoạt của nhau, đều là có bụng tổn người để cầu lợi cho mình cả. Cho nên, muốn viện lẽ gì để buộc tội ác cho người ta mà mua tiếng hay cho mình, thì cũng là bất nghĩa đáng chê cả. Thế mà ngán thay thiên hạ đã không biết chê thì chớ, lại còn theo, còn khen, thực là có khác nào như nối giáo cho giặc để tâng bốc thúc đẩy những kẻ làm điều bất nghĩa lên không. Kẻ làm điều bất nghĩa thường vẫn sợ dư luận của thiên hạ lầm lẫn đến thế, thì điều bất nghĩa ở đời càng mạnh, thật là ác hại càng tăng, biết bao giờ nhân tâm biến đổi mà ai nấy cùng được hưởng cuộc Hòa bình? Kể từ đời Mặc Tử đến giờ xa cách bao nhiêu thế kỉ, mà nhân loại đã muốn nuốt lẫn nhau, kẻ khỏe hiếp kẻ yếu, kẻ khôn lừa kẻ ngu, kẻ lớn nạt kẻ nhỏ, số nhiều lấn số ít, xâu xé nhau, tranh cướp nhau, tàn hại nhau, thực là đắm đuối trong các điều bất nghĩa đáng thương, đáng than thở lắm thay!
223. KHÔNG YÊU NHAU MỚI LOẠN
Thánh nhân trị thiên hạ tất phải biết loạn từ đâu mà ra thì trị thiên hạ thì mới được, không biết loạn từ đâu, thì không trị nổi được thiên hạ. Ví như thầy thuốc chữa bệnh cho người ta, tất phải biết bệnh căn tự đâu khởi ra từ mới chữa được, chớ không biết thì chữa không nổi được bệnh. Người trị loạn có khác gì thế?
Loạn từ đâu mà sinh ra? Sinh ra bởi không yêu nhau.
- Con không hiếu với cha, tôi không trung với vua, thế là loạn đấy. Con chỉ yêu thân con, không yêu đến cha, cho nên làm thiệt cha để lợi mình; em chỉ yêu thân em, không yêu đến anh, cho nên làm thiệt anh để lợi mình; bầy tôi chỉ biết yêu thân mình mà không biết yêu vua cho nên làm thiệt vua để lợi mình. Thế là loạn đấy.
Tuy đến cả cha mà cũng không thương con, anh mà cũng không thương em, vua mà cũng không thương bầy tôi, thế cũng là loạn. Cha chỉ yêu thân cha, không yêu đến con, cho nên làm thiệt con để mình được lợi; anh chỉ yêu thân anh không yêu đến em cho nên làm thiệt em để mình anh được lợi; vua chỉ yêu thân vua, không yêu bầy tôi, cho nên làm thiệt bầy tôi để mình được lợi.
Tại sao mà sinh ra những điều ấy? Có phải chỉ tại không yêu nhau cả thôi không?
238
Đến cả quân trộm quân giặc cũng vậy. Thằng trộm chỉ biết yêu nhà mình, không biết yêu nhà người khác, cho nên ăn trộm nhà người khác để lợi nhà mình; thằng giặc chỉ biết yêu thân mình mà chẳng yêu thân người khác, cho nên sát hại thân người khác để lợi thân mình. Tại sao mà sinh ra thế? Có phải chỉ tại không yêu nhau cả mà thôi không?
Cho đến cả các quan khuynh loát nhau, các nước chư hầu đánh lẫn nhau, cũng chỉ tại các quan chỉ biết yêu nhà mình, không yêu nhà khác cho nên hại nhà khác để lợi cho nhà mình, các nước chỉ biết yêu nước mình không yêu nước khác cho nên đánh nước khác để lợi cho nước mình.
Ấy thiên hạ sinh ra loạn là bởi như thế cả.
Nếu biết, yêu nhau, thì còn ai nỡ hại ai, mà thiên hạ làm gì chẳng bình trị.
Mặc Tử
GIẢI NGHĨA
Mặc Tử: tên sách của Mặc Địch soạn, chủ nghĩa là “Kiêm ái” yêu người như yêu mình cũng gần giống chủ nghĩa của đạo Cơ Đốc và đạo Thích Ca. (Xin xem thêm Mặc Tử ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Đại ý của bài rút lại một câu là: loạn mà sinh ra là chỉ do cái lòng không yêu nhau hết cả. Cầu lợi cho mình tức là muốn hại người, mà hại người tất ghét người; ghét người, tất người ghét lại mà thành ra không ai được bình yên, ai cũng chỉ lo toan tranh cướp lấy lẫn của nhau mà thôi. Vậy muốn cho khỏi loạn, tất phải làm sao cho thiên hạ biết yêu nhau. Mà có yêu nhau thì mới thương nhau; đã yêu thương nhau thì mầm loạn tắt. Đó chính là cái cốt yếu của Mặc Tử, là cái ý kiêm ái, yêu cả loài người không phân biệt thân sơ gì cả.
Ý Mặc Tử đây cũng giống như ý của Mạnh Tử nói: “Ở đời, ai nấy đều con cái biết thân yêu cha mẹ, kẻ dưới biết tôn trọng người trên, thì tự khắc thiên hạ bình trị”, nhưng có phần thống thiết hơn, vì nói đến cả vua trên, cả cha mẹ cũng không thương yêu tôi con cho nên sinh loạn. Cái thuyết ấy kể thật xác đáng; ở cái đời ai ai cũng chỉ tự tư, tự lợi, có nói thế mới mong người tỉnh lại được ít nhiều chăng.
224. CŨNG LÀ ĂN TRỘM
Họ Quốc ở nước Tề rất giàu. Họ Hướng ở nước Tống rất nghèo. Hướng bèn sang nước Tề hỏi Quốc cách làm giàu.
Quốc bảo:
-Ta chỉ khéo ăn trộm thôi. Thoạt đầu ta ăn trộm một năm thì đủ dùng, hai năm thì thừa ăn, ba năm thì giàu to, tự đó trở đi tài sản ta có đến cả làng, cả tỉnh.
Hướng nghe nói, mừng lắm, nhưng khốn chỉ hiểu câu chuyện ăn trộm, chớ không hiểu cái lối ăn trộm ra làm sao.
Lúc về, bèn trèo tường, khoét ngạch, phàm cái gì mắt trông thấy, tay cầm được là cũng lấy tất.
Hướng đi ăn trộm chưa được bao lâu, bị bắt quả tang, thành phải tội, cả bao nhiêu của cải lúc trước khó nhọc kiếm ra cũng đều bị tịch thu hết.
Bấy giờ Hướng cho Quốc là đánh lừa mình, đến tận nơi trách.
Quốc hỏi:
-Anh ăn trộm thế nào chứ?
Hướng bèn thuật lại cung cách ăn trộm cho Quốc nghe.
Quốc nói:
-Chết thật! Cái lối của anh ăn trộm sai lầm đến như thế kia ư! Này để tôi bảo rõ cho mà biết. Trời có thời tiết, đất có hoa lợi. Ta ăn trộm thời của trời, lợi của đất, sự thuận hòa của mưa gió, những sản vật của non sông, để ta cấy lúa trồng cây, xây
239
tường, làm nhà, trên cạn thì ta ăn trộm giống chim muông, dười nước thì ta ăn trộm loài tôm cá. Những cái ấy không có cái gì là không phải của ăn trộm cả. Này lùa mạ, đất cát, cây cối, chim muông, cá, ba ba đều là của trời sinh ra cả há có phải của ta đâu. Song ta ăn trộm của trời, nên không có tai vạ gì.
Còn như vàng, ngọc, châu, báu, thóc, lúa, của cải đều là người ta làm kiếm ra mới có, há có phải là của trời đâu. Nên anh ăn trộm những của ấy mà phải tội là phải lắm, anh còn trách gì ai nữa.
Hướng nghe nói càng nghi hoặc cho là Quốc lại nói dối mình lần nữa, bèn qua nhà Đông Quách tiên sinh đem câu chuyện lại hỏi.
Đông Quách tiên sinh nói:
-Chính cả cái thân anh cũng là của ăn trộm nữa, nghĩa là trộm cái khí âm, khí dương mà hòa hợp lại thành cái đời, mới có cái xác anh, huống chi ngoại vật, cái gì mà chẳng là của ăn trộm hay sao. Người ta mà cái gì cũng nhận là của mình có, đều là lầm cả.
Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Đông Quách tiên sinh: một nhà ẩn sĩ đời Xuân Thu.
Ngoại vật: các vật ngoài cái thân ta.
LỜI BÀN
Tác giả làm bài này cốt bày tỏ cái ý rằng: Cách làm giàu không phải ở sự bon chen tranh cướp nhỏ nhen những cái của người ta làm ra, nhưng ở sự biết lợi dụng những vật của trời đất sinh ra. Chiếm của của riêng của người đã kiếm được, mà làm giàu cho mình, thế là không chính đáng, thế tức là ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp có pháp luật trừng trị, có công lý bắt phải bồi thường lại. Chớ lấy của chung của trời đất, biết lợi dụng những sản vật, thiên nhiên, tuy không phải của mình mà lấy thì khác gì ăn trộm, nhưng trộm cái kho vô tận của tạo hóa, chẳng những không ai buộc được tội, mà người ta lại còn phải phục, phải chịu là tài giỏi khéo lấy nữa. Muôn vật ở đời không phải là của riêng của một ai, hay một loài nào, nhưng của công của cả mọi người, ai khôn thì biết lợi dụng, ai hèn thì chịu bó tay.
Còn cái ý tác giả cho chính thân mình cũng không phải là của mình lại cao hơn một bậc nữa. Quả vậy cái xác thịt của mình, đến cả cái tâm hồn của mình, nào có phải tự mình làm nên đâu hay chẳng qua cũng chỉ là tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong) hợp lại rồi tan đi mà thế thường vẫn cho là "Ngã".
225. LO TRỜI ĐỔ
Nước Kỷ có kẻ lo trời đổ, đất long thì thân mình không biết nương tựa vào đâu. Anh ta lo quá đến nỗi bỏ cả ăn, cả ngủ.
Lại có người thấy anh ta lo thế, mà lo cho anh ta, mới giảng giải cho biết rằng:
-Trời chỉ là không khí chứa đầy lại mà thôi. Không chỗ nào là không có không khí, anh co, duỗi, hít, thở suốt ngày ở trong vòng trời, thì việc gì lo trời đổ.
Anh ta nói:
-Trời mà quả là không khí, thì còn mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao chẳng có lúc sa xuống ư?
240
Người kia lại giảng:
-Mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao cũng là thứ hoặc phát quang hoặc thụ quang ở tầng không khí, giá có xuống nữa, thì chẳng qua cũng là khí thôi có hại chi đến người.
Anh ta lại nói:
-Thế còn đất long lở thì sao?
Người kia lại giảng:
-Đất là một khối rất to, đâu đâu cũng có đất cả. Ta đi đứng suốt ngày ở trên mặt đất thì lo gì đất lở mà không có đất.
Anh lo nghe hiểu ra, mừng lắm. Anh đến giảng cũng lấy làm thích và mừng lắm.
Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Kỷ: nước nhỏ thời Xuân Thu, xưa phải nước Sở diệt mất, tức là huyện Kỷ, tỉnh Hà Nam ngày nay.
LỜI BÀN
Liệt Tử đặt ra chuyện này tuy về mặt thiên văn không hợp với khoa học bây giờ, nhưng cái gì muốn dạy người phải đạt lý đừng có nghĩ quẩn lo quanh rất là phải vậy. Này ngay chính cái thân mình cũng chẳng phải của mình có, mà lo cho cái thân ấy còn thường khi không được, thế mà đi lo trời đổ đất long, thì anh người nước Kỷ cũng lo xa quá thật!
Hiền triết xưa đã ví trời đất như một cái nhà trọ lớn, người ta chỉ là khách qua chơi đến trọ một thời. Nếu người khách ấy không biết hưởng thụ cái thú tự nhiên cùng tiêu dùng cái thời giờ "sống", định đoạt cái tài sản "chết" (Phao phí thì giờ là sống uổng, liều lỉnh đến chết là chết toi) mà cứ băn khoăn phiền bực, ăn chẳng ngon nằm chẳng yên, lo đứng, lo ngồi, lo đêm, lo ngày, lo rằng cái nhà trọ kia lỡ ra hư hỏng nát dột, thì chẳng đáng bật cười lắm sao!
Ở đời, cố nhiên có thân là có khổ, ai mà chẳng lo. Nhưng đem cái thân trăm năm lo những việc nghìn đời, chả biết chi là hỷ hoan, chỉ những là rầu rĩ thế chả là tự chuốc lấy khổ ư?
Tôi nói câu này anh nhớ lấy:
"Ở đời chuốc khổ biết bao người".
226. DÙNG RƯỢU SAY ĐỂ KHIẾN CHỒNG
Công tử nước Tấn tên là Trùng Nhĩ gặp trong nước có nạn, phải chạy ra nước ngoài. Công tử đi hết nước này sang nước khác.
Khi sang đến Tề, vua Hoàn Công đem con gái là Khương Thi gả và cho tám mươi con ngựa hay. Công tử được vậy, lấy làm yên thân muốn suốt đời ở nước Tề.
Các quan tòng vong, biết nước Tề không thế tin cậy được, toan đi sang nước khác, mới họp nhau âm mưu ở chỗ vườn dâu.
Có một người đàn bà hái dâu nghe lỏm, biết chuyện, đến mách với Khương Thị. Khương Thị sợ việc tiết lộ, giết ngay người ấy rồi bảo công tử rằng:
-Công tử có chí tứ phương, đứa nghe lỏm mưu ấy, thiếp đã giết đi rồi.
Công tử nói: Ta thật không có chí đi đâu cả.
Khương Thị bảo: Phải đi mới được! Say một người yêu mà cứ mê mệt, thích một cảnh vui mà cứ yên nhàn, thực là làm bại hoại hết cả công dánh sự nghiệp một đời. Công tử vẫn không muốn đi.
Khương Thị bèn cùng với Tử Phạm lập kế một hôm cho công tử uống rượu thật say,
241
rồi bỏ lên xe, bắt kéo đi. Công tử tỉnh rượu, biết là mình lìa xa nước Tề, giận quá, cầm giáo đuổi Tử Phạm muốn giết. Nhưng ít lâu công tử tỉnh ngộ, biết hối lại ngay. Nhờ có thế mà sau công tử về làm vua ở nước Tấn và bá cả chư hầu.
Tả Truyện
GIẢI NGHĨA
Tả Truyện: sách của Tả Khưu Minh nhà Chu làm, kể những sự về lịch sử thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tả Truyện ở Phụ Lục D).
Tả Khưu Minh: quan Thái Sư nước Lỗ theo chí của Khổng Tử mà làm ra chuyện kinh Xuân Thu gọi là Tả Thị Xuân Thu cho nên người ta thường xưng Khổng Tử là Tố Vương, Khưu Minh là Tố Thần.
Công tử: tiếng gọi con vua chư hầu, hay con quan to.
Hoàn Công: vua nước Tề, đứng đầu Ngũ Bá thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tề Hoàn Công ở Phụ Lục C).
Tấn: một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Tòng vong: người theo vua chạy trốn, lúc có quốc nạn.
LỜI BÀN
Trùng Nhĩ gặp nạn nước mà đem thân ra đi, thật là có chí đáng trọng. Song đi đến Tề, được vợ đẹp ngựa nhiều, mà để cho sự vui chơi nồng nàn nó làm nguội lạnh cả chí khí thật lại là đáng tiếc mà cũng đáng khinh. Quả thật " Phong lưu là cạm ở đời, hồng nhan đánh bỏ con người tài hoa". Người khôn mà lỡ mê thì cái dại to lắm. Trùng nhĩ lúc này, tưởng đã gần như ông" lạc bất tư Thục" (--- Đời Tam Quốc nước Thục mất, vua là Lưu Thiện bị bắt sang ở Lạc Dương, vua Tấn hậu đãi Lưu Thiện, mỗi khi có yến ẩm. Lưu Thiện vui cười như không. Vua Tấn hỏi: có nhớ nước Thục không? Lưu Thiện nói: " Thử gian lạc bất tư thục dã" nghĩa là ở đây vui lắm, chẳng nhớ đến nước Thục nữa. ---) May thay cho Trùng Nhĩ gặp được bọn tòng vong biết lo xa tính sâu mà nhất là được bà vợ là người có kiến thức cao xa, có gan dạ quả quyết, biết rõ cái thói thường, "Nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản ( --- nghĩa là cái tình quyến luyến vợ con càng nồng nàn đầm ấm bao nhiên thì cái khí phách anh hùng càng cùn mằn kém cỏi đi bấy nhiêu---) mà bà cố đẩy mãi cái bánh xe đã chết bệt xuống đống bùn phải lăn quay đi cho kỳ được mới nghe. Nên ta khen cái chí Trung Nhĩ phục quốc bao nhiêu thì ta lại phải quý cái công lao Tử Phạm, phải trọng cái kiến thức, cái mưu trí của Khương Thị bấy nhiêu. Sao mà đời cổ có những thần, thiếp giỏi giang như thế!
227. TƯỚI DƯA CHO NGƯỜI
Tống Tựu làm quan Roãn một huyện gần biên thùy nước Lương, chỗ giáp giới với nước Sở.
Người đình trưởng ở biên thùy nước Lương cùng người đình trưởng ở biên thùy nước Sở, hai người cùng trồng dưa. Người bên nước Lương chăm làm và tưới luôn nên dưa tốt. Người bên nước Sở biếng làm và tưới ít nên dưa xấu.
Quan Roãn ở ngay huyện biên thùy nước Sở, thấy bên Lương tốt, bên mình xấu, lấy làm tức giận lắm.
Người đình trưởng nước Sở thấy dưa bên Lương tốt hơn dưa mình, cũng sinh ra ghen ghét, đêm đêm cứ lẻn sang cào vò dưa của bên Lương, đến nỗi dưa bên ấy phải héo chết mất một ít.
Sau người đình trưởng nước Lương biết mới nói với người trưởng trong huyện, ý cũng muốn lẻn sang cào vò dưa bên Sở.
242
Người trưởng lại đem việc ấy nói với Tống Tựu. Tống Tựu bảo:
-Ôi! Sao lại thế! Thế chỉ là gây thù oán, chuốc tai vạ thôi. Này ta bảo ngươi, chớ sang cào dưa của người ta, cứ đêm đêm lẻn sang tưới dưa cho người ta mà đừng để cho người ta biết.
Người đình trưởng cứ theo thế mà làm.
Sau dưa bên nước Sở mỗi ngày một tốt. Người đình trưởng nước Sở lấy làm lạ, xét mãi ra mới biết người đình trưởng nước Lương làm giúp.
Quan Roãn nước Sở biết rõ việc ấy, lấy làm vui lòng, tâu lên vua Sở.
Vua Sở biết chuyện, buồn và có ý thẹn, nghĩ rằng: Ngoài cái tội đi cào dưa của người ta, chắc còn có nhiều việc khác đáng tội với người ta nữa.
Vua bèn lấy nhiều của đưa sang tạ tội với vua Lương và xin giao hiếu.
Vua Lương cũng tin lòng. Thành hai nước giao hoan với nhau được lâu.
Cổ ngữ có câu: " Chuyển bại nhi vi công, nhân họa nhi vi phúc", nghĩa là xoay cái bại mà làm nên công, nhân cái họa mà gây phúc. Lão Tử có nói: " Báo oán dĩ đức" nghĩa là đem đức để báo oán. Hai câu ấy tức như chuyện này.
Ôi! Người ta đã làm không phải, sao ta còn bắt chước người ta!
Giả Tử Tân Thư
GIẢI NGHĨA
Quan Roãn: quan cai trị địa hạt tức như chức quan châu huyện gần đây.
Lương: một nước mạnh đời Chiến quốc tức là nước Ngụy ở vào phía bắc Hà Nam, phía tây nam Sơn Tây ngày nay.
Biên thùy: chỗ đất chia giới hạn hai nước giáp nhau.
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
Đình trưởng: người chủ coi cái quán hành khách quan lại ở trọ. Đời cổ đường dài mười dặm đặt một cái đình để cho hành khách ở đấy, nên người coi cái đình ấy gọi là đình trưởng.
Lão Tử: tức Lão Đam, họ Lý tên Nhi, người Xuân Thu có làm sách Đạo đức kinh, tổ đạo Lão. (Xin xem thêm Lão Tử ở Phụ Lục C).
228. CÁCH BIẾT LÒNG NGƯỜI
Lòng người ta nham hiểm hơn núi sông, khó biết hơn là biết trời.
Trời thì hằng năm có xuân hạ thu đông, hàng ngày còn có buổi sáng, buổi tối, ta do đấy mà biết được.
Đến như người ta thì có kẻ ngoài rõ như cẩn hậu mà trong thật kiêu căng, có kẻ trông rõ thật tài giỏi mà ngoài coi ra ngu độn, có kẻ ngoài rõ như vững vàng, thư thái mà trong cuống rối nóng nảy. Tâm tính bên trong, diện mạo bên ngoài trái nhau khó lường như thế. Cho nên quân tử dùng người cho ở xa để xem lòng trung, cho ở gần để xem lòng kính, sai làm nhiều việc để xem cái tài, hỏi lúc vội vàng để xem cái trí, hẹn cho ngặt ngày để xem có tín, ủy cho tiền của để xem có nhân, giao cho việc nguy biến để xem có tiết, cho đánh chén say sưa để xem cử chỉ, cho ở chỗ phiền tạp để xem thần sắc. Xem người đại khái như vậy, thì họa mới có thể biết được người. Trang Tử
GIẢI NGHĨA
Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lão Tử, sau người ta vẫn xưng Lão Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Khéo thật! Người ta chỉ cách nhau một làn da, mà ai đã chắc biết được ai! Sông còn dò, núi còn đo được, vì nó biểu hiện ra ngoài,chớ lòng người ẩn phục bên trong, lấy
243
gì mà cân nhắc, lấy gì mà lường xét. Cho nên ta chỉ trông thấy bề ngoài, thì ta chớ vội đã tin bên trong. Trong, ngoài thường khi trái hẳn nhau. Ta phải để tâm nhận cho kỹ, ta phải biết cách xem cho tường. Đoạn dưới bài này, tác giả chính bảo cho ta cái cách ấy, là cái cách biết được người thế nào là trung, tín, là tài, trí, nhân, tiết.v.v.. Cái cách ấy kể cũng không khó, chỉ cốt phải đưa người ta hẳn vào việc làm hay khiến người ta làm trái lại sự thực để dò biết sự thực.
229. CÁCH LÀM CHO KHỎI TỨC GIẬN
Người ta ở đời, đối với loài người mà gặp phải kẻ xử với mình một cách ngang ngược, thì nên coi như đi trong bụi rậm, áo vướng phải gai, chỉ nên thong thả đứng lại, gỡ dần ra mà thôi. Cái gai góc kia có biết gì mà đáng giận?
Xử được như thế, thì tâm mình không phiền não mà bao nhiêu nỗi oán hận cũng tiêu tan được ngay. Cổ nhân có câu nói:
“Ta nên coi những sự ngang ngược phạm đến ta như chiếc thuyền không lỡ đâm phải ta, như cơn gió dữ lỡ tạt phải ta, ta nghĩ cho cùng, có gì mà đáng giận.”
Ba câu tự phản của ông Mạnh Tử, thật là cái phép để giữ thân, cái phương để nuôi tính vậy.
Vì nếu ta chỉ một mực thấy cái trái của người, thì ngay như anh em, vợ con, bè bạn, tôi tớ cho đến con gà, con chó trong nhà, thật cũng có nhiều lúc đáng làm cho ta bực.
Nếu ta việc gì cũng biết tự phản thì sực tức giận mười phần giảm ngay năm phần. Thật chẳng khác nào như người đang phải bệnh nóng sốt mà uống thuốc thanh lương vậy.
Bảo Huấn
GIẢI NGHĨA
Mạnh Tử: tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ hiền dạy bảo, lúc lớn theo học thầy Tử Tư, lúc học hành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau biết đạo thông hành, cùng làm sách với học trò là Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học trò và vua các nước Chư hầu làm quyển Mạnh Tử, bảy thiên. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).
Ba câu tự phản: ba câu tự mình hỏi mình, xét lại mình đã thật là nhân hậu chưa, đã thật là lễ độ chưa, đã thật là khôn ngoan chưa.
Thanh lương: mát lạnh, tức là giải nhiệt.
230. TIỄN MỘT LỜI NÓI
Đức Khổng Tử ở nước Lỗ vào kinh đô nhà Chu, hỏi lễ ông Lão Đam, hỏi nhạc ông Trành Hoằng, xem xét cả giao xã, minh đường cùng triều đình, tôn miếu.
Khi trở về, ông Lão Đam đưa chân có nói rằng:
- Ta nghe người giàu sang tiễn người thì dùng của cải, người nhân hậu tiễn người thì dùng lời nói. Ta tuy không được giàu sang nhưng mang tiếng là người nhân hậu, vậy xin tiễn người một lời nói vậy.
Này, phàm kẻ sĩ đời này, những người thông minh, sâu sắc, xét nét mà có khi thiệt mạng đều là kẻ hay chê bai, nghị luận tâm sự người ta cả; những người biện bác rộng rãi xa xôi mà có khi khổ thân đều là kẻ hay bới móc phơi bày tội lỗi người ta cả. Đức Khổng Tử nói: - Vâng, xin kính theo lời người dạy.
Khi Đức Khổng Tử về đến nước Lỗ, đạo của ngài mỗi ngày một tôn, học trò của ngài mỗi ngày một đông.
Gia Ngữ
GIẢI NGHĨA
Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho
244
học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
Chu: tên chỗ kinh đô thiên tử nhà Chu đóng.
Lão Đam: tức là Lão Tử, họ Lý tên Nhi, người Xuân Thu có làm sách Đạo đức kinh, tổ đạo Lão. (Xin xem thêm Lão Tử ở Phụ Lục C).
Trành Hoằng: người đời nhà Chu, làm chức đại phu, sau có tội bị giết.
Giao: nơi vua tế trời về ngày đông chí, cho nên tế giao tức là tế trời.
Xã: nơi vua tế đất về ngày hạ chí, cho nên tế xã gọi là tế đất.
Minh đường: nhà của nhà vua, đời cổ làm ra nhà ấy để bày tỏ công việc chính giáo, cùng làm những điền lễ lớn.
LỜI BÀN
Bài này làm ra có ý phơi bày cái học thuyết Khổng, Lão không giống nhau có nhiều điểm lại như phản đối hẳn. Đây là lời Lão Đam như có ý khuyên bảo Khổng Tử là người lúc bấy giờ hay đi chu du các nước định bày cái lẽ trái phải của vua các nước chư hầu, nếu cứ rằng nay đây mai đó như thế mãi thì có khi nguy đến tính mệnh. Câu cuối bài nói vì Lão Đam khuyên bảo như thế mà đạo của Khổng Tử được tôn hơn, học trò của Khổng Tử được đông hơn là vì Khổng Thị biết nghe lời Lão Thị, tự đó về chỉ chuyên có một mặt dạy học trò mà thôi.
Reply With Quote
26-08-2011 08:41 PM #45 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
231. QUÝ LỜI NÓI PHẢI
Vua nước Tấn đi chơi thuyền. Các quan đi hầu đông đủ cả.
Vua hỏi: Loan Doanh ta đã cấm cố một nơi, con là Loan Phường trốn chạy ra ngoại quốc. Có ai biết Loan Phường bây giở ở đâu không?
Các quan yên lặng, không ai nói gì cả.
Người lái thuyền tên là Thanh Quyên buông tay chèo đứng dậy thưa rằng:
- Nhà vua hỏi Loan Phường làm gì?
Vua nói: -Từ khi ta đánh được họ Loan đến nay, nghe họ Loan người già chưa chết hết, người trẻ đã lớn lên. Ta lo họ phục thù, cho nên ta mới hỏi.
Thanh Quyên: -Nếu nhà vua khéo sửa sang chính sách nước Tấn, trong được lòng quan, ngoài được lòng dân, thì dù cho còn con họ nhà Loan mà làm gì được nhà vua. Nhưng nếu nhà vua không sửa sang chính sách nước Tấn, trong mất lòng quan, ngoài mất lòng dân, thì ngay cả những người ngồi trong thuyền này ai cũng là con nhà họ Loan cả.
Vua khen: -Ngươi nói phải lắm.
Rồi sáng hôm sau cho đòi Thanh Quyên đến, ban cho một vạn mẫu ruộng.
Thanh Quyên từ không nhận.
Vua nói: -Lấy một vạn mẫu ruộng ấy đổi lấy một lời nói kia, kể ra nhà người còn thiệt
245
mà quả nhân còn lợi nhiều, nhà ngươi cứ lấy. Ấy người đời cổ quý lời nói phải như thế đấy. Thi Tử
GIẢI NGHĨA
Thi Tử: người nước Lỗ đời nhà Chu, thầy học Thương Ưởng, có làm sách hai mươi thiên.
Tấn: một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
Loan Doanh: người nước Tấn, thời Xuân Thu, làm quan hạ khanh sau phải tội giết cả họ.
Cầm cố: giam cầm ở riêng một nơi rất là nghiêm ngặt.
LỜI BÀN
Sợ người phục thù, mà muốn giết chết hết cả họ người ta, thế là tàn nhẫn mà đã chắc trừ hẳn được hết mối oán thù chưa, hay lại chỉ gây cho mối oán thù ngày càng to lên. Kẻ có quyền thế chỉ có thể giết chết người, chớ có bao giờ giết chết được lòng người. Cho nên lo sợ như vua Tấn đây chỉ là biết lo sợ người ngoài muốn làm hại mình mà thôi. Sao cho bằng phòng bị như Thanh Quyên, mới là biết tự làm cho mình khỏe hơn. Sợ người, nhưng người chẳng nể mình thì sợ sao cho được, chớ làm cho mình khỏe, dù cho người ngoài đáng sợ cũng không cần sợ. Khi mình là người có đức và có sức thì ai cũng là bạn mình cả, dù có cừu địch, cừu địch cũng không làm gì nổi. Chớ nếu mình tàn ác, thì đến cả những người ở ngay bên mình cũng thành ra cừu địch mà hại mình được cả. Thanh Quyên bày tỏ cái ý ấy rất phải mà vua Tấn biết nghe cũng là đáng khen lắm vậy.
232. TƯ TƯỞNG LÃO TỬ
1. Cái đẹp mà đến thiên hạ đua nhau cho là đẹp là cái đẹp rất xấu. Cái hay mà đến thiên hạ mượn tiếng để làm hay, là cái hay rất dở.
2. Để thân lại sau, mà thân được ở trước; gác thân ra ngoài mà thân vẫn còn mãi. Thế chẳng phải là bởi mình không có lòng riêng, cho nên mới được thỏa lòng riêng ư?
3. Tuy là cương cường nhưng giữ tính mềm dẻo. Tuy là sáng sủa, nhưng giữ cách ngu tối. Tuy là vinh hiển nhưng giữ lối tầm thường.
4. Học cho rộng trí khôn thì một ngày một hay. Tìm lẽ huyền bí, lâu hóa vẩn vơ, thì một ngày một dở.
5. Trộn lẫn cái hay của mình với đời để làm thân thiết; cùng chịu cái dở của đời với mình mà vẫn trong sạch.
6. Có ba điều quý báu: một là từ, hai là kiệm, ba là chẳng dám phạm vào việc bất tường của thiên hạ.
7. Ta mà lo phiền, sợ hãi vì ta có thân ta, đến khi ta đã không có thân ta, thì ta còn có lo phiền, sợ hãi gì nữa.
Lão Tử
GIẢI NGHĨA
Lão Tử: tức là Lão Đam, họ Lý tên Nhi, người Xuân Thu có làm sách Đạo đức kinh, tổ đạo Lão. (Xin xem thêm Lão Tử ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Ba câu trên là nói ngược lại cái thói đời. Câu 1 cái ngược ấy là dở, câu 2 và 3 cái ngược ấy lợi cho mình, câu 4 nói cách học hành, câu 5 nói cách xử thế, câu 6 nói các đức tính nên có, câu 7 nói sự lụy thân. Những câu vặt này tuy mỗi câu nói một việc nhưng tựu trung câu nào cũng hàm xúc một cái tư tưởng vô danh, vô vi là cái tôn chỉ của Đạo Lão.
246
Đạo của Lão Tử cốt ở vô vi. Muốn cho thành được vô vi, thì người ta trước hết phải vô dục, vô cầu, vô tranh, vô danh như những câu nói trong bài này. Khi đã được như thế, thì mỗi cảnh có một cái thú cho mình, cái sướng cho người, loài người ở với nhau được hòa bình mà không mấy khi xảy ra sự tàn hại lẫn nhau nữa. Quý thật! Đến đem cái đức mà báo oán, thì còn oán nào mà chẳng tan!
233. LÀM NHÀ CỎ CŨNG ĐỦ
Vua nước Trịnh sang nước Sở. Tử Sản theo đi tướng lễ, chỉ cho làm nhà cỏ để ở, không lập đàn gì cả. Các quan theo hầu thấy vậy nói:
- Các quan đời trước theo tiên quân đi sang các nước lân bang đều lập đàn hết cả, nay ông chỉ cho làm nhà cỏ thì chẳng là không hợp lễ ư?
Tử Sản bảo: -Vua nước lớn đến nước nhỏ thì lập đàn, vua nước nhỏ đế nước lớn thì làm nhà cỏ cũng đủ, lập đàn mà làm gì!
Ta nghe vua nước lớn đến nước nhỏ, có năm điều hay cho nước nhỏ: 1) có tội thì khoan cho; 2) có lỗi thì thứ cho; 3) có tai nạn thì cứu cho; 4) chính sách hay thì thưởng cho; 5) có điều dở thì dạy cho. Nước nhỏ không phải cái gì là khổ sở mà yêu nước lớn như một nhà cho nên mới lập đàn để biểu dương công của nước lớn và bảo con cháu đời sau chăm việc tu đức không được hững hờ.
Còn như nước nhỏ đến nước lớn, có năm điều xấu là nước nhỏ: 1) có tội phải đi giải quyết; 2) có điều kém phải xin nài; 3) có mệnh lệnh của nước lớn phải tuân theo; 4) có việc chức công phải cung phụng; 5) có việc triều hội phải theo đòi. Nếu chẳng phải năm việc ấy, thì lại là việc đem tiền của để mừng hay để viếng nước lớn. Phàm những việc ấy đều là tai vạ cho nước nhỏ cả. Lập đàn làm gì, chỉ tổ bêu những tai vạ mà làm nhục cho con cháu.
Tả Truyện
GIẢI NGHĨA
Tả Truyện: sách của Tả Khưu Minh nhà Chu làm, kể những sự về lịch sử thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tả Truyện ở Phụ Lục D).
Tả Khưu Minh: quan Thái Sư nước Lỗ theo chí của Khổng Tử mà làm ra chuyện kinh Xuân Thu gọi là Tả Thị Xuân Thu cho nên người ta thường xưng Khổng Tử là Tố Vương, Khưu Minh là Tố Thần.
Tử Sản: tên tự là Công Tôn Kiều làm quan đại phu nước Trịnh thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tử Sản ở Phụ Lục C).
Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
LỜI BÀN
Câu Tử Sản nói rất phải. Khi nước lớn đã hạ cố sang đến nước nhỏ, thường thường là lợi cho nước nhỏ, nước nhỏ trọng vọng lập đàn lên để tiếp là có nghĩa. Còn khi nước nhỏ đã bất đắc dĩ phải sang nước lớn thì thường thường lại là tai hại cho nước nhỏ, nước nhỏ nên khiêm nhường chỉ làm cái nhà cỏ cho xong việc là đủ. Khi đã gọi là khuất thân lụy người thì còn vinh hiển nỗi gì mà dềnh dang ra những sự trang hoàng, để ngại tai chướng mắt cho người đời mà để lại tiếng xấu cho con cháu sau này nữa.

234. THẾ NÀO LÀ ĐẠI TRƯỢNG PHU
Cảnh Xuân hỏi thầy Mạnh Tử:
- Công Tôn Diễn và Chương Nghi nổi một cơn giận đi du thuyết, thì các nước chư hầu sợ, ngồi yên một chỗ thì thiên hạ không có chiến tranh. Hai người như thế chẳng
247
là bậc trượng phu ư?
Thầy Mạnh Tử nói:
- Hai người ấy gọi là đại trượng phu thế nào được! A dua, xiểm nịnh, lựa ý chiều lòng các vua chư hầu để được quyền, được thế, cách cục hai người ấy y như đàn bà lẻ mọn, thừa thuận phục tùng. Đại trượng phu đâu có thế?
Bực đại trượng phu tâm địa chí công như ở cái nhà rất rộng trong thiên hạ, cử động mực thước thận trọng như đúng cái ngôi chính vị trong thiên hạ, công việc làm quang minh chính đại như đi trên con đường cái trong thiên hạ. Đắc chí thì đem cái khôn ngoan học thức, thi thố cho thiên hạ được nhờ; bất đắc chí thì một mình vui vẻ giữ vững cái hay của mình. Sự giàu có quan sang chẳng làn siêu đảng được cái tâm, sự nghèo khó vi tiện chẳng làm biến đổi được cái tiết, sự uy hiếp hay vũ lực chẳng làm tỏa nhục được cái chí...thế mới gọi là đại trượng phu.
Mạnh Tử
GIẢI NGHĨA
Mạnh Tử: tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ hiền dạy bảo, lúc lớn theo học thầy Tử Tư, lúc học hành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau biết đạo thông hành, cùng làm sách với học trò là Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học trò và vua các nước Chư hầu làm quyển Mạnh Tử, bảy thiên. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).
Công Tôn Diễn, Chương Nghi: hai nhà du thuyết giỏi có tiếng đời Chiến Quốc.
Du thuyết: ngôn luận biện bác một cách khôn khéo, hùng hồn, làm cho người ta phải nghe.
Đại trượng phu: tài trai, anh hùng hào kiệt.
235. THIÊN HẠ SĨ
Lỗ Trọng Liên có khí tiết lạ lùng, có lòng trung nghĩa phẫn kích, không phải hạng sách sĩ sánh kịp được.
Kìa như con diều, con két bay cao trên tầng mây; con hổ, con báo gầm thét trong rừng núi, mạnh mẽ, dữ tợn, có ai dám lại gần. Song một mai bị người ta trói buộc, nuôi vào trong chuồng thì có khác gì giống gà, giống chó. Mà diều, két, hổ, báo sở dĩ để cho người ta đánh bẫy được, có phải chỉ do cái lòng thèm muốn mà thôi không? Như Lỗ Trọng Liên thì thực không có ham muốn gì, cho nên bay cao, gầm dữ mà vẫn ngang tàng một đời. Người ta khen Lỗ Trọng Liên là thiên hạ sĩ rất là phải.
Tiềm Thất Tử
GIẢI NGHĨA
Lỗ Trọng Liên: người nước Tề về đời Chiến Quốc, tính khẳng khái, cao thượng, thích vì người bài phân, giải nạn, vua Tề phong tước ông không nhận, khi Tần nhất thống, ông ra ẩn ở biển Đông.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Khí tiết: chí khí và tiết tháo.
Trung nghĩa: trung là hết long; nghĩa là ở phải.
Phẫn kích: phẫn là căm giận; kích là hăng hái.
Sách sĩ: người có mưu kế.
236. DỰ NHƯỢNG BÁO THÙ
Dự Nhượng trước thờ Phạm Trung Hàng. Trung Hàng đãi không tử tế.
Dự Nhượng bỏ đi theo Trí Bá, được Trí Bá tin dùng lắm. Nhưng sau Trí Bá bị bọn Tam Tấn đánh thua, giết chết và chiếm mất đất. Trong bọn Tam Tấn có Triệu Tương Tử oán Trí Bá nhiều nhất, bắt lấy đầu Trí Bá sơn đi làm đồ đi tiểu.
248
Dự Nhượng lúc đó đã trốn trong rừng nghe chuyện làm vậy, than rằng:
-Tài trai nên vị người tri kỷ mà bỏ thân, con gái nên vị người yêu thương mà làm dáng. Ta đây quyết phải báo thù cho Trí Bá mới nghe.
Bèn đổi tên họ, ăn mặc giả làm bọn tù, vào cung trát chuồng tiêu, muốn thừa cơ để đâm chết Triệu Tương Tử.
Tương Tử một hôm ra nhà tiêu, bỗng dưng động tâm bắt người trát nhà tiêu ra hỏi, thì biết ngay là Dự Nhượng.
Dự Nhượng rút dao găm trong mình ra nói rằng:
-Ừ, ta là Dự Nhượng, ta muốn báo thù cho Trí Bá đây.
Đầy tớ Triệu Tương Tử hăm hăm chực giết Dự Nhượng. Tương Tử ngăn lại, nói rằng:
-Hắn là nghĩa sĩ đó. Thôi ta tránh đi thôi, Trí Bá chết không có con cháu, hắn là bầy tôi báo thù cho chủ, thực là hiền nhân của thiên hạ. Thôi ta tha cho hắn.
Dự Nhượng được tha, lại cạo râu và lông mày cho đổi nét mặt, sơn mình giả làm thằng hủi đi ăn xin. Vợ trông thấy cũng không nhận ra, nói rằng:
-Người này, tiếng nói thì giống chồng ta, nhưng mặt mày thật không phải chồng ta. Dự Nhượng lại nuốt than hồng cho đổi cả tiếng nói đi.
Được ít lâu, Triệu Tương Tử đi chơi, Dự Nhượng núp chực đợi dưới cầu. Nhưng lúc Tương Tử đi gần đến đầu cầu, con ngựa thốt nhiên kinh hãi lồng lên. Tương Tử nói rằng:
-Chắc lại có Dự Nhượng ở đây.
Rồi sai người tìm dưới gầm cầu, quả bắt được Dự Nhượng thật.
Tương Tử gọi Dự Nhượng đến trước mặt trách rằng:
-Ngươi trước thờ Phạm Trung Hàng. Phạm Trung Hàng bị Trí Bá giết, sao ngươi không báo thù lại thờ Trí Bá. Nay Trí Bá bị ta giết, sao mà ngươi chăm báo thù thế? Dự Nhượng nói:
-Trước tôi có thờ Phạm Trung Hàng thật, nhưng Phạm Trung Hàng đãi tôi như bọn tầm thường, nên tôi lại lấy cách tầm thường mà ở lại. Sau tôi thờ Trí Bá, Trí Bá đãi tôi vào bậc quốc sĩ, nên tôi lại lấy cách quốc sĩ mà ở lại.
Triệu Tương Tử chép miệng than rằng:
-Ngươi thờ Trí Bá cũng đã nên danh tiếng rồi đó, mà ta tha cho ngươi bận trước cũng đã đủ rồi. Nhưng bận này ngươi phải liệu cái thân ngươi, không tha nữa đâu. Dự Nhượng nói:
-Tôi nghe: Minh chúa không che lấp sự có nghĩa của người ta, trung thần không tiếc cái chết để cho nên danh tiếng. Trước ông đã khoan tha cho tôi một lần, thiên hạ ai cũng biết ông là người đại lượng rồi. Còn như việc hôm nay, tôi đành xin chịu chết, nhưng tôi xin mạn phép ông, ông cho tôi được đâm vào cái áo ông mặc, thì tôi dù chết cũng không oán giận gì nữa.
Triệu Tương Tử cho là người có nghĩa, cởi áo sai đầy tớ đưa cho Dự Nhượng.
Dự Nhượng rút gươm, nhảy lên ba lần hò hét đâm vào áo và nói rằng:
Thế này là ta báo được ơn Trí Bá rồi đây.
Nói đoạn đâm cổ chết.
Chiến Quốc Sách
GIẢI NGHĨA
Chiến Quốc sách: bộ sách này còn được gọi là Trường Đoản Như của Lưu Hướng đời Hán làm ghi chép những việc về đời Chiến Quốc.
Dự Nhượng: người nước Tấn đời Chiến Quốc có tiếng là một người nghĩa sĩ. (Xin xem thêm Dự Nhượng ở Phụ Lục C).
Tấn: Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
249
LỜI BÀN
Ta đọc bài này, thực như đi xem một tấn bi kịch có thể khiến cho ta nhỏ nước mắt cảm cái khí khái của một người nghĩa sĩ. Dự Nhượng muốn báo thù cho Trí Bá, tuy khốn khổ thân hai lần mà không thành công, song cũng đủ tỏ được cái nghĩa vua tôi, đã đem lòng thờ ai, chịu ơn người ta, thì không sao rời bỏ được người ta, dù đến phải thí thân cũng không quản ngại. Than ôi! Nếu Triệu Tương Tử lần trước tâm không động, lần sau ngựa không lồng, thì biết đâu tấn kịch lại không xoay đi thế khác. Nhưng ta đáng khen Dự Nhượng bao nhiêu, ta lại phải phục Triệu Tương Tử bấy nhiêu. Dự Nhượng chỉ mưu sự để giết mình, thế mà lần trước bắt được khoan tha cho, lần sau bắt được cho là tự xử lấy, lại còn chiều lòng cở áo cho người ta đâm vào, sao cái lòng đại độ được đến thế. Một đằng thực là chân nghĩa sĩ, một đằng thật là biết trọng nghĩa sĩ. Dự Nhượng và Triệu Tương Tử thực là một đôi đối đầu được với nhau không xấu danh trong lịch sử.
237. QUAN TÀI CON
Tại chùa Tô Châu có một nhà sư tên gọi Viên Thủ Trung tu hành đắc đạo.
Nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bách đàn, dài độ ba tấc, có một cái nắp đậy, mở được. Khách đến chơi trông thấy, cười nói rằng:
-Người chế ra cái này dùng để làm gì?
Nhà sư nói:
-Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Ta thực lấy làm lạ, người đời ai ai cũng chỉ biết có phú quý, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời, chẳng biết đến cái chết là gì. Như ta đây mỗi khi có việc không được như ý, ta cầm lấy cái này mà ngắm xem, là tức khắc, trong tâm ta được yên ổn mà muôn nghìn sự tư lự đều lâng lâng sạch như không. Cái quan tài con này đủ thay lời huấn, lời giới của bậc nghiêm sự, bài trâm, bài minh treo bên chỗ ngồi vậy.
Mai Hiên Bút Ký
GIẢI NGHĨA
Tô Châu: huyện Ngô thuộc về tỉnh Giang Tô bây giờ.
Bạch đàn: thứ gỗ rắn và thơm, dùng làm đồ đạc dùng làm hương thắp.
238. LỆCH THỪA KHÔNG BẰNG NGAY THIẾU
Kiềm Lâu là một bậc cao sĩ nước Tề về thời Xuân Thu. Tính ông thẳng, bao giờ cũng giữ đạo phải, không chịu khuất thân để theo đời.
Các nước chư hầu nhiều nước mời ra làm khanh tướng nhưng ông không thuận. Vua Uy Vương nhà Chu kính thờ ông như thầy.
Ông nghèo lắm. Lúc mất chỉ có cái chăn, không liệm đủ thân thể.
Thầy Tăng Tử đến viếng, thấy vậy nói:
- Để lệch cái chăn đi, thì liệm đủ thân thể.
Bà vợ ông bảo:
Lệch mà có thừa không bằng ngay mà không đủ. Lúc sinh thời, tiên sinh chỉ vì tính thẳng mới được như thế. Bây giờ tiên sinh mất mà liệm lệch cho tiên sinh, thì chắc không được hợp ý tiên sinh.
Tăng Tử nghe, không nói gì được nữa. Sau chỉ hỏi dùng chữ gì đặt tên hèm cho tiên sinh.
Bà vợ nói:
Tiên sinh không lấy sự nghèo hèn làm buồn rầu, không lấy sự giàu sang làm hâm mộ, đặt tên hèm cho tiên sinh là "Khang" có nên chăng?
250
Tăng Tử nghe, than rằng:
Chỉ có người chồng như thế mới có được người vợ như thế.
Thông Chí
GIẢI NGHĨA
Kiềm Lâu: người nước Tề một bậc ẩn sĩ có tiếng giỏi đời cổ.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Tăng Tử: tức là Tăng Sâm, người thành thực và rất có hiếu, học trò giỏi của Đức Khổng Tử truyền được đạo đức Khổng Tử có thuật sách Hiếu Kinh và sách Đại Học. (Xin xem thêm Tăng Tử ở Phụ Lục C).
239. BẮT THAY CHIẾU
Tăng Tử bệnh nặng. Những người chầu chực hầu hạ, học trò thì có Nhạc Chính, Tử Xuân, ngồi ở cạnh giường, con thì có Tăng Nguyên, Tăng Nhân ngồi ở dưới chân, lại có một tên đồng tử đứng một góc cầm nến.
Tên đồng tử hỏi: Cái chiếu đẹp đẽ và bóng bẩy này là thứ chiếu quan đại phu dùng chăng?
Tử Xuân bảo: Im chớ nói.
Tăng Tử nghe tiếng giật mình, thở dài.
Đứa đồng tử lại hỏi: Cái chiếu đẹp đẽ và bóng bẩy này là thứ chiếu quan đại phu dùng chăng?
Tăng Tử đáp: Phải. Cái chiếu ta nằm là chiếu của Quý Tôn làm quan đại phu nước Lỗ cho ta. Ta chưa kịp thay đấy.
Rồi gọi con sẽ bảo: Nguyên kia, đứng dậy thay chiếu cho ta.
Tăng Nguyên nói: Bệnh cha nguy, không dám khinh động, xin để đến sáng sẽ thay. Tăng Tử nói: Con yêu cha không bằng tên đồng tử. Người quân tử yêu ai, yêu một cách phải đường, người thường yêu ai, yêu một cách nộm tạm cẩu thả. Như ta bây giờ còn mong gì nữa. Nếu ta được chết một cách chính đính, khỏi mang tiếng phi nghĩa, là đủ cho ta rồi.
Con cái và học trò nghe nói, xúm lại vực Tăng Tử lên để thay chiếu.
Tăng Tử vừa nằm yên vào chiếc chiếu mới thì mất.
Lễ Ký
GIẢI NGHĨA
Lễ ký:hay còn gọi là Kinh Lễ là một quyển trong bộ Ngũ Kinh của Khổng Tử, tương truyền do các môn đệ của Khổng Tử thời Chiến quốc viết, ghi chép các lễ nghi thời trước. Ngũ Kinh gồm có: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Lễ ký trong Phụ Lục D). Tăng Tử: tức là Tăng Sâm, người thành thực và rất có hiếu, học trò giỏi của Đức Khổng Tử truyền được đạo đức Khổng Tử có thuật sách Hiếu Kinh và sách Đại Học. (Xin xem thêm Tăng Tử ở Phụ Lục C).
Lỗ: một nước chư hầu nhỏ, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
LỜI BÀN
Người ta đến chết là hết. Cho nên trước cái chết, tưởng ai cũng bằng đẳng như ai không còn phân biệt tôn, ti, thượng hạ gì nữa. Tuy vậy, thầy Tăng Tử dù biết chết đến nơi, cũng còn thao thủ, không muốn việt phận, không chịu đeo tiếng phi nghĩa, thế mới hay cổ nhân lập chí, thường vạch một con đường quang minh chính đại để suốt đời noi theo dù đến hơi thở cuối cùng, mà vô ý lỡ đi sai, cũng nhất quyết không chịu. Cách thay chiếu đây lại còn đáng làm gương cho lắm kẻ đời nay, quên cả phong hóa, bỏ cả lễ nghĩa, lúc ma chay tiếm lạm nhiều cách, chỉ chuộng cái thói đời
251
phù hoa đua đã, chớ không còn biết cái tài đức, cái danh phận của người chết đáng vào bậc nào nữa. Những con cháu tống táng ông cha theo sự phù hoa mà phạm vào điều phi nghĩa, thì có gọi được là con cháu có hiếu không?
" Quân tử chi ái nhân dã dĩ đức, tế nhân chi ái nhân dã dĩ cô tức", câu di ngôn của thầy Tăng Tử thực là câu danh ngôn có chi lý vậy.
240. ĐÁM MA TO
Trang Tử sắp chết. Học trò bàn nhau định muốn làm ma nhỏ to.
Trang Tử thấy vậy bảo:
Ta lấy trời đất làm quan quách, mặt trời, mặt trăng làm hai viên ngọc bích, các ngôi sao làm các hạt châu báu, muôn vật làm đồ tống táng, đám ma ta như vậy, há chẳng đủ rồi, cần gì mà phải làm cho to nữa.
Học trò nói:
-Nhà thầy làm như vậy, chúng con sợ diều hâu, quạ nó rỉa thịt nhà thầy mất!
Trang Tử bảo:
-Xác người chết mà để trên đất thì diều quạ ăn, để dưới đất thì sâu bọ ăn. Bây giờ cướp của loài kia cho loài này, tâm sao mà thiên như thế? Tâm người đã thiên, thì bất bình đem cái bất bình mà cho là bình thì cái bình không phải là bình nữa. Tâm người không sáng thì chẳng thật, đem cái chẳng thật mà cho là thật thì cái thật không còn là thật nữa.
Ôi! Người ta cứ khăng khăng giữ một ý kiến, chẳng cũng đáng thương lắm ru!
Trang Tử
GIẢI NGHĨA
Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lão Tử, sau người ta vẫn xưng Lão Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
Tống táng: tống: đưa, táng: chôn.
Thiên: chênh lệch về một bên nào.
Bất bình: lệch về một bên không được bằng phẳng.
LỜI BÀN
Thầy sắp chết mà học trò định làm ma to cho thầy, thế là trung hậu mà là thường tình. Thầy gạt đi chỉ muốn như bỏ xác ra ngoài núi, thế là có ý tự nhiên cao thượng hơn đời. Học trò bảo không nỡ để cho quạ mổ, diều tha thịt thầy thế là chỉ biết những điều trước mắt có thể trông thấy mà thôi. Có biết đâu cái xác kia, khi vùi xuống đất, dù cho đào sâu, chôn chặt thế nào trong quan ngoài quách dù cho chắc chắn đến đâu cũng không khỏi được các giống sâu bọ, vi trùng đục rữa làm cho tan nát quá ư là mỏ quạ, mỏ diều vậy. Ôi! Trang Tử lúc gần chết còn dạy học trò như thế, thật là bình tâm sáng suốt hiểu thấu cái lẽ sinh, tử, tồn, vong tức như bây giờ ta nói hiểu rõ chân lý, hiểu như khoa học rất hợp với cái học thuyết cao viễn của Trang Tử vậy.
Reply With Quote
27-08-2011 08:22 PM #46 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
252
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
241. MUÔN VẬT MỘT THỂ
Trời là cha, đất là mẹ, chúng ta được cái khí trời đất mới thành ra người. Ta nghĩ thân ta thật là nhỏ mọn mà được ở trong vòng trời đất to lớn bao la. Cái khí của trời đất tức là hình ảnh của ta, cái lý của trời đất tức là tính của ta.
Người ta với muôn vật cùng sinh ra ở trong trời đất, thế thì cái gì có hình đều là khí của trời đất, cái gì có tính đều là lý của trời đất. Vậy người với người là đồng loại, thời ta coi nhau như anh em ruột cả. Trong vạn vật, giống hữu tri, giống vô tri so với người tuy khác, song cũng tự trời đất sinh ra, thì ta cũng coi như một bọn với ta cả. Phàm người trong trời đất đã là con trời đất hết, thì vua, ta coi như người anh cả, đại thần, ta coi như người giúp anh cả, cụ già ta kính, là cốt quý bực tôn trưởng ta, trẻ bé ta thương, là cốt yêu đàn con trẻ ta, bậc thánh là anh em ta mà giống cha mẹ ta, bực hiền là anh em ta mà giỏi hơn ta, còn những người ốm đau, tàn tật, cô độc, góa bụa đều là anh em ta mà vất vả khổ sở, không biết nương tựa vào đâu vậy.
Trương Hoành Cừ
GIẢI NGHĨA
Trương Hoành Cừ: tức là Trương Tái, người đời nhà Tống, trước có làm quan, sau về dạy học, ông là một nhà học giả giỏi có tiếng đời bấy giờ, có làm sách Chính Mông và Đông Minh, Tây Minh. Bài này trích ở trang Tây Minh.
Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
Khí: vật hơi vô hình, đời cổ cho muôn loài bởi đấy mà sinh hóa ra.
Lý: cái lẽ cường kiện (mạnh mẽ) của trời, nhu thuận (mềm mỏng êm ái) của đất. Đồng loại: cùng một loài.
Giống hữu tri: giống có biết, có cảm giác như chim muông...
Giống vô tri: giống không biết, không có cảm giác như cây cỏ, đất, đá.
Đại thần: quan to, đây nói ông tướng giúp vua trị dân.
Cô độc: cô: mồ côi, không cha không mẹ; độc: một mình không con cái.
LỜI BÀN
Ta xem bài này, hãy gác cái thuyết trời đất và khí lý ra ngoài, vì chưa thể nói rõ cái thuyết ấy cho đúng với khoa học tiến bộ này. Ta chỉ nên nhận tác giả nhân cái khởi điểm khí, hình, lý, tính ấy mà cho muôn vật ở đời cùng chung một gốc tích, cùng bẩm thụ của một cha mẹ là trời đất. Câu nói ấy thực là rõ cái nghĩa "vạn vật nhất thể" có cái lòng bác ái vậy. Riêng trong nhân loại, tuy có chia ra tôn ti, lão, ấu, chí thành, chí ngu, nhưng cũng là một loài người cả, thì nên coi cả trong nước như một người, cả thiên hạ như một nhà, kính nhường, yêu, thương nhau, giúp đỡ, đùm bọc nhau. Còn các giống động vật khác cùng thực vật, khoáng vật, hết thảy giống hữu tri vô tri đều là cùng ta ở trong trời đất cả. Ước ao cái học thuyết này một ngày một lan rộng ra, thì phúc cho loài người và thỏa cho cái hi vọng cổ nhân lắm.
242. TỰ TỈNH
Người ta, tối đến, trước khi đi ngủ thử kiểm xét xem trong một ngày: Ăn ở với cha mẹ đã hết lòng chưa?
Đối đãi với kẻ dưới đã hay thể tất chưa?
Xử với anh em đã hay thỏa thuận chưa?
Đối với vợ con đã hay yêu quý chưa?
Chơi với bạn bè đã hay tránh kẻ dở, gần người hiền chưa?
Nói ra câu gì, đã hay không thẹn với lương tâm chưa?
253
Làm công việc gì, đã hay không trái với công lý chưa?
Đãi người ngoài đã hay không thất lễ chưa?
Hết thảy việc gì, việc gì cũng nghĩ để xử cho chu đáo, ngõ hầu mới xứng đáng làm người mà không xấu hổ.
Từ Mi Vân
LỜI BÀN
Bài Tự Tỉnh của Mi Vân đây cũng tương tự như bài Kiểm soát lương tâm của Franklin. Trong bài nói thiệp liệp đủ cả trong nhà thì cha mẹ vợ con, anh em, tôi tớ, ngoài thì bạn bè, thiên hạ kịp đến cả câu nói việc làm. Nghĩa là đủ cả mọi hạng người mình giao tiếp hàng ngày, mình có bổn phận phải giữ cho trọn vẹn cùng những việc suy nghĩ, nói năng, hành động nữa. Nếu trước khi đi ngủ, ai ai cũng chịu kiểm soát lại lương tâm mình như thế cả, để sửa đổi lại tính mình cho hay hơn lên, thì lo chi đời hiếm người tốt mà xã hội mỗi ngày không một bước gần đến nhân đạo, nhân loại mỗi ngày không tiến mãi đến hạnh phúc được.
243. NGU CÔNG DỌN NÚI
Phía nam Châu Ký, có hai quả núi Thái Hàng và Vương Ốc to bảy trăm dặm, cao muôn thước, cây cối rậm, ác thú nhiều, đi lại khó.
Ở chân núi có một cái nhà của ông lão tên là Ngu Công, tuổi đã chín mươi.
Ngu Công thấy vì núi mà nhà ở chướng ngại, đường đi bất tiện, lấy làm bực tức. Một hôm cụ họp cả vợ con, người nhà lại bàn rằng:
- Ta muốn cùng lũ ngươi hết sức bạt phẳng hai quả núi này thì có nên không?
Ai nấy đều thuận. Chỉ có người vợ ngần ngại, hỏi vặn rằng:
- Sức ông không bạt nổi một cái gò, thì làm thế nào bạt được những hai quả núi? Mà dù cho có sức bạt được nữa, thì đất đá định đem đổ đi đâu?
Ngu Công nói: Khuân đổ ra bể Đông.
Đoạn Ngu Công đem con cháu cùng cả họ ra phá núi, kẻ đục đá, người đào đất, kẻ đầu đội, người vai mang, hết ngày này sang ngày khác. Láng giềng có đứa bé mới tám tuổi, con người đàn bà góa cũng xin đi làm giúp, hàng năm mới về một lần.
Gần miền có một ông lão khác tên là Trí Tẩu thấy vậy, cười Ngu Công và can rằng:
- Sao khờ dại vậy! Mình thì tuổi tác, núi thì cao lớn, phá thế nào nổi!
Ngu Công thở dài nói:
- Ngươi không bền lòng. Bền lòng thì việc gì cũng phải được. Ngươi không bằng người đàn bà góa, đứa trẻ con thơ. Ta già, ta chết đã có con ta. Hết đời con ta, đã có cháu ta, hết đời cháu ta đã có chắt ta, con con cháu cháu sinh hạ vô cùng mà núi thì bao giờ cũng vậy, lo gì không bạt nổi.
Trí Tẩu nghe nói, nín lặng, không trả lời.
Sau này vùng nam Châu Ký không có núi non chướng ngại, đi lại thuận tiện là nhờ có Ngu Công.
Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Ký: một châu của chín châu đời cổ, tức là vùng Trực Lệ, Sơn Tây cùng phía Bắc sông Hoàng Hà, tỉnh Hà Nam, phía tây sông Liêu Hà, tỉnh Phụng Thiên.
LỜI BÀN
Ta không tưởng tượng rõ núi Thái Hàng và núi Vương Ốc to lớn thế nào. Ta chỉ biết ở cái đời Ngu Công bấy giờ chưa có máy móc tinh xảo như bây giờ mà đã bạt được núi, thì giỏi thật. Lại không phải thuê từng hàng nghìn vạn người để làm, chỉ người
254
trong một nhà, một họ và ít người lân cận giúp tay vào mà cũng làm nổi. Ôi! Nếu quả như vậy, thì cái gương kiên nhẫn của Ngu Công thực đáng để truyền lại mãi cho muôn đời về sau này. Vả chăng chỉ một câu Ngu Công nói với Trí Tẩu cũng nên ghi nhớ lắm. Sự kiên tâm không phải chỉ hạn chế trong một đời, nhưng cứ tiếp luôn đời ấy, đời khác theo đuổi mãi thì ở đời còn có cái gì gọi là khó được nữa. Ngu Công đây thật là người đại trí nhược nhu (người cực khôn, bề ngoài coi như ngu). Ngôn hành ông y như những câu sau đây cũng đều có ý khuyên chúng ta lập chí và kiên tâm để làm việc:
1) Trên đời chả có việc gì khó, chỉ tại tâm người ta không kiên nhẫn mà thôi.
2) Bí quyết thành công cốt ở nhất định không thay đổi mục đích.
3) Đã có cái kiến thức can đảm phi thường, nhất quyết làm được sự nghiệp phi thường.
4) Đem sự hiểu biết tinh tường, dùng hết tâm trí bền bỉ, vận cả toàn lực tinh tiến vô cùng, thì có việc gì mà không làm được. Người ta sống một cách nay lần mai nữa, suốt đời không được việc gì, chỉ tại không có chí.
5) Ý chí kiên nhẫn có thể chinh phục được hết thảy các thứ tự nhiên trong vòng trời.
244. MÃ VIỆN
Mã Viện mồ côi từ thuở nhỏ, tình cảnh rất nghèo khổ mà thật là người có chí lớn. Thường khi nói chuyện, Mã Viện cho rằng: "Làm trai lúc cùng khổ, chí càng phải bền; khi tuổi tác khí càng phải hăng".”
Mã Viện ra công, ra sức cày cấy, chăn nuôi, không bao lâu giàu có hàng ức triệu. Mà hình như chưa được phỉ chí, thường nói với người ta rằng: “Phàm làm nên giàu, mà có biết đem của thí chẩn cho người khốn cùng, thì mới là quí. Bằng không, thì chỉ làm tôi tớ đồng tiền, suốt đời canh giữ đồng tiền, chớ có ích gì.”
Sau Mã Viện đem hết tiền của chẩn cấp cho người nghèo, rồi ra làm quan giúp vua Quang Vũ nhà Hán. Tuổi bấy giờ đã già, mà cứ hay xin đi đánh Nam, dẹp Bắc. Mỗi khi thắng trận trở về, họ hàng bà con ra chào mừng đón rước thì Mã Viện nói rằng:
- Làm tài trai nên chết ở chốn biên thuỳ, lấy da ngựa bọc thây mà chôn mới là đáng trọng; chớ ốm nằm xó giường, chết ở trong tay lũ trẻ nâng đỡ, thì có hay gì.
(Bài này không có trong sách Cổ Học Tinh Hoa do Nhà Xuất Bản TP Hồ Chí Minh in năm 1988).
GIẢI NGHĨA
Mã Viện (14 TCN-49): tự Văn Uyên, người Phù Phong, Mậu Lăng (nay là huyện Phù Phong, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc) là một viên tướng người Hán trong thời kì nhà Đông Hán. Hậu duệ nổi tiếng của ông là Mã Đằng và Mã Siêu (một danh tướng trong thời kì Tam Quốc), Mã Đại, trọng thần nhà Thục Hán.
Một trong những chiến tích lớn nhất của Mã Viện là dẫn hơn hai vạn kỵ binh và hai ngàn chiến thuyền, tiếp viện cho quân Hán đang xâm lược Giao Chỉ (Việt Nam) và dập tắt cuộc khởi nghĩa chống lại quân Hán của Hai Bà Trưng là bà Trưng Trắc và em bà là Trưng Nhị vào năm 42-43 ở miền bắc Việt Nam. (Chú thích này được tóm lược từ "Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, tiếng Việt"; xin xem thêm Mã Viện ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Đối với nước Việt Nam ta, Mã Viện là một người cừu địch, đáng ghét. Nhưng ta cũng không nên, vì ghét mà không biết đến cái hay của người. Như Mã Viện mồ côi nghèo khổ mà trở nên giầu có, là người có chí lập thân đáng khen. Giàu có mà biết dùng của, đem của cấp cho kẻ khốn cùng, lại là người có chí cứu khổ đáng trọng. Có tuổi mà vẫn đem thân ra chốn chiến trường để tận trung báo quốc lại là một người có chí
255
ái quốc đáng phục, thật không phụ cái tiếng anh hùng. Một người cùng khổ yếu đuối mà làm nên phú quí, lúc phú quí lại hiểu được cái nghĩa phú quí nên làm thế nào, thực rất đáng làm gương cho cả mọi người!
257
Danh Ngôn Danh Lý và BẠT trong sách Cổ Học Tinh Hoa
DANH NGÔN DANH LÝ
(Sách Cổ Học Tinh Hoa do Nhà Xuất Bản TP Hồ Chí Minh in năm 1988 được in làm hai tập 1 và 2. Phần “DANH NGÔN DANH LÝ” được in ở cuối tập 1. Ghi chú của TV).
Chớ chính mình tự dối mình. Đại Học
Ở đời có ba điều đáng tiếc.
Một là hôm nay bỏ qua, hai là đời này chẳng học, ba là thân này lỡ hư. Chu Hi
Người ta có biết mưu sinh, biết tự lập thời mới không ỷ lại ai, cầu cạnh ai, mà giữ được liêm sỉ và thực hành được lễ nghĩa.
Khuyết Danh
Người ta sống trong một ngày, có nghe một câu phải, trọng một điều phải, làm một việc phải, ngày ấy mới không hư sinh.
Trần My Công
Sĩ phu mà ba ngày không xem sách, thì soi gương mặt mũi đáng ghét, nói chuyện lạt lẽo khó nghe.
Hoàng Đình Kiền
Có học vấn mà không có đạo đức, thì là người ác; có đạo đức mà không có học vấn, thì là người quê.
La Tư Phúc
Người ta nếu không biết lo xa, nhất định có sự ưu hoạn đến ngay. Luận Ngữ
256
Thân dê mà lốt cọp, thấy cỏ thì thích, thấy chó sói thì run, quên mất cả bộ da khoác là lốt cọp.
Dương Tử
Không gì giỏi bằng hay bàn, không gì yên bằng hay nhẫn (thản nhiên), không gì hơn người bằng có đức, không gì sướng thân bằng làm lành.
Hoàng Thạch Công
Độ lượng to lớn bao nhiêu thì phúc trạch cũng to lớn bấy nhiêu. Có mưu sâu độc bao nhiêu thì tai vạ cũng sâu độc bấy nhiêu.
Minh Tâm Bảo Giám
Làm việc nghĩa thì chớ tính lợi hại; luận anh hùng thì chớ kể nên, thua. Lư Khôn
Người biết “đạo” tất không khoe, người biết “nghĩa” tất không tham, người biết “đức” tất không thích tiếng tăm lừng lẫy.
Trương Cửu Thành
Chim mà mỏ quắp thì loài chim sợ cá, mà mồm ngoáp thì loài cá sợ. Người mà ngọn lưỡi sắc sảo thì loài người sợ.
Hàn Thi Ngoại Truyện.
Yêu thì muốn cho sống, ghét thì muốn cho chết, mình không có quyền làm được sống chết, mà lúc lại muốn cho sống, lúc lại muốn cho chết, như thế chả phải là mê hoặc lắm ru!
Luận Ngữ
Yêu người ta mà yêu vô lý, thành ra làm hại người ta. Ghét người ta mà ghét vô lý, thành ra làm hại cho thân mình.
Ngụy Thế Thụy
Người quân tử, ta nên thân, song không nên quá chiều mà phụ họa. Kẻ tiểu nhân, ta nên tránh, song không nên ruồng rẫy như hằn thù.
Thâm Hàn Quang
Lễ nghĩa liêm sỉ là bốn cái giường để duy trì giữ vứng quốc gia. Bốn giường vó ấy nếu không căng được lên, nghĩa là người trong nước mà vô lễ, vô nghĩa, vô liêm sỉ thì quốc gia phải sụp đổ mà diệt vong mất.
Quán Tử
Chính mình chẳng kiềm chế nổi mình mà cứ muối cài đạp người thì thật là ngu. Khuyết Danh
Đem cái thói kiêu căng khinh bạc đối đãi với người quân tử, thì tự mình làm cho mình thất đức; đem cái thói kiêu căng khinh bạc đối với kẻ tiểu nhân, thì tự mình làm cho mình hại thân.
Tuân Sinh Tiên
257
Người hay là thầy người dở, người dở là kẻ giúp chí cho người hay. Lão Tử
Người ta ai mà không có lỗi. Có lỗi mà sửa đổi được thì còn gì hay hơn. Tả Truyện
Câu nói như tên, không nên bắn bậy, đã lọt vào tai ai, không tài nào rút ra được nữa. Lục Tài Tử
Ba ba, thuồng luồng cho vực còn nông, làm tổ dưới đáy; chim cắt, diều hâu cho núi còn thấp làm tổ trên đỉnh; thế mà đến khi chết cũng chỉ là một cái mồi.
Tuân Tử
Vật trong thiên hạ chẳng gì mềm nhũn bằng nước, thế mà to vô hạn, sâu vô cùng. Hoài Nam Tử
Cắn chặt răng để chịu thiệt, đứng vững gót để làm người. Cổ ngữ
Thế giới là một trường học lớn. Sự khốn quẫn đau khổ là ông thầy giỏi, là người bạn tốt để rèn luyện cho ta vậy.
Khuyết Danh
Lanh trai công việc để cố gằng làm cho đầy đủ, và cẩn thận câu nói, không cẩu thả khinh thường.
Luận Ngữ
Người đi đêm tuy không là gian, nhưng không thể cấm chó không cắn được. Chiến Quốc Sách
Cái bể tình dục, lấp mãi mà không đầy; cái thành sầu khổ, phá mãi mà không tan. Khuyết Giới Toàn Thư
Lâu nay đời vẫn làm đắm đuối loài người; cái “chí” của ta là cái để độ thân ta, làm sóng gió không thể xiêu bạt vùi dập ta được.
Chúc Vô Công
Đại cục tuy một ngày một bại hoại, chúng ta vẫn phải nên hết sức duy trì, được phần nào hay phần ấy, còn ngày nào hay ngày ấy.
Tăng Quốc Phiên
Chim hồng, chim hộc, cất cánh bay xa là nhờ lông cánh; lông nhỏ trên lưng, lông to dưới bụng, mọc thêm một nắm, bay chẳng cao hơn, rụng mất một nắm, bay chẳng thấp hơn.
Hàn Thi Ngoại Truyện
Chẳng trách người mà trách mình là phương pháp cần nhất để tu tỉnh thân ta. Hay thể tất cho người là phương pháp cần nhất để gây nuôi độ lượng.
Lã Khôn
258
Một bên là quần chúng, một bên là bản thân, hai bên đều trọng cả. Nhưng gặp trường hợp cần, thì phải hi sinh bản thân để cứu giúp quần chúng.
Khuyết Danh
Thiên hạ có người sợ bóng mình, ghét vết mình, cắm cổ mà chạy, vết lại càng nhiều, bóng lại càng nhanh. Chẳng bằng đến chỗ rợp mà nghỉ, thì tự nhiên bóng mất hẳng và vết tuyệt ngay.
Mai Thăng
Muốn giữ được lương tâm, nuôi được linh tính, cần phải chịu cực khổ, chịu phiền, thì ngày mới thuần thục.
Lưu Trực Trai
Điều dưỡng “cái khí” lúc đang giận; đề phòng “câu nói” lúc sướng mồm; lưu tâm “sự lầm” lúc bối rối; biết dùng “đồng tiền” lúc sẵn sàng.
Uông Thụ Chi
Nói đương sướng hả mà nín ngay được; ý đương hớn hở mà thu hẳn được; tức, giận, ham mê đương sôi nổi, nồng nàn, mà tiêu trừ biến mất được; không phải là người rất kiên nhẫn, thì không tài nào được như thế.
Vương Dương Minh
An ác, dương thiện là bực thánh; thích thiện ghét ác là bực hiền; tách bạch thiện, ác quá đáng là hạng người thường; điên đảo thiện ác để sướng miệng gièm pha là hạng tiểu nhân hiểm ác.
Chu Trang Trang Công
Người ta ai cũng cần phải tự lập lấy thân, cần phải tự mình hết sức cố gắng cho ra người, cần phải trông cậy ở mình mà chớ có trông cậy vào người.
Khuyết Danh
Lòng thành, nét mặt đầm ấm, khí hòa, lời nói êm dịu thì thế nào cũng có thể cảm động được người ta.
Khuyết Danh
Lập thân không có gì khó bằng làm thế nào cho khỏi tủi thẹn; thủ thân không có gì khó bằng làm thế nào cho khỏi điếm nhục; phòng thân không có gì khó bằng làm thế nào cho ít bệnh tật.
Tuân Tiên Sinh
Chưa có người nào hành vi phẩm hạnh không đoan chính mà họ có thể yêu nước được.
Cổ Ngữ
Người không có chí như thuyền không có lái, như ngựa không cương trôi dạt lông bông không ra thế nào cả.
Vương Dương Minh
Tài trai nên ngang dọc trời đất, không nên quanh quẩn xó nhà.
259
Triệu Ôn BẠT
1. Mấy trang viết sau cuốn sách này, lúc đầu định nói một đôi điều về triết học Trung Hoa xưa. Thế nhưng, nghĩ lại, thì thấy thực không phải chỗ. Vả lại đối với triết học Trung Hoa xưa, mà nói mấy trang, thì thà không nói là hơn. Cho nên chỉ xin nói tản mạn đôi điều nhân cuốn sách được in lại, dù sao trong đó buộc lòng cũng phải có đôi câu về triết học.
2. Cuốn Cổ học tinh hoa này làm năm 1925. Năm đó, ở ta đã bỏ thi chữ Hán cả chục năm rồi. Hán học bắt đầu tàn. Các cụ Nguyễn Văn Ngọc, Trần Lê Nhân, soạn giả cuốn sách này, thuộc thế thệ những “ông đồ” lỡ vận đó. Cụ Nguyễn Văn Ngọc mất đã lâu (1942), còn cụ Trần Lê Nhân tôi vẫn còn được gặp những năm sáu mươi ở Hà Nội. Yêu mến tinh hoa của nền văn minh Hán học, từ trong cái biển bao la của bách gia chư tử Trung Hoa xưa, hai cụ đã tìm lấy những hạt ngọc của văn chương, triết học và xâu thành một chuỗi ngọc đem hiến cho đời. Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, cuốn sách hầu như vẫn giữ nguyên giá trị. Đọc lại cuốn sách, ta sẽ có cảm giác gặp lại một người bạn cũ. Mỗi cuốn sách có số phận riêng của mình, đó là một câu châm ngôn la tinh. Cuốn Cổ học tinh hoa cũng có số phận của nó. Đó cũng chính là số phận của triết học và văn chương phương Đông cổ mà ít lâu nay, do sự cất mình của các “con rồng” châu Á, dường như mọi người đang để tâm tìm hiểu.
Các nhà nghiên cứu phương Đông của thế giới, trong đó có các học giả Pháp, Mĩ và cả Liên Xô nữa, nay đều thấy tác dụng của Khổng giáo đối với sự phát triển kinh tế của nước Nhật. Đối với người Nhật hay đối với một số nước mà họ gọi là “Hán hóa” khác (trừ Việt Nam) thì truyền thống đã không cản trở sự phát triển, trái lại các nước ấy đã biết biến truyền thống thành một thứ “mùn” để ươm trồng lên đó những cây cối tươi tốt. Cái ông Khổng Tử mà bao lâu nay người ta nguyền rủa, người ta đấu tố (chúng ta vẫn nhớ những đợt “phê Lâm đấu Khổng” trong cách mạng văn hóa ở Trung Quốc vừa đây), hóa ra không đến nỗi tệ như thế! Hồi năm 1965, vào ngày 19- 5, ngày sinh của mình, cụ Hồ có đi thăm quê hương Khổng Tử. Và có bài thơ chữ Hán ghi lại cảm xúc, xin tạm dịch:
Mười chín tháng năm thăm Khúc phụ Thông già miếu cũ dấu xưa nhòa. Thế thần họ Khổng giờ đâu nhỉ?
Leo lét bia xưa chút ánh tà.
(Nguyên văn:
Ngũ nguyệt thập cửu phỏng Khúc phụ
Cô tùng cổ miếu lưỡng y hi.
Khổng gia thế lực kim hà tại?
Chỉ thặng tà dương chiếu cổ bi.)
Dường như có chút cảm thương, hoài cổ bằng bạc trong bài thơ. Mà thực ra, Khổng Tử nào có tội tình gì? Ông ta là một gương mặt tiêu biểu của triết học Trung Hoa xưa, một nhà nhân văn một nhà triết học lớn. Các triều đại phong kiến lợi dụng học thuyết của ông, xuyên tạc cái “bản lai diện mục” của ông... thế thôi.
Nhưng ngoài Khổng Tử, còn có bao nhà triết học khác. Một điều mà các học giả thế giới lưu ý, là chữ Hán, thứ chữ lâu nay ta bỏ xó, lại là một công cụ rất tốt của tư duy, một thứ chữ làm thông minh người học nó (và điều này họ đã có thí nghiệm), một thứ chữ của tương lai, của thời đại điện toán! Chỉ tội nghiệp các cụ đồ trong thơ Vũ Đình Liên, trong đó có cụ Trần Lê Nhân và bao nhiêu cụ khác, những bậc túc nho đáng kính nhưng sinh bất phùng thời!
260
Đến hết thế kỉ này thì tổng sản phẩm kinh tế của các nước gọi là Hán hóa sẽ vượt Tây Âu, vượt Mĩ! Mà sở dĩ có thế một phần là nhờ như ở Nhật – theo lời một nhà bác học Liên Xô – họ giữ lại thành phần chữ vuông (chữ Hán) trong văn tự của mình! Thật là một “chuyện như đùa”! Nhưng không, các học giả này nghiêm túc đấy! Liệu sau này chúng ta có sửa đổi gì được cái định kiến ngốc nghếch của chúng ta về Hán học, và nói chung, về nền văn minh phương Đông mà chúng ta “bụt chùa nhà không thiêng”, chúng ta quá coi thường. Cuốn sách này được in lại, biết đâu là để sửa lại đôi chút sai lầm tai hại ấy.
3. Trước khi là một tuyển tập những đoản văn triết học, CỔ HỌC TINH HOA là một cuốn sách của những câu chuyện thường ngày mà chúng ta hằng quan tâm, đồng thời cũng là cuốn sách của những vấn để đạo đức muôn thuở. Thời đại chúng ta dầu khác biệt bao nhiêu đi nữa nhưng phải đâu những câu chuyện của cái thời thơ ấu ấy của nhân loại không còn làm chúng ta thú vị.
Mà trong cuốn sách này có biết bao nhiêu chuyện thú vị như thế! Chuyện ống Tử Lộ ăn ở có hiếu với cha mẹ “ngày trước lúc song thân còn, cơm thường dưa muối, đường xa trăm dặm, phải đội gạo về nuôi song thân”... – cái ông Tử Do mà Khổng Tử cho là “hiếu dũng” ấy, sao “người” đến thế! Chuyện tình bạn giữa Quản Trọng- Bảo Thúc: “sinh ta ra là cha mẹ, biết ta là Bảo Thúc” làm chúng ta suy ngẫm về trạng thái nhân thế của xã hội đời nay! Chuyện người vợ chê cái anh chồng đánh xe ngựa cho tể tướng mà vênh váo, bị chị vợ giảng cho một bài học thấm thía, chuyện “chính sách tàn bạo khốc hại hơn cả hổ”, chuyện Dương Chấn làm quan không chịu nhận hối lộ: “Xin ngài cứ nhận cho. Bây giờ đêm khuya không ai biết”. – “Trời biết đất biết, ông biết, tôi biết, sao lại bảo không ai biết?..”
Hối lộ, sao giống thời nay thế! Nhưng những người như Dương Chấn đời nay vẫn còn đấy chứ?
Còn cái chuyện “Đông Quách tiên sinh” thổi sáo nữa mới thật vui: ông ta không biết thổi sáo, nhưng cũng đứng lẫn vào giữa đám người thổi sáo để kiếm ăn... Về sau, vua mới lên không muốn nghe hòa tấu sáo như cũ, chỉ muốn nghe độc tấu, nên ông ta phải rút lui êm. Có khác gì khối cán bộ ta trong biên chế quan liêu bao cấp ngày nay đâu! Những chuyện như thế tuy là cổ xưa của nhân loại, lại giúp ta suy ngẫm chuyện đời nay.
Cổ học tinh hoa phong phú về đạo lý, trước khi phong phú về triết lý.
4. Hàng chục thế kỉ trước công nguyên, những đốm lửa của một trong những nền văn minh cổ đại của nhân loại đã cháy lên và bừng sáng suốt hàng chục thế kỉ.
Cho đến nay đã có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc của nền văn minh đó. Một cách đơn giản nhất thì chúng ta có thế nói như thế này: trên cái đại lục mà người Trung Hoa xưa quan niệm là tất cả “thiên hạ” ấy, do sự phồn vinh của kinh tế, đã đẻ ra được một tầng lớp trí thức, những người chuyên hoạt động tinh thần.
Tầng lớp ấy hẳn là đông đảo lắm. Truyền thuyết nói Khổng Tử từng dạy trước sau đến ba nghìn học trò (chắc không nhiều đến như vậy!), số môn khách ở nhà Bình Nguyên Quân là mấy ngàn và ở Tắc Hạ một trung tâm nghiên cứu, có hàng trăm học giả nổi tiếng. “Trăm nhà” đã “đua tiếng” chung quanh bao nhiêu vấn đề của thời đại. Họ truyền bá học thuyết thông qua đào tạo học trò, họ tranh luận, họ đi lại sớm Sở tối Tần để tìm người sử dụng mình. Trung Hoa cổ đại đã đánh thức và náo động bởi các nhà triết học, các nhà văn.
Nói là “trăm nhà” thực ra theo sự phân loại của Tư Mã Đàm, cha Tư Mã Thiên, thì có sáu nhà lớn; còn theo sự phân loại của Lưu Hâm, một đại học giả đời Hán, thì có mười nhà. Đại để thì có thể kể như chúng ta thường quen thuộc: Nho gia (phái của những học giả kể thừa văn hóa cổ), Đạo gia (các ẩn sĩ), Mặc gia (các hiệp sĩ), Danh gia (các biện sĩ), Âm Dương gia (các nhà vũ trụ luận), Pháp gia (các nhà làm
261
luật)...v.v..Còn Tiểu Thuyết gia những người chuyên “lượm lặt lời lẽ trong làng trong xóm, nơi đầu đường xó chợ” (Tiền Hán thư: Nghệ văn chí), xếp cuối cùng (chữ tiều thuyết mà ta dùng để dịch chữ roman trong tiếng châu Âu là xuất xứ từ chữ này). Các nhà ấy đều có mặt gần đủ trong cuốn sách nhỏ này.
Nhưng các soạn giả không chỉ tập họp các mẩu văn chung quanh các chư tử. Ngoài tản văn chư tử thì còn có tản văn lịch sử mà tiêu biểu là Tả truyện, Chiến quốc sách, Án Tử Xuân Thu, Lã Thị Xuân Thu... sau đó là Sử ký, sau đó nữa là một ít văn chương của Đường, Tống... Cái gốc là Tả truyện, Chiến quốc sách: “Văn chương đời sau, bao nhiêu thể loại đều có sẵn ở thời Chiến quốc cả rồi” (lời Chương Học Thành, đời Minh).
Thực ra thì sự tập họp ở đây không có hệ thống và cũng không có đầy đủ các diện mạo.
5. Trong các phồn tạp của các nhà trong sách này, làm sao ta có thể nhận diện, phân biệt họ với các người đương thời, chủ yếu trên phương diện tư tưởng triết học?
Đọc câu chuyện về Đặng Tích (Truyện 11) theo ngôn ngữ thông thường ngày nay, ta sẽ gọi ông ta là “thầy dùi”, là anh “đón xóc nhọn hai đầu”. Quả có thế. Ông ta làm thầy kiện: “việc lớn thì đòi một cái áo, việc nhỏ thì đòi một cái quần. Dân đưa áo, đưa quần để học kiện, không kể xiết. Lấy trái làm phải, lấy phải làm trái, phải trái không chừng, đến nỗi việc được hay không mỗi ngày mỗi đổi” (Lã thị xuân thu). Đó là những “ biện giả”, tiền thân của học phái triết học gọi là Danh gia: “Danh gia bới móc, ràng buộc khiến người ta không cãi ý họ được”, (Sử Ký) “họ làm khốn cái biết của trăm nhà, làm cùng cái biện của mọi miệng” (xem Trang Tử) - Danh và Thực, từ tương quan này đặt ra những vấn đề nghịch thường, nhưng những vấn để nghịch thường ấy, trong triết học là khởi điểm của thuyết tương đối rất sâu sắc biện chứng mà Huệ Thi, một nhà triết học, bạn thân của Trang Tử, chủ trương.
Thế là mỗi một câu chuyện trong sách này ẩn chứa một kho tàng triết học. Đọc câu chuyện con vua trốn vào hang, người nước Việt đem lá ngải hun hang, bắt về làm vua, mà dùng dằng không chịu về; đọc câu chuyện Tái ông thất mã, chuyện Hứa Do rửa tai khi nghe Nghiêu nhường thiên hạ... ta biết đó là tinh thần của Đạo gia, của Lão Tử, Trang Tử... Những nhà triết học này, chủ trương “vô vi”, thuận theo tự nhiên, tôn trọng quy luật của thiên nhiên, và có một tinh thần biện chứng pháp đặc sắc. Đạo gia sẽ đẻ ra Huyền học, Huyền học ảnh hưởng đến việc xác lập Thiền Tông; mà Thiền tông, Phật giáo thì có ảnh hưởng đến Hegel, mà không có biện chứng pháp của Hegel thì làm gì có Marx? Chuyện đời lòng vòng là như vậy.
Còn những chuyện về “chính danh”, về “nhân nghĩa”, về “dân quý nhất” của Khổng, Mạnh... thì dễ nhận ra. Đó là những chuyện trong Gia Ngữ, Tả Truyện, Thuyết Uyển... Trường phái triết học này quá quen thuộc với ta hàng ngàn năm nay, nhưng nay cũng phải nghiên cứu lại trên tinh thần "đổi mới", cũng phải “nhận diện” lại. Trong sách cũng có vài truyện về các nhà du thuyết, gọi là Tung hoành gia, những người “nổi cơn giận thì chư hầu sợ, ngồi yên một chỗ thì thiên hạ thái bình” (Mạnh Tử). Một trường phái khác hay được nhắc là Mặc Tử, đối thủ của Khổng Tử, chủ trương “Kiêm, ái”, mọi người trong thiên hạ, ai cũng yêu mến kẻ khác bằng nhau, không phân biệt. Đó là một tư tưởng có tính chất lý tưởng.
Tựu trung, về mặt triết học, sách Cổ học tinh hoa đem đến cho người đọc một vài khái niệm ban đầu. Sau buổi sơ giao này, ta sẽ có dịp đi sâu vào các trường phái triết học Trung Hoa cổ đại, những trường phái triết học ảnh hưởng hàng ngàn năm ở phương Đông. Đó là thời thơ ấu của nhân loại về mặt thời gian lịch sử nhưng lại là thời kỳ tráng niên, lão thực về mặt triết học, văn chương. Đó là những người thầy đầu tiên, những nhà hiền triết đầu tiên, những nhà văn đầy thi hứng đầu tiên... mà
262
nguồn suối của họ mấy nghìn năm vẫn dạt dào chảy vào biển lớn của nền văn minh nhân loại.
10.9.1988
Mai Quốc Liên
(Bài Bạt này được in ở cuối tập 2 trong sách Cổ Học Tinh Hoa do Nhà Xuất Bản TP Hồ Chí Minh in năm 1988. Nhà lý luận phê bình văn học Phó tiến sĩ Mai Quốc Liên (1941 - ) là giáo sư văn học và Hán - Nôm học, Đại học Sư phạm TP HCM. Ghi chú của TV).
Reply With Quote
27-08-2011 08:34 PM #48 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
Thay phần mở đầu cũ trong Phụ Lục D bằng phần mở đầu mới
Phụ Lục D
(Phần mở đầu mới)
Phụ Lục D: Các tác phẩm và tác giả Trung Hoa được trích dẩn trong Cổ Học Tinh Hoa
Có 92 tác phẩm và tác giả được trích dẩn trong Cổ Học Tinh Hoa. Trong số 92 tác phẩm và tác giả được trích dẩn, có 48 tác phẩm và tác giả được các tác giả Cổ Học Tinh Hoa chú thích và 44 tác phẩm và tác giả không được chú thích. 15 tác giả sẽ được chú thích với nhiều chi tiết trong Phụ Lục C và được đánh dấu PLC. 10 tác phẩm (gồm 8 tác phẩm không có chú thích và 2 tác phẩm chỉ có chú thích rất vắn tắc) sẽ được chú thích với nhiều chi tiết trong Phụ Lục D và được đánh dấu PLD. Sáu tác phẩm được trích dẩn nhiều lần nhất là: Liệt Tử (18 lần), Thuyết Uyển (12 lần), Lã Thị Xuân Thu (9 lần), Gia Ngữ (9 lần), Tả Truyện (8 lần) và Hàn Thi Ngoại Truyện (6 lần).
Bảy tác giả được trích dẩn nhiều lần nhất là: Trang Tử (13 lần), Hàn Phi Tử (12 lần), Mạnh Tử (9 lần), Mặc Tử (7 lần), Liễu Tôn Nguyên (3 lần), Tử Hoa Tử (3 lần) và Tuân Tử (3 lần).
Có 2 tác phẩm đề tên Khuyết Danh, 1 tác phẩm đề tên Vô Danh và 18 tác phẩm được để trống nơi tên của tác giả.
Các thông tin trong phụ lục D hoàn toàn được trích từ "Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt", http://vi.wikipedia.org/wiki/.
Phần trích từ Wikipedia đưa vào Phụ Lục D có thể là toàn bộ hay chỉ là các phần chủ yếu; tỉ lệ trích dẩn hoàn toàn do cảm tính.
Tình trạng các tác phẩm và tác giả Trung Hoa được trích dẩn trong Cổ Học Tinh Hoa STT/Tên tác phẩm hay tác giả - Tiểu phẩm trích dẩn/Có chú thích không?/PLC, PLD hay -?
1/Án Tử -173/Có/-
263
2/Án Tử Xuân Thu - 17, 18, 62, 103/ Có/- 3/Âu Dương Tu - 24, 100/Có/ PLC 4/Bách Tử Toàn Thư - 208/Không/- 5/Bảo Huấn - 229/Không/-
6/Bão Phác Tử - 178/Có/-
7/Cao Sĩ Truyện - 128/Có/-
8/Chiến Quốc Sách - 50, 51, 141, 153, 236/Có/-
9/Chu Sử - 129, 196/Không/-
10/Chu Thư - 65, 154, 168/Không/PLD
11/Chúc Tử - 156/Không/-
12/Diêu Dung - 68/Không/-
13/Duyệt Vi - 174, 179/Không/-
14/Dục Hải Từ Hàng - 181/Không/-
15/Dương Minh Tử - 177/Không/-
16/Dương Tử - 111/Có/-
17/Đái Danh Thế - 187/Có/-
18/Ðào Ngột (Sở Sử) - 47/Không/-
19/Đường Bá Hổ - 130/Có/PLC
20/Đường Thư Liệt Nữ Truyện - 63/Không/PLD
21/Gia Cát Lượng - 217/Có/PLC
22/Gia Ngữ - 16, 19, 38, 66, 81, 121, 164, 170, 230/ Không/-
23/Giả Tử Tân Thư - 227/Không/-
24/Hải Tiều Tử - 176/ Có/-
25/Hàn Phi Tử - 8, 10, 13, 20, 28, 32, 33, 37, 53, 85, 94, 180/Có/PLC
26/Hán Sử - 192/Không/-
27/Hàn Thi Ngoại Truyện - 26, 41, 61, 83, 117, 165/Có/-
28/Hán Thư - 147, 159/Không/PLD
29/Hậu Hán Thư - 40, 146, 194/Không/PLD
30/Hoài Nam Tử - 77/ Có/PLD
31/Huệ Tử - 48/Có/-
32/Khổng Tử Tập Ngữ - 1, 6, 105, 115/Có/-
33/Khổng Tùng Tử - 22/Có/-
34/Khuất Nguyên - 71/Có/PLC
35/Lã Đông Lai - 122/Có/-
36/Lã Khôn - 204/Không/-
37/Lã Thị Xuân Thu - 9, 11, 29, 69, 96, 106, 107, 150, 202/ Có/-
38/Lã Tử - 67/Không/-
39/Lão Tử - 140, 232/Có/PLC
40/Lễ Ký - 104, 116, 239/Không/PLD
41/Liệt Nữ Truyện - 93/Không/PLD
42/Liệt Tử - 2, 25, 36, 45, 55, 58, 60, 120, 139, 140, 158, 161, 172, 209, 216, 224, 225, 243/Có/-
43/Liễu Tôn Nguyên - 30, 184, 197/Có/-
44/Long Môn Tử - 4/Có/PLC
45/Lư Phu Nhân Truyện - 142/Không/-
46/Luận Ngữ - 123/Không/PLD
47/Lưu Cơ - 34, 97/Có/-
48/Lưu Hương Liệt Nữ Truyện - 191/Không /-
49/Lưu Linh - 186/Có/PLC
50/Lưu Tử - 221/Không/-
264
51/Lý Nguyên Dương - 193/Không/-
52/Mặc Tử - 5, 56, 57, 64, 212, 222, 223/Có/PLC
53/Mai Hiên Bút Ký - 237/Không/-
54/Mạnh Tử - 98, 113, 124, 132, 155, 201, 205, 211, 234/Có/PLC
55/Ngô Tử - 198/Có/PLC
56/Ngụy Thư Từ Tuân Minh Truyện - 163/Có/-
57/Nhân Phả - 73/Không/-
58/Phạm Trọng Yêm Truyện - 195/Có/PLC
59/Quan Doãn Tử - 206/Không/-
60/Quốc Sách - 12, 102/Không/-
61/Sử Ký - 21, 059, 109, 135, 145, 207/Không/PLD
62/Tả Khưu Minh - 199/Có/-
63/Tả Truyện - 27, 42, 138, 200, 215, 220, 226, 233/Có/PLD
64/Tấn Sử - 84/Không/-
65/Tân Tự - 151, 188, 203/Có/-
66/Thanh Lê Tử - 54, 214/Có /-
67/Thế Thuyết - 143, 144/Có/-
68/Thi Tử - 231/Có/-
69/Thông Chí - 238/Không/-
70/Thuyết Uyển - 39, 44, 75, 82, 86, 119, 131, 133, 134, 148, 171, 185/Có/- 71/Tiềm Thất Tử - 235/Không/-
72/Tiền Hạc Than - 219/Không/-
73/Tiết Huyên - 175/Không/-
74/Tình Sử - 189, 190/Không/-
75/Tô Thức - 118/Có/ PLC
76/Tống Liêm - 74/Có/PLC
77/Tống Sử Roãn Thuần Truyện - 136/Có/-
78/Trần Kế Nho - 218/Có/-
79/Trần Tử Tuyết - 101/Không/-
80/Trang Tử - 15, 88, 91, 95, 125, 127, 160, 166, 169, 182, 213, 228, 240/Có/PLC 81/Trang Tử Tuyết - 87, 114/Không/-
82/Triệu Văn - 210/Không/-
83/Trương Động Sơ - 157/Không/-
84/Trương Hoành Cừ - 241/Có/-
85/Trương Nghi Truyện - 149/Có/-
86/Tử Hoa Tử - 3, 23, 89/Có/-
87/Từ Mi Vân - 242/Không/-
88/Tử Tuân - 152/Không/-
89/Tuân Tử - 7, 80, 99/Có/PLC
90/Tùy Đường Nhai Thoại - 167/Không/-
91/Tùy Kỷ - 137/Có/-
92/Úc Ly Tử - 76/Không/-
93/Khuyết Danh - 112, 162/Không/-
94/Vô Danh - 183/Không/-
95/(Để trống nơi tác phẩm) -14, 31, 35, 43, 46, 49, 52, 70, 72, 78, 79, 89, 90, 92, 108, 110, 126, 244/Không/-
Sau đây là 10 tác phẩm được chú thích với nhiều chi tiết trong phụ lục D:
Phụ Lục D
(Phần mở đầu cũ)
265
(Phần mở đầu cũ trong Phụ Lục D trong post #12, xin được thay bằng phần mở đầu mới ở trên)
Phụ Lục D: Các tác phẩm Trung Hoa được trích dẩn trong Cổ Học Tinh Hoa
Có 46 tác phẩm được trích dẩn trong Cổ Học Tinh Hoa, không kể số tác phẩm có cùng tên với tên tác giả, ví dụ như Mạnh Tử là tên sách trùng tên với tên tác giả Mạnh Tử. Đối với số tác phẩm có cùng tên với tên tác giả này, bạn đọc có thể tham khảo tên danh nhân trong Phụ Lục C. Trong số 46 tác phẩm được trích dẩn trong Cổ Học Tinh Hoa, có 32 tác phẩm không được các tác giả Cổ Học Tinh Hoa chú thích. 10 tác phẩm (gồm 8 tác phẩm không có chú thích và 2 tác phẩm chỉ có chú thích rất vắn tắc) sẽ được chú thích với nhiều chi tiết trong Phụ Lục D và được đánh dấu PLD. Tiêu chuẩn duy nhất để 1 tác phẩm được chọn đưa vào Phụ Lục D là tác phẩm đó có trong danh mục của Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt!
Các thông tin trong phụ lục D hoàn toàn được trích từ "Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt", http://vi.wikipedia.org/wiki/.
Phần trích từ Wikipedia đưa vào Phụ Lục D có thể là toàn bộ hay chỉ là các phần chủ yếu; tỉ lệ trích dẩn hoàn toàn do cảm tính.
Tình trạng các tác phẩm Trung Hoa được trích dẩn trong Cổ Học Tinh Hoa
STT/ Tên tác phẩm – Có chú thích hay không?/ PLD (= Có trong Phụ Lục D)
1/ Án Tử Xuân Thu - Có
2/ Bách Tử Toàn Thư - Không
3/ Bảo Huấn - Không
4/ Cao Sĩ Truyện - Có
5/ Chiến Quốc sách - Có
6/ Chu Sử - Không
7/ Chu Thư - Không/ PLD
8/ Ðào Ngột (Sở Sử) - Không
9/ Diêu Dung - Không
10/ Đường thư - Không/ PLD
11/ Gia Ngữ - Không
12/ Giả Tử Tân Thư - Không
13/ Hán Sử - Không
14/ Hàn Thi Ngoại Truyện - Có
15/ Hán thư - Không/ PLD
16/ Hậu Hán Thư - Không/ PLD
17/ Hoài Nam Tử - Có/ PLD
18/ Khổng Tử Tập Ngữ - Có
19/ Khổng Tùng Tử - Có
20/ Lã Thị Xuân Thu - Có
21/ Lã Tử - Không
22/ Lễ ký - Không/ PLD
23/ Liệt Nữ Truyện - Không/ PLD
24/ Liệt Tử - Có
25/ Luận Ngữ - Không/ PLD
26/ Lưu Tử - Không
27/ Lý Nguyên Dương - Không
28/ Nhân Phả - Không
29/ Quan Doãn Tử - Không
30/ Quốc Sách - Không
266
31/ Sử Ký - Không/ PLD
32/ Sử Ký Hán Vân Đế - Không
33/ Sử Ký Mạnh Thường Quân Truyện - Không 34/ Tả Truyện - Có/ PLD
35/ Tấn Sử - Không
36/ Tân Tự - Có
37/ Thế Thuyết - Có
38/ Thông Chí - Không
39/ Thuyết Uyển - Có
40/ Tiềm Thất Tử - Không
41/ Tình Sử - Không
42/ Trần Tử Tuyết - Không
43/ Trang Tử Tuyết - Không
44/ Tùy kỷ - Có
45/ Tử Tuân - Không
46/ Úc Ly Tử - Không
Sau đây là 10 tác phẩm được chú thích với nhiều chi tiết trong phụ lục D: Last edited by Truc Vo; 27-08-2011 
http://www.vietlandnews.net/
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...