Báo chí và phê bình văn học
Trong thế giới hiện đại, theo đà tiến bộ của khoa học và công
nghệ, các phương tiện truyền thông như báo in, truyền thanh, truyền hình,
internet… phát triển ngày càng mạnh mẽ. Sự phát triển này tác động đến văn học
theo hai hướng. Một mặt, các phương tiện truyền thông làm hạn chế vai trò của
văn học, thu hút công chúng của sách in và chia sẻ thị phần của xuất bản. Mặt
khác, văn học có thể lợi dụng khả năng truyền bá sâu rộng của các phương tiện
truyền thông, nương theo đó mà tiếp cận với công chúng.
Với công nghệ in ngày càng tân tiến, sự phổ biến văn học chưa
bao giờ thuận lợi như bây giờ. Một tác giả nhận được giải thưởng Nobel năm trước,
năm sau đã có sách dịch ra tiếng Việt. So với những thập kỷ trước, hiện nay, nhờ
các phương tiện truyền thông đại chúng, sự phản hồi của công chúng đối với một
hiện tượng văn học thường diễn ra nhanh chóng. Không hiếm thí dụ chứng minh cho
hiệu ứng xã hội của văn học, qua tác động của các phương tiện truyền thông.
Ở nước ta, nhờ sự giới thiệu và quảng bá của các phương tiện
truyền thông mà nhiều tác phẩm văn học trở thành những hiện tượng xuất bản với
số lượng bản in vượt trội. Từ lâu, qua các chương trình văn học nghệ thuật như
“Tiếng thơ”, “Bình thơ”, “Đọc truyện đêm khuya”…, đài phát thanh đã truyền tải
những tác phẩm văn học đến với thính giả ở thành thị và nông thôn. Đặc biệt, ở
những vùng sâu, vùng xa, nơi thiếu thốn sách báo, nhờ đài phát thanh, người dân
có thể được thông tin và thưởng thức những sáng tác văn học mới, được nghe
chính các nhà văn, nhà phê bình phát biểu về văn học. Nếu làm tốt chức năng của
mình, đài phát thanh có thể là nơi phát hiện và giới thiệu những tài năng văn học
trẻ ở các địa phương, đồng thời tập hợp và phân tích dư luận của công chúng về
những hiện tượng văn học có tính thời sự. Đài truyền hình là một công cụ có nhiều
lợi thế trong việc truyền bá tri thức và tác động đến tâm lý cũng như thị hiếu
thẩm mỹ của quần chúng. Trên màn ảnh nhỏ, những buổi toạ đàm văn học, những
chương trình giới thiệu tác giả và tác phẩm có chọn lọc góp phần định hướng nhận
thức về giá trị của văn học và nghệ thuật nơi công chúng.
Mối quan hệ giữa internet và văn học thể hiện rõ nhất qua hiện
tượng “văn học mạng”. Văn học mạng mang tính đại chúng vì nó thu hút ngày càng
đông đảo cả người đọc lẫn người sáng tác trong một không gian ảo của sự giao tiếp.
Những năm cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI chứng kiến sự nở rộ của các
trang web văn học, các blog cá nhân có đề cập đến văn học.
Sự nhạy bén của internet đã cuốn văn học vào một nhịp độ mới của đời sống hiện
đại. Với internet, văn học đến với công chúng, và công chúng phản hồi về văn học
hầu như trực tiếp vì có thể giản lược được những khâu trung gian như biên tập,
thẩm định… Điều này phát huy tính tích cực và chủ động của người sáng tạo lẫn
người thưởng thức, nhưng cũng là cơ hội cho thói tuỳ tiện và sự vô trách nhiệm.
Sự phát triển đa dạng của các phương tiện truyền thông hiện đại
cho thấy đời sống văn hoá luôn vận động chứ không đứng yên trong những hình dạng
của quá khứ. Đó là một thách thức cho văn học. Văn học, một mặt, phải tìm cách
thích nghi với đời sống hiện đại, khai thác thế mạnh của khoa học và kỹ thuật;
mặt khác, phải giữ căn cốt của mình, để không biến mình thành một thứ phụ tùy của
công nghệ.
Đời sống văn học thể hiện rõ trên các phương tiện truyền
thông qua hoạt động phê bình. Mảng phê bình này thường được gọi là phê bình báo
chí hay phê bình thông tấn. Đây chủ yếu là hoạt động của những cây bút làm việc
ở các cơ quan báo chí, xuất bản, phát thanh và truyền hình; đồng thời cũng có sự
tham gia của những người sáng tác, những nhà nghiên cứu ở các viện nghiên cứu
và các trường đại học. Loại hình phê bình này có ưu điểm là nhạy bén, kịp thời
trong việc biểu dương hay phê phán những hiện tượng văn học mới xuất hiện, đồng
thời cũng sớm nắm bắt tâm lý và thị hiếu của độc giả. Phê bình báo chí có thể
là công cụ tác động trực tiếp đến tư tưởng của công chúng đương thời. Yêu cầu đặt
ra với phê bình báo chí là kết hợp ý nghĩa thời sự với những giá trị sâu sắc và
lâu dài của văn học. Những nhà phê bình báo chí lịch lãm, sau một thời gian
tích lũy kinh nghiệm, có thể phát huy khả năng am hiểu đời sống văn học của
mình trong những công trình khái quát, mang tính quy luật và có sức thuyết phục.
Lịch sử phê bình văn học nước ta ghi nhận rằng những nhà phê
bình nổi tiếng đều được rèn luyện qua việc thao dượt ngòi bút trên mặt báo. Thiếu
Sơn, Hoài Thanh, Trương Chính, Vũ Ngọc Phan, Hải Triều, Trương Tửu, Lê Thanh,
Kiều Thanh Quế… trước khi có sách in, đều đã được công chúng biết đến như những
người viết phê bình và người tham gia những cuộc tranh luận trên báo chí. Về
căn bản, các thế hệ phê bình chuyên nghiệp sau Cách mạng Tháng Tám, ở miền Bắc
cũng như ở miền Nam, đều được hình thành trong môi trường báo chí. Phê
bình báo chí trở thành kênh chủ đạo chuyển tải dư luận về văn học, đồng thời trở
thành nhân tố tác động đến dư luận xã hội.
Như vậy là hoạt động phê bình trên các phương tiện truyền
thông đã mở rộng hiệu ứng xã hội của tác phẩm và tạo nên một “trường” đặc biệt
của dư luận xã hội về tác phẩm. Thông qua đó, xã hội nói lên sự mong đợi của
mình đối với sáng tác. Tiếp nhận ý kiến của những nhà phê bình trung thực, nhà
văn có thể mở rộng nhãn quan nghệ sĩ, tự điều chỉnh hoạt động sáng tác và hoàn
thiện tài nghệ của mình.
Tuy nhiên, trong điều kiện các phương tiện truyền thông đại
chúng phải cải tiến để thích nghi với thời đại thông tin, thì phê bình trên báo
chí cũng có những thay đổi quan trọng. Riêng ở phạm vi thành phố Hồ Chí Minh, với
sự quan sát còn hạn hẹp của mình, chúng tôi nhận thấy những nét thay đổi sau
đây:
Một, dung lượng các bài phê bình trên báo chí có xu hướng ngắn
gọn, dồn nén thông tin và ngôn ngữ cũng súc tích hơn. Các toà soạn báo hiện nay
hầu như không sử dụng những bài phê bình dài, phân tích toàn diện một vấn đề
hay một tác phẩm văn học nghệ thuật. Thay vào đó, họ cần những bài viết về một
khía cạnh nổi bật của tác phẩm, dễ gây ấn tượng và đáp ứng được tâm lý của độc
giả hiện thời. Những bài phê bình có tính chất hàn lâm với những thuật ngữ trừu
tượng, khó hiểu không được các báo ưa chuộng. Văn phong tinh tế, nhuần nhị cũng
không còn được hoan nghênh, trừ một vài tờ báo chuyên ngành.
Hai, giữ vai trò chủ đạo trong công tác phê bình trên các
phương tiện truyền thông hiện nay chính là những nhà báo làm việc tại chỗ,
trong số đó có một số cây bút sắc sảo và tinh tế. Họ có điều kiện và khả năng
tiếp cận thị trường văn học cũng như chủ trương của tờ báo, ý đồ của ban biên tập
và do vậy, có thể đáp ứng được tính thời sự của một bài phê bình. Sản phẩm của
họ thường thiên về những bài điểm sách, thông tin văn học. Do sự phân công của
một tờ báo có thể linh hoạt tùy theo yêu cầu công tác, nên không nhiều lắm những
nhà báo viết phê bình theo đuổi lâu dài công việc này. Hệ quả là phê bình báo
chí ít được chuyên nghiệp hóa.
Ba, báo chí của chúng ta hiện nay là tiếng nói của các cơ
quan, đoàn thể, nên một bài giới thiệu, phê bình, đánh giá được in dễ gây cho bạn
đọc ấn tượng đó là lời phát ngôn cho quan điểm của báo. Từ đó, rất hiếm khi xuất
hiện trên cùng một tờ báo những cuộc thảo luận, tranh luận với ý kiến nhiều chiều.
Để tránh va chạm với những đồng nghiệp ở báo khác và cũng do khuôn khổ trang
báo, các tờ báo thường sớm khép lại những cuộc tranh luận này khi các luồng ý
kiến chưa ngã ngũ. Thật ra đây cũng là điều dễ hiểu, vì sự đánh giá trong văn học
nghệ thuật thường không thể ngày một ngày hai mà có kết luận sau cùng được.
Những người yêu cầu cao về chất lượng của phê bình văn học và
nghệ thuật không thể bằng lòng với tình hình như vậy. Nhưng trong điều kiện hiện
nay cũng khó mà đòi hỏi nhiều hơn ở phê bình báo chí. Chẳng hạn, những cộng tác
viên viết phê bình thường muốn bài viết của mình được đăng nguyên vẹn, với đầy
đủ lý lẽ, luận điểm; nhưng người phụ trách tờ báo còn phải tính đến thói quen
và quỹ thời gian của bạn đọc đang ngập chìm trong một biển thông tin. Đó là
chưa kể áp lực từ những mối quan hệ với những người sáng tác, vốn cũng là những
cộng tác viên của báo, nhiều khi còn thân thiết hơn là những nhà phê bình.
Chúng tôi xin mạn phép nêu lên một vài kiến nghị về phê bình
văn học trên các phương tiện truyền thông đại chúng của TP. Hồ Chí Minh như
sau:
- Đài Tiếng nói nhân dân và Đài truyền hình thành phố nên mở
thêm những chương trình chủ đề về văn học nghệ thuật, trình bày những vấn đề thời
sự, giới thiệu những hiện tượng mới trong sáng tác. Có thể học tập chuyên mục
“Mỗi ngày một cuốn sách” của Đài truyền hình Việt Nam. Thời gian qua,
chương trình “Tạp chí Văn nghệ” của HTV đã trở thành một thương hiệu có sức thu
hút, nhưng thời lượng dành cho văn học quá ít so với các loại hình nghệ thuật
khác. Những chương trình như vậy cần được sự ủng hộ và tài trợ của các nhà xuất
bản, các công ty phát hành sách…
- Những tờ nhật báo xuất bản ở thành phố đều có trang “văn
hóa - nghệ thuật”, trang “thế giới sách”, trang “văn nghệ cuối tuần”. Đất cho
phê bình không quá thiếu; nhưng nếu để ý sẽ thấy các báo, trong từng thời điểm,
thường dồn sự quan tâm cho một hiện tượng “ăn khách” nào đó theo kiểu hiệu ứng
dây chuyền. Những người làm văn nghệ âm thầm lâu năm, ít có quan hệ rộng rãi,
thường nằm ngoài sự chú ý của các báo. Đặc biệt, những người hoạt động văn nghệ
trẻ vẫn còn chịu sự lạnh nhạt của các báo, nhất là khi họ không có những chuyên
viên PR đỡ đầu. Việc này chỉ có thể được cải thiện nhờ vào sự quan tâm và sự
thay đổi cách nhìn của ban biên tập và những người phụ trách văn hóa văn nghệ ở
các báo.
- Thời chiến tranh, ở Sài Gòn, dân số chỉ bằng nửa dân số hiện
nay, nhưng có lúc có đến gần chục tờ tạp chí chuyên ngành văn học hay có liên
quan đến văn học có thể chuyển tải các bài phê bình… Hiện nay, mỗi ngày nhìn
trên các sạp báo, có thể bắt gặp rất nhiều ấn phẩm định kỳ được trình bày và ấn
loát sang trọng, nhưng trong số đó thật hiếm những tạp chí văn nghệ đúng nghĩa.
Tờ tạp chí văn học duy nhất ở TP. Hồ Chí Minh là tạp chí Văn đã ngưng
xuất bản năm năm rồi mà chưa biết bao giờ mới tục bản. Thật sự là không thể
hình dung một thành phố có truyền thống và giàu tiềm năng về văn hóa như TP. Hồ
Chí Minh mà chỉ bằng lòng với năm ba tờ tạp chí phổ biến kiến thức phổ thông.
Chỉ trong khuôn khổ tạp chí thì những bài phê bình có tính khoa học, trình bày
và giải quyết tương đối toàn diện một vấn đề mới có cơ may được xuất hiện.
- Trong khi chờ đợi tạp chí Văn được tục bản, những
người có trách nhiệm ở Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật, Hội nhà văn, Tổng
công ty phát hành sách có thể nghĩ đến đề án thành lập một tờ Tin
sách ra hàng tháng. Công chúng, nhất là công chúng trẻ, cần được thông tin
kịp thời và chính xác về những sản phẩm văn hoá vừa được phát hành. Chưa nói đến
những bình luận, đánh giá sâu sắc, chỉ riêng việc thông tin đầy đủ và khách
quan cũng góp phần vào việc định hướng dư luận, giúp cho bạn đọc chọn được những
món ăn tinh thần bổ ích. Chúng tôi vẫn nhớ là cách đây khoảng 15 năm, một tờ Thế
giới sách đã ra đời và không tồn tại được lâu. Liệu bây giờ Tuần báo Văn
nghệ TP Hồ Chí Minh có thể ra một phụ san hàng tháng như vậy hay không?
- Những năm 1980, ở địa chỉ cơ quan Hội nhà văn và Liên hiệp
các hội văn học nghệ thuật hiện nay đã từng tổ chức những cuộc thảo luận về tác
phẩm mới. Hai cuốn tiểu thuyết có tiếng vang đã nhận được nhiều ý kiến nhận xét
khá phong phú lúc đó là Những khoảng cách còn lại của Nguyễn Mạnh Tuấn
và Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải. Ngoài ra còn có những buổi trao đổi
về các vấn đề thời sự trong sáng tác và lý luận văn nghệ. Về sau này những sinh
hoạt như vậy ở thành phố trở nên thưa thớt và cũng ít thu hút người tham dự, có
lẽ một phần vì công chúng đang có những mối bận tâm khác. Gần đây xuất hiện loại
hình sinh hoạt “cà-phê sách”, nhưng nội dung chủ yếu là giới thiệu, quảng bá
sách mới theo chương trình của các nhà xuất bản, nên không có nhiều thời gian để
đào sâu giá trị của tác phẩm, từ những góc nhìn khác nhau. Thiết nghĩ, với những
tác phẩm tiêu biểu được chọn lọc, nếu việc tổ chức thảo luận được chuẩn bị chu
đáo, thì sẽ có nhiều ý kiến bổ ích được thu thập và có thể công bố ngay trên
các báo hay website của Hội nhà văn thành phố. Điều này chắc sẽ kích
thích bầu không khí sáng tác và phê bình ở thành phố.
Phê bình trên các phương tiện truyền thông, như vậy, bao gồm
nhiều hình thức đa dạng mà trong điều kiện hiện nay chúng ta có thể sử dụng
linh hoạt để làm phong phú đời sống văn học nghệ thuật ở thành phố.
Như trên đã nói, cùng với sự ra đời của báo chí, phê bình văn
học đã hình thành như một khoa học, muộn hơn nhiều so với sự hình thành của các
thể loại văn học. Trong một thời gian không dài, phê bình phải vừa tìm kiếm những
phương thức để khẳng định tính khách quan và sức thuyết phục của mình, vừa phải
đính chính cho những ngộ nhận và chống đỡ với những cám dỗ của sự tầm thường
hoá. Phê bình cũng đã từng hứng chịu những sự chê trách nặng nề khi nó trở
thành công cụ của tính vụ lợi, sự đố kỵ, óc bè phái và sự đả kích cá nhân. Người
ta đã nói đến sự khủng hoảng của phê bình và đặt vấn đề rằng liệu có thể có phê
bình đích thực hay không.
Tuy nhiên, ngay khi phê bình bị nghi vấn và đặt ra những đòi
hỏi cao thì đó cũng chính là lúc người ta không thể lãnh đạm với nó. Những người
dè bỉu phê bình vô hình trung cũng là những nhà phê bình theo nghĩa rộng và
trong khi không chấp nhận một loại phê bình này, họ gián tiếp mong mỏi một loại
phê bình khác. Chưa cần nói đến sự vinh danh phê bình vì nó góp phần vào việc đổi
mới tư duy văn học; bao lâu con người còn muốn lên tiếng bình phẩm về những món
ăn tinh thần mà mình thưởng thức, bấy lâu phê bình còn có lý do để tồn tại. Nếu
phê bình không làm tròn trách nhiệm của nó, thì đó không phải là lỗi của riêng
nó mà là lỗi chung của cả nền văn học.
10/1/2011 Huỳnh Như Phương
10/1/2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét