Bên kia chiếc cầu 1
Chương 1
Dòng sông nhỏ chảy êm đềm qua làng, đúng ra chỉ là
một con rạch. Ông cha đã đào nó không biết tự bao giờ. Từ bên này
sang bên kia bờ rạch, chèo thuyền chỉ mất độ mươi phút. Nước được
dẫn từ đó vào những đám ruộng, những vườn cây.
Sơn đã lớn, ở xóm làng này, bên cạnh dòng sông nhỏ –
Sơn thích gọi như vậy. Dòng sông! Tiếng gọi đơn giản và tha thiết biết
bao nhiêu! Dòng sông già tuổi hơn Sơn, nhưng lại chậm lớn hơn. Đến mùa
đông năm nay, Sơn được mười tám tuổi. Họ hàng và lối xóm khen cậu bé
“lớn như thổi”. Nhưng dòng sông thì vẫn vậy - vẫn lặng lờ như chính
nó lúc Sơn thấy hồi Sơn còn để chỏm. Nhưng Sơn mơ hồ biết rằng trong
cái lặng lờ ấy chứa đựng cả một sức sống. Sơn biết mỗi ngày nước
sẽ mang đi một chút đất của hai bên bờ, của đáy rạch, làm lòng rạch
rộng hơn. Con rạch nhỏ rồi sẽ chảy ra dòng sông lớn. Sơn chỉ nghĩ
đến đó. Rồi thôi. Trí óc còn nông cạn quá! Nhưng trước mắt, trong
mỗi ngày của đời sống, là dòng sông.
Cũng nơi đây, Thảo Giang đã lớn. Trái với Sơn, Thảo
Giang lớn một cách nhẹ nhàng. Dáng người mảnh khảnh, nhỏ nhắn, xinh
tươi, Thảo Giang đương ở giữa một đứa bé và một người lớn. Mỗi buổi
trưa, đứa bé mang cơm ra đồng cho cha, đội chiếc nón lá lụp xụp, mặc
áo màu nâu và đi chân đất để dễ lội ruộng. Nhưng mỗi buổi chiều,
“người lớn” thư thả đi dọc dòng sông nhỏ, tóc xõa ra chấm xuống nửa
lưng, mang đôi guốc mỏng, và trên cổ phất phơ mảnh khăn màu xanh. Đó
là những lúc Thảo Giang đi lên nhà ông bác ở xóm trên, là một thầy đồ.
Không biết Giang đến đó để làm gì, chỉ biết rằng mỗi lúc cô bé đi
ngang qua trước mặt Sơn, lòng Sơn như có một nỗi xao xuyến nhỏ. Giống
như mặt nước lặng lờ của dòng sông, lúc có gió thoảng đưa ngang sẽ
gợn lên một chút sóng.
Sơn mơ ước có ngày mình sẽ tự tay đóng một chiếc
thuyền, để tha hồ đi lại trên sông. Khi Thảo Giang đi bộ một mình, Sơn
sẽ mời cô bé xuống thuyền, để đưa đi cho nhanh. Chắc chắn là Thảo
Giang sẽ nhận lời. Vì hai gia đình đâu có xa lạ gì với nhau. Cùng
một làng xóm, cùng một lũy tre, cùng một con rạch, tình láng giềng
từ đời kiếp nào vẫn thân mật. Có điều, từ khi Thảo Giang tròn tuổi
trăng, cô bé đã có vẻ giữ ý lắm. Mỗi khi đi đâu, Thảo Giang thường
cắm đầu đi thật nhanh, không dám nhìn ai – hay lại là không thèm nhìn
ai?- Sơn nghĩ như vậy. Sơn lấy làm tiếc rẻ những ngày còn nhỏ dại,
không phải e dè chi cả. Đến nay, mất nhiều dịp để nhìn ngắm Thảo Giang
rồi. Thầy đồ đã già yếu, bệnh liên miên. Bọn Sơn phải nghỉ học. Vậy
là mất luôn cả những dịp nhìn Thảo Giang rón rén đi vào sân nhà
thầy đồ. Tuổi hoa niên của Sơn tưởng như đang đến lúc ngừng lại, lặng
lẽ như mặt nước sông nhỏ chảy êm đềm qua làng.
Mùa đông sắp qua hết. Sơn bắt đầu cảm thấy chán
những buổi sớm ra đồng, những buổi trưa ngủ giấc ngắn trong chòi,
những buổi chiều nhàn rỗi đi lang thang trên bờ sông, và những đêm tối
ngồi nhìn mẹ dệt vải. Cuộc sống bình lặng đến gần như nhàm chán.
Người mẹ góa bụa có lẽ bằng lòng như thế. Nhưng Sơn chưa đến tuổi
có thể chấp nhận một cuộc sống như vậy. Cái hình ảnh to lớn nhất
ảnh hưởng một cậu bé tuổi ấu thơ đã sụp đổ. Đó là hình ảnh của
thầy đồ. Sơn không còn có ý nghĩ mong ước mình sẽ nối gót thầy đồ
để làm “kẻ sĩ” nữa. Trước mắt Sơn, bây giờ chỉ còn một thầy đồ ốm
yếu, bệnh hoạn, nằm mòn mỏi với mớ chữ nghĩa nửa đường. Và mảnh
sân vuông lúc trước lố nhố bọn trẻ, bây giờ cô quạnh biết bao! Ta sẽ
như thầy đồ chăng? Không! Có lý nào!... ta không mơ làm “sĩ” nữa. Sơn
đã nhận ra một điều rõ rệt, là Sơn đang khát khao một cái gì mới
mẻ đến trong đời sống lặng yên này, một cái gì thật khích động để
phá tan sự nhàm chán trong sinh hoạt của mình. “Cái gì đó”…, không
phải là tiếng trống nổi lên dồn dập giữa sân đình, hay tiếng pháo
nổ dòn trong những đám cưới. Sơn, mỗi chiều, dõi mắt nhìn sang bên
kia bờ sông với niềm háo hức. Sơn đã qua đó một vài lần. Không có
gì khác hơn bên này. Bước lên bờ sẽ gặp ngay những vườn cây trái.
Nhưng niềm háo hức không phải ở đó. Sơn mơ hồ cảm thấy rằng, qua
khỏi những mảnh vườn ấy, chắc sẽ có những điều thú vị hơn. Là một
cánh đồng bát ngát, là một dãy núi, hay là một chân trời?...
Vườn cây trái bên kia bờ sông là vườn của ông Bá Huê.
Nó lại là ranh giới của làng. Đó là hai lý do ngăn cản lũ trẻ nít
không được lai vãng nơi ấy. Thường những kẻ được qua vườn là các gia
nhân của ông Bá Huê sang để bón cây vun trái. Mỗi mùa vườn cây trổ hoa
rồi đậu trái, toàn những trái quý. Ông Bá Huê sai người hái trái để
đem “tiến” lên tận kinh đô. Danh vọng của ông cứ nhờ đó mà lên. Và
vườn cây bên kia sông cũng vì thế mà trở thành khu vực bất khả xâm
phạm. Sơn không buồn mơ chèo thuyền qua đó, nhưng niềm mong ước cứ theo
ánh mắt của Sơn chiếu thẳng sang cái màu xanh đậm bên kia bờ, như
muốn xuyên thủng những cành lá dày đặc để nhìn thấu chân trời phía
sau. Nhưng chỉ đến đó, tia mắt phải ngừng lại. Và niềm mong ước không
lớn được nữa. Sông vẫn lặng lờ đời sông. Người vẫn bình yên đời
người. Buổi sáng ra ruộng, trưa ngủ giấc ngắn trong chòi, và chiều
chiều ngóng mắt nhìn theo bóng Thảo Giang phất phơ chiếc khăn xanh đi
lên xóm trên. Đôi lúc Sơn đánh bạo, gọi Thảo Giang lại, hỏi vẩn vơ
mấy chuyện. Cô bé cũng ngừng lại, trả lời Sơn. Nhưng cô bé không bao
giờ nhìn ngay mặt Sơn. Mảnh khăn xanh là phương tiện duy nhất để Thảo
Giang che đôi má ửng hồng. Rồi cô bé quày quã bước nhanh, để lại
trong mắt Sơn một đôi mắt đen láy ngộ nghĩnh. A, trong đôi mắt ấy là
cả một dòng sông, là cả một vườn cây, là cả một đồng lúa…. Là cả
một thời thơ ấu vui tươi, của Sơn, của Thảo Giang, của bọn trẻ nhỏ ở
xóm làng này. Sơn chưa biết mình nghĩ gì về Thảo Giang, nhưng dường
như đôi mắt vừa dịu dàng vừa lanh lẹ đó mỗi lúc đi qua là để lại
cho Sơn một niềm mơ ước.
Đến một hôm ông Bá Huê huy động dân làng làm một
chiếc cầu bắc ngang dòng sông nhỏ. Lý do thật giản dị là ông Bá
không muốn mất thì giờ và nhân lực mỗi khi phải qua vườn bằng
thuyền. Chiếc cầu được làm bằng ván, chiều ngang vừa hai người đi.
Có tay vịn bằng ống tre, nhưng kiên cố lắm, vì những chân cầu được
chôn sâu xuống đáy rạch. Ngót một tuần lễ, chiếc cầu được hoàn tất.
Những người nhân công làm việc trong vườn cây của ông Bá Huê có thể
qua sông bằng chiếc cầu ấy. Lũ trẻ có thể leo lên cầu chơi, nhưng chỉ
đến đó, không được qua vườn.
Sơn cũng thích lên chiếc cầu ấy, đứng nhìn xuống
dòng nước. Nước có lúc xanh rì như màu mạ, có lúc đen thẫm lại như
chứa đựng trong nó những điều huyền bí. Trí tưởng tượng của cậu bé
cũng theo đó mà tăng dần. Nhưng cái màu xanh dày đặc bên kia bờ vẫn
không mỏng được một chút nào. Chiếc cầu từ sau khi làm xong, trở
thành một nơi cuốn hút bọn trẻ lớn. Nhưng cũng sau khi có chiếc cầu,
đôi mắt Thảo Giang đã u buồn như một cánh rừng hoang. Bởi cha của cô
bé, một đêm tối trời, đã ra đi và biệt tích không còn trở về làng.
Chương 2
Sơn vứt cọng cỏ chỉ xuống dòng nước. Cọng cỏ yếu
ớt từ từ chảy xuôi theo cùng với những chiếc lá, những mảnh bèo
con. Tự nhiên Sơn nghe nao nao trong lòng. Nước đã đổi sang màu đen
thẫm. Chiều sắp tắt. Lũ trẻ không còn ở đây. Mẹ của Sơn chắc giờ
này cũng đã về nhà. Đêm sẽ xuống với ngọn đèn dầu leo lét. Tiếng
khung quay sẽ cất lên như hòa nhịp với đời sống. Sơn nhắm mắt lại.
Có một ngày nào ta sẽ xa rời nơi này không? Ta không mong như vậy.
Nhưng mơ hồ cảm thấy vẻ thanh bình ở làng thôn này có một cái gì
giả tạo quá. Ta biết mơ ước gì? Những người trai tráng đã lớn lên,
tiếp tục công việc ruộng vườn của ông cha, và sẽ có vợ, có con. Rồi
họ sẽ già, sẽ nằm xuống bên cạnh ngôi nhà của họ, hoặc trong mảnh
vườn, hoặc giữa cánh đồng ngập nước. Sơn cũng vậy chứ? Vì đó là
lề lối, là mơ ước muôn đời của những người sống sau lũy tre này. Sơn
còn biết mơ ước gì hơn?
Sơn nghe có một làn gió nhẹ thoảng qua, dường như có
đưa theo mùi hương của lúa. Sơn mở mắt, thấy mình vẫn đang đứng ở
trên cầu. Nhưng theo sau làn gió ấy, là Thảo Giang. Thảo Giang sắp đi
ngang qua mặt Sơn. Cô bé lên cầu làm gì? Chừng như bước chân của Thảo
Giang bắt đầu luống cuống khi cô bé thấy Sơn đứng giữa cầu. Chiếc
khăn xanh không có ở trên cổ. Thảo Giang chỉ còn biết đưa tay nắm một
nhánh tóc che ngang má, và cắm đầu bước nhanh. Nhưng đúng lúc Thảo
Giang đi ngang qua mặt Sơn, thì chiếc guốc mỏng bị vấp một mắc gỗ
của ván cầu làm Thảo Giang lảo đảo suýt ngã. Sơn vội vàng đưa tay
đỡ lấy cô bé, một cách không chủ ý. Thảo Giang kêu lên một tiếng
nhỏ, rồi ngượng nghịu quay đi.
Sơn bỗng nhiên có cảm tưởng mình vừa mới làm một
điều gì sai. Đôi mắt u buồn của Thảo Giang như đang có một chút long
lanh. Chừng như cô bé sắp khóc.
- Thảo Giang qua bên đó hả?
Đôi mắt Thảo Giang liếc nhìn qua phía vườn cây, cô bé
ấp úng:
- Dạ… dạ… ông Bá nói em qua vườn, ông cho một ít
nhãn.
Sơn ngạc nhiên:
- Chi vậy?
- Dạ… không biết.
Sơn muốn nói một điều gì, nhưng thôi. Sơn cũng vừa
nhận thấy mình tò mò hơi quá. Thảo Giang cũng sẽ không nói gì hơn
là những câu thưa dạ. Sơn mỉm cười:
- Thảo Giang đi đi nhé!
- Dạ.
Rồi Thảo Giang tiếp tục đi. Sơn ngơ ngẩn mấy giây, và
tự hỏi không biết tại sao ông Bá Huê giàu có và keo kiệt hạng nhất
trong vùng lại cho một gia đình nông dân tầm thường những trái cây quý
nhất của vườn ông? Một chút nghi ngờ thoáng qua trong trí Sơn. Đợi cho
chiếc bóng mảnh mai của Thảo Giang khuất sau cổng vườn, Sơn nhẹ bước
đi theo.
Hết cây cầu, Sơn vào được trong vườn. Không thấy người
gác vườn già nua mọi ngày thường la mắng bọn trẻ nít lân la nghịch
ngợm. Sơn nhìn quanh, và thấy Thảo Giang đứng cách mình độ mươi
thước. Trước mặt Thảo Giang, còn có một người nữa. Sơn rón rén bước
tới nấp sau một thân cây to. Người lạ mặt trong vườn là một thanh
niên, có lẽ lớn hơn Sơn độ ba, bốn tuổi. Hắn mặc áo gấm màu xanh
lục nhưng lại mang giày tây, đang nhìn Thảo Giang bằng đôi mắt ti hí
như muốn biến mất dưới cặp lông mày đen rậm.
- Cô Thảo Giang, đây là vườn nhà của tôi. Cô cứ tự
nhiên muốn hái thứ gì thì hái.
Ở đàng kia, Thảo Giang đương luống cuống, không biết
nói gì. Tên thanh niên cười hề hề:
- Nè, cô Thảo Giang, có nghe tôi nói gì không?
Thảo Giang ấp úng:
- Dạ nghe, nhưng … thôi… xin phép cậu, tôi phải về.
Tên thanh niên ngăn lại:
- Kìa! Cô Thảo Giang cứ hái trái cây đem về cho bác
gái dùng để mau khỏi bệnh.
- Thưa cậu thôi ạ. Tại… tại vì ông Bá nói lắm, tôi
phải đến đây, sợ cãi lời thì mang tội. Nhưng tôi không dám… không dám
tự tay hái trái đâu. Xin phép cậu… cho tôi về.
- Nè, cô Thảo Giang!...
- Thưa cậu, sắp tối rồi…
Gã thanh niên cười thật nham nhở. Dường như đàng kia
Thảo Giang sợ hãi lắm. Thảo Giang lùi lại mấy bước. Gã thanh niên
thót lên ngồi trên một cái cây to và thấp, như thản nhiên trước vẻ run
sợ của Thảo Giang. Cô bé quay lưng đi. Gã thanh niên gọi:
- Lại đây, Thảo Giang!
Tiếng gọi của gã vang dội trong vườn cây âm u. Thảo
Giang chợt bỏ chạy. Đôi chân của cô bé cuống quít giẫm trên lá khô
nghe xào xạc. Gã thanh niên phóc xuống, chạy theo. Ba bước của gã
thật dài. Và hắn nắm được tay của cô bé. Thảo Giang kêu rú lên, mặt
xanh mét. Cô bé như không còn đủ sức để vùng chạy, chực khóc òa.
Sơn rời gốc cây, phóng ra chận trước mặt gã thanh
niên. Máu nóng dồn bừng bừng trên da, Sơn hét lên:
- Buông người ta ra!
Gã thanh niên trố mắt nhìn Sơn. Tên công tử chẳng mấy
khi ra khỏi nhà ấy không biết Sơn là ai. Nhưng sự hiện diện của Sơn ở
đây là một chuyện trái phép. Hắn gầm gừ:
- Mày… là thằng nào?
- Không cần biết. Tôi bảo anh thả Giang ra.
Rồi không đợi tên kia nói gì, Sơn dùng hết sức mình
đẩy hắn ra. Thảo Giang vuột ra khỏi tay hắn. Sơn la lớn:
- Thảo Giang, chạy đi!
Thảo Giang cắm đầu chạy ra khỏi cổng. Gã thanh niên
tức tối sấn đến, đấm Sơn một quả. Nhưng Sơn né người tránh được và
bồi trả lại cho hắn ta một quả. Cái đấm trúng ngay mũi tên con trai
làm hắn ta kêu lên đau đớn. Sơn biết mình sẽ không yên với tên này nếu
cứ nấn ná ở đây, nên Sơn phóng người chạy đi. Tên nọ rượt theo. Sơn
chạy đến giữa cầu. Một ý nghĩ hiện nhanh trong trí. Sơn nhảy ùm
xuống nước. Trên cầu, tên thanh niên lúng túng với bộ y phục màu xanh.
Sơn đã lặn mất tăm dưới làn nước in màu xám thẫm của trời chiều.
Tên nọ chỉ còn biết kêu to “Ăn trộm, ăn trộm”… Và đợi đến khi có
người chạy đến, thì mặt nước đã trở lại yên lặng như tờ…
Sơn nấp dưới đám lau lách, chờ lúc trời thật tối
mới leo lên. Ở chỗ này là bờ ruộng, khá xa xóm nhà. Không còn ai ở
ngoài đồng. Thấp thoáng đàng trước, ánh đèn từ các mái tranh là
những đốm sáng nhỏ xíu. Sơn cởi chiếc áo, giũ những cọng cỏ lau và
rác rến, rồi lấy vẻ thư thả đi ngõ tắt về nhà.
Mẹ Sơn trố mắt khi nhìn thấy con trai vẹt những cành
cây bước vào vườn sau. Bà ngạc nhiên hơn nữa khi thấy áo quần của Sơn
ướt lem nhem. Bà kêu lên:
- Sơn! Con sao vậy?
Sơn đưa ngón tay trỏ lên môi, rồi bước nhanh vào nhà
để thay đổi bộ quần áo. Khi trở ra, Sơn thấy mẹ vẫn còn đứng bên
cạnh đống rơm rạ dùng để lót ổ cho gà. Người mẹ đưa mắt nhìn con,
có vẻ thắc mắc:
- Ban chiều mẹ nghe ở gần xóm trên có ăn trộm vào
vườn nhà ông Bá. Mà người ta bắt không được, vì tên trộm nhảy xuống
nước mất dạng. Hình như ở đâu chỗ cây cầu thì phải.
Sơn mỉm cười:
- Họ có nhìn mặt tên trộm được không mẹ?
- Chắc là không. Khi dân làng chạy đến thì có thấy
gì đâu!.. Nhưng nè Sơn, tại sao quần áo của con lại ướt mèm vậy? Mà
tại sao con lại đi ngả sau?
Sơn giật mình, ngó quanh như sợ có người nghe được.
Sơn kéo mẹ vào nhà, đóng cửa lại và kể hết cho bà nghe chuyện xảy
ra ban chiều. Người mẹ lo lắng:
- Nhưng liệu con có yên với thằng con ông Bá Huê không?
Thật khổ! Động vào kẻ có thế lực là có mà đeo gông con ạ!
- Mẹ đừng sợ. Chỉ có một mình hắn thấy mặt con.
Hắn không biết nhà mình đâu. Con sẽ tránh gặp hắn, thế là xong.
Mẹ Sơn thở dài:
- Đừng có đi lên cầu nữa. Thế nào hắn cũng lưu ý
chỗ đó.
- Dạ.
- Ra ruộng cũng vậy, đội nón để che mặt bớt đi. Hắn
mà thấy được thì khổ đó con à.
Hai mẹ con lặng im. Mẹ Sơn dọn cơm lên chiếc chõng tre.
Sơn uể oải ăn cơm như chưa bao giờ cảm thấy chán ngán như vậy. Cái
giây phút làm anh hùng đã qua, qua thật mau. Sơn được làm một “hiệp
sĩ vì dân trừ bạo” thật chớp nhoáng. Bây giờ ngồi trước mâm cơm hẩm,
Sơn thấy mình trở lại là một cậu bé tầm thường. Ngày mai không còn
được bước chân lên chiếc cầu nữa, cái hình phạt ấy tự mình phải
đặt ra nếu không muốn nạp mạng cho ông Bá Huê. Ngày mai ra ruộng cũng
phải đội nón sụp xuống che bớt mặt lại, chắc cũng ít có cơ hội
ngửa mặt nhìn trời xanh mây trắng. Miếng cơm dừng lại ở cổ. Sơn cố
nuốt, và chợt liên tưởng đến Thảo Giang. Thảo Giang xinh xắn quá, và
cũng yếu ớt quá. Nếu ngày mai, ngày mốt, tên con trai ông Bá Huê kia
tìm đến nhà Thảo Giang để chọc ghẹo, làm sao Sơn dám vào can thiệp?
Đụng mặt với hắn lần nữa, chắc sẽ không thoát. Ôi Thảo Giang! Nỗi mơ
ước đã trôi xa như cọng cỏ chỉ ban chiều rồi chăng?
Đêm tối chan hòa khắp mảnh vườn khi bữa ăn đã xong,
và ngọn đèn dầu được khêu lên sáng thêm. Sơn đứng một mình trong
vườn, lặng nghe tiếng khung cửi của mẹ quay đều. Ở xung quanh , nghe
mùi nồng của rạ. Đống rơm rạ phơi ở sân mấy ngày nay rồi. Công việc
của Sơn cho ngày mai là bó rơm lại, chất vào bếp để dành chụm lửa.
Cái công việc phụ nhỏ nhặt của một nông dân là như thế, xem ra cũng
quan trọng lắm. Hầu hết nhà dân nghèo ở đây đều đun bếp bằng rơm,
hiếm có nhà dùng củi. Cũng như nhà cửa chỉ lợp mái bằng tranh, đắp
vách bằng đất. Nhà gạch, nhà ngói chỉ tìm thấy dăm ba cái, như nhà
ông Bá Huê. Và cũng như tất cả những của ngon vật lạ đều phải đem
“tiến” cho vua dùng. Dân quê chỉ biết đến cơm gạo. Đời sống như thế
đã là thái bình lắm.
Sơn ngồi xuống nền đất, cầm một nắm rơm lên. Sơn cảm
thấy lòng không yên ổn. Trong vườn có tiếng ễnh ương kêu đâu đó, dưới
bụi lau, hay sau ao nước. Sơn thở dài, nghe tiếng mình hòa vào đêm
tịch mịch. Nhịp sống sẽ đều đều như thế này, hay từ ngày mai sẽ có
một điều gì đổi khác?...
Chương 3
Cọng sắt ngời sáng trong tay Sơn, phiến đá mài đã
phủ đầy bụi kim khí óng ánh. Sơn vuốt nhẹ cọng sắt, nghe nóng lên
như da thịt của chính mình. Sơn giắt thử vào thắt lưng, rồi đứng
dậy, Sơn mỉm cười. Ta sắp thành một Kinh Kha hay một tráng sĩ nào
đây? Sơn đấm mạnh vào không khí, tưởng như có tên thanh niên con ông Bá
Huê trước mặt. Sơn thu tay về, rút cọng sắt ra, và phóng vào cây
chuối. Phập! Cọng sắt dài hai tấc đã lút gần hết vào thân cây
chuối. Cùng với lúc Sơn cất giọng cười khoái chí, Sơn nghe một tiếng
rú nhỏ đàng sau lưng.
Sơn quay lại. Thảo Giang! Cô bé đang ôm lấy cột cửa,
mặt tái xanh. Sơn ngạc nhiên một chút, rồi vội vàng chào hỏi:
- Thảo Giang qua chơi à?
Cô bé chưa hết run sợ, nói:
- Dạ.. Anh Sơn làm gì ghê quá vậy?
- À, à… tôi tập phóng dao.
Rồi Sơn bước tới rút cọng sắt ra khỏi thân chuối, đưa
ra trước mặt. Thảo Giang rùng mình, nói:
- Đâu phải con dao! Cái dùi…
Sơn sáng mắt lên:
- Ừ đúng rồi, cái dùi! Cái dùi!
Thảo Giang nhìn Sơn, lộ vẻ thắc mắc. Sơn vuốt tay trên
cái dùi, nói:
- Nó chỉ là cọng sắt nhỏ, nhưng được mài rồi, thành
cái dùi. Thảo Giang biết tôi mài nó trong bao lâu không? Ba ngày đó!
- Để làm chi vậy?
- Để tôi…
Sơn định nói tiếp, rằng để tôi giắt ở trong lưng, để
tôi có thể ung dung đi lên cầu, đi thăm dòng sông của tôi. Để tôi có
thể ra đồng mà không phải đội nón che bớt mặt. Để tôi có thể sang
thăm bác và Thảo Giang mà không sợ ai dòm ngó. Để tôi gặp thằng con
ông Bá Huê, tôi trị tội hắn… Nhưng nhìn thấy đôi mắt Thảo Giang hiền
dịu quá, Sơn không nói nữa. Sơn chỉ là một đứa bé. Thảo Giang cũng
chỉ là một đứa bé. Cả hai đều lớn lên ở thôn làng này. Hai gia đình
biết nhau từ con rạch này. Chưa có cha mẹ ai dạy con sự thù hằn cả.
Sơn nghĩ thế rồi đem cái dùi cùng phiến đá mài cất vào góc bếp.
Thảo Giang đứng ở ngưỡng cửa, dáng nhỏ nhắn như một
con mèo. Khi Sơn quay ra, Thảo Giang hỏi:
- Anh Sơn, chiều nay anh không ra sông hở?
Sơn đứng thẳng người, thở dài:
- Không. Từ bữa đó, tôi đã không còn lên cầu nữa.
- Thảo nào…mỗi chiều Giang không thấy anh ở đó.
- Thảo Giang vẫn đến nhà thầy đồ?
- Dạ.
- Thầy tôi hết bệnh chưa?
Thảo Giang lắc đầu:
- Dạ… Thầy vẫn vậy, không thuyên giảm.
Sơn ngồi xuống một thân cây chuối mới đốn, nói:
- Thảo Giang qua đây, có xin phép bác gái chưa?
- Dạ rồi. Mẹ Giang nói Giang qua thăm bên này, cám ơn
anh đã…
- Đừng, Thảo Giang! Tôi không phải là hiệp sĩ. Tôi
cũng nhát gan như bao đứa con trai khác.
Thảo Giang lộ vẻ xúc động, giọng cô bé run run:
- Hôm ấy nếu không có anh Sơn, chắc Giang chết mất.
Sơn cười nhẹ:
- Tôi còn nhiều điều băn khoăn chưa hiểu… Nếu Thảo
Giang không ngại gì, Thảo Giang ngồi chơi, cho tôi hỏi…
- Dạ…
Thảo Giang ngồi xuống ngưỡng cửa, e dè xoắn xoắn vạt
áo nâu. Chiếc khăn xanh không có ở trên cổ.
Lặng yên một lúc, rồi Sơn nói:
- Có thật ông Bá Huê… muốn biếu nhãn cho bác gái hôm
đó không?
Thảo Giang gật đầu
- Thật. Mẹ Giang bệnh, Giang đến xin ông Bá cho mẹ
nghỉ cấy. Ông ấy tỏ vẻ lo lắng lắm, bảo Giang chiều đó tới vườn,
ông cho trái cây. Giang không bao giờ muốn nhận nhưng ông Bá nói như vậy
là phải tội. Giang đến đó, không ngờ chỉ gặp tên Hộ con của ông ấy
thôi.
Sơn nhíu mày:
- Ông ta có thâm ý gì?
Thảo Giang cúi đầu đáp nhỏ:
- Ông Bá muốn mẹ Giang… gả Giang cho tên Hộ…
- À ra thế!
Sơn thốt lên rồi lặng im, đưa tay hờ hững nhặt mấy
cọng rơm vương vãi trên đất. Sơn nghĩ đến cái dùi, mới mài có ba
ngày… Sơn buồn cười cho cái sự trẻ con của mình. Dễ dầu gì Sơn dám
đối diện với tên Hộ, nói chi đến chuyện dùng cây dùi để tấn công hay
hăm dọa hắn. Người lớn khôn ngoan hơn, đã nói chuyện với nhau trước
rồi.
Khi Sơn ngước lên, thấy Thảo Giang đăm đăm nhìn ra phía
ao nhỏ. Đôi mắt Thảo Giang buồn rười rượi. Sơn bồi hồi hỏi khẽ:
- Này Thảo Giang, bác bên nhà … có bằng lòng không?
- Bằng lòng việc gì?
- Thì… thì việc tên Hộ đó.
- Giang còn nhỏ, mẹ Giang chưa tính gì hết. Mà nếu
có, thì cũng không phải là với thằng cha nham nhở hôm ấy.
- Bác gái không sợ ông Bá Huê dùng thế lực để ép
buộc sao?
Thảo Giang rắn giọng lại:
- Cha của Giang đã dặn… không bao giờ làm thân với gia
đình ông Bá Huê.
Sơn giật mình, chợt nhớ đến cha của Thảo Giang. Người
nông dân hiền lành ít nói ấy, sau hôm hoàn thành cây cầu đã bỏ nhà
đi biệt. Sơn muốn hỏi Thảo Giang về sự việc khó hiểu ấy. Nhưng đôi
mắt u uẩn kia như sa sầm hẳn lại, như không muốn nói thêm một điều gì
nữa.
Thảo Giang đứng lên, sửa lại vạt áo, nói:
- Nhưng chuyện đó không quan trọng bằng chuyện sắp tới
đây.
- Chuyện gì vậy Thảo Giang?
- Bác của Giang trở bệnh nặng lắm. Hôm nay bác muốn
gặp tất cả những người học trò.
Sơn hoảng hốt:
- Thật vậy sao? Tôi phải đến thăm Thầy ngay.
- Anh Sơn, nhờ anh nói giùm với các anh khác nhé.
- Được rồi. Thảo Giang cũng sẽ qua đó chứ?
- Dạ. Mẹ Giang bảo tối nay Giang ở lại bên bác để
sắc thuốc. Lương y nói… chắc là bác không qua khỏi đêm nay.
- Vậy Thảo Giang đến Thầy trước nhé! Tôi đi gọi mấy
anh bạn rồi sẽ đến sau.
Thảo Giang “dạ”, rồi chào Sơn để đi. Còn lại một
mình Sơn trong sân vườn, Sơn lại nghĩ đến cái dùi, nghĩ đến cảnh
nhàn rỗi của mình bao ngày nay. Thầy đồ sắp chết! Cái hình ảnh
thần tượng to lớn của Sơn đã lu mờ từ mấy tháng nay, bây giờ lại
sắp biến mất. Thầy đồ chết, bọn Sơn sẽ không còn ai dạy dỗ cho dăm
mớ chữ nghĩa, hòng đi thi Hương, thi Hội. Sơn sẽ hoàn toàn là một
nông dân, sẽ lớn lên và nối tiếp cuộc sống của ông cha. Sơn sẽ như
Tùng, như Huệ, như Đại… mãi mãi là những người thấp cổ bé miệng.
Có phải đời sống đã sắp bày như thế rồi chăng?
Sơn sửa lại quần áo cho chỉnh tề, khép cửa lại, cài
then, rồi ra khỏi cổng nhà. Trời bây giờ đã nhá nhem tối. Tiếng ễnh
ương kêu vang dưới những rãnh nước như bao ngày vẫn đều đặn hòa điệu
buồn chốn thôn quê.
° ° °
Nhà thầy đồ ở tận xóm trên. Khi Sơn cùng ba người
bạn vào đến cửa, đã thấy ngọn đèn dầu được thắp sáng trong nhà.
Mảnh sân vuông lúc trước dùng làm nơi học hành của bọn trẻ, bây giờ
vắng ngắt, trơ trơ mấy chậu kiểng xơ xác. Bốn người bước vào nhà,
đã thấy có sáu, bảy người học trò nữa đứng ngồi bên giường của
thầy đồ. Chén thuốc để trên bàn còn đầy, nhưng cái cơ thể dẹp lép
của người nằm trên giường như không còn cần đến sức sống.
Nước mắt Sơn dâng đầy tròng. Sơn bước tới, khe khẽ
quỳ bên chân giường. Đôi mắt thầy đồ nhắm kín lại như người ngủ say,
nhưng những nhịp thở đứt quãng, mệt nhọc chứng tỏ thầy đang gắng
sống những giây phút quý giá nhất.
Thầy đồ cựa mình, mở đôi mắt trắng đục một lát rồi
hỏi thều thào:
- Ai đây?
Sơn cầm lấy bàn tay của thầy, run run nói:
- Thưa thầy, Sơn đây ạ.
- Đứa nào nữa?
- Thưa thầy, có anh Tùng, Huệ và Đại.
Người bệnh cố gắng nhấc đầu dậy để nhìn kỹ mấy người học trò,
nhưng rồi phải nằm trở lại để thở dốc. Sơn thấy se thắt cả lòng, vừa vuốt ngực
cho thầy, vừa ứa nước mắt. Cái cảnh này, Sơn đã thấy cách đây ba năm, khi cha của
Sơn lâm bệnh. Người nông phu chết đi, để lại cho vợ con một mảnh vườn nhỏ và
ngôi nhà xiêu vẹo. Cái cày và con trâu, theo công nợ mà bán cho người. Mẹ con
Sơn phải đi cấy mướn. Nay nhìn thầy đồ nằm thoi thóp, Sơn tự hỏi thầy sẽ để lại
gì cho bọn học trò nửa đường này? Cái ước mơ làm kẻ sĩ chắc sẽ tàn lụi theo
ngày tháng. Sơn thương thầy, nhưng cũng nghe thương thân, Sơn muốn khóc ròng
như một đứa bé.
Đại cất tiếng khẽ:
− Thưa thầy, xin thầy rán uống miếng thuốc…
Thầy đồ xua tay, cười héo hắt:
- Khỏi con! Thầy không còn sống bao lâu nữa… Chắc sẽ không
qua khỏi đêm nay.
Đám học trò có người khóc tấm tức. Thầy đồ thở dài:
- Gặp mặt đông đủ các con đây, thầy vui mừng lắm… Nhưng lại
thương các con làm sao! Thầy chưa mãn nguyện vì… Thầy còn thiếu trách nhiệm với
các con.
Sơn lại vuốt ngực cho thầy, nói:
- Thưa thầy, con xin thầy nằm nghỉ.
- Thầy còn khoẻ lắm các con ạ. Thầy muốn nói với các con rằng…
thầy rất ân hận vì đã không dìu dắt các con đến nơi đến chốn. Xóm làng ta chưa
có ai làm rạng rỡ hết. Mà thầy thì…
Nghe tiếng sụt sùi trong đám học trò, thầy đồ ngừng lại, đảo
mắt yếu ớt nhìn quanh, rồi thều thào:
- Đừng khóc các con! Cái kẻ đáng khóc phải là thầy đây. Thầy
phải khóc vì sự bất lực của thầy. Còn các con, các con chưa mất hy vọng đâu!...
Hãy lại đây, nghe thầy nói… Cái ngọn đèn nào lúc sắp tắt cũng phải bùng lên. Thầy
đã đến những phút cuối cùng rồi!
Bàn tay thầy đồ giá lạnh trong tay Sơn. Sơn tưởng thầy sắp chết
sau một giây nữa thôi. Nhưng không, đôi mắt trắng đục, giương to lên, như muốn lôi
kéo tất cả những tinh anh của thời trai trẻ trở về. Thầy đồ nói tiếp:
− Nếu thầy không nói cho các con nghe những điều mà thầy được
biết thì khi chết đi thầy sẽ đắc tội với trời đất. Các con sống ở xóm làng này,
trăm sự đều tùy thuộc vào làng xã và mấy tên bá hộ trọc phú. Các con có biết gì
ngoài cái vốn liếng eo hẹp của các con đâu. Chỉ có thầy, biết mà không làm gì
được, thì thật là vô lý nếu thầy giữ kín mà đem xuống lòng mộ.
Đám học trò nhìn nhau ngơ ngác. Cái điều gì mà quan trọng đến
nỗi một người già nua quên mất sự trối trăng thông thường về gia tài của mình,
về ngôi mộ, về chiếc quan tài mà mình sẽ nằm trong ấy?
Sơn kéo tấm chăn bông đắp lên tận ngực của thầy đồ, che kín
thân hình còm cõi đang run rẩy của thầy. Thầy nói:
- Cái điều đau đớn trọng đại như thế mà không ai biết. Còn những
kẻ biết thì ngậm miệng không dám nói. Nhưng một kẻ sắp về chầu Phật… như thầy
đây, phải nói để các con liệu mà sống.
Sơn kê miệng gần tai thầy đồ, nói:
- Xin thầy dạy cho. Chúng con nghe đây.
- Các học trò của thầy! Các người trai trẻ ưu tú đây! Biết gì
không? Mảnh đất mà các con đang sống, đã thuộc vào tay giặc rồi! Thầy đau đớn
biết bao khi phải nói như vậy. Cái hòa ước khốn nạn đã đem dâng ba tỉnh Nam Kỳ
cho giặc Tây. Thế mà các con, dân quê ngu muội, có biết gì không?
Một giọt lệ lăn từ khoé mắt già nua xuống gò má của thầy
như nước thấm xuống nền đất nứt nẻ cằn cỗi. Thầy đồ nghẹn ngào:
- Trong lúc giặc đang khiếp vì sự kháng cự của dân ta, thì
vua quan ta lại e sợ súng ống của giặc. Trong lúc giặc không ngờ là có sự hòa
hoãn, thì ta lại bằng lòng ký giấy cắt đất. Cái tin đau buồn ấy, thầy biết từ
mùa hè. Nhưng có biết làm gì hơn? Thầy bệnh hoạn, sắp chết, bất tài… Còn lũ trẻ
các con sống trong cái làng hẻo lánh này, bị bao kín bằng lũy tre xanh này, làm
sao biết được rằng khắp nơi dân chúng đang phẫn nộ. Người ta đã kết nạp nhau
thành nghĩa quân, chống Pháp để giành lại đất. Còn chúng ta ở đây, đời sống còn
yên lành quá! Nhưng… một mai, giặc sẽ đến. Rồi các con có yên không? Thầy nói
thế để các con biết trước mà liệu. Đời bình yên rồi cũng sẽ không còn.
Thầy đồ ho một tràng, người mệt lả như muốn ngất đi. Sơn vuốt
ngực cho thầy. Mấy người con trai phía sau quỳ hết cả xuống đất. Ai cũng nghe
rõ tiếng gió đông rít lên ngoài vách nứa. Ngọn đèn dầu dường như hơi lao chao
ánh lửa. Không gian chợt yên lặng như cảm thông với nỗi u uất của một người tuyệt
vọng.
Giây lát sau, thầy đồ lại sức, tiếp tục trối trăng với đám học
trò:
- Thế hệ của các con, không phải là thế hệ của thầy nữa. Đừng
bắt chước mẫu người của thầy. Cái học nhà nho chỉ giúp ta sống cho phải đạo người,
biết rõ lẽ trời… quý giá lắm! Nhưng không còn thực tế để giúp ta cứu nước. Trước
kia thầy mong các con thành Tú Tài, Cử Nhân. Nhưng từ ngày nghe tin chua xót ấy,
thầy thấy một điều rõ rệt là thầy không còn mong như vậy. Các con hãy làm một
cái gì khác. Thầy muốn nói rằng… khác với hình ảnh con người khoa bảng, mơ ước
áo rộng khăn to mà bao lâu nay người ta đã vẽ.
Mười đứa học trò yên lặng. Sơn đưa tay vặn ngọn đèn dầu cho
sáng thêm. Một chút rạng rỡ hiện trên gương mặt thầy đồ. Giọng thầy trầm xuống:
- Các con hiểu thầy nói gì không? Điều khổ sở nhất của thầy,
thầy đã nói hết. Các con còn trẻ lắm, gắng mà tranh đấu để giữ ruộng, giữ làng.
Giặc đã nắm quyền cai trị ta ở trên giấy tờ. Thì sớm muộn gì chúng cũng sẽ đến
đây. Lúc đó nhà tan cửa nát. Đau khổ lắm các con ơi! Giặc có súng ống tối tân,
nhưng không phải vì thế mà ta khiếp sợ. Ta có tre vót thành mác, có sắt mài
thành dùi….
Sơn giật mình. Thầy đồ vừa nói một điều rất khích động. Sơn
đã thấy rồi! Cái đó có thể làm Sơn nghe máu trong tim cuồn cuộn, không phải tiếng
trống dồn dập nổi lên giữa sân đình, hay tiếng pháo nổ dòn trong những đám cưới.
Mà là lời của thầy vừa nói đó! Cái màn tối ngu muội đang được xé rách giữa tâm
hồn Sơn. Ta có tre vót thành mác, có sắt mài thành dùi! Sơn đã mài sắt bao
nhiêu ngày. Sắt chưa nhọn, nhưng bây giờ lửa hăng hái đã bén. Sơn nhìn thầy đồ.
Bỗng nghe tim đau nhói. Ôi, thầy của con, người sinh đồ nho nhã một đời, tưởng
yếu ớt như cọng cỏ, không ngờ mang trong lòng cả một nghĩa khí to lớn.
Những tiếng ho làm giọng thầy đồ đứt quãng:
- Tội nghiệp các con!... Sống mà không biết là mình sống… Nô
lệ mà vẫn tưởng là được… thái bình. Cái lũy tre đã che mắt các con… Không thấy
sông rộng, không thấy núi cao, sao gọi là con trai cho được!...
Thầy đồ thở hổn hển, nước mắt sống chảy ràn rụa xuống hai gò
má xương xẩu. Đợi cho cơn ho của thầy dứt, Đại ra hiệu cho anh em đứng lên, rồi
nói nho nhỏ:
- Chúng mình hãy ra ngoài cho thầy nằm nghỉ. Tôi thấy thầy
nói nhiều, e… có hại.
Rồi Đại cúi xuống sửa lại tấm chăn cho thầy đồ. Đám học trò
rón rén đi ra sân.
Sơn nhìn lên vòm trời xám ngắt. Một chút ánh trăng giải trên
làn mây u ám. Còn mảnh trăng khuyết thì đã lẩn trong mây. Khung cảnh buồn như
chưa bao giờ. Ở đây, mọi màu sắc đều đồng nghĩa với sự chết chóc. Gió đông thổi
rít qua cây lá, đập vào da thịt Sơn, tưởng như hơi thở hắt của người bệnh. Sơn
đưa mắt nhìn lén vào cửa sổ. Thấp thoáng trong nhà có bóng Thảo Giang bên cạnh
giường của thầy đồ. Tay cô bé nâng chén thuốc, miệng nói gì nho nhỏ với người bệnh.
Sơn thấy thầy đồ xua tay, và kéo Thảo Giang ngồi xuống. Đèn dầu leo lét không
che giấu được trên má Thảo Giang nước mắt tuôn chảy. Sơn thấy thầy đồ thở những
hơi mệt nhọc. Nhưng đôi môi khô héo vẫn thều thào những lời dặn dò. Sơn thương
thầy quá! Một người không vợ, không con, ở phút cuối chỉ còn đứa cháu gái. Sơn
liên tưởng đến cha của Thảo Giang. Sự biệt tích của ông, chắc thầy đồ biết. Và
chắc cũng có liên quan đến điều mà thầy vừa nói với đám học trò.
Sau ý nghĩ ấy, Sơn vùng bước nhanh vào nhà. Thảo Giang đang
nâng đầu thầy đồ lên, ghé tai nghe những lời thầy nói bây giờ đã bắt đầu khó
khăn. Sơn quỳ xuống bên giường, nghe tiếng thầy như hòa trong sương khói:
- Nghĩa quân đông lắm!... Chờ khi họ qua làng, các con xin
gia nhập… Cha của cháu, Thảo Giang à,… chắc chú ấy đang ở Tân Hòa. Đừng… đừng
qua đó, nguy hiểm… Thế nào nghĩa quân cũng sẽ về… khi chiếm lại được đất…
Thảo Giang nức nở:
- Bác ơi! Cháu làm sao biết được cha cháu ở cánh quân nào mà
theo?
- Nghĩa quân đông lắm… vì kết nạp dân chúng mọi nơi. Nhưng dù
đông… vẫn ở dưới… bóng cờ của Trương…Công…Định. Đừng đi một mình nghe cháu! Nước
non rộng thênh thang. Đợi nghĩa quân…qua làng…rồi…rồi…
Sơn ôm bàn tay giá lạnh của thầy đồ, nói như một lời hứa:
- Thưa thầy, chúng con sẽ theo nghĩa quân.
Thầy đồ gượng cười. Sơn nhìn đăm đăm vào bàn tay thầy. Gần hết
đời người, bàn tay ấy trung thành với ngọn bút lông. Đến nay Sơn mới có dịp nắm
lấy bàn tay thầy để nhận thấy những mạch máu, những nếp xương nổi lên dưới làn
da xám ngắt, giống như sông, như núi, chạy ngoằn ngoèo trên một giải đất. Có phải
đó là ước mơ thầy vẽ cho bọn học trò ngu muội hay không? Chúng con sẽ theo
nghĩa quân. Vâng, thưa thầy! Sẽ chiếm lại đất, sẽ chống lại giặc. Chúng con có
tre làm mác, có sắt làm dùi. Nhưng cái con người mang tên Trương Công Định mà
thầy vừa nhắc tới, có phải là thần tượng của chúng con không? Người ấy ra sao?
Già hay trẻ? Mập hay gầy? Thấp hay cao? Người có giọng nói miền nào? Người cũng
sinh ra tại quê hương này và đau lòng vì mất nước? Chúng con phải biết một chút
gì về hình dáng người – để mai đây nghĩa quân qua làng, biết đâu sẽ thấy người
trước mặt. Sơn muốn hỏi như thế, nhưng nhìn lại thầy đồ, đã thấy gương mặt của
thầy im lìm như tượng đá. Đôi mắt trắng như muốn nhìn xuyên thủng cả mái nhà để
thấy bầu trời rộng. Môi thầy không còn mấp máy nữa… Thảo Giang nấc lên một tiếng
nghe nhức buốt cả tim. Sơn không còn biết nước mắt mình sẽ chảy ra hay đã đông
lại thành tuyết mất rồi?
Bên con rạch nhỏ chảy qua làng, thầy đồ đã đi chuyến đò cuối.
Chương 4
TRƯƠNG CÔNG ĐỊNH, anh là ai? Cao hay thấp? Già hay trẻ? Anh từ
đâu tới? Anh cũng sinh trưởng trên mảnh đất phì nhiêu này và đau lòng vì mất nước?
Anh là người hay con của trời? Anh biết trước những điều mà chúng em chưa hề biết.
Sao anh không đi qua đây? Xóm làng này có mấy kẻ như bác Chiêu – ba của Thảo
Giang? – Đêm lặng lẽ tối tăm, người đã một mình ra đi – Bọn con trai mới lớn sống
ngu muội thiếu niềm tin, thiếu thần tượng. Chúng em bơ vơ thật sự sau khi thầy
đồ mất. Cái mái nhà xưa cũ làm nơi nương tựa của những tâm hồn bỡ ngỡ đã không
còn. Nhưng từ đó, chúng em biết quê hương có anh. Anh ở xa quá nhưng con người
của anh tiềm tàng đâu đây. Trương Công Định, thầy đồ chưa kịp tả hình dáng của
anh. Nhưng Sơn đã tưởng tượng ra anh được rồi.
Anh người cao lớn, vạm vỡ, da sạm nắng như những người dân ở
đây. Trán rộng, mắt sáng, nụ cười anh bao la, giọng nói anh sang sảng, bước đi
anh vững chắc. Anh lớn hơn Sơn chắc độ mươi tuổi. Nhưng dưới tay anh đã có hàng
vạn nghĩa quân. Anh không mang cẩm bào, không đeo kiếm báu. Anh chỉ mặc quần áo
nâu, thắt lưng đen màu đất. Anh chỉ cầm giáo mác và mang một con tim biết tự vệ,
biết yêu mến đất nước. Chừng đó là anh – Trương Công Định. Nhưng lý tưởng ngời
sáng hơn cẩm bào, ý chí sắc bén hơn kiếm báu. Sao anh không đi qua làng?
Mùa đông đã hết. Tháng giêng bắt đầu là tháng ăn chơi. Những
hội hè đình đám tổ chức liên miên, thu hút mọi người già trẻ lớn bé. Nhưng đối
với Sơn, pháo đỏ, trống dồn không làm Sơn ham thích nữa. Cái cọng sắt đã trở
thành cái dùi. Chiều nay Sơn cũng ngồi sau vườn lặng lẽ mài cái dùi cho nhọn. Để
làm gì? Không còn để gặp tên Hộ, dọa nạt hắn. Mà để mỗi khi nhìn thấy nó, lòng
cậu bé thấy rạt rào hơn, sôi động hơn. Cái dùi được mài lâu ngày, trở nên sáng
quắc và nhọn lễu thấy sợ. Thân cây chuối đã lỗ chỗ toàn những vết cắm.
Trời mùa Xuân dìu dịu. Trong vườn, mấy cụm hoa đã nở tươi, rực
rỡ màu sắc. Trên cành, trái cây cũng đang nẩy nở. Mùi rạ mới nồng nồng thoảng
quanh nhà. Không gian có vẻ nhàn rỗi, bình yên. Bỗng xa xa, nghe có tiếng sáo của
ai trổi lên. Sơn ngừng tay, lắng nghe. Tiếng sáo mới đầu thổi giọng trầm trầm,
sau vút lên như tiếng khóc nức nở. Rồi cứ thế, giọng u uất đều đều. Sơn cau
mày. Giữa mùa xuân, dân làng đang hòa mình trong những cuộc vui, sao lại có người
tỏ bày nỗi thống thiết như vậy? Tiếng sáo khiến Sơn liên tưởng đến tâm sự của
thầy đồ, tưởng như đó là tiếng khóc than của kẻ mất nước. Có phải ở cõi u minh
nào, thầy đồ đã hiện về để nhắc nhở ta cái hoài bão mà thầy không làm trọn?
Tiếng sáo huyền hoặc khiến Sơn bỏ ra trước nhà. Sơn đi theo
tiếng sáo ấy. Và cách nhà Sơn không xa, rõ ràng tiếng sáo ấy vọng lên từ nhà của
Đại. Sơn rón rén bước vào. Qua mảnh sân phơi đầy rơm rạ, Sơn đã thấy người đang
thổi sáo. Chính là Đại. Ống sáo trúc đưa ngang miệng. Tám ngón tay lướt nhanh
trên đó. Tiếng sáo bây giờ oán hờn, ray rứt. Sơn đứng sững trong nhà của Đại.
Bây giờ mới biết là không phải tiếng người chết than thở, mà như lời tự tình của
người trẻ tuổi sống thiếu thốn, hụt hẫng.
Khi tiếng sáo dứt, Đại ngẩng lên. Gặp Sơn đứng trước mặt, người
thanh niên hơi ngạc nhiên. Sơn nao lòng, hỏi:
− Anh không đi chơi sao, anh Đại?
Đại lắc đầu, buồn bã:
− Đi đâu hở Sơn?
− Xem hội, coi hát, đua thuyền… Thiếu gì trò chơi.
− Lũ em tôi đã rủ nhau đi hết. Tôi ở nhà một mình.
− Hai bác đâu?
− Cha mẹ tôi qua nhà chú tôi đánh bạc. Sơn ngồi chơi đi.
Sơn nhắc một chiếc ghế ngồi xuống, rồi hỏi khẽ Đại:
− Anh Đại! Có chuyện gì làm anh buồn chăng?
− Có gì đâu Sơn! Sao Sơn lại hỏi vậy?
Sơn đặt tay lên ống sáo trúc, nói:
- Anh Đại giấu tôi rồi! Chưa bao giờ tôi nghe anh thổi một
khúc sáo buồn như hôm nay. Giữa ngày tháng xuân, mà có lý nào anh lại buồn như
vậy.
Đại gật đầu:
- Đúng rồi! Tôi chỉ biết thổi những khúc vui. Nhưng Sơn biết
sao không?... Từ hôm thầy mất, tôi bỗng như kẻ lạc đường…
Đại ngưng lại, cúi mặt thở dài. Sơn nhìn kỹ Đại, thấy trên
gương mặt thanh niên ấy như có một nếp nhăn. Nụ cười vui vẻ mọi ngày không còn.
− Anh Đại này! Có phải anh buồn… tại vì câu chuyện mà thầy
nói với bọn mình không?
− Sao Sơn biết?
− Vì tôi cũng vậy.
Đại trố mắt nhìn Sơn:
− Tôi tưởng…
Sơn nắm lấy tay Đại:
- Tôi cũng mang tâm trạng như anh. Thầy mất, tôi có cảm tưởng
chúng ta không còn ai dìu dắt, nâng đỡ. Nhưng tôi không thổi sáo than thở như
anh.
- Sơn làm gì?
- Tôi mài sắt làm dùi.
Đại giật mình, nhìn Sơn như vừa nghe thấy một điều kỳ lạ. Sơn
muốn nói hết cho bạn nghe những câu nói cuối cùng của thầy đồ, những câu nói đã
nung lòng Sơn bấy lâu nay.
- Anh biết để làm gì không? Chờ khi nghĩa quân qua làng,
chúng ta sẽ xin thu nạp. Nghĩa quân đông lắm, vì gồm dân chúng mọi nơi. Cái người
lãnh đạo chúng ta, là ông Trương Công Định.
Đại tròn xoe đôi mắt:
− Ai nói cho Sơn, mà Sơn biết vậy?
− Thầy nói, tôi nghe được, lúc thầy sắp chết.
− Ông Trương Công Định… là ai?
Sơn đáp hân hoan:
− Là một người anh hùng.
− Ông ấy ở đâu?
− Ở Tân Hòa. Thầy nói thế.
− Ông ấy còn trẻ như bọn mình không?
Sơn im lặng. Đó cũng là câu hỏi của Sơn mà! Sơn cũng muốn biết
ông ấy già hay trẻ, cao hay thấp, ốm hay mập, mà người oai dũng thế? Sơn nói nhỏ:
− Mai mốt nghĩa quân qua làng, chắc thế nào mình cũng biết.
Đại nói như để một mình nghe:
− Ta sẽ theo nghĩa quân… Thật vậy chăng?...
Sơn băn khoăn:
− Anh nói gì vậy, anh Đại?
Đại bóp chặt tay Sơn, mắt sáng lên:
− Sơn đi không? Đi theo nghĩa quân không?
− Nhưng chưa có ai qua làng. Thầy bảo… nước non rộng thênh
thang, đừng đi một mình, nguy hiểm. Điều quan trọng là mọi người phải một lòng
như nhau, thì mới thành công được. Chứ bọn có thế lực như Bá Huê thường theo
dõi lắm.
− Sơn biết nhiều điều hơn tôi quá! Thế mà bao lâu nay, tôi
không có dịp gặp Sơn để trao đổi ý nghĩ.
− Tôi nhỏ tuổi hơn anh, không dám nhận là khôn hơn đâu. Chẳng
qua là…
Đại cười, nụ cười cố hữu đã trở lại:
− Sơn làm tôi nức lòng lắm.
− Thôi tôi về nhé anh Đại!
Sơn đứng dậy. Đại đứng lên theo, nói:
− Khoan! Sơn! Tôi muốn nhờ Sơn… bẻ gãy ống sáo này.
− Sao vậy?
− Vì tôi không muốn tự tay bẻ cái công trình của mình, nhưng
cũng muốn từ nay chẳng còn thổi lại những khúc ủy mị nữa.
Sơn cầm ống sáo lên, ngắm nghía:
− Sao lại bẻ đi?... Hay anh cho tôi? Đây là cả một công
trình, hủy bỏ thì uổng lắm.
− Sơn giữ để làm gì?
Sơn cười:
− Làm kỷ niệm. Tôi chẳng biết thổi sáo, anh Đại đừng lo.
Đại bằng lòng. Sơn giắt nhanh thanh sáo trúc vào thắt lưng,
chào bạn ra về. Sơn cũng không hiểu Sơn giữ ống sáo trúc làm gì. Chỉ cảm thấy
ngay trong lúc này, ống sáo giắt bên lưng, cái tâm trạng lâng lâng thuở nhỏ
đang trở về. Sơn quên mất khúc nhạc ai oán của Đại, tưởng như cái thời còn để
chỏm ngồi vắt vẻo trên lưng trâu vẫn gần gũi Sơn lắm. Hình ảnh tên mục đồng với
con trâu mỗi chiều về trong tiếng sáo đang trỗi dậy. Mau quá! Sơn đã lớn rồi!
Đủ lớn để được nghe những điều quan trọng. Đủ lớn để thấy nao nao mỗi khi nghĩ
đến Thảo Giang.
Thảo Giang, Thảo Giang! Cái tên là cả một giòng sông. Mái tóc
cũng là cả một giòng sông. Đôi mắt cũng biến đổi như màu nước. Có lúc mắt Thảo
Giang xanh thẳm như màu của một thời thơ ấu. Có lúc mắt đổi màu đen u buồn như
chuỗi ngày từ lúc bác Chiêu bỏ làng mà đi. Ước mơ đã đến đó ngừng lại. Từ sau
ngày thầy đồ mất, tóc Thảo Giang có thêm một vành khăn trắng. Mùa xuân đến chắc
với Thảo Giang không còn một chút gì vui thú.
− Anh Sơn!
Tiếng gọi làm Sơn giật mình. Thảo Giang đi đàng sau lưng. Sơn
ngừng lại để chờ. Nét mặt Thảo Giang có vẻ khác thường. Cô bé tiến đến, nói
nho nhỏ:
− Anh Sơn biết gì chưa?
Sơn ngạc nhiên:
− Chuyện gì?
Thảo Giang thì thầm:
− Có nghĩa quân qua làng.
Sơn giật mình:
− Thật sao? Ở đâu? Sao tôi không thấy?
− Họ đâu dám lộ diện. Chỉ có ba người thôi, dường như là để
thăm dò lòng dân.
− Sao Thảo Giang biết?
− Vì có cha của Giang về nữa.
− Bác Chiêu?
Sơn thốt lên nho nhỏ rồi đứng lại dưới một tàn cây lớn. Ở đây
um tùm, tránh được những con mắt dòm ngó. Thảo Giang đứng lại theo, Sơn hỏi:
− Bác về nhà?
− Dạ. Tối nay cha Giang đi ngay.
− Bằng gì?
− Xuồng.
− Rồi bác sẽ đi đến đâu?
− Giang không biết. Chắc sẽ ra sông lớn.
Giang thở dài:
− Chuyện bí mật, cha Giang nói Giang là con gái, không nên biết.
Hình như nhà ông Bá Huê cho người theo dõi Giang. Họ chắc đã biết cha Giang đi
đâu.
− Còn tên Hộ?
− Hắn vẫn thập thò ở nhà Giang. Chiều nay biết chắc cha con hắn
được mời đi ăn ở đám hội, Giang mới dám đi tìm anh Sơn.
Thảo Giang nhìn quanh, rồi nói:
− Thôi, Giang về. Anh Sơn cũng về nhà đi!
Và Thảo Giang thoăn thoắt bước mau. Sơn băn khoăn, lòng không
yên, đứng nhìn theo bóng Thảo Giang mờ nhạt trong nắng chiều. Thảo Giang biến mất
như một cơn gió. Mùi hương lúa quyện nhẹ trong không gian, hay hương tóc của cô
bé thoang thoảng đâu đây? Gió man mát bên mình, hay gió của một trận cuồng
phong sắp trỗi? Cảnh bình yên này là thanh bình hay chỉ là sự giả tạo? Tâm hồn
Sơn hỗn độn những ý nghĩ vụn vặt. Đêm nay nghĩa quân sẽ ra đi. Chỉ có ba người,
trở về âm thầm và ra đi bằng xuồng. Ở con rạch đó!...
° ° °
… Và đêm đã xuống. Sau bữa cơm, khi tiếng khung cửi của mẹ cất
lên như không cần biết mùa xuân, không cần biết hội hè, Sơn lặng lẽ đi ra giòng
sông. Suốt dọc một khoảng dài, Sơn không nghe thấy gì. Thôn xóm yên lặng với những
ngọn đèn hắt hiu. Những mảnh ruộng đã đồng màu với đêm tối. Sơn đến ngay đầu cầu,
đứng lại lắng nghe. Bên kia sông, nơi vườn cây im lìm, đen đặc. Sơn nghe tiếng
bìm bịp kêu dưới đám lau lách. Trong tiếng kêu đều đặn ấy, Sơn nghe tiếng mái
chèo khua nước.
Sơn khom người, cố nhướng mắt nhìn xuống chân cầu. Chiếc xuồng
con dường như sắp sửa bơi đi. Trên xuồng có hai người đàn ông. Còn một người nữa
đâu?
Có tiếng lay động trong đám lau sậy. Sơn giương mắt to lên. Một
người đàn ông nữa hiện ra, bước lên xuồng. Nhưng theo sau là một bóng con gái.
Người đàn ông cúi xuống, thì thầm:
− Về đi! Giang!
Đứa con gái nghẹn ngào:
− Cha cho con đi theo với!
− Cha đã nói rồi, không chịu nghe. Mẹ con đau yếu, cần có con
ở nhà.
Bóng con gái chới với như muốn giữ chiếc xuồng lại, giọng nói
nức nghẹn:
− Con muốn theo nghĩa quân…
− Muốn mất đầu hả, Giang? Tình hình gay go lắm, chưa tiện cho
cha ra mặt. Con theo cha, chỉ làm vướng chân.
− Cha!... Nhưng mà…
− Con về đi!
Tiếng nói của bóng đen lao chao trong tiếng khua nước. Xuồng
tách khỏi bờ lau sậy. Đứa con gái khóc rấm rứt. Sơn đứng sững, tưởng như bi cảnh
thời xưa đang diễn lại trước mắt. Giọt lệ Nguyễn Trãi tiễn chân cha đang rụng
rơi, hòa với nước giòng sông.
Bóng đứa con gái thất thểu đi lên. Sơn kêu khẽ:
− Thảo Giang ! Sơn đây!
Thảo Giang ngừng lại, nhìn quanh. Sơn bước ra, nắm tay Thảo
Giang cho cô bé bước lên mặt đường. Thảo Giang không dằn được, khóc trước mặt
Sơn.
− Cha Giang đi rồi!
− Thảo Giang! Nín đi! Không thể theo bác được.
Cô bé sụt sùi:
− Giang có linh cảm chuyến này cha Giang đi luôn không về.
− Nói dại.
− Giang muốn đi theo cha, hầu hạ người, sống chết với người.
− Hãy nghĩ đến bác gái. Nghĩa quân không cần hầu hạ. Nghĩa
quân không bao giờ chết.
Thảo Giang càng khóc tức tưởi hơn. Sơn siết chặt tay cô bé
như để an ủi. Bàn tay nhỏ nhắn của Thảo Giang lạnh ngắt sương khuya. Chừng như
sương cũng ướt đẫm trên tóc, trên áo của cô bé.
Một bóng người đi xuống chân cầu. Sơn đẩy Thảo Giang đứng nép
vào một gốc cây, rồi nhẹ nhàng đi theo bóng đen. Nhận ra người ấy là Đại, Sơn
kêu lên:
− Anh Đại! Anh đi đâu đó?
Đại nhìn lui, hỏi:
− Ai? Sơn phải không?
− Sơn đây.
Đại nói hấp tấp:
− Tôi đi nghe Sơn!
− Anh đi đâu?
− Theo nghĩa quân. Tôi đi theo anh tôi.
Sơn ngạc nhiên:
− Ai?
− Hai người về cùng với bác Chiêu. Họ mới ghé nhà tôi lúc đầu
hôm. Họ là anh em cô cậu với tôi.
− Nhưng họ đi rồi…
Đại nói nhanh:
− Tôi phải theo họ.
Sơn nắm lấy tay Đại:
− Nhưng anh biết họ đi đâu?
− Họ ra sông Vàm Cỏ. Tôi bơi xuồng một mình, chắc sẽ bắt kịp
họ. Sơn, Sơn ở lại… Nhớ chuyển lời chào của tôi cho cha mẹ tôi, các em tôi.
Sơn kêu lên:
− Anh Đại! Anh bồng bột quá!
Nhưng Đại đã kéo dưới chân cầu ra một chiếc xuồng con. Đại bước
vào xuồng, cầm chiếc dầm bơi nhanh. Sơn ngơ ngẩn nhìn theo. Cái bóng cô độc lướt
đi trên dòng sông. Người thanh niên đã muốn từ bỏ đời sống nông dân của mình rồi.
Chương 5
Thảo Giang ngồi xuống bờ cỏ xanh, mở chiếc khăn trùm đầu. Mái
tóc cô bé xổ ra, chảy dài trên vai. Trưa nắng chói, trên mặt Thảo Giang đã có lấm
tấm mồ hôi. Khi Sơn rửa tay chân dưới rãnh nước bước lên, đã thấy Thảo Giang mở
gói cơm vắt để sẵn.
− Ăn đi anh Sơn!
Sơn mỉm cười:
− Cám ơn Thảo Giang. Thảo Giang tốt quá!
Thảo Giang cúi xuống. Mái tóc đổ theo, che đôi má vừa mới ửng
màu hồng. Sơn ngồi trên một ụ rơm phơi từ trước Tết đã khô lại, nhận một vắt
cơm trên tay Thảo Giang. Hạt cơm mềm mại thấm vào lưỡi cùng với mùi thơm của muối
mè, đem lại cho Sơn một cảm giác mới. Ngày cấy lúa đầu tiên của một năm không
còn giống như những ngày năm cũ. Vì nơi đây có Thảo Giang. “Đứa bé” không còn đứng
ở đàng xa, mà đã ngồi trên cỏ. Nắm cơm đem ra mời Sơn, vừa giản dị tự nhiên vừa
gây cho Sơn một niềm cảm động. Có phải những biến cố xảy ra trong đời sống,
làm cho người ta gần lại với nhau không? Từ sau đêm bác Chiêu bỏ bến ra sông,
Thảo Giang chỉ còn niềm an ủi duy nhất là Sơn. Cũng đêm ấy, Đại bơi xuồng ra
đi. Qua hôm sau, không biết vì sao bị bại lộ, cha mẹ của Đại bị tra vấn liên
miên. Những buổi trưa ở lại ngoài ruộng, là những buổi Sơn và Thảo Giang trao đổi
với nhau sự lo lắng cho thân phận mình, cho những ngày bình yên quý giá chắc sẽ
không còn.
Dưới những bóng cây, những người thợ cấy đang thiu thiu ngủ,
nón úp trên mặt, Không gian yên lặng đến nỗi tưởng có thể nghe được tiếng gió
lay ngọn mạ. Thảo Giang ngồi bó gối nhìn ra tận phía chân trời. Cái đường viền
màu xanh đậm ở đó, thật bao la nhưng cũng đầy bí ẩn. Sơn hỏi rất khẽ:
− Nghĩ gì vậy,Thảo Giang?
Thảo Giang mơ màng đáp:
− Cái chân trời kia…
Sơn nhìn theo:
− Ừ, làm sao? Đó là tận cùng của cánh đồng.
− Không phải. Giang nghĩ đó là một rặng núi.
Sơn nhíu mày nhìn kỹ. Thật khó mà tưởng tượng được cái gì ở
đó. Chắc là một nơi rất xa, không còn thuộc địa phận làng này. Ở đó có những
gì? Đôi mắt Thảo Giang như muốn biết thật nhiều. Cô bé lẩm bẩm:
− Đúng là dãy núi. Màu xanh đậm thật đẹp, anh Sơn há?
Sơn reo lên:
− Tôi biết rồi! Không phải dãy núi, mà là dòng sông.
Thảo Giang trố mắt:
− Dòng sông? Dòng sông gì?...
− Sông Vàm Cỏ! Thảo Giang nhìn đi, cái màu xanh đậm đó đúng
là màu của sông. Nó chạy từ đầu này đến đầu kia chân trời.
Sơn nói xong, tự nghĩ sao mình ngu xuẩn quá, chỉ biết giải
thích như thế, không biết gì hơn. Nhưng Thảo Giang thì sáng đôi mắt lên, phân
vân:
− Sông Vàm Cỏ! Vàm Cỏ… Sao anh Sơn biết?
Sơn đáp ngay:
− Anh Đại nói. Đêm đó anh đi theo bác trai, bơi xuồng trên rạch
để ra sông Vàm Cỏ.
Rồi nhớ đến tiếng khua nước của mái dầm trong đêm tối mịt mờ
của Đại, Sơn bùi ngùi. Người con trai ấy không biết có đến được nơi mình mong ước
không, hay phải trôi dạt trên sóng nước của dòng sông to lớn mà trong đời một
người dân quê chưa có lần nhìn thấy.
− Vàm Cỏ! Tên sông hay quá!
Thảo Giang lẩm bẩm như thế, rồi trong ánh mắt ngời lên vẻ háo
hức. Sơn cúi xuống, ngắt một cọng cỏ, nói:
− Ừ! Tên sông đẹp quá! Sông Vàm Cỏ, tức là gì Thảo Giang biết
không?
− Dạ không.
− Là… Thảo Giang.
Giọng Sơn nhẹ như gió ru. Thảo Giang im lặng, một lát trên mi
mắt đã lấp lánh như có một giọt sương.
− Sao Thảo Giang lại buồn?
Cô bé lắc đầu:
− Dạ… đâu có! Mà không hiểu sao, nghe anh Sơn nói, Giang… cảm
động quá!
Rồi Giang cúi đầu xuống, cười nhẹ:
- Thiệt là lẩm cẩm. Cả cái con rạch này, mình còn chưa biết
tên, mơ gì đến sông Vàm Cỏ.
- Không ai đặt tên cho con rạch, thì mình đặt tên vậy.
Bỗng Sơn nhướng mắt nhìn ra phía trước. Sau những ngọn lúa thấp,
Sơn thấy mấy bóng người khom lưng đi tới. Sơn nói nhỏ:
− Thảo Giang! Nhìn kìa! Có ai…
Thảo Giang ngó theo. Cả hai cùng im lặng theo dõi. Mấy người
nông dân đã ngủ say. Một bóng người nhô lên. Chừng như họ đã thấy trên bờ cỏ chỉ
còn hai đứa bé thức. Người đi đầu rón rén bước lại. Khi người ấy đứng thẳng
lên, Sơn nhìn thấy bộ quần áo màu đen của người bết đầy bùn đất.
Người đàn ông hỏi:
− Này em! Cho hỏi thăm một chút.
Sơn đứng dậy, tự nhiên linh cảm một điều gì khác thường.
− Dạ, ông hỏi chi?
− Ở đây có nơi nào bán cơm không?
Sơn nhìn người lạ từ đầu đến chân, rồi đáp:
− Ông đi ngược trở lại, qua khỏi một chiếc cầu sẽ thấy một
quán nhỏ.
Nghe đến chiếc cầu, đôi mắt người lạ sáng lên:
− Chiếc cầu à? Chiếc cầu dẫn đến đâu?
− Dạ, cầu bắc ngang rạch, dẫn qua vườn nhà ông Bá Huê bên kia
bờ. Nhưng ông không phải qua cầu, vì quán cơm cũng ở xóm bên này.
Người đàn ông quay lại nói nho nhỏ với người đi phía sau. Bây
giờ Sơn đếm được bọn họ gồm sáu người ăn mặc gọn ghẽ như nhau, và mệt mỏi như
nhau. Sơn đưa mắt nhìn Thảo Giang, thấy gương mặt của cô bé cũng có vẻ hồi hộp.
Người đi đầu mỉm cười:
− Cám ơn em nhé! Bọn tôi vì đi đường xa nên phải tìm quán mua
cơm.
Rồi người ấy quay lại, cùng các bạn toan đi. Nhưng Thảo Giang
chạy theo nói:
− Thưa ông, nếu các ông không ngại, xin cho tôi được biếu vắt
cơm này.
Người lạ nhìn tay Thảo Giang. Gói cơm vắt vẫn còn phân nửa,
Thảo Giang đưa ra:
− Anh em tôi chỉ ăn một phần, xin biếu ông nửa này.
− Cô là… em của cậu này?
− Dạ!
− Sao… sao cô không để mà ăn?
Sơn toan đáp thay, nhưng Thảo Giang đã nói:
− Chúng tôi đã no rồi. Nếu ông không chê, hãy ăn đi để có sức
đi tiếp đường xa.
Người đàn ông cầm lấy gói cơm, mặt lộ vẻ cảm động:
− Cám ơn hai em.
Bọn người quay lưng đi. Sáu cái bóng ra khỏi khu ruộng, bắt đầu
lẩn vào trong xóm. Sơn nhìn Thảo Giang, nói:
− Thảo Giang thấy gì không?
Thảo Giang thì thầm:
− Thấy. Họ là nghĩa quân. Ba của Giang tả họ như vậy.
− Họ ăn mặc cũng như mình.
− Nhưng gương mặt họ đã nói.
− Tôi thì thấy hình như có một con dao giắt trong lưng của
người đi cuối.
− Thật sao?
− Thật. Đúng họ là nghĩa quân rồi.
Cả hai im bặt, như sợ cỏ lúa cũng nghe được điều ấy. Những
người khác vẫn say ngủ. Chỉ có hai đứa trên đồng. Một nỗi gì chạy rùng rùng
trong tim Sơn. Sơn nhón bước nhìn theo, nhưng chỉ còn thấy mấy rặng tre già đứng
triền miên ở đầu xóm.
Sơn nhìn Thảo Giang, nói:
− Thảo Giang! Chút nữa mẹ tôi hỏi, Thảo Giang nói giùm là tôi
đi qua nhà anh Huệ có chút việc nhé!
Rồi Sơn vội vàng đi về phía xóm. Được một quãng, Sơn nghe tiếng
Thảo Giang gọi đàng sau:
− Anh Sơn!
Thảo Giang chạy tới, nói:
− Giang đi với. Cho Giang đi theo với!
Sơn nói nhỏ:
− Tôi định xin họ cho theo một quãng, rồi tôi sẽ trở về. Chưa
chắc họ đã chịu.
− Nhưng cho Giang theo, Giang sẽ năn nỉ họ.
− Họ biết mình là ai?...
− Mình sẽ chỉ đường cho họ.
Ở quán cơm, hai đứa thấy sáu người đàn ông đi ra. Người đi đầu
có vẻ ngạc nhiên khi thấy Sơn và Thảo Giang. Sơn chạy đến, nói khẽ:
− Thưa ông, cho hai anh em tôi đi theo với.
Người nọ trợn tròn đôi mắt, hỏi:
− Em nói gì?
Thảo Giang nối lời:
− Chúng em xin đi cùng với các ông, để… chỉ đường.
Người đàn ông lắc đầu:
− Chúng tôi đã có sẵn bản đồ. Cám ơn hai em.
Sơn bước theo, năn nỉ:
− Nhưng qua khỏi cầu, đến vườn nhà ông Bá Huê. Các ông không
đi ngang đó được. Có cái ông gác vườn dữ lắm.
− Chứ các em làm gì được.
Thảo Giang nói:
− Em quen với ông già đó. Em sẽ dụ cho ông ấy chịu cho các
ông qua, hoặc sẽ gạt ông ta đi khuất, các ông mới hòng qua được.
Người đàn ông nhíu mày ngẫm nghĩ. Người đứng kế đó lắc đầu:
− Đã có sẵn bản đồ, chúng ta chỉ cần đánh gục lão gác vườn là
đi qua ngay.
Thảo Giang nói nhanh:
− Cho chúng em theo với, một đỗi thôi. Cha chúng em cũng đã
đi rồi.
− Hả? Cha em… đi đâu?
− Cha chúng em đi cùng với nghĩa quân Trương Công Định rồi!
− Chúng tôi đi qua Tân An. Cha em đi đâu?
Sơn nói liều:
− Dạ! Đúng rồi! Cha em cũng đi qua Tân An. Các ông cho chúng
em theo để biết đường, về sau chúng em sẽ dễ dàng tìm kiếm.
Người đàn ông nhìn năm người bạn. Hình như họ đã có vẻ bằng
lòng. Mọi người ra dấu cho nhau đi.
Một mình Thảo Giang lên cầu, qua bên kia vườn. Nửa khắc sau,
cô bé trở lại, vui mừng nói:
− May quá! Lão gác vườn đang ngủ trưa. Các ông đi qua mau
lên.
Tám người qua cầu. Cánh cổng vườn chỉ khóa bằng uy quyền của
ông Bá Huê, không bằng khóa sắt, đang được mở ra. Cả bọn rón rén đi vào vườn.
Họ đi nhẹ nhàng dưới bóng lá âm u như những con sóc nhỏ. Người dẫn đầu mở một mảnh
giấy, định hướng, rồi ra hiệu cho đoàn người tiếp tục đi về phía trước mặt.
Khu vườn to lớn như cả một cánh rừng. Khi tia sáng mặt trời đầu
tiên lọt vào mắt Sơn, Sơn biết rằng đã đến ranh giới của làng. Tự nhiên tim đập
rộn ràng trong lồng ngực. Sơn tự hỏi đàng sau dãy cây cối um tùm này, sẽ thấy cảnh
gì? Ta đã xuyên được tấm màn xanh đen đặc phủ mờ đôi mắt từ thuở ấu thơ. Những
người mặt rắn rỏi mắt sáng kia, có ngờ được là họ đang nhờ hai đứa bé khờ khạo
ngu muội dẫn đường không?
Một hàng cọc dài, nhọn, chắn ngang trước mắt. Mấy người đàn
ông ra sức xô ngã hai cây cọc. Con đường mở rộng giúp tám người ra khỏi lùm
cây. Khi những cành lá không còn vướng víu trên lưng, Sơn đứng thẳng người lên.
Khung cảnh mới mẻ hiện ra trước mặt. Một cánh đồng lúa! Sơn nghĩ nhanh như vậy
rồi nhận ra rằng đây chỉ là một cánh đồng cằn cỗi. Những gốc rạ màu nâu đen,
khô đét lại như không còn sức sống. Cánh đồng không có nước.
Người đầu đàn giở mảnh giấy ra nhìn, rồi gật đầu nói với bạn:
− Đúng rồi, đây là đám ruộng phèn, đi khỏi nơi đây ra đến
sông cái.
Sơn hỏi:
− Sông gì vậy ông?
− Sông Vàm Cỏ.
Sơn và Thảo Giang ngạc nhiên nhìn nhau. Sao con rạch ở làng
chảy ra sông Vàm Cỏ, mà qua khỏi chiếc cầu, đi tới cũng gặp sông đó? Người đàn
ông chỉ tay vào bản đồ, nói:
− Em nhìn nè! Đây là sông Vàm Cỏ. Đây là làng em. Con rạch nhỏ
xíu nằm đây. Con rạch, sông lớn và cây cầu kéo dài hợp thành hình tam giác. Hiểu
chưa em? Hai con đường đều dẫn ra sông. Đi đường này là đi tắt, mau hơn đi đường
rạch.
Thảo Giang mở to mắt, hỏi:
− Các ông… biết rành như vậy?
− Phải.
− Đi hết đám ruộng này, ra đến sông hở ông?
− Ừ. Ra đến sông lớn, có thuyền của nghĩa quân chờ.
Sơn náo nức:
− Rồi… rồi các ông đi đâu? Phải các ông sẽ đi đến Tân An
không?
− Sao các em biết?
− Khi nãy các ông nói.
Người đàn ông xoa đầu Sơn, cười thú vị:
− À, quên nhỉ! Em thông minh lắm. Mai mốt lớn lên, nối gót
chúng tôi…
Sơn hân hoan:
− Cho em theo nghĩa quân với! Em cũng lớn rồi!
Người đàn ông vừa đi vừa cười:
− Bao nhiêu tuổi?
− Dạ mười tám.
− Thua chúng tôi những mười tuổi.
Sơn nhìn kỹ người đàn ông. Gương mặt sạm nắng làm ông ta có
vẻ khắc khổ. Có thể đó là một thanh niên chưa đến ba mươi.
− Cứ gọi tôi là anh.
Trong trí Sơn, hình ảnh thần tượng Trương Công Định hiện ra.
Sơn e dè hỏi:
− Anh… anh có phải là Trương Công Định?
Cả bọn sáu người cùng ồ lên. Người đầu đàn cười hóm hỉnh:
− Sao em lại hỏi như vậy? Anh chỉ là một nghĩa quân thường, ở
dưới quyền của ông Trương Công Định.
Sơn bẽn lẽn:
− Anh ở đâu đến?
− Ở Tân Hòa.
− Phải căn cứ của ông Định ở đó không anh?
− Đúng rồi. Bọn anh hôm nay qua Tân An để thăm dò tin tức.
Căn cứ Tân Hòa đang bị tấn công. Đạo quân của ông Trương Công Định đang chuẩn bị
về Biên Hòa.
Sơn chớp mắt… Toàn những cái tên xa lạ nhưng gợi cảm làm
sao!
Người đầu đàn dừng lại, nói với Sơn:
− Cánh ruộng phèn này… đi nửa ngày mới ra sông. Này hai em,
hai em hãy trở về đi! Theo chúng tôi không có lợi ích gì đâu.
− Thưa anh…
− Trở về nhà đi! Các em còn gia đình nữa phải không? Đừng để
gia đình lo lắng. Hãy về trước trời tối.
Giang rơm rớm nước mắt:
− Em muốn gặp cha em.
Người thanh niên trìu mến hỏi:
− Cha các em tên gì?
− Cha em tên Chiêu, Nguyễn Văn Chiêu.
− Nếu gặp, anh sẽ nhắn lại.
− Người đã ra sông. Em muốn gặp người.
Sơn nắm tay Thảo Giang, nói như anh nói với em:
− Giang! Chúng ta phải về trước trời tối.
− Anh cám ơn hai em lắm! – Người thanh niên nói – Muốn giúp
nghĩa quân, các em làm sao kêu gọi dân làng sẵn lòng giúp đỡ mỗi khi nghĩa quân
đi qua, chiêu mộ trai tráng để chiến đấu giành lại những đất đai đã mất.
− Em cũng sẽ trở thành nghĩa quân. Anh… anh cho em xin tấm bản
đồ nhé!
− Chi vậy?
− Để khi nào em có một đội nghĩa quân, em sẽ theo đó mà đi, gặp
các anh.
Người thanh niên đưa tấm giấy ra, nói:
− Anh tin các em. Những đường đi trong này anh đã thuộc lòng.
Cho em đây, giữ cho kỹ.
Sáu người nghĩa quân tiếp tục đi. Sơn và Thảo Giang đứng lại
giữa ruộng. Trước mắt vẫn là cái chân trời mênh mông, mênh mông…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét